
Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ
lượt xem 1
download

Mục tiêu của bài nghiên cứu là hệ thống hóa cơ sở luận và nhận diện hành vi tẩy xanh của các doanh nghiệp bằng phương pháp thống kê mô tả, đồng thời dưới góc nhìn tài chính và quản trị, làm rõ đặc điểm của các doanh nghiệp có xu hướng thực hiện hành vi tẩy xanh thông qua phân tích định lượng trên mẫu nghiên cứu là 3.149 doanh nghiệp Mỹ niêm yết trong giai đoạn 2009-2018.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ Trần Thị Xuân Anh, Đào Hồng Nhung, Trần Anh Tuấn Học viện Ngân hàng, Việt Nam Ngày nhận: 24/06/2024 Ngày nhận bản sửa: 21/02/2025 Ngày duyệt đăng: 03/03/2025 Tóm tắt: Hành vi “tẩy xanh” đang ngày càng phổ biến trên thị trường tài chính nhằm cường điệu hóa kết quả hoạt động môi trường, xã hội, quản trị (ESG) của doanh nghiệp, khiến các khách hàng và nhà đầu tư đưa ra các quyết định sai lầm đi ngược lại với kỳ vọng về xu hướng tiêu dùng và đầu tư “xanh”. Mục tiêu của bài nghiên cứu là hệ thống hoá cơ sở luận và nhận diện hành vi tẩy xanh của các doanh nghiệp bằng phương pháp thống kê mô tả, đồng thời dưới góc nhìn tài chính và quản trị, làm rõ đặc điểm của các doanh nghiệp có xu hướng thực hiện hành vi tẩy xanh thông qua phân tích định lượng trên mẫu nghiên cứu là 3.149 doanh nghiệp Mỹ niêm yết trong giai đoạn 2009-2018. Kết quả Theoretical framework of greenwashing and empirical evidence from listed companies on the U.S. Stock Market Abstract: "Greenwashing" behaviors are increasingly prevalent in the financial market, where businesses exaggerate their environmental, social and governane (ESG) performance. That leads to erroneous decisions and for consumers and investors, contradicting their expectations towards “green” consumption and investments. The main objective of this study is to systematize theoretical foundations and identify greenwashing behaviors using descriptive statistical methods. Additionally, from a corporate financial and governance perspective, the study aims to clarify the characteristics of businesses that tend to engage in greenwashing through a quantitative analysis based on a sample of 3,149 US listed companies during the period of 2009-2018. The research findings contribute to the limited body of empirical studies on greenwashing, providing an overview of the extent of greenwashing behavior across economic sectors and corporate financial and governance criteria. Furthermore, it highlights the role of legal regulations and corporate governance in preventing greenwashing. These recommendations are valuable for regulatory agencies, corporate managers, and other stakeholders in promoting substantive ESG practices towards the sustainable development. Keywords: Greenwashing, Green highlighting, Environmental- Social- Governance (ESG), Selective disclosure, Misleading disclosure, Corporate governance, Financial market Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2777 Tran, Thi Xuan Anh1, Dao, Hong Nhung2, Tran, Anh Tuan3 Email: anhttx@hvnh.edu.vn1, nhungdh@hvnh.edu.vn2, trantuan@hvnh.edu.vn3 Organization of all: Banking Academy of Vietnam Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng © Học viện Ngân hàng Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025 26 ISSN 3030 - 4199
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN nghiên cứu đóng góp vào tập hợp rất ít các nghiên cứu thực nghiệm một bức tranh tổng thể về mức độ thực hiện hành vi tẩy xanh theo ngành, lĩnh vực kinh tế và các tiêu chí về tài chính và quản trị, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các quy định pháp lý và quản trị doanh nghiệp trong việc ngăn chặn hành vi tẩy xanh. Đây là những khuyến nghị hữu ích cho các cơ quan quản lý, nhà quản trị doanh nghiệp và các bên liên quan trong nỗ lực thúc đẩy hoạt động ESG thực chất hướng tới phát triển bền vững. Từ khóa: Tẩy xanh, Nhuộm xanh, Môi trường-Xã hội-Quản trị (ESG), Công bố thông tin có chọn lọc, Công bố thông tin sai lệch, Quản trị doanh nghiệp, Thị trường tài chính 1. Đặt vấn đề nhiều doanh nghiệp có xu hướng thực hiện các hành vi “Tẩy xanh- Greenwashing” Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG- nhằm đưa ra các công bố ESG không đúng Enviromental, Social, Governance) được với thực tế hoạt động, không mang lại hiệu xem là chiến lược quan trọng nhằm mục quả như doanh nghiệp công bố, hoặc có tiêu hướng tới phát triển bền vững doanh thể các công bố này phần nào gây hiểu lầm nghiệp, đồng thời đóng góp vào sự thành hoặc che lấp sự thật về ảnh hưởng tiêu cực công chung của mục tiêu bảo vệ môi của doanh nghiệp đến môi trường dưới góc trường và cam kết chống biến đổi khí nhìn của những người sử dụng thông tin. hậu quốc gia. Các chiến lược về ESG của Động lực của hành vi tẩy xanh là các doanh doanh nghiệp cũng được các nhà đầu tư và nghiệp có thể nâng cao danh tiếng của mình các bên liên quan quan tâm khi đánh giá về trách nhiệm xã hội và môi trường, đồng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Một thời nâng cao hiệu quả tài chính của mình doanh nghiệp có các tuyên bố, cam kết bằng cách thu hút nhiều khách hàng và nhà mạnh mẽ về ESG sẽ góp phần nâng cao đầu tư có ý thức về môi trường hơn. Do vị thế, uy tín và trách nhiệm của mình, và đó, “tẩy xanh” chỉ là một chiến lược tiếp đứng trên góc độ tài chính, đây có thể xem thị chứ không phải là một nỗ lực phát triển là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp bền vững nên rủi ro mà nhà đầu tư và các trên thị trường, tạo cơ hội để doanh nghiệp bên liên quan phải đối mặt rất lớn. Điều gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu này vô hình chung đi ngược lại với sự kỳ hút nguồn lực từ các bên liên quan. Do vậy, vọng của nhà đầu tư về ảnh hưởng tích cực các doanh nghiệp trong thời gian gần đây của ESG trong việc hỗ trợ doanh nghiệp rất chú trọng vào việc đầu tư và đưa ra các nhận diện và giảm thiểu các nguy cơ rủi công bố về ESG nhằm đạt được mục tiêu ro để hướng tới phát triển bền vững. Các kinh doanh và tài chính của mình. Báo cáo nghiên cứu trước về “tẩy xanh” tập trung PwC (2022) dự đoán đầu tư ESG toàn cầu vào các phân tích định tính về bản chất, sẽ tăng đáng kể lên 33,9 nghìn tỷ USD vào phân loại, xu hướng của “tẩy xanh” trong năm 2026, chiếm 21,5% tài sản được quản một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể (De lý. Nói cách khác, trong số 100 USD đầu Freitas Netto và cộng sự, 2020; Gatti và tư thì có 21,5 USD sẽ liên quan đến ESG. cộng sự, 2019; Montero-Navarro và cộng Tuy nhiên, cũng do tính cấp thiết của ESG, sự, 2021; Yang và cộng sự, 2020). Có rất ít Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 27
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ nghiên cứu định lượng về “tẩy xanh”, trong của nhà môi trường người Mỹ Westervelt đó tập trung đánh giá ảnh hưởng của “tẩy (1986), trong đó tác giả luận giải các “Chính xanh” đến giá trị doanh nghiệp và lợi ích sách xanh- Green policy” mà các khách sạn của các bên liên quan (Du, 2015; Guo và công bố qua việc tái sử dụng khăn tắm về cộng sự (2017); Huang và cộng sự, 2020; bản chất chỉ nhằm cắt giảm chi phí chứ Lyon và Maxwell, 2011; Mahoney và cộng không hướng đến mục tiêu vì môi trường. sự (2013); Walker & Wan, 2012). Thuật ngữ này cũng được đưa vào từ điển Bài nghiên cứu sẽ hệ thống hóa cơ sở luận Oxford năm 1999 với hàm ý “tẩy xanh” là và cách thức nhận diện hành vi tẩy xanh hành vi công bố thông tin sai lệch, không của các doanh nghiệp, đồng thời làm rõ đặc có căn cứ hoặc cố ý gây nhầm lẫn của một điểm ngành lĩnh vực kinh doanh, tài chính tổ chức nhằm thể hiện hình ảnh trước cộng và quản trị của các doanh nghiệp có xu đồng về trách nhiệm đối với môi trường. hướng thực hiện hành vi tẩy xanh. Phương Từ điển Cambridge định nghĩa “tẩy xanh” pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là là hoạt động tiếp thị được thiết kế cho một tổng hợp tài liệu để làm rõ cơ sở lý luận về doanh nghiệp hoặc tổ chức để công chúng hành vi tẩy xanh và phân tích định lượng tin rằng doanh nghiệp hoặc tổ chức đó có trên mẫu nghiên cứu 3.149 doanh nghiệp vẻ thân thiện với môi trường trong khi thực Mỹ trong giai đoạn 2009-2018. Kết quả tế ngược lại. Hành vi này tạo ra ảo tưởng nghiên cứu đóng góp vào tập hợp rất ít các về trách nhiệm môi trường, gây hiểu lầm vì nghiên cứu thực nghiệm về tẩy xanh bức doanh nghiệp/ tổ chức đó tự định vị mình tranh tổng quan về mức độ thực hiện hành là “xanh” hơn thực tế. Việc lạm dụng “tẩy vi tẩy xanh theo ngành, lĩnh vực kinh tế và xanh” không mang lại bất kỳ hiệu quả nào các tiêu chí về tài chính và quản trị đồng liên quan đến bảo vệ môi trường, bao gồm thời nhấn mạnh vai trò của các quy định cả việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là pháp lý, quản trị doanh nghiệp trong việc lý do tại sao “tẩy xanh” thường được các tổ trong việc ngăn chặn hành vi tẩy xanh. Đây chức phi chính phủ sử dụng để tố cáo việc được xem là những khuyến nghị hữu ích các công ty đưa ra các quan ngại về môi cho các cơ quan quản lý, nhà quản trị doanh trường trong khi các hoạt động và thực tiễn nghiệp cũng như các bên liên quan trong của họ lại chứng minh điều ngược lại (De những nỗ lực thúc đẩy hoạt động ESG thực Freitas Netto và cộng sự, 2020). Như vậy, chất hướng tới phát triển bền vững. xét về bản chất, hành vi “tẩy xanh” là điểm Ngoài phần đặt vấn đề, bài nghiên cứu giao nhau, kết hợp của hai hoạt động trong được kết cấu thành các phần chính: Cơ cùng một doanh nghiệp: Hoạt động môi sở lý luận và tổng quan nghiên cứu, dữ trường kém trên thực tế song hành cùng liệu và phương pháp nghiên cứu, kết quả với quảng bá tích cực về hoạt động môi nghiên cứu và thảo luận, kết luận và một số trường trên truyền thông. Nghiên cứu của khuyến nghị. Delmas và Burbano (2011) đã xây dựng ma trận về mối liên hệ giữa kết quả hoạt 2. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu động môi trường (trên thực tế) với cách doanh nghiệp truyền thông về vấn đề này 2.1. Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh dưới góc độ “tẩy xanh” (Bảng 1). Xét dưới góc độ hiệu quả hoạt động môi Thuật ngữ “Greenwashing” (Tẩy xanh) trường, doanh nghiệp được chia thành hai được sử dụng đầu tiên trong nghiên cứu loại: các doanh nghiệp có kết quả hoạt 28 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN Bảng 1. Mối quan hệ giữa kết quả hoạt động môi trường thực tế và “Tẩy xanh” Hoạt động môi trường tốt Truyền thông Hành vi Tẩy xanh và truyền thông tích cực Truyền thông về tích cực (Greenwashing firms) (Vocal green firms) kết quả hoạt động Hoạt động môi trường kém và Hoạt động môi trường tốt và môi trường Không truyền không truyền thông không truyền thông thông (Silent Brown firms) (Silent green firms) Kém (Brown firms) Tốt (Green firms) Kết quả hoạt động môi trường Nguồn: Delmas và Burbano (2011) động môi trường tốt (green firms) và các Lý thuyết về tính chính danh (Legitimacy doanh nghiệp có kết quả hoạt động môi theory), Lý thuyết các bên liên quan trường kém (brown firms). Về vấn đề (Stakeholder theory), Lý thuyết tín hiệu truyền thông, với các doanh nghiệp xếp (Signal theory), Lý thuyết cạnh tranh vào nhóm có kết quả hoạt động môi trường hướng tới lợi ích xã hội (Competitive tốt, họ sẽ lựa chọn hoạt động truyền thông altrusim theory). Lý thuyết về tính chính tích cực cho kết quả này (vocal green danh cho rằng các tổ chức tìm kiếm sự công firms), hoặc lựa chọn giữ im lặng (silent nhận từ xã hội bằng cách điều chỉnh hành green firms). Với các doanh nghiệp xếp vi theo các chuẩn mực và kỳ vọng xã hội, vào nhóm gây hại cho môi trường (brown đôi khi sử dụng các tuyên bố ESG không firms), họ sẽ lựa chọn không truyền thông thực chất (superficial ESG) để duy trì tính (giữ im lặng) về kết quả hoạt động môi chính danh (Lee & Raschke, 2023; Li và trường kém của mình (silent brown firms) cộng sự, 2023; Oliver, 1991). Lý thuyết hoặc lựa chọn truyền thông về kết quả này các bên liên quan nhấn mạnh trách nhiệm theo một hướng tích cực (greenwashing của doanh nghiệp trong việc đáp ứng mối firms)- đây chính là đối tượng chính được quan tâm của các bên liên quan, trong đó cho là thực hiện hành vi tẩy xanh. Đặc biệt, các hành động ESG mang tính biểu tượng ma trận này cũng lý giải nguyên nhân vì có thể được sử dụng để xoa dịu áp lực từ sao số lượng các doanh nghiệp bị cáo buộc bên ngoài mà không tạo ra thay đổi thực thực hiện hành vi tẩy xanh (greenwashing chất (Schons, 2016). Dưới góc nhìn của firms) ngày càng tăng, xuất phát từ hai con Lý thuyết tín hiệu, doanh nghiệp công bố đường chính: (i) các doanh nghiệp gây hại thông tin liên quan đến ESG một cách chiến với môi trường (silent brown firms) có xu lược nhằm truyền đi thông điệp về hiệu quả hướng đẩy mạnh truyền thông tốt về hình phát triển bền vững của doanh nghiệp, tuy ảnh công ty để che lấp các kết quả yếu kém nhiên hành vi tẩy xanh xuất hiện khi các của mình; (ii) các doanh nghiệp đã có lịch tín hiệu này mang tính sai lệch hoặc gây sử truyền thông tích cực (vocal green firms) hiểu lầm (Li và cộng sự, 2023). Lý thuyết sẽ duy trì cách thức truyền thông này cho cạnh tranh hướng tới lợi ích xã hội chỉ ra dù kết quả hoạt động môi trường của họ trở rằng các doanh nghiệp có thể tham gia vào nên kém đi (chuyển từ trạng thái tốt sang các hoạt động ESG không chỉ vì mục tiêu kém) (Delmas & Burbano, 2011). tạo ra giá trị chung cho xã hội mà còn để Các lý thuyết nền chính cung cấp một nâng cao hình ảnh, uy tín và vị thế cạnh khung lý luận để hiểu rõ động cơ và chiến tranh trên thị trường, dẫn tới những hoạt lược đằng sau hành vi tẩy xanh bao gồm động này đôi khi chỉ mang tính chất biểu Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 29
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ tượng (Barclay, 2004; Hardy & Van Vugt, về tỷ lệ tái chế thì nhà sản xuất không công 2006). Tóm lại các lý thuyết nền đều đồng bố hoặc cố tình bỏ qua. Một lượng nhỏ chai quan điểm cho rằng động cơ của hành vi nhựa được tái chế, còn phần lớn sẽ được xả tẩy xanh của doanh nghiệp là mong muốn ra bên ngoài môi trường tự nhiên trở thành sự công nhận từ xã hội và các bên liên quan rác thải tiêu dùng. Doanh nghiệp cũng thông qua việc công bố các thông tin liên không đề cập đến quy trình sản xuất sẽ cần quan đến ESG (mặc dù các thông tin này đến các nhiên liệu hóa thạch là dầu, khí tự có thể không thực chất, mang tính biểu nhiên ảnh hưởng lớn đến hoạt động phát tượng). thải của mình. Hành vi “tẩy xanh” có thể được nhận diện (2) Công bố thông tin dễ gây hiểu lầm bằng nhiều phương thức khác nhau, nghiên (misleading disclosure) cứu của Bernini và La Rosa (2023) đã đưa Hành vi tẩy xanh loại này xuất phát từ việc ra một số cách thức từ góc độ công bố công bố thông tin sai sự thật, không trung thông tin như sau: thực, dễ gây hiểu lầm về các hoạt động môi (1) Công bố thông tin có chọn lọc (selective trường, xã hội của công ty. Đây được coi là disclosure) một hành vi gian lận, các công bố thông tin Công ty lựa chọn chỉ công bố các thông tin dễ gây hiểu lầm này tạo ra nhận thức và trải tích cực về kết quả hoạt động môi trường nghiệm sai lệch về hoạt động môi trường của mình mà không cung cấp đầy đủ thông của công ty cho các bên liên quan. tin về những điểm hạn chế, các hành vi tiêu Năm 2005, tập đoàn Honda lần đầu công cực có thể gây hại đến môi trường dẫn tới bố mẫu xe sử dụng động cơ Hybrid với kỳ cường điệu hóa hình ảnh tốt đẹp về công vọng tiết kiệm nhiên liệu và cải thiện công ty. Việc này dẫn tới việc công bố thông tin suất hoạt động: Honda cho biết người lái không đầy đủ, gây bất cân xứng thông tin xe không cần phải sử dụng các kỹ năng lái trong hoạt động truyền thông về môi trường xe đặc biệt để nâng cao hiệu quả sử dụng của công ty (Lyon & Maxwell, 2011). nhiên liệu, hãy lái Honda Civic Hybrid Ví dụ điển hình cho hành vi tẩy xanh liên như những chiếc xe truyền thống khác, và quan đến tập đoàn Nesle vào năm 2002. Tập dòng xe này sẽ chỉ mức tiêu hao 49- 50 đoàn này ra mắt công chúng sản phẩm nước dặm/gallon (Lane, 2010). Những thông đóng chai mang nhãn liệu Pure Life với tin quảng cáo này là nguyên nhân của vụ khẩu hiệu truyền thông: “Nước đóng chai kiện liên quan đến hiệu năng tiêu thụ của là sản phẩm tiêu dùng có trách nhiệm với mẫu xe Civic Hybrid. Thực tế đo lường chỉ môi trường nhất trên thế giới. Nestle Pure ra rằng với 1gallon xăng di chuyển trong Life là một sự lựa chọn thân thiện với môi thành phố thì chiếc xe đi được khoảng 26 trường và có lợi có sức khỏe” (Hills, 2008). dặm, mức tiết kiệm nhiên liệu chỉ bằng một Sản phẩm được kỳ vọng góp phần hạn chế nửa so với công bố từ hãng Honda. Theo rác thải ra môi trường thông qua việc có thể như nhân viên kỹ thuật của Honda, để đạt tái chế, đồng thời có thể tránh các rủi ro sụt được mức tiêu hao 50 dặm/gallon, người lún địa hình địa chất, gây hại môi trường do lái xe cần có kỹ năng tốt và di chuyển trên hoạt động khai thác nước ngầm. đường cao tốc, còn nếu di chuyển trong nội Hành vi tẩy xanh của công ty nằm ở chỗ đô với việc dừng đỗ tại các nơi giao cắt việc truyền thông sản phẩm đang tập trung có đèn giao thông thì không thể đạt được vào các mặt tích cực đó là việc các chai trạng thái đó (Lane, 2010). Như vậy, trong nhựa sẽ được tái chế. Tuy nhiên thông tin trường hợp này hãng xe Honda đã công bố 30 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN thông tin gây hiểu nhầm cho khách hàng. nghiêm trọng môi trường và sức khỏe con (3) Sự lệch pha giữa những gì công ty báo người (Đỗ Tiến, 2020). cáo và những gì công ty làm trên thực tế Hành vi tẩy xanh còn được nhận diện từ Hành vi tẩy xanh được nhận diện từ sự cấp độ công ty và cấp độ sản phẩm dưới sai khác giữa những gì công ty công bố góc độ phạm vi tác động. Cụ thể, đây là (báo cáo) và những gì công ty thực sự làm hành vi tẩy xanh gắn với các hoạt động trên thực tế (sự sai khác giữa “nói” (green môi trường của một công ty (tẩy xanh ở walk) và “làm” (green talk)) (Walker & cấp độ công ty) hoặc lợi ích môi trường Wan, 2012). Hành vi tẩy xanh xảy ra khi của một sản phẩm hoặc dịch vụ (tẩy xanh thông tin về hoạt động môi trường của ở cấp độ sản phẩm). Một ví dụ về tẩy xanh công ty được công bố có thể chỉ mang tính ở cấp độ công ty là “Ecomagination” của chất biểu trưng (symbolic information) mà General Electric chiến dịch quảng cáo hoạt không đi liền với các hành động thực chất động của công ty trong lĩnh vực môi trường (substantive actions) vì môi trường của đồng thời vận động hành lang để đấu tranh công ty (theo xu hướng “công bố thông tin’ với các yêu cầu mới về không khí sạch của nhiều hơn “hành động”). Ví dụ cuối năm EPA. Một ví dụ về tẩy xanh ở cấp độ sản 2008, tập đoàn Volkswagen tung ra chiến phẩm là của LG Electronics và các tủ lạnh lược marketing về động cơ diesel tại thị Energy Star bị chứng nhận sai. Energy trường Mỹ với lời quảng cáo có thể giảm Star, nhãn sinh thái của bên thứ ba được khí thải nito oxit đi 90% so với động cơ chính phủ hậu thuẫn chỉ ra rằng sản phẩm diesel truyền thống và phát thải ít hơn xe đáp ứng một bộ nguyên tắc tiết kiệm năng xăng. Tuyên bố trong quảng cáo đang đi lượng, đã được chứng nhận cho nhiều mẫu ngược với lý thuyết động lực học khi mà tủ lạnh của LG Electronics. Tuy nhiên, động cơ diesel có hiệu suất sử dụng năng người ta phát hiện ra rằng 10 mẫu tủ lạnh lượng cao hơn so với động cơ xăng, nhưng LG được chứng nhận đã liệt kê sai số liệu nó tạo ra nhiều khí thải có hại hơn. Để thực về mức sử dụng năng lượng trên nhãn và hiện hóa tuyên bố trên, các kỹ sư của công không thực sự đáp ứng các tiêu chuẩn hiệu ty đã lừa dối Cơ quan bảo vệ môi trường quả cần thiết để được chứng nhận (Delmas Mỹ (EPA) bằng việc sử dụng một đoạn mã & Burbano, 2011). bí mật đưa vào phần mềm điều khiển hệ Trái ngược với hành vi “tẩy xanh” (green thống để nhận biết khi nào xe đang được washing), các tổ chức có thể cũng thực hiện kiểm tra về lượng khí thải và làm giảm hành vi “nhuộm xanh” (green highlighting) công suất thực tế của động cơ để giảm đi khi các thông tin công bố về hoạt động môi lượng khí thải đánh lừa thiết bị đo. Khi quá trường thực sự gắn liền với hành động thực trình đo lường chạy thử kết thúc, động cơ chất, đòi hỏi nhiều nguồn lực và sự thay đổi sẽ lại hoạt động bình thường và tiếp tục rõ rệt từ hoạt động bên trong của tổ chức xả ra môi trường lượng khí thải vượt giới để cải thiện hiệu quả hoạt động môi trường hạn quy định (Đỗ Tiến, 2020). Năm 2015 (theo xu hướng “hành động” nhiều hơn những gian lận này của Volkswagen đã bị những gì đã công bố), (Hawn & Ioannou, phát hiện. Số liệu thực tế chỉ ra rằng các 2016; Truong và cộng sự, 2021). Ví dụ các mẫu xe Volkswagen quảng cáo là sở hữu sáng kiến, cải tiến về môi trường của công hệ thống “clean diesel” có lượng khí thải ty nhằm giảm phát thải gây hiệu ứng nhà nitơ oxit cao gấp 40 lần giới hạn cho phép kính có thể được xem như là một hành động của Mỹ, mức phát thải có nguy cơ gây hại thực chất, tốn kém nhiều chi phí nghiên cứu Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 31
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ và phát triển (R&D) trong một khoảng thời để thực hiện các hành vi “tẩy xanh” (Lyon gian dài (Truong và cộng sự, 2021). & Montgomery, 2015). Zhang (2022) cho thấy những hạn chế/ khó khăn tài chính 2.2. Tổng quan các nghiên cứu có liên đã thúc đẩy việc ra quyết định “tẩy xanh” quan của các công ty như thế nào và do đó trở thành yếu tố quyết định hành vi “tẩy xanh”. Thuật ngữ “tẩy xanh” đã là chủ đề được các Chính xác hơn, ông nhận thấy chi phí đòn học giả quan tâm, đặc biệt trong lĩnh vực bẩy tài chính của công ty ảnh hưởng quyết tiếp thị- tiêu dùng (Lee và cộng sự, 2018), định đến hành vi “tẩy xanh” của công ty. cũng như nghiên cứu hành vi ra quyết định Các nghiên cứu của Lyon và Montgomery của công chúng (Contreras-Pacheco và (2015) và Marquis và cộng sự (2016) cho cộng sự, 2019; Nyilasy và cộng sự, 2014) thấy sự cần thiết phải phân tích kỹ lưỡng do hành vi “tẩy xanh” gây ra những hậu hơn về các yếu tố thúc đẩy và ngăn chặn quả tiêu cực đối với người tiêu dùng (Chen hành vi “tẩy xanh”. & Chang, 2013; Nyilasy và cộng sự, 2014). Các nghiên cứu gần đây đang hướng đến Những nghiên cứu ban đầu tập trung vào lượng hoá các hành vi “tẩy xanh”, từ đó hệ thống hoá và phân tích các hiện tượng làm rõ mối quan hệ cũng như tác động của “tẩy xanh” ở các tổ chức (Andreoli và cộng “tẩy xanh” đến giá trị doanh nghiệp và lợi sự, 2017), đưa ra các đánh giá về xu hướng ích của các bên liên quan (Huang và cộng của “tẩy xanh” ở các ngành nghề, lĩnh vực sự, 2020). Nhìn chung, các nghiên cứu tập (Gatti và cộng sự, 2019). Một số nghiên trung vào tác động về mặt tổ chức, ảnh cứu tập trung làm rõ hành vi tẩy xanh trong hưởng tiêu cực của tẩy xanh đến khả năng các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp tiếp cận nguồn lực bên ngoài của doanh thực phẩm và bán lẻ thực phẩm (Montero- nghiệp do để lại những hình ảnh không tốt Navarro và cộng sự, 2021); làm rõ các đối với người tiêu dùng và các bên liên quan loại hình chính của “tẩy xanh” (De Freitas (Lyon & Maxwell, 2011). Một số nghiên Netto và cộng sự, 2020), trong khi một số cứu đã điều tra thực nghiệm “tẩy xanh” ảnh học giả tập trung vào nguyên nhân, phân hưởng như thế nào đến kết quả của công loại và hậu quả của “tẩy xanh” (Yang và ty, chẳng hạn như Walker và Wan (2012) cộng sự, 2020). xem xét khả năng sinh lời, Guo và cộng sự Các nghiên cứu thực nghiệm cũng được (2017) và Mahoney và cộng sự (2013) xem thực hiện nhằm xem xét, phân tích động xét các chiến lược truyền thông, Du (2015) lực dẫn đến hành vi “tẩy xanh” tại các loại xem xét lợi nhuận tích lũy và Weber (2018) hình doanh nghiệp, tổ chức khác nhau. xem xét chi phí vốn cổ phần. Lyon và Montgomery (2015) tập trung Chủ đề “tẩy xanh” trong các nghiên cứu vào các động lực bên ngoài cũng như bên tại Việt Nam còn khá hạn chế, chủ yếu tập trong của tổ chức, trong đó nhấn mạnh vai trung vào nghiên cứu kinh nghiệm ứng phó trò của áp lực hoặc động lực môi trường, với hành vi tẩy xanh từ nước ngoài hoặc chẳng hạn như môi trường pháp lý lỏng lẻo phân tích tình huống tẩy xanh trong một hoặc áp lực từ các nhóm chính trị liên quan ngành kinh doanh cụ thể. Nguyễn và cộng (Delmas & Montes-Sancho, 2010). Trong sự (2023a) nghiên cứu chính sách “tẩy số các động lực bên trong, quy mô công ty xanh” của Liên minh châu Âu và một số đóng vai trò quan trọng nhất, quy mô càng gợi mở cho Việt Nam. Các tác giả phân tích lớn công ty càng có động lực mạnh hơn chính sách về “tẩy xanh” của Liên minh 32 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN châu Âu, từ đó đề xuất một số biện pháp áp động ESG (ESG performance) được thu dụng chính sách về tẩy xanh ở Việt Nam. thập từ nguồn dữ liệu của Refinitive Eikon. Nguyễn và cộng sự (2023b) phân tích ảnh Các dữ liệu về công bố ESG, dữ liệu về hưởng của tẩy xanh đến hoạt động tài chính tài chính doanh nghiệp và quản trị doanh xanh, nghiên cứu kinh nghiệm hạn chế tẩy nghiệp (corporate governance) được thu xanh của các nước trên thế giới như Trung thập từ cơ sở dữ liệu Bloomberg. Các dữ Quốc, Singapore, Liên minh châu Âu, từ liệu về ngành, các chỉ số tài chính và các đó đề xuất giải pháp kiểm soát “tẩy xanh” chỉ số quản trị doanh nghiệp được thu thập tại Việt Nam. La (2023) nghiên cứu hành từ Refinitive Eikon và Bloomberg. Nhóm vi tẩy xanh trong ngành đồ uống và thời nghiên cứu sử dụng phần mềm Stata để trang nhanh qua việc phân tích các chiến tính toán các thống kê mô tả và tương quan dịch quảng cáo của các công ty, các hậu giữa các nhân tố ảnh hưởng. quả của hành vi tẩy xanh với người tiêu Để đo lường mức độ thực hiện hành vi tẩy dùng và mội trường, cũng như các khuyến xanh, bài nghiên cứu dựa trên cơ sở luận nghị ứng phó đối với người tiêu dùng để về hành vi tẩy xanh là sự kết hợp, giao bảo vệ môi trường. thoa giữa các công bố tích cực về ESG Như vậy, các nghiên cứu về “tẩy xanh” và kết quả hoạt động kém về ESG trên hiện đã và đang được thực hiện dưới nhiều thực tế (Delmas & Burbano, 2011; Lyon góc độ khác nhau, trong đó tập trung vào & Maxwell, 2011, Walker & Wan, 2012) các phân tích định tính về bản chất, phân và phương pháp thu thập và tính toán dữ loại, xu hướng của hành vi “tẩy xanh” liệu của Yu và cộng sự (2020) để đo lường. trong một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể. Theo đó: Tuy nhiên, các nghiên cứu về chủ đề này Mức độ thực hiện hành vi tẩy xanh = nhìn chung vẫn còn khá hạn chế, đặc biệt Chỉ số công bố ESG của doanh nghiệp liên quan đến cách thức nhận diện các hành (chuẩn hóa) - Chỉ số kết quả hoạt động vi “tẩy xanh” dưới góc nhìn của tài chính ESG của doanh nghiệp (chuẩn hóa) và quản trị doanh nghiệp. Phần tiếp theo Trong đó: của bài nghiên cứu sẽ nhận diện hành vi tẩy Theo Yu và cộng sự (2020), chỉ số mức độ xanh dưới nhiều góc nhìn nghiên cứu khác thực hiện hành vi tẩy xanh dương (> 0), tức nhau từ đặc điểm ngành nghề kinh doanh, chỉ số công bố ESG lớn hơn chỉ số kết quả đặc điểm tài chính và quản trị doanh nghiệp hoạt động ESG, đây là dấu hiệu các doanh cũng như cách thức các doanh nghiệp công nghiệp đang thực hiện hành vi tẩy xanh bố thông tin ESG tại thị trường phát triển khi “nói không đi đôi với làm” (Walker như Mỹ để làm cơ sở cho việc áp dụng và & Wan, 2012). Ngược lại, chỉ số mức độ nhận diện hành vi tẩy xanh của các doanh thực hiện hành vi tẩy xanh âm (< 0), tức nghiệp ở Việt Nam. chỉ số công bố ESG nhỏ hơn chỉ số kết quả hoạt động ESG, đây là dấu hiệu các doanh 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu nghiệp đang công bố ESG ít hơn so với những gì công ty thực hiện ESG trên thực Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 3.149 tế, đây có thể được coi là dấu hiện công ty doanh nghiệp tại Mỹ giai đoạn 2009 đến “nhuộm xanh” (Green highliting). 2018. Đây là các doanh nghiệp có dữ liệu Chỉ số công bố ESG của doanh nghiệp của cả hai mảng về kết quả hoạt động ESG được thu thập từ Bloomberg. Đây là chỉ và công bố về ESG. Dữ liệu về kết quả hoạt số đo lường chất lượng công bố ESG của Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 33
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ doanh nghiệp dựa trên cơ sở hơn 900 chỉ thông tin, dữ liệu về ESG thu thập được tiêu liên quan đến công bố thông tin về ba từ báo cáo thường niên, báo cáo ESG của cấu phần của ESG (môi trường, xã hội và doanh nghiệp và các nguồn thông tin khác quản trị doanh nghiệp) mà chưa tính đến (Lee & Raschke, 2023). Tương tự như chỉ kết quả hoạt động ESG (Yu và cộng sự, số công bố ESG của Bloomberg, chỉ số kết 2020). Chỉ số này có giá trị nhỏ nhất là 0 quả hoạt động ESG có giá trị từ 0 đến 100 và cao nhất là 100, do đó, giá trị của chỉ số với giá trị càng cao đo lường kết quả hoạt này càng cao thì doanh nghiệp càng công động ESG càng cao. bố đầy đủ thông tin của ESG theo yêu cầu Các chỉ số công bố ESG và kết quả hoạt thu thập từ Bloomberg. động ESG được chuẩn hóa để đảm bảo sự Chỉ số kết quả hoạt động ESG của doanh đồng nhất và so sánh được giữa hai bộ chỉ nghiệp được thu thập từ Eikon Refinitiv. số và giữa các công ty với nhau. Theo đó: Đây là chỉ số đo lường kết quả và hiệu quả Chỉ số công bố ESG của doanh nghiệp hoạt động về ESG của doanh nghiệp dựa (chuẩn hóa) it = (Chỉ số công bố ESGit - trên 500 chỉ tiêu đo lường về môi trường, Giá trị trung bình (Mean))/(Độ lệch chuẩn xã hội và quản trị doanh nghiệp thông qua (Std)) ý kiến đánh giá của các chuyên gia dựa trên Chỉ số kết quả hoạt động ESG của doanh Bảng 2. Bảng thống kê mô tả các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tẩy xanh Giá trị Độ lệch Giá trị Số Giá trị trung chuẩn nhỏ Biến Ý nghĩa và cách thức đo lường quan lớn nhất bình (Std. nhất sát (Max) (Mean) Dev.) (Min) greenwashing Mức độ hành vi tẩy xanh = chỉ số 3.149 0 0,786 -2,408 2,878 công bố ESG- chỉ số kết quả hoạt động ESG polluter Polluter =1 nếu doanh nghiệp ở 3.149 0,21 0,407 0 1 trong nhóm ngành gây hại lớn cho môi trường, Polluter = 0 nếu doanh nghiệp ở trong nhóm ngành ít gây hại cho môi trường size Quy mô doanh nghiệp = Log 3.147 8,923 1,243 5,516 13,569 (tổng tài sản) leverage Đòn bảy tài chính đo lường qua 3.141 0,262 0,187 0 2,361 Hệ số nợ =Nợ dài hạn/tổng tài sản ROA Hệ số sinh lời tài sản = Lợi nhuận 3.138 0,062 0,099 -2,283 1,024 sau thuế/ Tài sản bình quân board_size Quy mô hội dồng quản trị = Log 3.149 2,331 0,202 1,099 2,809 (số lượng thành viên hội đồng quản trị) ceo_dual Biến giả (dummy variable) =1 nếu 3.149 0,514 0,5 0 1 CEO là chủ tịch công ty independent_ Quy mô thành viên độc lập trong 3.146 2,237 0,242 1,099 2,890 directors hội dồng quản trị = Log (số lượng thành viên hội đồng quản trị) women_onboard Log (số lượng thành viên nữ 3.056 0,942 0,444 0 2,197 trong hội đồng quản trị) Nguồn: Nhóm tác giả tính toán các biến theo đề xuất biến và mô hình trong nghiên cứu của Hoang (2022), Nguyen và Phan (2020), Yu và cộng sự (2020). 34 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN nghiệp (chuẩn hóa) it = (Chỉ số kết quả hoạt dụng phương pháp phân tích tình huống động ESGit - Giá trị trung bình (Mean))/ đối với các doanh nghiệp Mỹ có hành vi (Độ lệch chuẩn (Std)) tẩy xanh điển hình để minh họa rõ ràng hơn Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp các dấu hiệu nhận diện hành vi tẩy xanh thống kê, mô tả để cung cấp bức tranh toàn với từng doanh nghiệp cụ thể. cảnh về mức độ hành vi tẩy xanh của các doanh nghiệp Mỹ trong chuỗi thời gian 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 10 năm từ 2009 đến 2018. Mức độ hành vi tẩy xanh được thống kê theo trung bình 4.1. Hành vi tẩy xanh phân theo ngành ngành kinh tế (kết quả thống kê trong Hình kinh tế 2). Tiếp đó, để nhận diện rõ hơn tác động của các nhân tố đến hành vi tẩy xanh của Các doanh nghiệp Mỹ được thống kê theo doanh nghiệp, bài nghiên cứu tính toán, ngành kinh tế (theo tiêu chuẩn phân ngành thống kê tương quan giữa các nhân tố với cấp I của GICs) và tính toán chỉ số đo lường chỉ số đo lường mức độ hành vi tẩy xanh mức độ tẩy xanh theo trung bình ngành (Bảng 3) và thực hiện kiểm định t-test để trong từng năm cho giai đoạn 2009-2018. làm rõ sự khác biệt về độ lớn của từng nhân Kết quả thống kê trong Hình 1 chỉ ra rằng: tố ảnh hưởng giữa hai nhóm doanh nghiệp Các nhóm ngành được xếp vào nhóm tẩy (Bảng 4): (i) Tẩy xanh (Green washing) và xanh (greenwashing) trung bình cao nhất (ii) Nhuộm xanh (Green highlingting). Các là vật liệu và năng lượng. Xét về xu hướng, nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tẩy xanh nếu phân giai đoạn nghiên cứu thành hai được phân chia thành ba nhóm chính: (i) giai đoạn, trong giai đoạn nghiên cứu thứ nhóm đặc điểm ngành bao gồm nhóm gây nhất từ năm 2009 đến 2014, nhóm ngành hại lớn cho môi trường (Heavy polluters) vật liệu có mức độ tẩy xanh tăng dần lên và nhóm ít gây hại cho môi trường (Non- trong khi nhóm ngành năng lượng có mức polluters) (trong đó, theo Hoang (2022) và độ tẩy xanh giảm dần đi. Bước vào giai đoạn Nguyen và Phan (2020), các doanh nghiệp nghiên cứu thứ hai, từ năm 2015 đến 2018, được xếp vào nhóm gây hại lớn cho môi mức độ tẩy xanh của nhóm ngành vật liệu trường là các doanh nghiệp thuộc các ngành và năng lượng có xu hướng giảm dần, đặc (với chỉ số phân ngành GICS tương ứng), biệt nhóm ngành năng lượng có sự chuyển bao gồm: Hoá chất (151010); Vật liệu xây biến tích cực khi chỉ số đo lường mức độ dựng (151020); Tiện ích liên quan đến tẩy xanh trung bình chuyển từ dương sang điện (551010), Tiện ích liên quan đến khí âm chứng tỏ hành vi tẩy xanh giảm dần đốt (551020); Nhà sản xuất điện độc lập trong các doanh nghiệp nhóm ngành này và giao dịch năng lượng (55105010); Kim so với giai đoạn nghiên cứu trước. Năm loại và khai khoáng (151040); Tiện ích đa 2014- 2015 được xem là những năm bản ngành (551030); Dầu mỏ, khí đốt và nhiên lề cho việc thực hiện các quy định và thực liệu tiêu dùng (101020); sản phẩm giấy và thi liên quan đến hành vi tẩy xanh được lâm nghiệp (151050); (ii) nhóm nhân tố ban hành trong Hướng dẫn về môi trường- liên quan đến đặc điểm tài chính của doanh 2012 của Ủy ban thương mại liên bang của nghiệp, (iii) nhóm nhân tố liên quan đến Mỹ (Federal Trade commission- cơ quan đặc điểm quản trị doanh nghiệp (Hoang, chính phủ chịu trách nhiệm chính trong 2022; Nguyen & Phan, 2020; Yu và cộng việc giải quyết các vấn đề tẩy xanh). Như sự, 2020). Thêm vào đó, bài nghiên cứu sử vậy kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai trò Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 35
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ quan trọng của các chính sách điều hành xếp vào nhóm có xu hướng thực hiện nhiều của chính phủ trong việc giảm hành vi tẩy hơn các hành vi tẩy xanh với chỉ số mức xanh, đặc biệt tác dụng với nhóm ngành có độ hành vi tẩy xanh (greenwashing) trung tác động trực tiếp đến môi trường. bình ngành mang giá trị dương. Các nhóm ngành được xếp vào nhóm Kết quả nghiên cứu này tương đồng với lập nhuộm xanh (green highlighting) trung luận của D. Zhang (2022b), T. Zhang và bình cao nhất bao gồm nhóm tài chính cộng sự (2022) cho rằng các doanh nghiệp và nhóm công nghệ thông tin, tiếp đến là gây hại lớn cho môi trường thường chịu áp nhóm công nghiệp với xu hướng chỉ số đo lực lớn từ phía các bên liên quan về vấn lường mức độ tẩy xanh âm (
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN Nguồn: Nhóm tác giả tính toán và tổng hợp từ Bloomberg và Eikon Refinitiv Hình 1. Mức độ thực hiện hành vi tẩy xanh phân theo ngành kinh tế tại Mỹ (giai đoạn 2009-2018) bị các ngân hàng hạn chế cho vay với chi Đối với nhóm nhân tố phản ánh đặc điểm phí cao hơn và thời gian vay rút ngắn lại. tài chính của doanh nghiệp, bài nghiên cứu Do đó, các doanh nghiệp có động cơ gia thực hiện lựa chọn quy mô doanh nghiệp tăng hành vi tẩy xanh như một chiến lược (size), đòn bẩy tài chính (leverage), giá trị ứng phó với rủi ro suy giảm niềm tin từ các thị trường/giá trị số sách (MTB), khả năng bên liên quan cũng như một phương thức sinh lời tài sản (ROA) (Hoang, 2022; Yu và thay thế cho các hoạt động môi trường bền cộng sự, 2020). Kết quả nghiên cứu ở Bảng vững thực chất nếu xem xét đến mục tiêu 3 chỉ ra rằng nhân tố quy mô doanh nghiệp cắt giảm các khoản phải chi cho các hoạt (size- giá trị sổ sách của tổng tài sản) có động quản trị “xanh”, đồng thời gia tăng tương quan dương (với mức ý nghĩa 5%), khả năng tiếp cận vốn từ ngân hàng. trong khi nhân tố khả năng sinh lời (ROA) có tương quan âm (với mức ý nghĩa 1%). 4.2. Hành vi tẩy xanh phân theo đặc điểm Để kiểm chứng rõ hơn kết quả này, trong tài chính và quản trị của doanh nghiệp Bảng 3, nhóm tác giả thực hiện kiểm định Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 37
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ t-test để thấy sự khác biệt trong hai nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ, tuy nhiên các tẩy xanh (greenwashing) và nhuộm xanh doanh nghiệp lớn cũng có độ nhận diện cao (green highlighting). Kết quả nghiên cứu hơn, do đó các chủ thể quản lý, các bên liên chỉ ra rằng nhóm tẩy xanh (greenwashing) quan (stakeholders) sẽ quan tâm và soi xét có ROA thấp hơn so với các hệ số này ở kỹ hơn đối với hoạt động ESG của doanh nhóm nhuộm xanh (green highlighting). nghiệp. Đồng thời khả năng sinh lời thấp Như vậy, các doanh nghiệp có quy mô tài cũng tạo áp lực cho các doanh nghiệp trong sản lớn và khả năng sinh lời tài sản thấp việc duy trì hình ảnh của doanh nghiệp với thường có xu hướng thực hiện hành vi các bên liên quan. Các yếu tố này tạo động tẩy xanh nhiều hơn. Kết quả này tương lực để các doanh nghiệp thực hiện các hành đồng với lý thuyết về tính chính danh, lý vi tẩy xanh (greenwashing) như một chiến thuyết về các bên liên quan, lý thuyết tín lược nhằm phát đi tín hiệu về trách nhiệm hiệu cũng như kết quả nghiên cứu của D. môi trường và nâng cao tính chính danh Zhang (2022a), Roulet và Touboul (2015), của họ trong mắt các bên liên quan. Walker và Wan (2012) cho rằng các doanh Đối với nhóm nhân tố phản ánh đặc điểm nghiệp có quy mô lớn thường có xu hướng quản trị doanh nghiệp, bài nghiên cứu thực hiện các hoạt động ESG nhiều hơn các thực hiện lựa chọn quy mô hội đồng quản Bảng 3. Tương quan giữa các nhân tố với Mức độ thực hiện hành vi tẩy xanh Variables (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (1) greenwash- 1,000 ing (2) polluter 0,199*** 1,000 (0,000) (3) size 0,036** 0,237*** 1,000 (0,041) (0,000) (4) leverage 0,009 0,058*** 0,087*** 1,000 (0,610) (0,001) (0,000) (5) ROA -0,068*** -0,171*** -0,065*** -0,144*** 1,000 (0,000) (0,000) (0,000) (0,000) (6) board_size 0,030* 0,056*** 0,499*** 0,096*** 0,009 1,000 (0,092) (0,002) (0,000) (0,000) (0,597) (7) ceo_dual 0,030* 0,023 0,164*** -0,053*** 0,007 0,042** 1,000 (0,093) (0,199) (0,000) (0,003) (0,707) (0,020) (8) indepen- -0,026 0,085*** 0,468*** 0,049*** 0,017 0,808*** 0,166*** 1,000 dent_directors (0,138) (0,000) (0,000) (0,006) (0,333) (0,000) (0,000) (9) women_ -0,083*** -0,096*** 0,368*** 0,054*** 0,073*** 0,488*** 0,106*** 0,540*** 1,000 onboard (0,000) (0,000) (0,000) (0,003) (0,000) (0,000) (0,000) (0,000) Nguồn: Nhóm tác giả tính toán 38 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN trị (boad_size), tính độc lập của CEO so đó làm giảm nguy cơ các hành vi tẩy xanh với chủ tịch hội đồng quản trị (ceo_dual), có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Tuy vai trò của thành viên hội đồng quản trị nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng (HĐQT) độc lập (independent_directors), nếu quy mô HĐQT quá lớn cũng chưa chắc vai trò của thành viên nữ trong HĐQT đã có tác động tích cực đến việc làm giảm (women_onboard) (Hoang, 2022; Yu và hành vi tẩy xanh như quan điểm của một số cộng sự, 2020). Kết quả nghiên cứu ở Bảng nghiên cứu trước. Kết quả này đồng thuận 3 chỉ ra rằng quy mô hội đồng quản trị càng với quan điển cho rằng quy mô HĐQT quá cao và công ty có CEO đồng thời chủ tịch lớn có thể nảy sinh các vấn đề “người ăn hội đồng quản trị có mức độ tẩy xanh cao không” (free riders), cơ chế phối hợp kém hơn (với mức ý nghĩa 10%), trong khi sự hiệu quả giữa các thành viên, kết quả làm tham gia của thành viên độc lập và thành giảm hiệu quả của chức năng giám sát của viên nữ trong HĐQT làm giảm mức độ tẩy HĐQT và tạo cơ hội thuận lợi cho các hành xanh của doanh nghiệp. Kết quả kiểm định vi tẩy xanh trong doanh nghiệp. t-test trong Bảng 4 cũng chỉ ra rằng nhóm nhuộm xanh (green highlighting) có số 5. Kết luận và một số khuyến nghị lượng thành viên độc lập và thành viên nữ trong HĐQT nhiều hơn. Kết quả này tương Bài nghiên cứu cung cấp những đánh giá đồng với kết quả nghiên cứu của (Lee và tổng quan về khung lý luận cho hành vi tẩy cộng sự, 2008; Liu và cộng sự, 2015; Yu và xanh (greenwashing) cũng như bức tranh cộng sự, 2020) việc gia tăng hiệu quả quản toàn cảnh cho thực trạng việc thực hiện trị doanh nghiệp thông qua gia tăng số hành vi tẩy xanh của các doanh nghiệp Mỹ lượng thành viên HĐQT độc lập, số lượng giai đoạn 2009-2018. Đặc biệt, điểm nhấn thành viên nữ trong HĐQT và giảm tính của bài nghiên cứu là chỉ ra các dấu hiệu kiêm nhiệm giữa CEO và chủ tịch HĐQT nhận diện hành vi tẩy xanh dưới nhiều góc có tác dụng làm giảm vấn đề người đại nhìn nghiên cứu khác nhau từ đặc điểm diện, giảm sự bất cân xứng thông tin và từ ngành kinh tế mà doanh nghiệp hoạt động, Bảng 4. Kiểm định t-test đo lường sự khác biệt các nhân tố giữa các doanh nghiệp tẩy xanh (greenwashing) và doanh nghiệp nhuộm xanh (green highlighting) Greenwashing Greenwashing Green high- Green high- lighting lighting Biến t-test GT trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị trung Độ lệch chuẩn (Mean) (SD) bình (Mean) (SD) polluter 0,274 0,446 0,210 0,353 8,933*** size 8,932 1,266 8,914 1,220 0,411 leverage 0,259 0,168 0,265 0,203 1,007 ROA 0,056 0,112 0,069 0,083 -3,600*** board_size 2,330 0,209 2,333 0,194 -0,384 ceo_dual 0,527 0,499 0,501 0,500 1,488 independent_di- 2,224 2,250 8,699 1,932 -1,973** rectors women_onboard 0,897 0,465 0,988 0,419 -5,679*** Nguồn: Nhóm tác giả tính toán Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 39
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ đặc điểm tài chính và quản trị doanh nghiệp quyết định hợp tác, đầu tư và giám sát hoạt cũng như cách thức các doanh nghiệp công động của doanh nghiệp. bố thông tin ESG. Trên cơ sở đó, bài nghiên Đứng từ góc độ của nhà quản trị doanh cứu cũng đưa ra các hàm ý chính sách và các nghiệp, kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai khuyến nghị đứng từ góc nhìn của các chủ trò của thành viên độc lập và thành viên thể khác nhau trên thị trường. nữ trong hội đồng quản trị trong việc giảm Đứng từ góc độ của cơ quan quản lý, kết hành vi tẩy xanh. Việc các doanh nghiệp quả nghiên cứu chỉ ra rằng hành vi tẩy xanh có sự tách bạch trách nhiệm giữa giám đốc thường xuất hiện nhiều hơn ở các doanh điều hành (CEO) và chủ tịch hội đồng quản nghiệp được xếp vào nhóm gây hại lớn cho trị cũng như duy trì một quy mô thành viên môi trường (high polluters), tuy nhiên mức hội đồng quản trị hợp lý cũng là những độ thực hiện hành vi tẩy xanh của nhóm này khuyến nghị quan trọng cho nhà quản lý và giảm đi rõ rệt dưới ảnh hưởng của các quy cổ đông của doanh nghiệp trong việc giảm định hướng dẫn về môi trường của chính hành vi tẩy xanh nói riêng cũng như giảm phủ. Kết quả này nhấn mạnh vai trò quan bất cân xứng thông tin trong doanh nghiệp trọng của chính phủ trong việc định hướng nói chung, hướng tới một cơ chế quản trị chính sách, đặc biệt trong việc ban hành các hiệu quả, cân bằng giữa lợi ích của cổ đông, yêu cầu và quy chuẩn chặt chẽ về công bố doanh nghiệp và nhà quản lý doanh nghiệp. thông tin liên quan đến ESG, đặc tính môi Các nghiên cứu tương lai về hành vi tẩy trường của sản phẩm, dán nhãn sinh thái cho xanh có thể dựa trên nền tảng bài nghiên sản phẩm cũng như yêu cầu về chứng minh cứu này để mở rộng phạm vi không gian tính xanh của sản phẩm. Chính phủ cũng nghiên cứu sang các nền kinh tế phát triển nên đưa ra các quy chuẩn đặc thù cho từng khác và đặc biệt là các nền kinh tế đang nhóm ngành dựa vào đặc trưng về cách thức phát triển để làm rõ sự khác biệt về bối cảnh công bố và kết quả thực hiện hoạt động ESG kinh tế, chính trị, văn hoá. xã hội cũng như của các doanh nghiệp trong ngành. chất lượng thể chế có thể ảnh hưởng đến Đứng từ góc độ các chủ thể quản lý và động cơ và mức độ thực hiện hành vi tẩy các bên liên quan của doanh nghiệp xanh, tạo cơ sở khoa học cho các khuyến (stakeholders), kết quả nghiên cứu chỉ ra nghị và hàm ý chính sách. Đồng thời, các rằng các doanh nghiệp có quy mô lớn, khả nghiên cứu trong tương lai tập trung vào năng sinh lời thấp thường là các doanh phân tích tác động dài hạn của hành vi tẩy nghiệp có nguy cơ thực hiện hành vi tẩy xanh đối với lợi ích của các bên liên quan xanh nhiều hơn do chịu áp lực lớn từ các cũng đem lại các góc nhìn mới về cách bên liên quan. Kết hợp với các tình huống hành vi tẩy xanh có thể ảnh hưởng đến khả nghiên cứu điển hình về hành vi tẩy xanh, năng sinh lời và hiệu quả quản trị doanh kết quả nghiên cứu cung cấp cho các bên nghiệp, niềm tin của nhà đầu tư, hành vi liên quan các dấu hiệu nhận diện điển hình tiêu dùng và đầu tư bền vững, cũng như về hành vi tẩy xanh từ góc độ tài chính hiệu quả thực thi chính sách của chính phủ doanh nghiệp cũng như từ góc độ công bố liên quan đến công bố thông tin và quản trị thông tin, bao gồm có chọn lọc, công bố rủi ro môi trường xã hội.■ thông tin dễ gây hiểu lầm và sự lệch pha giữa những gì công ty công bố và kết quả hoạt động ESG thực tế. Đây là căn cứ quan trọng cho các bên liên quan đưa ra các 40 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN Tài liệu tham khảo Andreoli, T.P., Crespo, A., & Minciotti, S. (2017). What has been (short) written about greeenwashing: a biblio- metric research and a critical analysis of the articles found regarding this theme. Revista de Gestao Social e Ambiental, 11(2),54–72. https://doi.org/10.24857/rgsa.v11i2.1294 Chen, Y.S., & Chang, C.H. (2013). Greenwash and Green Trust: The Mediation Effects of Green Con- sumer confusion and green perceived risk. J Bus Ethics, 114(3), 489–500. https://doi.org/10.1007/s10551-012-1360-0 Contreras-Pacheco, O.E., Talero-Sarmiento, L.H., & Camacho-Pinto, J.C. (2019). Effects of corporate social responsibility on employee organizational identification: authenticity or fallacy. Contaduría y Administración 64(4), 1–22. https://doi.org/10.22201/fca.24488410e.2018.1631 De Freitas Netto, S. V., Sobral, M. F. F., Ribeiro, A. R. B., & Soares, G. R. da L. (2020). Concepts and forms of greenwashing: A systematic review. Environmental Sciences Europe, 32(1), 19-32. https://doi.org/10.1186/s12302-020-0300-3 Delmas, M. A., & Burbano, V. C. (2011). The Drivers of Greenwashing. California Management Review, 54(1), 64–87. https://doi.org/10.1525/cmr.2011.54.1.64 Delmas, M. A., & Montes-Sancho, M. J. (2010). Voluntary agreements to improve environmental quality: Symbolic and substantive cooperation. Strategic Management Journal, 31(6), 575–601. https://doi.org/10.1002/smj.826 Du, X. (2015). How the market values greenwashing? Evidence from China. Journal of Business Ethics, 128(3), 547– 574. https://doi.org/10.1007/s10551-014-2122-y Đỗ Tiến. (2020). 9,5 tỷ USD cho vụ bê bối gian lận khí thải Volkswagen. Báo Công an Nhân Dân Điện Tử. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/9-5-ty-USD-cho-vu-be-boi-gian-lan-khi-thai-Volkswagen-i579893/ Eesley, C., & Lenox, M. J. (2006). Firm responses to secondary stakeholder action. Strategic Management Journal, 27(8), 765–781. https://doi.org/10.1002/smj.536. Gates, G., Ewing, J., Russell, K., & Watkins, D. (2015). How Volkswagen’s ‘Defeat Devices’ Worked. The New York Times. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://www.nytimes.com/interactive/2015/business/international/vw-diesel- emissions-scandal-explained.html Gatti, L., Seele, P., Rademacher, L. (2019) Grey zone in- greenwash out. A review of greenwashing research and implications for the voluntary-mandatory transition of CSR. Int J Corp Social Responsib, 4(1),1– 15. https://doi. org/10.1186/s40991-019-0044-9 Hawn, O., & Ioannou, I. (2016). Mind the gap: The interplay between external and internal actions in the case of corporate social responsibility. Strategic Management Journal, 37(13), 2569–2588. https://doi.org/10.1002/smj.2464 Hoang, K. (2022). Silent but deadly: Political corruption and voluntary ESG disclosure in the United States. Managerial and Decision Economics, 43(7), 2775–2793. https://doi.org/10.1002/mde.3562 Hills (2008). Nestle accused of greenwashing water. (2008, December 2). foodnavigator-usa.com. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://www.foodnavigator-usa.com/Article/2008/12/02/Nestle-accused-of-greenwashing-water Huang, H., Xing, X., He, Y., & Gu, X. (2020). Combating greenwashers in emerging markets: A game-theoretical exploration of firms, customers and government regulations. Transportation Research Part E: Logistics and Transportation Review, 140, 101976. https://doi.org/10.1016/j.tre.2020.101976 La, V.P. (2023). Hiện tượng tẩy xanh trong ngành đồ uống và thời trang nhanh. PhilPapers. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://philpapers.org/archive/LHTTJQ.pdf Lane, E. L. (2010). Consumer Protection in the Eco-Mark Era: A Preliminary Survey and Assessment of Anti- Greenwashing Activity and Eco-Mark Enforcement, Journal of Marshall Review of Intellectual Property Law, 9(3), 742. Truy cập ngày 17/05/2024 tại: https://repository.law.uic.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1217&context=ripl Lee, J., Bhatt, S., Suri, R. (2018). When consumers penalize not so green products. Psychology & Marketing, 35(1), 36–46. https://doi.org/10.1002/mar.21069 Lee, H.C.B, Cruz. J.M., Shankar, R. (2018). Corporate social responsibility (CSR) issues in Supply Chain Com- petition: should Greenwashing be regulated?. Decision Sciences, 49(6), 1088–1115. https://doi.org/10.1111/deci.12307 Lee, K. W., Lev, B., & Yeo, G. H. H. (2008). Executive pay dispersion, corporate governance, and firm performance. Review of Quantitative Finance and Accounting, 30(3), 315–338. https://doi.org/10.1007/s11156-007-0053-8 Lee, M. T., & Raschke, R. L. (2023). Stakeholder legitimacy in firm greening and financial performance: What about greenwashing temptations?. Journal of Business Research, 155, 113393. https://doi.org/10.1016/j.jbusres.2022.113393 Liu, Y., Miletkov, M. K., Wei, Z., & Yang, T. (2015). Board independence and firm performance in China. Journal of Corporate Finance, 30, 223–244. https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2014.12.004 Lyon, T. P., & Maxwell, J. W. (2011). Greenwash: Corporate environmental disclosure under threat of audit. Journal of Economics & Management Strategy, 20(1),3–41. https://doi.org/10.1111/j.1530-9134.2010.00282.x Lyon T.P., Montgomery AW (2015) The Means and End of Greenwash. Organization & Environment, 28(2), 223–249. https://doi.org/10.1177/1086026615575332 Mahoney, L. S., Thorne, L., Cecil, L., & LaGore, W. (2013). A research note on standalone corporate social Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 41
- Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ responsibility reports: Signaling or greenwashing?. Critical Perspectives on Accounting, 24(4–5), 350–359. https:// doi.org/10.1016/j.cpa.2012.09.008 Martin-de Castro, G., Amores-Salvado, J., Navas-López, J. E., & Balarezo-Nuñez, R. M. (2017). Exploring the nature, antecedents and consequences of symbolic corporate environmental certification. Journal of Cleaner Production, 164, 664–675. http://dx.doi.org/10.1016/j.jclepro.2017.06.238 Marquis, C., Toffel, M. W., & Zhou, Y. (2016). Scrutiny, norms, and se- lective disclosure: A global study of greenwashing. Organization Science, 27(2), 483–504. https://doi.org/10.1287/orsc.2015.1039 Nguyễn, L.S., Nguyễn, A.T.N., & Phạm, C.V. (2023). Chính sách về tẩy xanh của Liên minh châu Âu và một số gợi mở cho Việt Nam. Tạp chí Môi trường, số tháng 9/2023. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://tapchimoitruong.vn/nhin-ra-the-gioi-65/chinh-sach-ve-%E2%80%9Ctay-xanh%E2%80%9D-cua-lien-minh- chau-au-va-mot-so-goi-mo-cho-viet-nam-29162# Nguyễn, N. H., Lê, P.T., & Hồ, Y.T. (2023). Kiểm soát hành vi tẩy xanh- Giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính xanh. Tạp chí Ngân hàng số tháng 3/2023. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://tapchinganhang.gov.vn/kiem-soat-hanh- vi-tay-xanh-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-tai-chinh-xanh.html Nguyen, J. H., & Phan, H. V. (2020). Carbon risk and corporate capital structure. Journal of Corporate Finance, 64, 101713. https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2020.101713 Nyilasy, G., Gangadharbatla H., & Paladino A. (2014). Perceived Greenwashing: the interactive Effects of Green Advertising and Corporate Environmental performance on consumer reactions. Journal of Business Ethics, 125(4), 693–707. https://doi.org/10.1287/orsc.2015.1039 PwC. (2022). ESG-focused institutional investment seen soaring 84% to US$33.9 trillion in 2026, making up 21.5% of assets under management. PwC Report. Truy cập ngày 17/5/2024 tại: https://www.pwc.com/ id/en/media-centre/press-release/2022/english/esg-focused-institutional-investment-seen-soaring-84- to-usd-33-9-trillion-in-2026-making-up-21-5-percent-of-assets-under-management-pwc-report.html Roulet, T. J., & Touboul, S. (2015). The Intentions with Which the Road is Paved: Attitudes to Liberalism as Determinants of Greenwashing. Journal of Business Ethics, 128(2), 305–320. https://doi.org/10.1007/s10551-014-2097-8 Truong, Y., Mazloomi, H., & Berrone, P. (2021). Understanding the impact of symbolic and substantive environmental actions on organizational reputation. Industrial Marketing Management, 92, 307–320. https://doi.org/10.1016/j. indmarman.2020.05.006 U.S. Securities and Exchange Commission. (2021, March 15). Public statement: Climate change disclosures.. U.S. Securities and Exchange Commission. Retrived in May 17th, 2024 from: https://www.sec.gov/newsroom/speeches- statements/lee-climate-change-disclosures U.S. Securities and Exchange Commission. (2022, March 21). SEC proposes rules to enhance and standardize climate- related disclosures for investors.. U.S. Securities and Exchange Commission. https://www.sec.gov/newsroom/ press-releases/2022-46 U.S. Securities and Exchange Commission. (2024, March 6). SEC adopts rules to enhance and standardize climate- related disclosures by public companies.. U.S. Securities and Exchange Commission. https://www.sec.gov/ newsroom/press-releases/2024-31 Walker, K., & Wan, F. (2012). The harm of symbolic actions and green-washing: Corporate actions and communications on environmental performance and their financial implications. Journal of Business Ethics, 109(2), 227–242. https://doi: 10.1007/s10551-011-1122-4 Weber, J. L. (2018). Corporate social responsibility disclosure level, external assurance and cost of equity capital. Journal of Financial Reporting and Accounting, 16(4), 694–724. https://doi.org/10.1108/JFRA-12-2017-0112 Yu, E. P., Luu, B. V., & Chen, C. H. (2020). Greenwashing in environmental, social and governance disclosures. Research in International Business and Finance, 52, 101192. https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2020.101192 Zhang, D. (2022a). Are firms motivated to greenwash by financial constraints? Evidence from global firms’ data. Journal of International Financial Management & Accounting, 33(3), 459–479. https://doi.org/10.1111/jifm.12153 Zhang, D. (2022b). Green financial system regulation shock and greenwashing behaviors: Evidence from Chinese firms. Energy Economics, 111, 106064. https://doi.org/10.1016/j.eneco.2022.106064 Zhang, T., Qin, H., & Xu, W. (2022). Environmental Regulation, Greenwashing Behaviour, and Green Governance of High-Pollution Enterprises in China. International Journal of Environmental Research and Public Health, 19(19), 12539. https://doi.org/10.3390/ijerph191912539 42 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
10 sai lầm nhà đầu tư nhỏ dễ mắc
4 p |
217 |
85
-
Trình bày lý luận về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
1 p |
339 |
79
-
CÁC KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH
10 p |
537 |
78
-
PHÂN HẠNG ĐẤT ĐAI( LAND CLASSIFICATION )BÀI 1
5 p |
260 |
76
-
CHƯƠNG 3 - NGUYÊN LÝ TÍNH TOÁN VÀ CẤU TẠO
16 p |
250 |
70
-
Bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng trung ương các nước và Việt Nam
39 p |
228 |
57
-
Đề tài " Phân tích các quan điểm khác nhau về việc xác định chức năng của ngân hàng trung ương "
18 p |
221 |
50
-
Báo cáo tốt nghiệp: Cơ sở lý luận về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng
91 p |
255 |
32
-
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
6 p |
197 |
24
-
Dấu hỏi đạo đức công ty kiểm toán
4 p |
152 |
18
-
Thanh tóan Xuất nhập khẩu tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội - 7
10 p |
76 |
8
-
Tín dụng ngân hàng để phát triển doanh nghiệp nhỏ tại VPBANK - 5
12 p |
60 |
7
-
Khoá luận tốt nghiệp: Nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành thẻ tại Ngân hàng TMCP Nam Á
77 p |
57 |
6
-
Khoá luận tốt nghiệp: Tìm hiểu về vấn nạn trục lợi trong bảo hiểm nhân thọ tại Công ty TNHH MTV Bảo Gia Hưng Thịnh – Tổng đại lý Dai-Ichi Life Việt Nam
66 p |
72 |
6
-
Thủ đoạn 'lách trần' của ngân hàng
3 p |
63 |
5
-
Đề cương học phần Rèn nghề kế toán doanh nghiệp
6 p |
15 |
3
-
Khoá luận tốt nghiệp: Kế toán xác định kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng TM DV Việt Song Long
109 p |
39 |
2
-
Khoá luận tốt nghiệp: Nâng cao hiệu quả kinh doanh thẻ thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - chi nhánh Bình Dương – phòng giao dịch Tân Uyên
65 p |
48 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
