An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHO GIÁO<br />
<br />
Bùi Quốc Hưng1<br />
1<br />
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam<br />
<br />
Thông tin chung: ABSTRACT<br />
Ngày nhận bài: 05/05/2018<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt: This article includes two periods. Period 1 discusses about the economic,<br />
05/06/2018 political and social conditions for the formation of Confucianism. In terms of<br />
Ngày chấp nhận đăng: economic condition, it is a new evolution: irons were made and widely used<br />
06/2018 in ancient China. Chinese people at that time knew how to use pulling force.<br />
Title: As a result, carpentry, handicrafts and the economy generally developed, and<br />
The basis formation of economic development led to significant social changes, for example, the<br />
Confucianism trading was characterized by the trafficking of the king! The slaves were not<br />
Keywords: buried alive together with their dead owners, and thus the value of slaves<br />
Confucianism, Confucius, was increased considerably.<br />
Mencius, Lao Tzu<br />
Basing on the politic conditions, during the wartime period of ancient China,<br />
Từ khóa: numerous wars occurred and countries fight fiercely. Until 221 BC, the<br />
Nho giáo, Khổng Tử, Mạnh mighty Qin conquered all small and weak states, leading to the uniting of the<br />
Tử, Lão Tử whole China, and ending the war era.<br />
<br />
Period 2 discusses about the previous cultural ideologies contributing to the<br />
formation of Confucianism. It is a treasure trove of ancient Chinese folk<br />
songs and a collection of historical titles namely Kinh thu, both of which<br />
contain many Confucius ideas. They were the theory of Eight Triggers, Five<br />
Elements, Yin and Yang explaining the origin of the world. It was the thought<br />
of Lao Tzu, a great scholar and a master of Confucianism who explained the<br />
origin of the universe and opposites of a thing.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nội dung chính của bài viết gồm 2 tiết. Tiết 1 bàn về điều kiện kinh tế, chính<br />
trị, xã hội cho sự ra đời Nho giáo. Về kinh tế, đó là sự tiến bộ mới: đồ sắt đã<br />
xuất hiện, được sử dụng phổ biến trong thời cổ đại Trung Quốc. Người<br />
Trung Quốc thời này đã biết sử dụng sức kéo. Vì thế, nghề mộc, thủ công<br />
nghiệp và kinh tế nói chung phát triển, kinh tế phát triển dẫn đến quan hệ xã<br />
hội có biến đổi đáng kể: nghề buôn ở đây có dấu hiệu đặc thù là buôn cả<br />
vua, nô lệ không bị chôn sống theo chủ chết nữa, tức là giá trị của nô lệ đã<br />
được tăng lên ít nhiều. Về chính trị, thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc cổ<br />
đại, chiến tranh nổ ra liên miên, các nước đánh nhau dữ dội, đến năm 221<br />
trước Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã chiến thắng tất cả các nước<br />
nhỏ yếu, thống nhất được toàn Trung Quốc, kết thúc thời đại mang tên Chiến<br />
Quốc. Tiết 2 bàn về những tiền đề văn hóa tư tưởng góp phần hình thành<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
73<br />
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
Nho giáo. Đó là kho tàng Kinh thi, nguồn ca dao cổ của người Trung Quốc;<br />
là bộ lịch sử mang tên Kinh thư, cả hai loại tác phẩm này chứa đựng nhiều<br />
tư tưởng Nho giáo. Đó là các thuyết bát quái, ngũ hành, âm dương giải thích<br />
nguồn gốc của thế giới. Đó là tư tưởng của Lão Tử, một học giả lớn, một bậc<br />
thầy của Khổng Tử đã giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các mặt đối lập<br />
trong một sự vật, v.v..<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU Về kinh tế, đất nước Trung Quốc cổ đại thời kỳ<br />
Có thể khẳng định bất kể tư tưởng, học thuyết nào này đã được lịch sử ghi lại sự kiện tiến bộ mới,<br />
cũng được hình thành trong một hoàn cảnh, điều quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế là sự ra đời<br />
kiện lịch sử nhất định. Hoàn cảnh, điều kiện lịch của đồ sắt. Thời Xuân Thu ứng với triều đại Đông<br />
sử nào sẽ cho ra đời tư tưởng học thuyết tương tự Chu. Gọi là Đông Chu vì nhà Chu đóng đô ở phía<br />
với nó. Tư tưởng học thuyết luôn mang tính lịch Đông. Gọi là thời đại Xuân Thu vì lịch sử Trung<br />
sử cụ thể. Nho giáo, học thuyết của Khổng Tử Quốc thời này được phản ánh trong bộ sách mang<br />
(sinh năm 551 trước Công nguyên, mất năm 479 tên là Xuân Thu do Khổng Tử biên soạn, đó là<br />
trước Công nguyên), còn gọi là Khổng giáo, trong quyển lịch sử của nước Lỗ. Niên đại của thời<br />
đó có bao hàm tư tưởng trị quốc cũng là sản phẩm Xuân Thu được tính từ năm 772 trước Công<br />
tất yếu của lịch sử. Thủy tổ và những tác giả của nguyên và chấm dứt vào năm 481 trước Công<br />
nó sinh trưởng trong thời đại Xuân Thu - Chiến nguyên (Lương Ninh, 2014). Khoảng giữa thời<br />
quốc từ khoảng năm 770 đến năm 221 trước Công Xuân Thu đã có bằng chứng người Trung Quốc<br />
nguyên (Hà Thúc Minh, 1999). Đấy là thời điểm làm nghề luyện sắt.<br />
lịch sử xuất hiện học thuyết của thầy trò Khổng Đến thời Chiến Quốc là thời đại kế tiếp sau thời<br />
Tử, còn gọi là Nho giáo, hoặc Khổng giáo trong đại Xuân Thu ở Trung Quốc. Sử liệu Trung Quốc<br />
lịch sử. Mạnh Tử (sinh năm 372 trước Công coi năm 403 trước Công nguyên là thời điểm mở<br />
nguyên, mất năm 289 trước Công nguyên) là đầu cho thời đại Chiến Quốc và năm 221 trước<br />
người bổ sung, phát triển rất xuất sắc Nho giáo, vì Công nguyên là năm kết thúc thời đại lịch sử này.<br />
thế Nho giáo này còn được gọi là Nho giáo Khổng Gọi là thời đại Chiến Quốc, bởi vì, trong giai đoạn<br />
Mạnh, hoặc học thuyết Khổng Mạnh. Học thuyết lịch sử đó đất nước Trung Quốc nổ ra nhiều cuộc<br />
chính trị, triết học nổi tiếng trong thời cổ đại chiến tranh giữa các nước nhỏ, nhằm thôn tính,<br />
mang tên Khổng Mạnh của đất nước Trung Hoa thống trị lẫn nhau, các nước đánh nhau, tranh<br />
và của toàn nhân loại được hình thành trên những giành đất đai liên miên, rất ác liệt (Lương Ninh,<br />
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những tiền 2014).<br />
đề văn hóa, tư tưởng nhất định sau đây. Trong hoàn cảnh chiến tranh như thế, đồ sắt ở<br />
2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ Trung Quốc cổ đại càng được sử dụng phổ biến,<br />
HỘI nghề luyện sắt, chế tạo công cụ lao động bằng sắt<br />
Những điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã phát triển. Người Trung Quốc cổ đại, một mặt, tiến<br />
hội làm xuất hiện học thuyết Nho giáo trong hành chiến tranh, cướp bóc, ăn hiếp lẫn nhau; mặt<br />
những năm cuối thời đại chiếm hữu nô lệ, đầu khác, họ còn tỏ ra là người thông minh chăm lo lao<br />
thời đại phong kiến của Trung Quốc cổ đại là như động sản xuất, phát triển kinh tế để có thực túc<br />
thế nào? binh cường, quân hùng tướng mạnh. Công cụ lao<br />
động bằng sắt đã góp phần làm cho kinh tế, sản<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
74<br />
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
xuất nông nghiệp ở Trung Quốc cổ đại phát triển của vua, vua ban cho quan chức, người nào có<br />
trong hoàn cảnh chiến tranh là vì lý do đó. công thì người ấy được. Nay, nhiều người trở nên<br />
Người Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc giàu có do sản xuất, buôn bán, cho vay lấy lãi phát<br />
còn biết sử dụng sức kéo của súc vật, sử dụng súc triển, người có khả năng, có điều kiện mua đất đai<br />
vật làm công cụ lao động sản xuất nông nghiệp. làm tài sản sở hữu riêng. Trước đây trong xã hội<br />
Họ còn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy có chế độ tỉnh điền, tức là ruộng đất được chia cắt<br />
trồng, sản xuất ra của cải vật chất nói chung. Nhờ ra giống như chữ “tỉnh” gồm hai nét ngang, một<br />
có công cụ lao động bằng sắt do nghề luyện, chế nét phẩy và một nét sổ, được chia ra thành 9 phần,<br />
tạo từ sắt phát triển mà nghề thủ công nghiệp, thì 8 phần xấu xung quanh chia cấp cho thường<br />
nghề mộc ở Trung Quốc thời cổ đại, giai đoạn dân, phần thứ 9 ở giữa tốt, đẹp nhất dân phải cấy,<br />
Xuân Thu, Chiến Quốc cũng có bước phát triển trồng, thu hoạch rồi cống nộp cho các quan chức<br />
đáng kể. trong xã hội, gọi là cho việc công.<br />
<br />
Hoạt động thương nghiệp, buôn bán trong thời Đến đời Xuân Thu, Chiến Quốc nhất là đến giai<br />
Xuân Thu, Chiến Quốc của Trung Quốc cổ đại đoạn lịch sử Trung Quốc cổ đại mang tên Chiến<br />
cũng phát triển. Vì thế, trong xã hội đã có đội ngũ Quốc thì chế độ tỉnh điền nói trên đang đi đến chỗ<br />
nhà buôn lớn rất nhiều tiền. Tiền tệ đã làm xuất tan rã hoàn toàn. Lúc này, ruộng đất ngày một vào<br />
hiện nạn cho vay nặng lãi, trao đổi hàng hóa, trả tay những địa chủ lớn tiền của nhiều, thế lực,<br />
công lao động bằng tiền, nộp thuế bằng tiền. quyền hành mạnh, nông dân càng lúc càng mất<br />
dần ruộng đất, có người không còn thước đất cắm<br />
Kinh tế thời Xuân Thu, Chiến Quốc phát triển còn<br />
dùi. Xã hội Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu,<br />
làm xuất hiện nhiều thành phố lớn phồn hoa, đông<br />
Chiến Quốc đã có sự phân hóa rõ và trở nên đối<br />
đúc ở Trung Quốc thời cổ (Lương Ninh, 2014).<br />
cực như vậy (Lương Ninh, 2014).<br />
Kinh tế ở đâu, bao giờ cũng là nhân tố có vai trò<br />
Trước đây cùng là hạng người dân lao động, vai<br />
quyết định, nền tảng cho sự nảy sinh các nhân tố<br />
trò, vị trí ngang bằng nhau, thì bây giờ số đông<br />
khác của đời sống xã hội, bất kể người ta nhận<br />
dân chúng trở nên cùng đinh; nhiều người có sự<br />
thức đến vai trò đó của kinh tế sớm hay muộn,<br />
thay đổi cực lớn và nhanh, họ thành những đại địa<br />
thậm chí là chưa hoặc không nhận thức được vai<br />
chủ, do thông thạo, khéo mua bán đất, và trao đổi<br />
trò quan trọng đó của kinh tế.<br />
hàng hóa, họ còn là những thương nhân thật sự,<br />
Nền kinh tế, sản xuất phát triển trong thời Xuân làm thành tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân<br />
Thu, Chiến Quốc như vậy đã dẫn đến quan hệ xã trong xã hội. Số đông dân nghèo không có ruộng<br />
hội, giai cấp ở nơi đấy vào thời gian đó có sự biến đất phải lĩnh canh đất của địa chủ để cấy trồng,<br />
đổi to lớn. Thời Tây Chu, đất đai dưới gầm trời phải phụ thuộc vào giai cấp, tầng lớp địa chủ kiêm<br />
Trung Quốc, đâu đâu cũng là đất của vua. Nhưng thương nhân ấy.<br />
do sản xuất kinh tế phát triển, nhiều thế lực xã hội<br />
Sản xuất, kinh tế phát triển, hàng hóa nhiều lên.<br />
giàu mạnh lên, không hoàn toàn chịu sự ban cấp<br />
Đấy là tiền đề dẫn đến lưu thông hàng hóa phát<br />
đất đai của vua nước lớn hoặc vua chư hầu như<br />
triển, do đó, xuất hiện tầng lớp những nhà buôn<br />
trước nữa. Họ đã có đất đai tư riêng của họ ngoài<br />
lớn trong xã hội. Nghề buôn bán ở Trung Quốc cổ<br />
phần được vua phong cấp cho. Có những vua chư<br />
đại phải nói là đã phát triển đến mức đặc biệt, tiêu<br />
hầu thế lực suy yếu dần, các đại phu có thế lực nổi<br />
biểu trên toàn thế giới. Ở đây không chỉ có buôn<br />
lên tranh giành đất đai làm thành đất đai riêng của<br />
bán sản vật, hàng hóa, gia súc, mà còn buôn bán<br />
họ.<br />
cả con người, hơn nữa, buôn bán đến con người<br />
Chế độ, luật về đất đai trong xã hội cũng có sự có địa vị tối cao trong xã hội, đó là buôn vua!<br />
thay đổi lớn do nền sản xuất, kinh tế trong xã hội “Cuối thời Chiến Quốc, nhà buôn kiêm địa chủ<br />
phát triển. Trước đây, như trên nói, ruộng đất là<br />
<br />
75<br />
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
nổi tiếng nhất là Lã Bất Vi ở nước Triệu, một trương, mưu kế vào hạng cao siêu. Ông tăng<br />
người đã bỏ ra một nghìn cây vàng để buôn vua, cường trật tự trị an, khuyến khích sản xuất nông<br />
và về sau trở thành thừa tướng của nước Tần” nghiệp, có trật tự trị an, có của cải vật chất nhiều,<br />
(Lương Ninh, 2014). giàu lên nhờ khuyến khích sản xuất nông nghiệp,<br />
Thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc, giai cấp nô lệ ở đó là những điều kiện, nhân tố làm cho quốc gia<br />
Trung Quốc cũng ít nhiều thay đổi. Nô lệ phạm ngày một cường thịnh, phát triển. Thêm nữa, vua<br />
tội hoặc phá sản phải bán vợ con, hoặc bản thân Tần còn tỏ ra có phẩm chất chính trị theo cách<br />
mình làm nô lệ. Nô lệ vẫn bị áp bức, bóc lột, bị riêng của ông. Ông khuyến khích quân, tướng lập<br />
đánh đập tàn nhẫn như trước, nhưng hiện tượng công. Bất cứ ai chém lấy được một đầu phía giặc,<br />
chôn sống nô lệ theo chủ chết vào thời này bị cho địch thủ thì đều được thưởng tước một cấp, muốn<br />
là phi lý nên đã giảm đi nhiều, giá nô lệ cũng đắt làm quan thì được cấp lương. Ông cho quan,<br />
hơn thời trước (Lương Ninh, 2014). tướng được nô lệ, được hưởng nhiều hay ít, cao<br />
hay thấp, mặc quần áo sang, đẹp như thế nào đều<br />
Về chính trị, thời Xuân Thu, Chiến Quốc trên đất<br />
dựa vào chức tước. Pháp lệnh của vua cuối cùng<br />
nước Trung Quốc cổ đại cũng có những biến cố, sự<br />
được thi hành nghiêm minh (Lương Ninh, 2014).<br />
kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng 4 thế kỷ, từ<br />
thế kỷ XI trước Công nguyên đến năm 771 trước Trên đây là những nhân tố, chủ trương có tác<br />
Công nguyên đóng đô ở phía Tây là thời kỳ cường dụng làm cho nước Tần trở nên lớn mạnh. Đấy<br />
thịnh của nó. Đến thời Xuân Thu, Chiến Quốc, nhà cũng là nguyên nhân làm cho nhiều nước lo sợ sự<br />
Chu đóng đô ở phía Đông đã ngày càng suy yếu đi. phát triển ấy của Tần. Nhiều nước nhỏ yếu hơn đã<br />
Ngược lại, một số nước chư hầu của nhà Chu trước bàn, liên hợp lại với nhau để chống Tần.<br />
đây vốn nhỏ yếu buộc phải thần phục, triều cống Nước Chu nhỏ bé trong quá trình phát triển đã<br />
nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh lên, do đó, họ phân chia thành hai nước Tây Chu và Đông Chu.<br />
tiến hành chiến tranh giữa những nước chư hầu để Đến giữa thế kỷ III trước Công nguyên, hai nước<br />
nhằm giành quyền làm bá chủ Trung Quốc. Từ đầu nhỏ bé này cùng với nhiều nước nhược tiểu khác<br />
thế kỷ VII trước Công nguyên đến đầu thế kỷ V như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề đều bị nước<br />
trước Công nguyên, trên vũ đài chính trị Trung Tần hùng mạnh tiêu diệt. Đến năm 221 trước<br />
Quốc đã diễn ra nhiều tấn tuồng giữa các nước nhỏ Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã thống nhất<br />
cấu thành Trung Quốc bao la rộng lớn. Các nước Trung Quốc, kết thúc một thời đại mang tên Chiến<br />
ấy đánh giết lẫn nhau để tranh giành quyền bá chủ. Quốc tranh giành, đánh giết nhau rất ác liệt<br />
Nước Trịnh là nước đi tiên phong thực hiện mưu (Lương Ninh, 2014).<br />
đồ ấy. Nhưng, Tề mới là nước đầu tiên giành được Những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính<br />
quyền làm bá chủ thiên hạ. Nước Tề hùng mạnh, trị nói trên đều có ảnh hưởng cho sự ra đời của<br />
vua Tề được mấy lần hội nghị các nước chư hầu Nho giáo - học thuyết của Khổng Tử - trong đó<br />
công nhận là bá chủ ở miền hạ lưu Hoàng hà bao hàm tư tưởng trị quốc.<br />
(Lương Ninh, 2014). Đến thế kỷ IV trước Công<br />
3. NHỮNG TIỀN ĐỀ VĂN HÓA, TƯ<br />
nguyên, các nước nhỏ trong Trung Quốc đấu tranh,<br />
TƯỞNG<br />
thôn tính lẫn nhau rất ác liệt. Nước Tề từ hùng<br />
mạnh nhất một thời, nay dần dần suy yếu, một số Văn hóa của xã hội, văn hóa trong xã hội là thuộc<br />
nước khác, trái lại, trở nên cường thịnh trong các về con người và do con người sáng tạo ra. Do vậy,<br />
cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ thiên hạ. nó chuyển tải, thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan<br />
niệm của con người. Quan niệm, tình cảm, tư<br />
Lịch sử có sự diễn tiến theo quy luật của nó. Nước<br />
tưởng của con người biểu hiện thông qua hoạt<br />
Tần trước đây đến đầu thời Chiến Quốc còn là<br />
động của con người nói chung và sản phẩm, kết<br />
nước tương đối lạc hậu nhưng vua Tần có chủ<br />
quả của hoạt động văn hóa, của chủ thể văn hóa<br />
<br />
76<br />
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
nói riêng. Văn hóa và tư tưởng gắn kết và gần như tài của nước Tần” (Khổng Tử, 2004); phê phán<br />
song hành với nhau. kịch liệt một vị vua nước Tề lấy cớ đến thông dâm<br />
Thể loại văn học phát triển sớm nhất ở Trung với “phu nhân của Lỗ Hoàn công” (Khổng Tử,<br />
Quốc thời cổ đại là thơ ca. Tác giả của nó là 2004); “Khen thục nữ lập gia đình” như “Cây đào<br />
những người dân lao động. Lao động làm nảy sinh tơ xinh tươi/ Hoa nhiều rậm/ Nàng ấy đi lấy chồng/<br />
văn học nghệ thuật. Tác giả của loại hình văn học Thì ắt thuận hòa êm ấm cảnh gia đình” (Khổng Tử,<br />
này còn là những người có học trong giai cấp 2004); ca ngợi đấng nam nhi “Dáng vũ phu uy vũ/<br />
thống trị. Vua chúa và các vua nước chư hầu là Có thể dùng làm thuẫn làm thành cho công hầu để<br />
người chú trọng hoạt động văn học nghệ thuật, che chở cho nhân dân và bờ cõi” (Khổng Tử,<br />
thường sai các vị quan phụ trách về âm nhạc của 2004); v.v.. Như vậy, từ văn hóa, tức là từ văn học,<br />
triều đình sưu tầm thơ ca từ các địa phương trong nghệ thuật truyền thống, tất nhiên là trong đó có<br />
nước về phổ nhạc, Vì thế, từ đầu thời Tây Chu chứa đựng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa cổ đại,<br />
đến giữa thời Xuân Thu, thơ ca dân gian Trung Khổng Tử đã biên soạn, phổ nhạc Kinh thi, qua đó,<br />
Quốc cổ đại đã được sưu tập lại thành một tác thể hiện nhiều tư tưởng tích cực, có thể nói là tư<br />
phẩm gọi là Thi. Người Trung Hoa rất tự hào về tưởng vĩ đại như trọng dân, phản đối quan niệm<br />
tác phẩm văn học dân gian ấy của họ. Trên cơ sở trung quân mù quáng, phi lý, vô nhân đạo, v.v..<br />
tác phẩm văn học dân gian có giá trị đó, Khổng Tử Ở Trung Quốc cổ đại, từ thế kỷ IX, VIII trước<br />
đã chỉnh lý lại một lần nữa, san định, phổ nhạc làm Công nguyên, người ta đã “giải thích nguồn gốc<br />
thành tác phẩm Kinh thi - một trong những bộ kinh của thế giới” bằng cách “nêu các thuyết bát<br />
điển của Nho giáo. Về vấn đề này, kết quả nghiên quái, ngũ hành, âm dương” (Lương Ninh, 2014).<br />
cứu của GS Bửu Cầm đã làm rõ. Theo GS, “những Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước Công nguyên,<br />
bài ca dao trong Kinh thi đã được các nhà cầm xã hội Trung Quốc cổ đại còn tương đối ổn định.<br />
quyền ở Trung Quốc sưu tầm trước đời Khổng Tử. Nhưng các nước chư hầu ngày một phát triển<br />
Nguyên nhan đề sách ấy là Thi chứ không phải là mạnh, vì thế, đến thời Xuân Thu, từ thế kỷ thứ<br />
Kinh; người sau thêm vào chữ Kinh là vì cho rằng VIII đến thế kỷ V trước Công nguyên đã có biểu<br />
sách đó đã được Khổng Tử san định” (Khổng Tử, hiện, hành động chống lại nước lớn, quyền hành<br />
2004). Tìm hiểu Sử ký của Tư Mã Thiên, GS Bửu của vị vua nước lớn được mệnh danh là thiên tử,<br />
Cầm đã chú ý, dẫn ra câu của Tư Mã Thiên nói trong xã hội có nhiều hoạt động tranh giành, chém<br />
“Khổng Tử đã đem ba trăm lẻ năm thiên trong giết nhau để đoạt được ngôi vị, bổng lộc. Những<br />
Kinh thi ra mà đàn ca”, rồi GS Bửu Cầm đi đến kết hiện tượng như bề tôi giết vua, con giết cha, em<br />
luận mang tính khẳng định: “Thế là Khổng Tử đã giết anh thường xuyên xảy ra. Đây là thời kỳ trật<br />
từng nghiên cứu âm nhạc và đem thi ca phổ thành tự xã hội có nhiều biến đổi, đảo lộn, đạo đức<br />
xuống cấp nghiêm trọng, các quy chế của xã hội<br />
nhạc khúc. Việc Khổng Tử san định Kinh thi cũng<br />
thời Tây Chu bị phá hoại. Đời sống của nhân dân<br />
có thấy chép trong thiên “Khổng Tử thế gia” sách<br />
trong một đất nước bất ổn định về chính trị, xã hội<br />
Sử ký” (Khổng Tử, 2004). Kinh thi là tác phẩm văn<br />
và đạo đức như thế, đã trở nên vô cùng cực khổ.<br />
học nghệ thuật vĩ đại, thể hiện, chuyển tải nhiều nội<br />
“Chính hoàn cảnh lịch sử xã hội ấy đã sản sinh ra<br />
dung tư tưởng lớn, quan trọng của Nho giáo. Trong<br />
những nhà tư tưởng muốn làm thay đổi tình hình,<br />
đó bao hàm không ít quan niệm, tư tưởng tích cực, trong đó tiêu biểu nhất là Lão Tử và Khổng Tử”<br />
tiến bộ, phản đối chủ trương, hành động trung quân (Lương Ninh, 2014).<br />
một cách mù quáng như: chôn sống người hiền tài<br />
Lão Tử là một nhà tư tưởng lừng danh không chỉ<br />
theo vua lúc vua chết để hầu hạ vua tại cõi âm,<br />
trong đất nước Trung Hoa, mà còn trên phạm vi<br />
chẳng hạn, bài ca dao được Khổng Tử san định,<br />
toàn thế giới, nhưng tên tuổi của ông, cho đến nay<br />
phổ nhạc nói về vua “Tần Mục công chết, ba người<br />
còn chưa được xác định, vẫn tồn tại nhiều cách<br />
con họ Tử Xa bị chôn sống theo đều là người hiền<br />
giải thích, trình bày khác nhau. Theo nhiều nguồn<br />
<br />
77<br />
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78<br />
<br />
tài liệu thì Lão Tử là học giả đồng thời với Khổng trò xuất sắc của Khổng Tử - trình bày một hệ vấn<br />
Tử, Khổng Tử đã từng theo học Lão Tử. “Khổng đề đã bổ sung, phát triển và nâng lên giá trị học<br />
Tử học hỏi ở nhiều thầy: về lễ có Lão Tử” (Dương thuyết, tư tưởng của Nho giáo. Kinh thư là bộ sách<br />
Hồng, 2003). Tác phẩm của học giả này là quyển do Khổng Tử san định chuyên bàn về lịch sử. Mới<br />
Đạo đức kinh. Lão Tử đã giải thích về nguồn gốc đầu Kinh thư cũng chỉ gọi là Thư… Thư ra đời có<br />
của vũ trụ, bàn về các mặt đối lập trong thế giới tính chất huyền bí, nhưng thực chất Thư chỉ là các<br />
khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, yếu văn bản về chính sự các triều Nhị Đế - Tam<br />
và mạnh, nhiều và ít, trên và dưới, trước và sau, Vương. Đến thời nhà Chu, các tài liệu này đã được<br />
thực và hư, vinh và nhục, khôn và dại, v.v.; hơn Khổng Tử chỉnh lại. “Kinh thư với 4 quyển, 58<br />
nữa, ông thấy rằng những mặt đối lập ấy có sự thiên, các thiên đều có gốc gác, xuất xứ; các xuất<br />
chuyển hóa lẫn nhau chứ không phải là nhất thành xứ ấy đều là những sự kiện lớn lao, những tư liệu<br />
bất biến. Ví dụ, trong họa có phúc, trong cái gọi là về địa chí, cương vực thời Nghiêu - Thuấn - Hạ -<br />
phúc có mầm hậu họa. Lão Tử chủ trương, kỳ Thương - Chu, có giá trị lịch sử và ý nghĩa xã hội<br />
vọng giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sâu sắc và lâu dài” (Khổng Tử, 2004b). Kinh thi là<br />
sống của nhân dân. Nhưng Lão Tử lại chủ trương tác phẩm đã nói sơ bộ ở trên. Tác phẩm ấy của<br />
làm cho dân ngu, vì theo ông, “dân có nhiều trí Khổng Tử với nội dung phong phú, sâu sắc, có giá<br />
khôn, thì khó cai trị” (Lương Ninh, 2014). Như trị cao về tư tưởng triết học, chính trị, văn học nghệ<br />
vậy, tư tưởng của Lão Tử đã được Khổng Tử học thuật, v.v. là sự phản ánh hoàn cảnh lịch sử và tiếp<br />
tập, tìm hiểu, từ đó góp phần hình thành Nho giáo. thu, kế thừa, phát triển các tư tưởng mang tính tiến<br />
Khổng Tử học tập Lão Tử một cách sáng tạo, hình bộ, tích cực, có sức sống trường cửu mà nhân loại<br />
thành nên tư tưởng tiến bộ, chứ không tiếp thu đã sản sinh ra.<br />
những quan điểm, chủ trương phản tiến bộ của 4. KẾT LUẬN<br />
Lão Tử. Thí dụ, Lão Tử chủ trương “làm cho dân<br />
Bàn sơ bộ như trên về Khổng Tử để nhấn mạnh tư<br />
ngu”, nhưng Khổng Tử chủ trương trọng dân,<br />
tưởng của Khổng Tử, tư tưởng Nho giáo nói<br />
dưỡng dân, giáo dân, phú dân. Ngoài Lão Tử,<br />
chung, trong đó bao gồm tư tưởng trị quốc của Nho<br />
Khổng Tử còn học tập nhiều người khác, như: “về<br />
giáo nói riêng được hình thành trên cơ sở kinh tế,<br />
chính sự có Đàm Tử, về nhạc có Tranh Hoằng,<br />
xã hội, chính trị, lịch sử, văn hóa, tư tưởng nhất<br />
gảy đàn có Sư Tương và nhiều danh sư khác nữa”<br />
định, chứ không thể từ một cõi hư vô.<br />
(Dương Hồng, 2003). Những bậc thầy nói trên của<br />
Khổng Tử là cơ sở tư tưởng của Nho giáo, học TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
thuyết của Khổng Tử. Dương Hồng & cs. chú dịch. (2003). Tứ thư. Hà Nội:<br />
Khổng Tử là người ham học, có hiểu biết, học vấn NXB Quân đội Nhân dân.<br />
uyên thâm đã từng làm quan. Nghiên cứu tác phẩm Hà Thúc Minh. (1999). Lịch sử triết học Trung<br />
kinh điển của Khổng Tử thì sẽ thấy học giả này Quốc, t.II: TP.HCM: Nhà xuất bản Thành phố<br />
không chỉ quan tâm đến vấn đề như đạo đức, chính Hồ Chí Minh.<br />
trị, văn hóa. Ông còn bàn nhiều về kinh tế, quân sự,<br />
Khổng Tử. (2004a). Kinh thi, t.I. Hà Nội: Nhà xuất<br />
công tác giáo dục, triết học, văn học, nghệ thuật, tư<br />
bản Văn học.<br />
tưởng trọng dân, chủ trương đổi mới, bàn về lịch<br />
sử, v.v.. Các bộ kinh điển của Nho giáo như Đại Khổng Tử. (2004b). Kinh thư. Hà Nội: Nhà xuất<br />
học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh thư, bản Văn hóa - Thông tin.<br />
Kinh thi, v.v. đã chứng minh cho nhận xét khái Lương Ninh chủ biên và các cộng sự. (2014). Lịch<br />
quát nói trên về Khổng Tử là chính xác chứ không sử thế giới cổ đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo<br />
mang tính võ đoán. Đại học, Trung Dung, Luận dục Việt Nam.<br />
ngữ là các tác phẩm do học trò của Khổng Tử ghi<br />
lại lời của thầy Khổng Tử và bàn luận về lời của<br />
thầy. Mạnh Tử là tác phẩm của Mạnh Tử - một học<br />
<br />
78<br />