9. Thành Bồ Đề<br />
(Thành tựu quả bồ đề)<br />
Thành Bồ Đề<br />
<br />
Thành tựu quả bồ đề<br />
<br />
Bồ đề, thử vân đạo dã, giác dã.<br />
Vị kiến sư tử chi thời, tức kiến<br />
nhất thiết hữu vi chi pháp, cánh<br />
bất đãi hoại, bổn lai tịch diệt. Ly<br />
chư thủ xả tức ư thử lộ, lưu<br />
nhập tát bà nhã hải, cố danh vi<br />
đạo. Tức liễu, vô thỉ dĩ lai sở<br />
hữu điên đảo, nguyên vô hữu<br />
thật, danh chi vi giác. Cứu cánh<br />
nhất thiết chủng trí, danh thành<br />
bồ đề.<br />
<br />
Bồ đề, tiếng Hán là đạo hay là giác.<br />
Khi thấy sư tử là thấy các pháp hữu<br />
vi, dù cho chưa đến lúc tàn hoại các<br />
pháp ấy vẫn nguyên là tịch diệt. Do<br />
không vướng vào nắm bắt hay ruồng<br />
bỏ, do nương vào lối ấy chảy vào<br />
được biển tát bà nhã, đó gọi là đạo<br />
(tát bà nhã: sarvajñāna, nhất thiết<br />
trí). Ta thấy được rằng từ vô thỉ đến<br />
nay, tất cả các nhận thức điên đảo<br />
đều nguyên không có thật thể, gọi là<br />
giác. Cái cứu cánh đầy đủ mọi thứ<br />
trí tuệ ấy được gọi là bồ đề.<br />
<br />
Bồ đề (Bodhi), tiếng Hán là đạo, là giác, thật ra là giác thì đúng hơn.<br />
Nhưng chữ đạo trong văn học trung quốc có ý vị của bản thể học, của<br />
giác ngộ. Có khi người ta nói là thành đạo. Đạo trước hết là con<br />
đường, nếu dịch chữ thì đạo (mārga) là con đường. Nhưng trong văn<br />
học trung quốc đạo không có nghĩa là con đường nữa mà là cái đích,<br />
là chỗ tới. Thành đạo là giác ngộ. Chữ bodhi dịch là giác thì đúng rồi<br />
mà dịch là đạo cũng đúng. Đạo ở đây là chỗ tới, là giác ngộ.<br />
Vị kiến sư tử thời tức kiến nhất thiết hữu vi chi pháp, cánh bất đãi hoại, bổn<br />
lai tịch diệt. Chữ tịch diệt có nghĩa là Niết Bàn, là vô vi, là bản thể. Tịch<br />
diệt là sự vắng lặng của ngôn thuyết, của ý niệm (the burning away,<br />
the extinction). Đây là sự dập tắt của tất cả ngôn ngữ, của tất cả ý<br />
niệm. Nhìn vào con sư tử chúng ta phải thấy tính cách tịch diệt của nó<br />
tức là phải thấy con sư tử như là một thực tại không sinh không diệt,<br />
không tới không đi, không có không không, không một không nhiều.<br />
<br />
77 | 9 . T h à n h B ồ Đ ề<br />
<br />
Tịch diệt là Niết Bàn. Con sư tử không cần nhập Niết Bàn. Trong giờ<br />
này đây, nó đang là Niết Bàn, nó đang ở trong Niết Bàn rồi.<br />
Đám mây cũng vậy, đám mây giống như thuộc về thế giới hiện<br />
tượng, có sinh có diệt, có tới có đi. Nhưng nhìn cho kỹ thì đám mây<br />
đó đang an trú trong Niết Bàn tại vì bản chất của nó là không sinh<br />
không diệt, không tới không đi. Chúng sanh cũng vậy, mình thấy<br />
chúng sanh có sinh có diệt, có tới có đi, có còn có mất nhưng nhìn cho<br />
kỹ thì thấy bản chất của tất cả chúng sanh là không sinh không diệt,<br />
không tới không đi, không còn không mất. Không phải đợi cho chúng<br />
sanh chết đi, đợi cho đám mây mất đi rồi mới có không sinh không<br />
diệt mà nó đã không sinh không diệt ngay trong giờ phút này.<br />
Cánh bất đãi hoại có nghĩa là không cần phải đợi cho cái đó mất đi, tiêu<br />
diệt hay hủy hoại. Không phải là khi đám mây không còn nữa thì nó<br />
mới tịch diệt. Khi đám mây còn sờ sờ trước mặt mình thì nó đã tịch<br />
diệt rồi.<br />
Chữ nhập Niết Bàn có thể đưa tới sự hiểu lầm là Niết Bàn ở ngoài ta,<br />
ta chưa ở trong Niết Bàn. Nhưng sự thật thì tất cả các pháp đều an trú<br />
trong Niết Bàn. Niết Bàn tức là tịch diệt, là bản chất không sinh không<br />
diệt, không tới không đi, không còn không mất. Cái đó ta đang có chứ<br />
không phải ta đang đi tìm. Ta đi tìm Niết Bàn, đi tìm tịch diệt thì<br />
giống như đợt sóng kia đi tìm nước. Ngay trong giây phút hiện tại<br />
sóng đã là nước rồi, nó không cần phải tìm nước nữa. Niết Bàn, tịch<br />
diệt, đạo, giác ngộ cũng vậy, nó có sẵn rồi. Ta ở trong Niết Bàn, ở<br />
trong tịch diệt rồi. Chúng ta tưởng tượng có bồ đề, có đạo, có sự tịch<br />
diệt ở đâu đó và ta đi tìm nó, đó là một sự sai lầm rất lớn. Chúng ta<br />
đang an trú trong Niết Bàn.<br />
Cánh bất đãi hoại là không đợi tới sự tan rã rồi mới tịch diệt, mình tịch<br />
diệt ngay trong giờ phút này. Tịch diệt đây không có nghĩa là chết đi.<br />
Tịch diệt ở đây là vượt thoát có-không, còn-mất gọi là đương thế tiện<br />
thị. Đương thế tiện thị là ngay trong lúc bây giờ mình đã là cái đó rồi<br />
(you are already what you want to become). Cái đó đưa tới giáo lý vô<br />
đắc.<br />
<br />
78 | 9 . T h à n h B ồ Đ ề<br />
<br />
Khi thấy sư tử là thấy các pháp hữu vi, dù cho chưa đến lúc tàn hoại các<br />
pháp ấy vẫn nguyên là tịch diệt. Do không vướng vào nắm bắt hay ruồng bỏ,<br />
do nương vào lối ấy chảy vào được biển tát bà nhã. Đây là phương tiện<br />
quyền xảo để đưa ta vào sự chứng ngộ. Tát bà nhã, tiếng Phạn là<br />
sarvajñāna, dịch là nhất thiết trí, là đi tìm cái vô vi, cái tịch diệt, cái bất<br />
sinh bất diệt trong cái có sinh có diệt. Bề ngoài nó trông như có sinh<br />
có diệt nhưng tiếp xúc cho kỹ thì thấy tự tánh của nó là bất sinh bất<br />
diệt. Chúng ta hay dùng đám mây, dùng tờ giấy hay dùng ngọn lửa<br />
và chứng minh rằng bản chất của đám mây, của tờ giấy hay của ngọn<br />
lửa là không tới không đi, không sinh không diệt, không có cũng<br />
không không. Nó không sinh không diệt, không đi không tới, không<br />
có không không ngay bây giờ chứ không phải đợi sau này mới có.<br />
Cho nên nói, tôi sẽ nhập Niết Bàn sau khi thân tôi tàn hoại, thì tức<br />
cười lắm!<br />
Do không vướng vào nắm bắt hay ruồng bỏ. Chữ nắm bắt hay ruồng bỏ rất<br />
quan trọng. Ta ruồng bỏ thế giới sinh diệt để chạy theo nắm bắt thế<br />
giới không sinh không diệt. Ngay chuyện đó ta đã kẹt rồi.. Ta ruồng<br />
bỏ sư tử để đi tìm vàng là như vậy. Khi thấy được đương thế tiện thị<br />
(đương thế là ngay trong tình trạng này), bây giờ ta đang an lạc rồi, ta<br />
đã là cái đó rồi, đừng tìm đâu xa nữa thì ta không có thái độ hoặc<br />
ruồng bỏ, chạy trốn hoặc đi tìm bắt. Khi buông bỏ được hai thái độ<br />
ruồng bỏ và tìm bắt rồi thì mình có cơ duyên đi vào nhất thiết trí (tát<br />
bà nhã).<br />
Ta thấy được rằng từ vô thỉ đến nay, tất cả các nhận thức điên đảo đều<br />
nguyên không có thật thể, gọi là giác. Nhận thức điên đảo là những cái<br />
thấy lộn ngược (upside down), trút đầu xuống đất. Tất cả nhận thức<br />
điên đảo như có-không hay còn-mất, những cái đưa tới thái độ ruồng<br />
bỏ hay nắm bắt, những cái làm cho mình buồn, mình lo, mình đam<br />
mê..., những cái đó không có thực thể. Thấy được điều đó gọi là giác.<br />
Giác tức là bồ đề, là cứu cánh của mọi thứ trí tuệ.<br />
<br />
79 | 9 . T h à n h B ồ Đ ề<br />
<br />
10. Nhập Niết Bàn<br />
(Thể nhập được niết bàn)<br />
Nhập Niết Bàn<br />
<br />
Thể nhập được Niết Bàn<br />
<br />
Kiến sư tử dữ kim nhị tướng<br />
câu tận, phiền não bất sinh. Hảo<br />
xú hiện tiền, tâm am như hải.<br />
Vọng tưởng đô tận vô chư bức<br />
bách, xuất triền ly chướng, vĩnh<br />
xả khổ nguyên, danh nhập Niết<br />
Bàn.<br />
<br />
Khi nhìn mà thấy được cả hai tướng<br />
sư tử lẫn vàng đều không còn nữa<br />
thì phiền não không còn sinh khởi.<br />
Dù cái đẹp hay cái xấu đang được<br />
trình bày trước mắt thì tâm mình<br />
cũng đã an như biển (lớn). Các vọng<br />
tưởng đã hết thì không còn gì bức<br />
bách được ta nữa. Ta ra khỏi được<br />
trần lụy và chướng ngại, vĩnh viễn<br />
bỏ lại nguồn gốc của khổ đau, đó gọi<br />
là thể nhập được Niết Bàn.<br />
<br />
Khi nhìn mà thấy được cả hai tướng sư tử lẫn vàng đều không còn nữa thì<br />
phiền não không còn sinh khởi. Mới nhìn, ta thấy vàng và sư tử khác<br />
nhau. Nhưng khi nhìn kỹ, ta thấy hai tướng đó không phải là hai<br />
tướng riêng biệt. Ta không phân biệt tổng tướng và biệt tướng, thành<br />
tướng và hoại tướng. Ta không bị tướng đánh lừa nữa thì phiền não<br />
không còn sinh khởi.<br />
Dù cái đẹp hay cái xấu đang được trình bày trước mắt thì tâm mình cũng đã<br />
an như biển lớn. Khi đó ta thấy được bản chất không dơ cũng không<br />
sạch, không thêm cũng không bớt, không xấu cũng không đẹp. Vì vậy<br />
tâm ta an, không chạy theo một cái và ruồng bỏ cái khác. Cái gì cũng<br />
mầu nhiệm, chủ thể mầu nhiệm, đối tượng cũng mầu nhiệm. Chủ thể<br />
và đối tượng không phải là hai cái tách riêng với nhau.<br />
Các vọng tưởng đã hết thì không còn gì bức bách ta được nữa. Ta đã ra khỏi<br />
được trần lụy và chướng ngại, vĩnh viễn bỏ lại nguồn gốc của khổ đau, đó<br />
gọi là thể nhập được Niết Bàn (vọng tưởng đô tận vô chư bức bách). Bức<br />
bách là ép buộc.<br />
<br />
80 | 1 0 . N h ậ p N i ế t B à n<br />
<br />
Xuất triền ly chướng. Chướng là chướng ngại, ra khỏi những ràng buộc<br />
và rời bỏ những chướng ngại. Vĩnh xả khổ nguyên là vĩnh viễn buông<br />
bỏ, thoát khỏi nguồn gốc của khổ đau. Đó gọi là nhập Niết Bàn. Nhập<br />
Niết Bàn là do cái thấy của mình chứ không phải do hai chân mình đi<br />
vô. Chúng ta không cần phải đi đâu hết, chỉ cần thấy mà thôi.<br />
Bây giờ chúng ta thêm vào một chương nữa là chương Thực tập ba<br />
quán. Tông Hoa Nghiêm có pháp môn tam quán tại vì nếu đưa ra một<br />
tác phẩm mà không đưa ra phương pháp quán tưởng cụ thể thì hơi<br />
thiếu. Tôi đề nghị thêm hai chương nên mười thành mười hai chương.<br />
<br />
81 | 1 0 . N h ậ p N i ế t B à n<br />
<br />