intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chương VII: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI

Chia sẻ: TRỊNH ĐÌNH THANH | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

488
lượt xem
111
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1– Văn hoá và quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá a- Văn hoá là gì ? Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Tuy nhiên vẫn có một điểm chung được mọi người thừa nhận : Văn hoá là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. b- Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống , loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chương VII: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI

  1. Chương VII TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI I- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ 1– Văn hoá và quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá a- Văn hoá là gì ? Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Tuy nhiên vẫn có một điểm chung được mọi người thừa nhận : Văn hoá là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. b- Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hoá “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống , loài người mới sáng tạo - và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật , những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phat minh đó tức là văn hoá.Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” .(T III, tr 431) 2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa a) Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị và kinh tế. Đây là quan điểm của HCM về mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, giữa văn hóa và kinh tế ØQuan hệ giữa văn hóa và chính trị : - Dưới chế độ thực dân phong kiến, giai cấp thống trị đưa ra luận điệu “ Văn nghệ chí thượng “có sứ mệnh cao quý là phục vụ “vô tư” tất cả mọi người, nó dứng trên giai cấp và ở ngoài chính trị để mê hoặc các nhà văn hoá. - Hồ Chí Minh vạch rõ : “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị kìm hãm không thể phát triển lên được”(VII-443) Người chỉ ra hai thứ văn chương dưới chế độ thực dân ở nước ta: thứ “văn chương nịnh Tây” và “văn chương cách mạng” “Văn chương cách mạng như những thơ ca của các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và những người yêu nước khác thì bị gọi là “cấm vật”. Nếu không giữ được bí mật, thì người viết cũng như người xem đều bị bắt bớ tù đày, vì “đã có tác dụng cổ vũ tinh thần cách mạng. Từ đó người rút ra kết luận: “Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng” (T X, tr 646). Nói cách khác, văn hoá văn nghệ không thể tách rời đời sống chính trị.( Bài nói chuyện tại đại hội văn nghệ toàn quốc lần III) - Văn hoá và chính trị đều là những yếu tố của kiến trúc thượng tầng và có quan hệ mật thiết với nhau. 1 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  2. Một nền chính trị đúng đắn bao giờ cũng được xây dựng trên một nền văn hoá tiến bộ. Một nền văn hoá tiến bộ phải hướng vào mục tiêu phục vụ chính trị. “ Văn hoá có liên lạc với chính trị mật thiết” ØQuan hệ giữa văn hóa và kinh tế : + Kinh tế là điều kiện phát triển của văn hoá . “Văn hoá là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng có kiến thiết rồi văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”. “ Muốn tiến lên CNXH phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” + Văn hoá thúc đẩy kinh tế phát triển : “ Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ, cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” ( T VIII, tr 281 ) + Văn hoá ở trong kinh tế còn có nghĩa là các hoạt động kinh tế cũng phải có văn hoá ( ví dụ : văn hoá kinh doanh,… ) Năm 1988, mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá” Tổng giám đốc UNESCO đã phát biểu : văn hoá và phát triển là hai mặt gắn liền nhau … hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu nhiều”… “văn hoá cần coi mình là nguồn cổ vũ trực tiếp cho phát triển và ngược lại , phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội” ( Tạp chí Thông tin UNESCO 11-1998 – tr5 ) b) Tính chất của nền văn hoá mới Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến việc xây dựng nền văn hoá mới : Năm 1943, Người phác thảo một nền văn hoá Việt Nam gồm 5 điể m - lớn : 1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường 2- Xây dựng luân lý : biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị : dân quyền 5- Xây dựng kinh tế - Sau cách mạng Tháng Tám ,khi đặt vấn đề xây dựng nền văn hoá mới của nước Việt Nam, Hồ Chí Minh nói rõ:”Cái văn hoá mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tư tưởng hiện đại…Nay nước ta đã 2 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  3. có được độc lập, tinh thần đượ giải phóng , cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân” -Đến Đại hội II của Đảng,Hồ Chí Minh xác định “ xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”(VI-173). Khi miền Bắc xây dựng CNXH, Bác lại nói “để phục vụ sự - nghiệp CMXHCN thì văn hoá phải XHCN về nội dung và dân tộc về hình thức”(X-60). Tóm lại, trong tư tưởng HCVM, nền văn hoá VN phải có tính dân tộc, khoa học và đại chúng. + Tính dân tộc : là cái “ cốt”, cái tinh tuý của dân tộc . Để đảm bảo tính dân tộc, Người đòi hỏi người làm văn hoáphải hiểu truyền thống văn hoá Việt Nam. Người căn dặn”Nghệ thuật của ông cha ta hay lắm, tốt lắm!Cố mà giữ gìn” ”Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu” Tính dân tộc còn biểu hiện ở hình thức và phương tiện diễn đạt như tiếng nói, chữ viết . Người căn dặn những người làm sách “người tốt, việc tốt” “Nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học theo cách kể chuyện của nhân dân” .Về ngôn ngữ, Người nhắc nhở: “ tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc . chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi” (T IX, tr 413). Có những chữ không có sẵn, hoặc dich ra tiếng ta khó đúng thì phải mượn “Độc lập”, “giai cấp” “cộng sản “,… (X-615) Người phê phán thói “ đã dốt lại hay nói chữ” . “Tiếng ta có mà không dùng lại hay dùng chữ Hán. Dùng đúng đã là một cái hại, vì quần chúng không hiểu … dùng không đúng, mà cũng ham dùng cái hại lại càng to” ( T V, tr 305). Nhưng cũng sẽ quá “tả” , nếu những chữ Hán đã hoá thành tiếng ta ai cũng hiểu mà cố ý không dùng. Thí dụ “độc lập” mà nói đứng một “du kích “ mà nói “đánh chơi” thế cũng tếu(V-301) . + Tính khoa học : là phải thuận với trào lưu tư tưởng hiện đại.( XHCN về nội dung cũng có nghĩa là hiện đại). Tính khoa học còn là đấu tranh chống những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, chống mê tín dị đoan,….người dặn ngành văn hoákhi khôi phục vốn cũ không được “khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh” (IX – 248) + Tính đại chúng : - Văn hoá phải phục nhân dân (chứ không phải chỉ có tầng lớp trên mới được hưởng thụ văn hoá) Ngày 30-10-1958, nói chuyện tại Hội nghị cán bộ văn 3 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  4. hoá,HCM chỉ rõ : “Văn hoá phục vụ ai ? Cố nhiên ta phải nói là phục vụ công, nông, binh, tức là đại đa số nhân dân. Các đồng chí làm văn hoá phải nói dứt khoát như thế, không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật mà cần nói rõ văn hoá phục vụ công-nông-binh”. - “Văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hoá xa đời sống lao động là văn hoá suông” - Học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng“Tục ngữ, vè, ca dao là những hòn ngọc quý, vừa rất hay lại vừa rất ngắn chứ không phải trường thiên đại hải , dây cà ra dây muống”(IX -250) - Miêu tả cuộc sống thực tại của quần chúng :Các hoạ sĩ của ta đã cố gắng tìm mọi con đường đi. Nhưng tiếc rằng không muốn đi ở dưới đất mà cứ muốn vụt lên trời : chất mơ mộng nhiều quá, má cái chất thật của sinh hoạt rất ít . Thật là một thế giới tiên. Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật . Nhưng nhìn mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng nhàm chán, nhạt nhẽo và mới biết rằng: muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật, phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người – Nói với các hoạ sĩ nhân khai mạc Phòng triển lãm văn hoá 7-10-1945 (Theo GT TTHCM –Học viện) - Thiết thực, ai cũng hiểu được. Khi viết phải đặt câu hỏi “Viết cho ai ?”, Viết để làm gì ?” “Ta viết cho ai xem”, “Nói cho ai nghe” (V-306) Chuyện cô Nông Thị Trưng c) Chức năng của văn hoá Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, - hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Tại Đại hội văn hoá toàn quốc ngày 21-11-1946, HCM chỉ rõ “ Văn hoá phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hoá phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ich chung mà quên lợi ích riêng” Văn hoá còn phải góp phần bồi dưỡng và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người VN trong xã hội mới. Người nói: Văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ,… Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”(ST-67) - Văn hoá phải góp phần mở rộng, nâng cao hiểu biết cho nhân dân Văn hoá là một ngành rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực : giáo dục, thông tin tuyên truyền, văn học nghệ thuật,… Ngành nào cũng phải góp phần nâng cao, mở rộng sự hiểu biết cho nhân dân thông qua việc cung cấp thông tin, tuyên truyền đời sống mới, phổ biến khoa học kỹ thuật,…. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ văn hoá năm 1957, HCM chỉ ra một trong những thiếu sót của phong trào văn hoá là có bề rộng, chưa có bề sâu “ nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao dân trí của quần chúng” ( ST-HCMNTTLL,t.445) 4 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  5. d)Về một số lĩnh vực chính của văn hoá ðVăn hoá giáo dục : Những quan điểm : - Giáo dục phải nâng cao dân trí : Ngay từ năm 1919,Hồ Chí Minh đã có ý tưởng phải “có một nền giáo dục tiểu học bắt buộc để quần chúng nhanh chóng mở mang kiến thức” và “ việc dạy dỗ và giáo dục quần chúng là việc làm cấp bách hơn là đối với giới thượng lưu”1 Khi trở thành Chủ tịch nước, ngày 6/9/1945 Bác đã ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để cấp tốc xoá nạn mù chữ trong nhân dân. Người cho rằng : “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.Vì vậy, “Nay chúng ta giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc là nâng cao dân trí”. “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình…phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”( IV-36). -Nội dung giáo dục : Nội dung giáo dục phải bao hàm cả văn hoá, chính trị, khoa học –kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động. Người căn dặn thanh niên : Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị… Nếu không học văn hoá, không có trình độ văn hoá thì không học tập được kỹ thuật , không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu về kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý cả chính trị, vì nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật mà không học chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. -Phương châm giáo dục : + “Học đi đôi với lao động, Lý luận đi với thực hành” “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy” + Phải kết hợp ba lực lượng giáo dục nhà trường – gia đình – xã hội. “ Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy,nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn “ ( VIII-334) ðVăn hoá văn nghệ * Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hoa nghệ thuật . -Ngay từ khi mới hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh sử dụng văn hoá như một thứ vũ khí đấu tranh. Người dùng ngòi bút để vạch trần thực chất cái gọi là “khai hoá văn minh” của thực dân Pháp. 1 Theo Hồ Thiệu Hùng: Bác Hồ với việc nâng cao dân trí, in trong Chủ tịch HCM….Bộ Giáo Dục xuất bản – 1990, tr 44 5 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  6. - Năm 1943, khi đọc “Thiên gia thi”, Người có nhận xét : Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp, Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông; Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong. - Sau CM Tháng Tám, HCM cho rằng “ Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau : chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Đến năm 1951, Trong thư gửi các hoạ sĩ nhân triển lãm hội hoạ toàn quốc, - Người nêu một cách chính thức quan điểm này “ Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận . Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân” ( VI-368) . Để làm tròn sứ mệnh đó, Người yêu cầu chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường vững, tư tưởng đúng, phải đặt lợi ích của kháng chiến, của nhân dân lên trên hết, trước hết. ( xem T VI, 368) * Tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới . Hồ Chí Minh cho rằng tác phẩm văn nghệ và ngòi bút người nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén để “phò chính trừ tà”, tố cáo tội ác của giặc, đồng thời thức tỉnh động viên quần chúng. Người nói “ Cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng” * Tác phẩm văn nghệ phải xứng đáng với tầm vóc của dân tộc, của thời đạị, phản ánh chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Năm 1951 Hồ Chí Minh yêu cầu văn nghệ sĩ phải “ bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy” (VI-368) Đến những năm 60, Người nói những tác phẩm mà quần chúng chờ đợi là “ những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau”(X- 646) Những tư tưởng trên thể hiện quan điểm của HCM về vị trí và chức năng của văn hoá, về vai trò chiến sĩ của người làm văn hoá đã đặt nền tảng cho đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng ta. ðVăn hóa đời sống 6 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  7. Văn hoá đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất bởi vì, có dưạ trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống. - Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng. - Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của đân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại tạo nên lối sống văn minh, tiến tiến. Hoạt động của con người gồm: ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc. Tính văn hoá ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở... Con người văn hoá trong lối sống là phải có một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động,... - Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dưng những thói quen và phong tục tâpj quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thần phong mĩ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết, cái gì cũng làm mới. Cũ mà xấu thì bỏ. Ví dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam,... Cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Ví dụ: Đơm cúng, cưới hỏi, ma chay quá xa xỉ phải giảm bớt. Cũ mà tốt thì phát triển thêm. Ví dụ: ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mới mà hay thì phải làm. Ví dụ: ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho ngăn lắp. Phải bổ sung xây dựng thuần phong mỹ tục trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay, cưới hỏi..., đồng thời phải chống các hủ tục như cờ bạc, hút xách... II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC 1. Quan niệm của HCM về vai trò của đạo đức - Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là cái gốc, là nền tảng của con người. Đối với người cách mạng cái gốc ấy lại càng quan trọng, bởi vì: “ Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới,là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ . Sức có mạnh thì mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”( T IX, tr 283)Khi nói về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh so sánh : “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” nếu không có đạo đức thì không “làm nổi việc gì”( xem T V, tr 252,253) - Hồ Chí Minh không phủ nhận tài nhưng cho rằng con người có tài phải có đức. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại nữa nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng có lợi gì cho loài người”( (Bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II – 1958) Nói chuyện với lớp học chính trị của giáo viên, Người cho rằng “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ 7 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  8. còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi mới có chuyên môn (…) .Chính trị là đức, chuyên môn là tài . Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i tờ thì dạy như thế nào?”( T IX, tr 493) Như vậy, ở Hồ Chí Minh, đức và tài phải thống nhất với nhau, có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đức là gốc.Đức là gốc của tài. Tài là sự thể hiện đạo đức trong hiệu quả và hành động . 2- Những chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản : a- Trung với nước, hiếu với dân “Trung”, “hiếu” là phẩm chất đạo đức cơ bản của người phương Đông- một phạm trù đạo đức phong kiến. Luận ngữ : “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” Lễ ký : “ Hiếu sự thân, thân dĩ thính mệnh” Như vậy, trung hiếu ở đây là trung với vua, hiếu với cha mẹ. Trung hiếu trong đạo đức phong kiến nhiều khi mang tính cực đoan .Đến Hồ Chí Minh ,Người không gạt bỏ khái niệm trung hiếu đó mà đưa vào một nội dung mới , phát triển lên thành một phạm trù đạo đức mới- đạo đức cách mạng :“trung với nước, hiếu với dân”. “(…) đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân ( T XII, tr 558) “Đạo đức ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”.(IV-149) “Trung”, “hiếu” trở thành một phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng(16 lần Bác dùng cụm từ “trung với nước, hiếu với dân” để nói về đạo đức cách mạng ) “Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái.Giữ vững lập trường Tận trung với nước , tận hiếu với dân” (TVII,tr480) - Nội dung “ trung với nước, hiếu với dân là : Phải đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, tin dân , lắng nghe ý kiến của dân, phải quan tâm đến đời sống của dân. b- Cần, kiệm, liêm, chinh, chí công, vô tư. - Ở đây Bác mượn những phạm trù đạo đức Nho giáo để cải biến ,đưa vào những nội dung mới. “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự cho quyền lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện , làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”(TVI, tr 321, 322). * Thế nào là cần, kiệ m, liêm, chính ? CẦN Tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần. 8 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  9. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng. Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. KIỆM Kiệm là thế nào?Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.CẦN với KIỆM, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.CầN mà không KIệM, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải.Tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ người khác. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn.Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. LIÊM Liêm là trong sạch, không tham lam. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp.Ngày nay, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM. Người cờ bạc, chỉ mong xoay của người làm của mình. Đều là tham lam, đều là BẤT LIÊM. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lao. Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử. Đều làm trái với chữ LIÊM. CHÍNH : nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Người nêu ra những yêu cầu để thực hiện chữ chính : Đối với mình : không được tự cao, tự đại, tự phụ, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người : không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc : phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh. - CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH là nền tảng của đời sống mới , là “tứ đức” của người cách mạng. Người so sánh : “Trời có bốn mùa:Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức tính: Cần, Kiệm, Liêm , Chính. 9 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  10. Thiếu một mùa ,thì không thành trời Thiếu một phương, thì không thành đất Thíếu một đức thì ,không thành người”( T V, tr 631) * Thế nào là chí công, vô tư ? - Chí công , vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ thì đi sau, là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết” . Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, vì chủ nghĩa cá nhân trái với đạo đức cach mạng.Tuy nhiên, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu “ (IX,291 - Chí công, vô tư còn có nghĩa là phải công minh, chính trực, công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị c- Yªu th­¬ng con ng­êi,sèng cã t×nh nghÜa . - Người cách mạng phải có lòng yêu thương con người. Con người ở đây không phảI là con người trừu tượng ( như nêu lên khát vọng của người theo quan điểm nhân văn tư sản)mà là đồng bào, đồng chí, bạn bè, những người ở xung quanh ta, biết giúp đỡ nhường cơm sẻ áo khi gặp hoạn nạn, khó khăn “ lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, ta không khỏi động lòng (IV-31) - Yêu thương con người là tìm mọi cách nâng con người lên khi họ mắc phảI những khuyết điểm, chứ không phảI dựa vào khuyết điểm mà “đập cho tơI bời “ (XII-588) - Tuy nhiên, yêu thương con người ở đây không phảI là vô nguyên tắc, như kiểu “ yêu thương ngay cả kẻ thù của mình” như trong tôn giáo , mà là “ở đời và làm người là phải thương nước , thương dân, thương nhân loại bị đau khổ áp bức” - Con người mới phảI sống có tình nghĩa, thuỷ chung. Người dạy :”Hiểu chủ nghĩa Mác -Lênin là phảI sống có tình có nghĩa . Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin được”(XII- 554). Trong Di chúc Người dặn : “PhảI có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau d-Có tinh thần quốc tế trong sáng. -Tình thương yêu con người, theo Hồ Chí Minh không chỉ dành cho người Việt Nam mà còn cho những người cùng cảnh ngộ. Yêu nhân dân mình đồng thời biết yêu nhân dân các dân tộc bị áp bức; giải ohóng cho dân tộc mình đồng thời giải phóng cho các dân tộc khác, giúp bạn là tự giúp mình. - Tinh thần quốc tế còn là sự tôn trọng và đoàn kết với các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người quan niệm : bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới. Người góp phần 10 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  11. to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay đối đầu, kiến tạo một nền văn hoá hoà bình trên thế giới. 3- Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới : a- Tu dưỡng suốt đời, rèn luyện bền bĩ hằng ngày Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo - đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bĩ suốt đời. Người nói: “đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống . Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bĩ hằng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”( T IX, tr 293). Do không chú ý điều này, nên có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ hiểm nguy. Song đến khi có ít quyền hạn rong tay đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí,quan liêu. Từ đó, Người đi đến kết luận : “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (XII-557). Do vậy, nên phải tu dưỡng , rèn luyện suốt đời. b- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức: - Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng hoạt động thực tiễn, một nhà triết học – hành động , nên ở Người luôn có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Một trong những phẩm chất đầu tiên của người cách mạng mà Hồ Chí Minh đào tạo là“nói thì phải làm” (T II, tr 260). Chỉ có nói được, làm được, mới đến được với quần chúng. Hồ Chí Minh căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(V-552)”Hô hào tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã” (V-552) - Đối với Người, mục đích của việc học tập lý luận Marx – Lenin là “để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”. Người không chấp nhận cách “học thuộc lòng một số sách vở” rồi “tự cho mình là hiểu biết chủ nghĩa Marx-Lenin hơn ai hết. Song khi gặp thực tế, thì họ hoặc là máy móc, hoặc là lúng túng.Lời nói và việc làm của họ không nhất trí (…) họ học để trang sức chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng”( xem T IX, tr 292). c- Xây dựng đạo đức mới đi đôi với chốngnhững hiện tượng phi đạo đức: Theo Hồ Chí Minh, trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng cần phải gắn xây và chống, lấy xây làm chính . Xây là biểu dương , giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới. Chống là phê phán loại bỏ những cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức. Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng việc chống chủ nghĩa cá nhân và xây dựng chủ nghĩa tập thể . 11 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  12. 4. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân Với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng đạo đức là vô cùng quan trọng, vì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”, là cái cầu nối giữa các thế hệ- “người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già,đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên trong tương lai”2. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: “Sinh viên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm gì có ích cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài, ví như ông Bụt, không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”3 Hồ Chí Minh chỉ rõ, thực hành đạo đức cách mạng trong đời sống có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị mỗi cá nhân, tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn thử thách. Hồ Chí Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ đươc đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. - Kiên trì tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh Trong bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7 tháng 5 năm 1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong sáu cái yêu: Yêu Tổ quốc; Yêu nhân dân; Yêu chủ nghĩa xã hội; Yêu lao động; Yêu khoa học và kỷ luật. Người còn kêu gọi thanh niên rèn luyện đức tính trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực, cần cù, sáng tạo trong học tập, sống nhân nghĩa, có đạo lý… - Tu dưỡng đạo đức theo các nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh + Kiên trì tu dưỡng đạo đức cách mạng + Nói và làm đi đôi với nhau + Kết hợp cả xây dựng đạo đức mới với chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Phương pháp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây là một số nội dung cơ bản: Một là: Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T10, tr.488 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T9, tr.172 12 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  13. Hai là: Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Ba là: Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. Bốn lầ: Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. - Điều kiện đảm bảo học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Trong tình hình hiện nay, để phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a. Hồ Chí Minh thường nói tới con người cụ thể, lịch sử. Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (phẩm giá con người, giải phóng con người, người ta, ai, con người…), nhưng lại đặt trong bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp; theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp…trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là con người hiện thực, cụ thể, cảm tính, khách quan. b. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất con người mang tính xã hội. - Để sinh tồn con người phải lao động sản xuất. - Trong quá trình lao động, sản xuất các mối quan hệ được xác lập. - Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử. - Con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”. a) Về vai trò của con người ãCon người là vốn quý nhất- nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. - Kế thừa truyền thống nhân văn của dân tộc, Hồ Chí Minh đặt con người lên trên hết “ trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân - Xuất phát từ quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác- Lenin, Hồ Chí Minh cho rằng dân là cội nguồn của mọi sức mạnh, là lực lượng vô tận để dựng nước và giữ nước .Người tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân. Khi dân đã đoàn kết lại thì không có chướng ngại nào mà không thể vượt qua, không có kẻ thù nào mà không đánh thắng 13 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  14. + “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi” “Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức nào , đụng nhằm bức tường đó chúng cũng phải thất bại”( T V, tr 151) + Vì tin dân nên Người đã ví cuộc kháng chiến của nhân ta với thực dân Pháp như “Châu chấu đá voi” nhưng chắc chắn mai đây “voi sẽ lòi ruột ra” + Sinh thời Người thường nhắc câu ca dao của nhân dân Quảng Bình “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”( T XII, tr 212) + Sau CM Tháng Tám, quân đội Tưởng kéo vào Việt Nam, giúp các tổ chức Việt gian lập căn cứ ở một số tỉnh miền bắc nhằm lật đổ chính phủ ta. Cán bộ lãnh đạo các địa phương rất lo lắng báo cáo với Người về âm mưu cướp đất của chúng . Người hỏi lại “ các chú nói mất là mất bao nhiêu? Thế các chú có thấy dân ta hợp tác với họ, tin tưởng vào họ không ? Nếu dân không đứng về phía chúng , không tin tưởng vào chúng thì chúng ta không mất gì cả ! Như thế ,nếu có mất đất nhưng không mất dân, mà còn dân là còn tất cả ” ( Dẫn theo Song Thành – Hồ Chí Minh , nhà văn hoá kiệt xuất – NXB CTQG – H.1999, tr 89) - Với HCM, nhân dân không chỉ có sức mạnh mà còn là nguồn sáng tạo, là những người thông minh, giàu kinh nghiệm. + “Có người cho là “dân ngu khu đen “. Thế là tầm bậy. Dân rất thông minh. Quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều”( T VII, tr 62 ).Bác khẳng định thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những trí thức cách mạng .( xem T XI, tr 372) - Vì tin dân nên HCM dựa vào dân. Đây là một điểm vượt trội trong tư tưởng HCM so với các nhà CM tiền bối. Phan Chu Trinh dựa vào Pháp, Phan Bội Châu dựa vào Nhật mà cụ cho là “ đồng văn đồng chủng” để đánh Pháp. Còn Hồ Chí Minh dựa vào dân .Bằng một nhay cảm chính trị đặc biệt, trước khi rời đất nước người thanh niên hai mươi mốt tuổi đã nói với người bạn của mình là muốn đi ra nước ngoài xem họ làm thế nào để về giúp đồng bào ta. Đến khi trở thành người cộng sản, Người lựa chọn dứt khoát : “Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng , thức tỉnh họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do , độc lập”( xem Trần Dân Tiên – Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch- NXB Văn hoá dân tộc- H.2000, tr 61) Về sau Bác cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ “Phải gần gũi dân, dựa vào lực lượng của dân, xa rời nhân dân, tài tình mấy cũng không làm gì được” ( T VIII , tr 119) ãCon người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng - Hồ Chí Minh xem con người là mục tiêu cao nhất cách mạng, mọi hoạt động cách mạng đều nhằm mục đích giải phóng con người. Trong cách mạng dân tộc dân dân chủ nhân dân, đó là giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến. Trong xây dựng đất nước là giải phóng khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu(biểu hiện của nghèo nàn lạc hậu là đói và dốt.Người xem đó cũng là những thứ giặc như 14 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  15. giặc ngoại xâm. “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu).Vì vậy, Người chỉ có một ham muốn là nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Và cả cuộc đời phấn đấu để thực hiện mục tiêu đó. Người nói” Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh vác việc chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng- cũng vì mục đích đó”(IV-240) - Mặt khác, Người đòi hỏi con người cũng phải có trach nhiệm với cách mạng, với Tổ quốc” Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng, cháu Tiên(…) đều phải gánh vác một phần”(IV-240, 241)” “ Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận cộng dân”( TVII, tr 452) “Công việc đổi mới, xây dựng là nhiệm vụ của dân.Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là trách nhiệm của dân” ( T V, tr 698). Điều đó có nghĩa là Hồ Chí Minh xem con người còn là động lực của cách mạng b. Về chiến lược “trồng người”. Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng cấp bách. Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một qúa trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Hồ Chí Minh quan niệm “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để “trồng người”, có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”, không phải làmm một lúc là xong, cũng không phải tuỳ tiện, đến đâu hay đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó không được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I. Lênin: ‘Học, học nữa, học mãi”. KẾT LUẬN 15 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
  16. - Sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh + Đề cao vai trò của văn hóa, gắn văn hóa với phát triển + Xác lập hệ thống quan điểm có giá trị xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam + Đề cao vai trò của đạo đức, gắn đạo đức với sự phát triển tiến bộ của xã hội + Xác lập hệ chuẩn giá trị đạo đức cho con người mới Việt Nam + Coi trọng con người và xây dựng con người - Ý nghĩa của việc học tập + Thấy rõ những cống hiến kiệt xuất của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới + Xác định rõ phương hướng, biện pháp học tập tư tưởng văn hóa, đạo đức, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh + Nhận thức rõ biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự quan tâm đến con người + Xác định con đường phấn đấu để trở thành con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 16 PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2