intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ sở khoa học cho việc xác định cao trình đê trong kiểm soát lũ của hệ thống sông Hồng - NCS.ThS. Lâm Hùng Sơn

Chia sẻ: Tinh Thuong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

100
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo bài viết "Cơ sở khoa học cho việc xác định cao trình đê trong kiểm soát lũ của hệ thống sông Hồng" dưới đây để nắm bắt được những nội dung tổng quan về hiện trạng và những vấn đề có liên quan đến an toàn của hệ thống đê, những tác động đến sự phối hợp của hệ thống đê với các công trình phòng chống lũ khác. Với các bạn chuyên ngành Kiến trúc - Xây dựng thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ sở khoa học cho việc xác định cao trình đê trong kiểm soát lũ của hệ thống sông Hồng - NCS.ThS. Lâm Hùng Sơn

CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH CAO TRÌNH ĐÊ<br /> TRONG KIỂM SOÁT LŨ CỦA HỆ THỐNG SÔNG HỒNG<br /> NCS. ThS. LÂM HÙNG SƠN<br /> Viện Quy hoạch Thuỷ lợi<br /> TÓM TẮT: Thực trạng hệ thống đê điều vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập. Mặc dù luôn<br /> được tu bổ nâng cấp nhưng an toàn của hệ thống đê luôn đòi hỏi sự đầu tư toàn diện<br /> không những đủ về mặt kinh phí, tránh lãng phí mà còn phải mang tính khoa học cao. Vì<br /> hệ thống đê sẽ ngày càng phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ an toàn cho hạ du. Bài viết nhằm<br /> giới thiệu một số cơ sở khoa học mang tính định hướng chiến lược trong phòng chống lũ<br /> để từ đó xác định cao trình hệ thống đê cho hợp lý.<br /> I. Tổng quan về hiện trạng và những vấn đề có liên quan đến an toàn của hệ<br /> thống đê<br /> Hệ thống đê sông Hồng - Thái Bình được hình thành từ lâu đời, là một hệ thống đập đất<br /> được bồi trúc dần theo thời gian bằng công sức đóng góp của nhân dân. Hiện nay có tổng<br /> chiều dài vào khoảng 2.700 km. Hàng năm được đầu tư kinh phí bồi trúc nâng cấp, nhưng<br /> sự khắc nghiệt của thời tiết tạo ra sự dữ dội về lũ lụt đã quét đi bao công sức của con<br /> người. Mỗi mùa lũ qua đi để lại hệ thống đê điều phơi bày ra rất nhiều sự cố, phải huy<br /> động sửa chữa khẩn cấp tốn kém và vấn đề an toàn vẫn là mối lo ngại lớn. Do diễn biến về<br /> lòng dẫn và dòng chảy rất phức tạp cộng với việc tu bổ nâng cấp mới chỉ có đủ khả năng<br /> tập trung vào một số các điểm xung yếu thường hay xảy ra sự cố vào mùa lũ cho nên vẫn<br /> luôn tiềm ẩn những mối nguy cơ xảy ra sự cố ở những vị trí xung yếu của hệ thống đê. Sự<br /> thay đổi chế độ dòng chảy một cách phức tạp do tự nhiên cũng như do tác động của con<br /> người cộng với sự xuống cấp của quá nhiều các công trình dưới đê cho nên hệ thống đê<br /> vẫn chưa đảm bảo an toàn.<br /> Chế độ dòng chảy về mùa lũ có những diễn biến phức tạp hơn, lũ tập trung về hạ lưu<br /> nhanh hơn. Theo thực tế quan trắc (với cùng cấp lưu lượng) thì mực nước của cả 2 hệ<br /> thống sông Hồng và sông Thái Bình đều tăng lên, trong khi các hành lang thoát lũ ngày<br /> càng bị bồi lấp nhiều. Mực nước các sông ở Đồng bằng sông Hồng và vùng hạ lưu sông<br /> Thái Bình những năm gần đây có chiều hướng duy trì ở cấp báo động số 2, 3 nhiều lần hơn<br /> so với trước. Số mạch đùn, mạch sủi tăng lên, nhiều nơi xuất hiện vết nứt, sụt lở. Đặc biệt<br /> xuất hiện nhiều vết nứt chạy dọc trên thân đê.<br /> Hệ thống đê có chiều cao phổ biến từ 6 – 8 m; cũng có những đoạn cao tới 11 m, tương đối<br /> cao so với hệ thống đê trên thế giới. Trong khi chiều cao là khá lớn sẽ đòi hỏi mặt cắt<br /> ngang và nền móng phải ổn định thì ngược lại, có nhiều nơi mặt cắt ngang chưa đảm bảo<br /> mặt cắt thiết kế, thân đê tồn tại nhiều ẩn hoạ, nền móng đê thì yếu, hai bên chân đê còn<br /> nhiều thùng đấu chưa được lấp cũng gây mất an toàn cho đê.<br /> Với thực trạng như vậy, trong trường hợp xảy ra lũ có tổ hợp lũ lớn hơn lũ thiết kế, hệ<br /> thống đê sẽ phải chịu đựng áp lực lớn hơn: (i) thời gian đê ngâm nước dài hơn; (ii) cao độ<br /> đê tại một số đoạn, đặc biệt có nhiều vị trí cục bộ sẽ không đảm bảo khả năng chống tràn<br /> dễ dẫn đến sạt lở làm mất an toàn dẫn đến nguy cơ vỡ đê nhiều hơn; (iii) còn nhiều đoạn đê<br /> chưa đảm bảo mặt cắt hình học, trường hợp gặp lũ quá cao dễ xảy ra mất ổn định; (iv)<br /> nhiều đoạn thân đê yếu, chất lượng đất đắp đê kém, những đoạn thường hay có nhiều tổ<br /> mối và nhiều đoạn đê có nền đê yếu khi gặp lũ quá cao càng xuất hiện nhiều vị trí thẩm lậu<br /> mạch đùn sủi nguy hiểm; (v) hiện có khoảng 300 cống dưới đê được xây dựng từ lâu có chỉ<br /> tiêu thiết kế thấp, trong đó có gần 200 cống đang được đề nghị tu bổ nâng cấp, nối dài hoặc<br /> hoành triệt.<br /> Qua đánh giá và nhận định về thực trạng hệ thống đê, đa số các ý kiến đều cho rằng không<br /> thể tiếp tục nâng chiều cao đê lên nữa. Trong khi cần phải có thời gian dài để cho các hồ<br /> chứa thượng nguồn sông Hồng ra đời và đi vào hoạt động chống lũ cho hạ du thì rõ rõ ràng<br /> việc tu bổ nâng cấp và gia cố cho đê vẫn là giải pháp hàng đầu. Cho dù sau này khi đã có<br /> thêm các hồ chứa cắt lũ cho hạ du, hạ được mực nước cao nhưng lại duy trì mực nước thấp<br /> trong khoảng thời gian lâu hơn cũng sẽ gây mất an toàn cho đê. Do vậy, vấn đề đặt ra là<br /> cần phải xây dựng cơ sở khoa học cho việc xác định cao trình đê của hệ thống sông Hồng<br /> để từ đó làm căn cứ cho việc định hướng chiến lược lâu dài, đầu tư thích đáng và phù hợp<br /> cho công tác nâng cao mức đảm bảo an toàn chống lũ vùng đồng bằng sông Hồng – Thái<br /> Bình trong từng giai đoạn khác nhau.<br /> II. Những tác động đến sự phối hợp của hệ thống đê với các công trình<br /> phòng chống lũ khác<br /> Hệ thống công trình phòng chống lũ cho đồng bằng sông Hồng bao gồm các thành phần<br /> cấu thành như sau:<br /> 1. Các hồ chứa phía thượng du sông Hồng: Hiện tại có 2 hồ chứa là Hoà Bình trên sông<br /> Đà và Thác Bà trên sông Chảy. Trong tương lai còn có thêm hồ Sơn La trên sông Đà,<br /> hồ Đại Thị trên sông Gâm và Bắc Mục trên sông Lô. Gần đây nhất Chính phủ đã có<br /> công văn số 1252 CP-CN ngày 10/10/2002 về việc thông qua qui hoạch bậc thang sông<br /> Đà gồm có 3 bậc: Hoà Bình có mực nước dâng bình thường (MNDBT) 115 m (đã hoàn<br /> thành năm 1994); Sơn La thấp quy mô công trình có MNDBT 215 m, tổ hợp Bản Chát<br /> - Huổi Quảng trên sông nhánh Nậm Mu quy mô công trình có MNDBT 370 m; Lai<br /> Châu (thuộc đoạn tuyến Nậm Nhùn) quy mô công trình có MNDBT 295 m.<br /> 2. Hệ thống công trình phân lũ sông Đáy: Bao gồm các hạng mục chính như sau:<br /> - Cửa nhận nước: Tràn Hát Môn và cống Vân Cốc.<br /> - Lòng hồ Vân Cốc (Đoạn giữa đê sông Hồng và Đập Đáy).<br /> - Công trình phân lũ Đập Đáy.<br /> - Các vùng phân chậm lũ của hai huyện Chương Mỹ-Mỹ Đức (Bao gồm 57 xã).<br /> - Hệ thống đê điều và lòng bãi sông Đáy để thoát lũ.<br /> 3. Các vùng phân chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng - Thái Bình: Khu Tam Nông, Vùng<br /> Thanh Thuỷ, Vùng Bất Bạt, Vùng Lâm Thao, Khu Quảng Oai, Vùng bối Vĩnh Tường,<br /> Vùng Ba Tổng, Vùng Chí Linh.<br /> 4. Hệ thống đê điều: Bao gồm 45 tuyến đê sông do Trung ương và Địa phương quản lý.<br /> Các công trình nói trên có sự liên quan và hoạt động tuần tự phụ thuộc theo tình huống lũ<br /> xảy ra. Chúng đều có chung nhiệm vụ chống lũ cho đồng bằng sông Hồng, tuy nhiên tầm<br /> quan trọng số một được đặt lên cho các hồ chứa lớn ở thượng lưu. Khả năng chống lũ có<br /> hiệu quả của hệ thống công trình này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố sau: (i) sự<br /> điều hành hoạt động của chúng, (ii) các yếu tố tác động từ phía thượng lưu như rừng và<br /> thảm phủ có thường xuyên được duy trì hay không, (iii) khả năng thoát lũ của lòng dẫn có<br /> bị cản trở và suy giảm không...<br /> II-1. Tác động của tự nhiên<br /> Qua theo dõi cho thấy những năm gần đây thiên tai trong khu vực đang có xu thế tăng lên<br /> về tính bất thường, qui mô và mức độ ảnh hưởng. Thời tiết khắc nghiệt hơn và có diễn biến<br /> rất phức tạp. Theo các nhà khí tượng thuỷ văn của Việt Nam trong thời gian tới, những vấn<br /> đề về biến đổi khí hậu, đặc biệt là hiện tượng La Nina đang phát triển có thể gây ra những<br /> biến đổi khác thường về thời tiết và thuỷ văn trên thế giới. Những biến động này có thể gây<br /> ra những hiện tượng thời tiết và thuỷ văn nguy hiểm ở Việt Nam. Những năm qua, xu thế<br /> này đã rõ ở miền Trung và miền Nam nước ta. Cần cảnh giác đề phòng và nâng cao khả<br /> năng chống lũ đối với các cơn lũ lớn có thể xảy ra ở miền Bắc. Lũ lịch sử năm 1971 có lưu<br /> lượng tại Sơn Tây là 37.800 m3/s nhưng theo dự báo lũ cực hạn có thể lên tới 57.000 m3/s<br /> cũng tại Sơn Tây. Trong khi khả năng điều tiết lũ của những hồ chứa hiện có là có hạn, các<br /> hồ chứa dự kiến còn đang trong giai đoạn nghiên cứu và bắt đầu xây dựng, thời gian từ khi<br /> xây dựng cho đến khi đi vào vận hành phải kéo dài từ 5-10 năm, như vậy những tác động<br /> bất thường gây ra lũ lớn sẽ tác động trực tiếp lên hệ thống đê và phụ thuộc vào khả năng<br /> dự báo và điều hành các hồ chứa Hoà Bình và Thác Bà cắt lũ sao cho hợp lý.<br /> II-2. Tác động của con người<br /> Bề mặt lưu vực, lòng sông đã biến đổi khá lớn do tác động mạnh mẽ của con người như:<br /> Phá rừng, can thiệp vào lòng dẫn bằng việc xây dựng các công trình, làm cản trở dòng chảy<br /> ở nhiều nơi và khai thác cát bừa bãi ở nhiều chỗ... làm cho chế độ thủy văn trên các con<br /> sông không còn trạng thái tự nhiên gây xói lở nơi này, bồi lắng nơi khác, đổi dòng. Theo<br /> đánh giá của dự án trong chương trình phòng chống lũ đồng bằng sông Hồng – Thái Bình<br /> về hiện trạng, xu thế diễn biến và khả năng thoát lũ cho thấy lòng bãi sông của đoạn sông<br /> Hồng từ Việt Trì đến Hà Nội đều bị nâng cao làm cho quan hệ H ~ Q tại Sơn Tây thay đổi<br /> theo hướng giảm lưu lượng khi cùng cấp mực nước. Đường quan hệ mực nước giữa các<br /> trạm thay đổi theo hướng trạm trên tăng lên nhiều hơn trạm dưới. Mạng lưới sông Hồng –<br /> Thái Bình vốn đã có chế độ dòng chảy rất phức tạp nay lại có những diễn biến phức tạp<br /> hơn bởi những tác động trên dẫn đến khả năng xuất hiện đỉnh lũ đồng thời tại các nhập lưu<br /> cao hơn và tỷ lệ phân lưu lượng vào các nhánh biến đổi khó lường. Do đó rất khó định<br /> hướng cho việc xác định mực nước lũ thiết kế cho từng tuyến đê. Sự phân bố lại lưu lượng<br /> đối với các nhánh trong hệ thông sông có những thay đổi đáng kể, có thể thấy qua các<br /> nghiên cứu đánh giá gần đây của Viện Qui hoạch Thuỷ lợi và Viện Khoa học Thuỷ lợi.<br /> Lượng nước của sông Hồng chuyển sang sông Thái Bình qua sông Đuống ngày một tăng.<br /> Thời kỳ 1956-1989 bình quân mùa lũ là 24,5% và mùa kiệt là 19,9% lượng nước qua Sơn<br /> Tây, đến thời kỳ 1990-1994 đã tăng lên 27% vào mùa lũ và 24,6% vào mùa kiệt (nếu tính<br /> trung bình nhiều năm thì trước khi hồ Hoà Bình tích nước là 24% và sau khi tích nước tăng<br /> lên 27%).<br /> Các cửa sông bị bồi lắng ngày càng nhiều do tác động của cả tự nhiên và con người mà<br /> không có khả năng nạo vét làm cho lũ đã cao lại càng dềnh cao thêm. Đặc biệt ở vùng hạ<br /> lưu sông Thái Bình, lòng dẫn thay đổi đáng kể làm cho mực nước ở Phả Lại tăng lên so với<br /> trước, vì vậy hầu như năm nào cũng có lũ trên báo động 3 và kéo dài nhiều ngày. Việc suy<br /> giảm khả năng thoát lũ của một số cửa sông ngoài nguyên nhân lòng sông bị bồi lấp còn do<br /> tình trạng quai đê bối làm co hẹp mặt cắt ngang, đê bối được quai đắp nhiều cấp, nhiều<br /> tuyến. Ví dụ: Đoạn ngã ba sông Hoá – Thái Bình; đoạn Phà Quí Cao đến ngã ba Thái Bình<br /> – sông Mới; đoạn sông Văn Úc từ Xuân Dương đến cửa biển… Theo đánh giá của đề tài<br /> nghiên cứu thoát lũ và biện pháp ổn định tăng thoát lũ bảo vệ đề điều do Viện Khoa học<br /> Thuỷ lợi tiến hành, sự suy giảm lòng dẫn chủ yếu xảy ra trên bãi sông.<br /> Việc ngăn sông mở luồng theo hướng tự phát hoặc tiến hành khi nghiên cứu chưa được kỹ<br /> lưỡng do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua cũng đã gây ảnh hưởng<br /> không nhỏ đến khả năng thoát lũ làm cho mực nước dâng cao và biến động.<br /> II-3. Những vấn đề tồn tại của vùng phân lũ sông Đáy<br /> a. Phía cửa vào sông Đáy<br /> Theo thiết kế thì khả năng phân tối đa của cống Vân Cốc là 2.300 m3/s, tràn Hát Môn<br /> là 2.700 m/s. Hiện nay hai cửa nhận nước khó có thể truyền tải được đủ lưu lượng thiết<br /> kế vì :<br /> - Phía thượng lưu và hạ lưu cống Vân Cốc bị bồi cao hơn cả cao trình tràn Đáy. Biện<br /> pháp xử lý chỉ là tạm thời vì hàng năm khi có lũ lớn tràn bãi thì lượng phù sa sông<br /> Hồng lại tiếp tục bồi đắp như cũ.<br /> - Đoạn tràn Hát Môn với chiều dài 8.670 m đã có nhiều biến đổi, cửa tràn mặt không<br /> còn thuận và bị cản trở bởi nhà cửa kiên cố và bán kiên cố xây dựng hai bên bờ đê<br /> sông Hồng.<br /> b. Lòng hồ Vân Cốc<br /> Dung tích chứa thiết kế đến cao trình 14,0 m là 196 triệu m3. Từ năm 1975 đến nay việc<br /> cải tạo lòng hồ không được bao nhiêu. Ngược lại sự phát triển dân sinh kinh tế vùng<br /> lòng hồ có ảnh hưởng xấu đến khả năng chứa và tải lũ.<br /> Theo kết quả khảo sát bình đồ tỷ lệ 1/5.000 vùng lòng hồ Vân Cốc tháng 9/1999. Dung<br /> tích đến cao trình 14,0 m chỉ còn là 159 triệu m3, như vậy đã suy giảm khoảng 40 triệu<br /> m3.<br /> c. Đập Đáy<br /> Hiện tại đủ khả năng tháo 6 cửa cùng một lúc (cửa số 1 phía bờ tả Đáy do bị xói sâu nên<br /> đã hoành triệt, hiện nay chỉ còn 6 cửa từ cửa số 2- 7). Khả năng thoát lũ qua Đập Đáy<br /> còn phụ thuộc mực nước giữa thượng lưu và hạ lưu đập. Theo đánh giá thì khả năng<br /> thoát tối đa chỉ vào khoảng từ 2.500 – 3.500 m3/s.<br /> d. Lòng dẫn và bãi tràn sông Đáy<br /> Thực tại đã có một số công trình giao thông xây dựng làm co hẹp lòng, bãi tràn như Cầu<br /> Mai Lĩnh, đường cao tốc Hoà Lạc. Đây sẽ là một vấn đề lớn, cản trở cho việc thoát lũ<br /> sông Đáy, làm dâng mực nước sông đe dọa toàn tuyến đê tả và hữu Đáy.<br /> e. Khu chứa lũ Chương Mỹ - Mỹ Đức<br /> Các đường tràn giữa các ô chứa lũ thuộc hai huyện Chương Mỹ - Mỹ Đức hiện nay đã<br /> thay đổi nhiều. Qua khảo sát thực địa, nhiều tuyến tràn không còn hình dáng như thiết<br /> kế ban đầu. Nhà cửa và cây cối xâm phạm sát đường tràn, dẫn đến khả năng truyền tải<br /> lũ ngày một suy giảm, dung tích chứa lũ của 13 tiểu vùng chưa chắc đủ đảm bảo theo<br /> yêu cầu thiết kế ban đầu.<br /> III. Mực nước thiết kế đê sông<br /> Do địa hình lòng dẫn đã có nhiều biến đổi, mực nước lũ có thiên hướng tăng cao... cho nên<br /> qui định mực nước trên các triền sông theo Thông tri số 1185 TTR/ĐĐ ban hành ngày<br /> 07/7/1977 của Bộ trưởng Bộ Thuỷ lợi (cũ) cần phải được xem xét lại cho phù hợp với điều<br /> kiện lòng dẫn hiện nay, và từ đó làm căn cứ cho việc xác định cao trình đê. Hiện nay Bộ<br /> Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang trình Chính phủ phê duyệt Qui hoạch phòng<br /> chống lũ đồng bằng sông Hồng, trong đó có đề nghị tiêu chuẩn chống lũ cho vùng hạ du<br /> cho giai đoạn ngắn hạn khi chưa có hồ chứa Sơn La và Đại Thị là chống lũ như lũ tháng<br /> 8/1971, có lưu lượng lớn nhất tại Sơn Tây là 37.800 m3/s. Đối với hệ thống đê sông Hồng<br /> phải chống lũ với lũ có mức nước lũ thiết kế 13,6 m tại Hà Nội (tương đương cao độ 13,40 m<br /> theo cao độ Quốc gia). Đối với đê cấp I, II, III lấy mực nước lũ thiết kế tương ứng với 13,30 m<br /> ở Hà Nội. Đối với hệ thống đê sông Thái Bình lấy mức nước lũ thiết kế 7,4 m tại vị trí Phả Lại<br /> (tương ứng với mức 13,30 m ở Hà Nội). Nếu được phê duyệt thì đây sẽ là cơ sở định hướng<br /> chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống công trình chống lũ, làm cơ sở cho việc<br /> lập qui hoạch chi tiết cho từng tuyến đê. Do mực nước trên các triền sông đã có nhiều thay đổi,<br /> việc lấy mực nước thiết kế đê theo thông tri số 1185 TTR/ĐĐ đến nay không còn phù hợp, do<br /> vậy Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành quyết định số 59/2002/QĐ-BNN<br /> ngày 3 tháng 7 năm 2002 về việc quy định mực nước thiết kế cho các tuyến đê thuộc hệ<br /> thống sông Hồng, Thái Bình. Đồng thời Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đã<br /> ban hành tiêu chuẩn nghành: 14 TCN 122-2002 Tiêu chuẩn phòng, chống lũ đồng bằng<br /> sông Hồng (ban hành kèm theo quyết định số 60 / 2002 / QĐ-BNN ngày 5 tháng 7 năm 2002).<br /> Tiêu chuẩn này quy định về tần suất phòng, chống lũ cho vùng đồng bằng sông Hồng và mực<br /> nước đảm bảo chống lũ cho đê từ cấp III trở lên của hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình.<br /> Để sơ bộ đánh giá được mức độ nguy hiểm của lũ lớn có thể xảy ra mà đê phải chịu, dự án<br /> trong chương trình phòng chống lũ đã tính toán hai khả năng xuất hiện lũ như sau:<br /> - Tổ hợp lũ tháng 8/1971 gặp triều cường và bão cấp 9-11.<br /> - Tổ hợp lũ tần suất 250 năm gặp triều cường và bão cấp 9-11.<br /> Quá trình đối chiếu cao độ mặt đê với cao độ mực nước mới thấy rằng, các tuyến đê trên<br /> hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình còn thiếu cao độ so với yêu cầu thiết kế mới, có thể<br /> tóm tắt thành 3 loại sau:<br /> - Cao trình mặt đê cao hơn mực nước mới nhưng còn thiếu độ cao gia thăng.<br /> - Cao trình mặt đê xấp xỉ mực nước thiết kế mới.<br /> - Cao độ mặt đê thấp hơn mực nước thiết kế mới.<br /> Kết quả tính toán cho ta thấy, khi mực nước tăng lên không những hàng loạt các đoạn đê bị<br /> thiếu cao trình cần phải tôn cao, áp trúc chống tràn mà còn có khả năng xuất hiện nhiều vị<br /> trí đê, kè, cống không đảm bảo độ ổn định về thấm, trượt ngay cả khi đã được xử lý ổn<br /> định khi đê làm việc với đường mực nước cũ.<br /> Đó mới chỉ là những kết luận thông qua những số liệu có thể theo dõi được, trong thực tế<br /> còn có thể có những vấn đề chưa thể lường hết được do chưa có đủ điều kiện nghiên cứu,<br /> theo dõi kỹ lưỡng. Do vậy tình hình đặt ra là phải có những qui hoạch chi tiết cho từng<br /> tuyến đê để lấy đó làm căn cứ cho những hoạch định chi tiết tiếp theo.<br /> IV. Đề xuất cơ sở khoa học<br /> Rõ ràng khi xem xét cơ sở khoa học cho việc xác định cao trình hợp lý của hệ thống đê,<br /> hay việc sử dụng các công trình phân chậm lũ cũng đều phải xét đến mối quan hệ ràng<br /> buộc của chúng trong kịch bản phát triển của lưu vực trên mọi khía cạnh (xem sơ đồ 1 dưới<br /> đây):<br />  Điều kiện tự nhiên.<br />  Điều kiện kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý.<br />  Điều kiện phát triển dân sinh – kinh tế – xã hội.<br /> Qua việc xem xét, phân tích mối quan hệ ràng buộc nói trên, có thể nhìn nhận một cách<br /> tổng quát nhất cở sở khoa học cho chiến lược phòng chống lũ của đồng bằng sông Hồng –<br /> Thái Bình nói chung (xem sơ đồ 2) đó là sự nhìn nhận, đánh giá và những tác động kịp thời<br /> đúng đắn vào từng giai đoạn của chu trình phát triển dân sinh - kinh tế - xã hội của vùng<br /> đồng bằng đặt trong kịch bản phát triển lưu vực sông. Khả năng bảo vệ của hệ thống đê sẽ<br /> phải đáp ứng được yêu cầu của chu trình phát triển này trên cơ sở có xét đến mối quan hệ<br /> ràng buộc tự nhiên – xã hội; thực trạng và khả năng nâng cấp (qua đánh giá và tính toán sơ<br /> bộ như đã nêu ở trên). Qua đây cho thấy rằng cần phải có quy hoạch chi tiết và những tính<br /> toán kỹ thuật chi tiết hơn. Các phân tích, đánh giá nêu trên cũng cho thấy rằng giới hạn về<br /> chiều cao chung của hệ thống đê đã ở giới hạn cuối cùng không thể nâng cao hơn được<br /> nữa. Nói như vậy không phải là không cần đầu tư lớn hơn cho việc tu bổ nâng cấp cho hệ<br /> thống đê mà đòi hỏi sẽ phải nâng tầm đầu tư hơn nữa thông qua các việc như: Tiếp tục tu<br /> bổ nâng cấp thường xuyên cho đủ cao trình và mặt cắt thiết kế (độ cao gia thăng và mái<br /> dốc tập trung ở các vị trị xung yếu cục bộ và một số đoạn của các tuyến đê vùng cửa sông);<br /> tăng cường việc cứng hoá mặt đê kết hợp với giao thông và làm đẹp cảnh quan; xử lý<br /> những vị trí xung yếu trong thân và nền đê. Có như vậy hệ thống đê mới có thể hoạt động<br /> an toàn với mực nước cao khi chưa xây dựng xong các hồ chứa lớn ở thượng nguồn như<br /> hiện nay và sau này phải chịu đựng mực nước tuy không cao nhưng thờ gian ngâm nước<br /> lâu hơn khi các hồ chứa đó đi vào vận hành.<br /> <br /> <br /> Hình thế Gìn giữ, tái tạo, phát triển rừng phòng hộ<br /> thời tiết<br /> <br /> Các vấn đề thực trạng của hệ thống đê<br /> <br /> Công<br /> tác Các vấn đề về lòng dẫn và khả năng thoát lũ vùng<br /> quản lý, cửa sông<br /> điều<br /> hành<br /> Hệ Hoạt động của các công trình PCL hiện có<br /> thống<br /> <br /> <br /> Kế hoạch XD các công trình PCL mới<br /> Kiến tạo tự nhiên bề<br /> mặt lưu vực<br /> Xem xét việc loại bỏ 1 số vùng phân chậm lũ khi có<br /> thêm CT PCL. Điều kiện làm việc mới của HT đê.<br /> XEM XÉT ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DS – KT – XH<br /> TRÊN TOÀN LƯU VỰC<br /> <br /> <br /> <br /> Sơ đồ 1. Mối quan hệ ràng buộc khi xem xét cơ sở khoa học cho việc xác định hợp lý<br /> cao trình hệ thống đê và việc sử dụng các công trình phân chậm lũ<br /> 1. Tầm nhìn, Chiến lược 2. Xác định TC chống lũ<br /> phát triển Kinh tế - Xã cho vùng ĐB căn cứ vào:<br /> hội vùng đồng bằng châu Thực trạng của các CT<br /> thổ và lưu vực sông. hiện có; định hướng CL<br /> PT KT-XH; khả năng<br /> 4. Kiểm định, điều chỉnh XD thêm các CT mới.<br /> cho phù hợp với thực tế.<br /> 5. Nâng cao mức đảm<br /> bảo; bỏ một số vùng<br /> chậm lũ…<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3. Xác định qui mô các<br /> công trình dự kiến cho<br /> phù hợp. Sớm xây dựng<br /> và đưa vào hoạt động.<br /> 6. Tập trung vào công<br /> tác điều hành, vận hành,<br /> duy tu...<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Sơ đồ 2. Tổng quan về cơ sở khoa học cho chiến lược phòng chống lũ<br /> đồng bằng sông Hồng – Thái Bình<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Trịnh Quang Hoà, Trường Đại học Thuỷ lợi. “Nghiên cứu xây dựng công nghệ<br /> nhận dạng lũ thượng lưu sông Hồng phục vụ điều hành hồ Hoà Bình chống lũ<br /> hạ du”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, tháng 7 năm 1997.<br /> 2. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi; Cục Phòng chống Lụt bão và Quản lý Đê điều.<br /> “Đánh giá chất lượng và yêu cầu tu bổ nâng cấp hệ thống đê chính hạ lưu sông<br /> Hồng và sông Thái Bình", 12/1998.<br /> 3. Vũ Hồng Châu, Lâm Hùng Sơn. “Đánh giá khả năng tải lũ của hệ thống phân lũ<br /> sông Đáy, sử dụng hợp lý hệ thống phân lũ để hạ thấp mực nước sông Hồng với<br /> lũ có tần suất đặc biệt lớn”. Chuyên đề nhánh thuộc đề tài nghiên cứu khoa học<br /> cấp Nhà Nước “Nghiên cứu thoát lũ và biện pháp ổn định tăng khả năng thoát<br /> lũ bảo vệ đê điều đồng bằng Bắc Bộ”, tháng 2 năm 2001.<br /> 4. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi. “Phân tích các tác nhân gây ra lũ lụt ở đồng bằng<br /> sông Hồng; xác định quy luật hình thành lũ lớn; đánh giá sự gia tăng lũ do yếu<br /> tố con người”. Chuyên đề nhánh thuộc đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà<br /> Nước KC.08-13 “Nghiên cứu thoát lũ và biện pháp ổn định tăng khả năng thoát<br /> lũ bảo vệ đê điều đồng bằng Bắc Bộ”, tháng 2 năm 2001.<br /> 5. Vũ Hồng Châu, Lâm Hùng Sơn. “Cơ sở khoa học cho việc điều hành các giải<br /> pháp kiểm soát lũ lụt”. Chuyên đề nhánh thuộc đề tài nghiên cứu khoa học cấp<br /> Nhà Nước KC.08-13, năm 2002.<br /> 6. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi; Cục Phòng chống Lụt bão và Quản lý Đê điều.<br /> “Đánh giá thực trạng đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình. Xác định<br /> trọng điểm xung yếu và các giải pháp xử lý đối phó với các cơn lũ lớn xảy ra”.<br /> Thuộc “Chương trình phòng chống lũ đồng bằng sông Hồng - Thái Bình”, năm<br /> 2002.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
108=>0