intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thượng Phùng (1961-2018): Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:160

11
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách ghi lại những trang sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Thượng Phùng, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; nâng cao lòng tự hào về truyền thống cách mạng, củng cố lòng tin, động viên tinh thần cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã vững bước trên con đường xây dựng quê hương trong giai đoạn mới. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 2 dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thượng Phùng (1961-2018): Phần 2

  1. Chương III CHI BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ THƯỢNG PHÙNG TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1976 - 1985) I. Chi bộ xã Thượng Phùng lãnh đạo nhân dân khôi phục kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn (1976 - 1978) Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, đất nước độc lập thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Hòa trong niềm vui chung của cả nước, Chi bộ và nhân dân Thượng Phùng bước vào công cuộc xây dựng quê hương với những thuận lợi và khó khăn đan xen. Về thuận lợi: Nhân dân được sống trong hòa bình, yên tâm phát triển sản xuất, xây dựng quê hương. Trải qua những năm tháng kháng chiến, đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện trong sản xuất và chiến đấu, từng bước trưởng thành, đoàn kết thống nhất về tổ chức, đồng tâm hiệp lực trong công tác; nhân dân Thượng Phùng cần cù, sáng tạo, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương… Là xã giáp biên, có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh, xã được sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính huyện Mèo Vạc. 63
  2. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Chi bộ và nhân dân Thượng Phùng đối mặt với những khó khăn: Thời tiết khắc nghiệt gây khó khăn cho sản xuất, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, tình trạng thiếu đói chưa được chấm dứt; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; trong khi các thế lực thù địch tìm mọi thủ đoạn chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đầu năm 1976, tỉnh Hà Tuyên được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Ngày 25/4/1976, cùng với cử tri cả nước, trên 98% cử tri Thượng Phùng nô nức, phấn khởi đi bầu cử, lựa chọn những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội khóa VI - Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Cuộc bầu cử diễn ra đúng luật, đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ, trở thành ngày hội lớn của dân tộc. Ngày 02/7/1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân các cấp. Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Với quyết tâm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980) nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. 64
  3. Nhằm giúp các đồng chí cán bộ, đảng viên nắm rõ được phương hướng chung của Huyện ủy, tháng 4/1977, Chi bộ xã Thượng Phùng tổ chức Đại hội lần thứ VII, với sự tham dự của 11 đảng viên. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ là: Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là lương thực, chú trọng chăn nuôi; đẩy mạnh phát triển y tế, giáo dục, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đặc biệt chú trọng quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự trị an; tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Đại hội bầu đồng chí Chá Vản Chính giữ chức Bí thư Chi bộ, đồng chí Sùng Dũng Pó, Phó Bí thư. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, tháng 5/1977, Chi bộ lãnh đạo tổ chức thành công kỳ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1977 - 1979. Tỷ lệ cử tri xã đi bầu đạt 96%, đã bầu được 19 đại biểu Hội đồng nhân dân xã. Tại kỳ họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân bầu đồng chí Giàng Cà Chu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Chá Sìa Chứ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Những năm 1976 - 1978, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ, chính quyền xã tiến hành củng cố hoạt động các hợp tác xã. Tuy nhiên, trải qua một thời gian xây dựng và phát triển hợp tác xã cho thấy, quan hệ sản xuất mới trên thực tế chỉ bước đầu hình thành trên lý thuyết. Các hợp tác xã chỉ ở mức góp ruộng đất, công sức chứ chưa hình thành lối làm ăn tập thể. Ngay trong hợp tác xã, việc “hợp tác” cũng chỉ 65
  4. được tiến hành đối với đất gieo trồng ngô, lúa, chưa “hợp tác” được đất đai, mùa vụ gieo trồng các loại cây trồng khác. Trong nông nghiệp, kinh tế tập thể không những không chiếm được vị trí chủ đạo mà ngược lại còn rất non kém. Nông cụ lao động, kỹ thuật thâm canh vẫn còn thô sơ, đơn giản, thủ công nên năng suất lao động còn thấp... Trên tinh thần đó, được sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, căn cứ vào điều kiện thực tế ở địa phương, Chi bộ, chính quyền xã đi vào chấn chỉnh hoạt động các hợp tác xã, cử cán bộ đi học lớp quản lý ở huyện, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm của xã viên. Việc củng cố hợp tác xã đã có tác dụng thúc đẩy phong trào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Trong sản xuất nông nghiệp, chi bộ xã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể vận động nhân dân khắc phục khó khăn về thời tiết, đảm bảo duy trì diện tích sản xuất. Các biện pháp khoa học kỹ thuật được bà con đưa vào áp dụng, trong đó chú trọng đến khâu cải tạo đất, phân bón, thời vụ. Năm 1978, năng suất lúa bình quân đạt 2 tấn/ha, năng suất ngô đạt 1 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 180 tấn/năm, bình quân lương thực khoảng 167 kg/người/tháng. Trong lĩnh vực chăn nuôi, Chi bộ chỉ đạo cán bộ tuyên truyền, vận động xã viên củng cố chuồng trại chống rét cho vật nuôi về mùa đông, tích trữ thức ăn khô 66
  5. cho đàn gia súc, vệ sinh phòng bệnh cho vật nuôi. Năm 1978, đàn gia súc có 575 con, đàn gia cầm có 5.470 con. Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tuyên về việc làm đường ô tô cho các xã vùng cao, tháng 10/1977, huyện Mèo Vạc thành lập Ban Chỉ huy công trường giao thông và khởi công xây dựng tuyến đường ô tô từ xã Pả Vi - Xín Cái - Thượng Phùng. Chi bộ, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã tăng cường vận động nhân dân trong xã tham gia làm đường. Đến đầu năm 1978, tuyến đường đã hoàn thành trong niềm hân hoan của nhân dân địa phương. Giao thông được khôi phục và mở mang đã tạo điều kiện thuận lợi để Chi bộ, chính quyền có những biện pháp, phương án vận động các gia đình còn lại trong xã định canh, định cư, ổn định đời sống. Đến năm 1977 - 1978, một số gia đình đã bỏ tập quán du canh, du cư, có nhà ở chắc chắn, có phương tiện sinh hoạt. Tuy nhiên, trên địa bàn xã tập quán du canh du cư còn phổ biến, nên đời sống của một số gia đình còn nhiều thiếu thốn. Mặc dù có nhiều khó khăn trong đời sống nhưng chi bộ, chính quyền xã rất chú ý đến công tác giáo dục, y tế, văn hóa. Xã thường xuyên tu sửa trường lớp, bàn ghế, đảm bảo việc dạy và học cho cả thầy và trò. Trường học tích cực thi đua học tốt, dạy tốt. Các lớp học từ vỡ lòng đến giáo dục phổ thông đều hoàn thành tốt chương trình học tập. Bên cạnh giáo dục phổ thông, phong trào bổ túc văn hóa cũng có bước chuyển biến tích cực. Xã đã huy động hàng chục cán bộ đi học trình độ văn hóa 67
  6. và nghiệp vụ. Công tác y tế đã kịp thời chuyển hướng, đáp ứng yêu cầu phục vụ chiến đấu và chăm lo, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Cán bộ y tế xã được tham gia lớp tập huấn về cách đề phòng sốt rét, phun thuốc diệt muỗi, hàng tháng theo định kỳ ra huyện báo cáo tình hình dịch bệnh trên địa bàn… Đội văn nghệ các thôn trên địa bàn xã hoạt động đều, với nhiều tiết mục tự biên, tự diễn, tổ chức nhiều đợt biểu diễn phục vụ nhân dân có kết quả, thu hút sự ủng hộ và cổ vũ đông đảo của quần chúng. Song song với việc chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng được Chi bộ xác định là nhiệm vụ then chốt, quyết định sự thắng lợi trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Chi bộ thường xuyên tiến hành các đợt tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng đến từng đảng viên nhằm củng cố, xây dựng chi bộ xã ngày càng vững mạnh. Trải qua các đợt sinh hoạt chính trị, nhận thức tư tưởng và hành động thực tế của mỗi cán bộ, đảng viên trong lao động, học tập và công tác, tính tiên phong, gương mẫu, tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân được nâng cao. Thực hiện Nghị quyết 192 kết hợp với Thông tri số 22-TT/TW ngày 05/9/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về việc củng cố các tổ chức cơ sở Đảng đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ xã tiến hành các đợt sinh hoạt chính trị, đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình làm trong sạch tổ 68
  7. chức Đảng và đảng viên, chống tư tưởng ngại khó khăn gian khổ. Việc lấy ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân để đánh giá chất lượng đảng viên được thực hiện nghiêm túc, nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của từng đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những cá nhân không đủ tiêu chuẩn. Qua việc thực hiện Thông tri 22, toàn xã có 4 trường hợp bị đưa ra khỏi Đảng; toàn chi bộ còn 7 đảng viên. Sau khi thực hiện Thông tri 22, Chi bộ đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức cho phù hợp với tình hình sản xuất và đáp ứng yêu cầu lãnh đạo theo cơ chế quản lý mới; chế độ sinh hoạt được duy trì thường xuyên hàng tháng; tiến hành kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế và các hoạt động ở cơ sở. Hoạt động của tổ chức chính quyền ngày càng đi vào nề nếp, hiệu quả. Các đại biểu Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra thực sự là những đại biểu ưu tú, có phẩm chất, năng lực công tác, hoàn thành chức trách được giao. Mặt trận Tổ quốc xã tích cực hoạt động, ra sức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền nhân dân chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hội Phụ nữ xã phát động hội viên thực hiện các phong trào “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, “Gia đình hòa thuận”. Đoàn Thanh niên phát huy vai trò xung kích, tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, hăng hái đi đầu trong các phong trào sản xuất và chiến đấu. 69
  8. Bước sang năm 1978, tình hình biên giới có những diễn biến phức tạp. Lực lượng vũ trang Trung Quốc áp sát dần biên giới; tình trạng xâm canh, xâm cư, lấn chiếm xảy ra ngày càng nhiều. Đặc biệt từ tháng 5/1978, số người Hoa làm ăn sinh sống ở Việt Nam bị kẻ xấu xúi giục tìm đường vượt biên. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, Chi bộ xã lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, xây dựng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân học tập tài liệu về bảo vệ chủ quyền biên giới. Đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, thực hiện Quyết định số 21-QĐ/TW ngày 17/6/1978 của Bộ Chính trị về việc thành lập Bộ Chỉ huy Quân sự thống nhất ở các tỉnh, thành và Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất huyện, thành, thị, xã, phường, thị trấn, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, Ban Chỉ huy Quân sự thống nhất xã Thượng Phùng được thành lập gồm: đồng chí Bí thư Chi bộ xã làm Chính trị viên, đồng chí Xã đội trưởng làm Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự, đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã kiêm Trưởng Công an làm Chỉ huy phó, trưởng ban ngành, đoàn thể là ủy viên. Lực lượng dân quân xã được biên chế thành các trung đội với tổng số quân trên 100 chiến sĩ, được biên chế thành 3 trung đội (trong đó có 1 trung đội dân quân thường trực), được trang bị các loại súng gồm: CKC, K50, K44... Cùng với việc thành lập Ban Chỉ huy Quân sự, Chi ủy và chính quyền xã quán triệt sâu sắc đến cán 70
  9. bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới: xây dựng lực lượng dân quân và công an vững mạnh. Ban Chỉ huy Quân sự xã tham mưu với chi bộ lãnh đạo tăng cường củng cố quốc phòng và xây dựng hậu phương chiến tranh nhân dân vững mạnh về mọi mặt. Công tác phòng không được triển khai khẩn trương. Xã huy động nhân dân vót chông, cắm chông, tham gia rào biên giới, đào hầm, xây dựng hệ thống trận địa ở từng thôn; tổ chức tuần tra canh gác, trực chiến ngày đêm. Lực lượng dân quân xã thường xuyên phối hợp với các đơn vị truy bắt các đối tượng nước ngoài xâm phạm chủ quyền lãnh thổ. Cùng với xã bạn, nhân dân Thượng Phùng đã đào 24.000 m giao thông hào, 300 m hầm tránh pháo, trồng hàng nghìn cành cây gạo, gốc tre và cây xa mộc làm ngụy trang. Lực lượng công an phối hợp với lực lượng dân quân, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Săm Pun tăng cường tuần tra, canh gác, kiên quyết và kịp thời trấn áp bọn phản cách mạng. Những năm 1977 - 1978, Ban Bí thư Trung ương mở đợt vận động lớn tăng cường lực lượng cho các huyện miền núi phía Bắc, động viên một bộ phận lực lượng nhân dân các địa phương miền xuôi lên. Thực hiện chủ trương này, huyện Mèo Vạc được tiếp nhận nhân lực, vật lực từ các địa phương miền xuôi lên phát triển kinh tế và xây dựng lực lượng chiến đấu ở các địa phương biên giới trong đó có xã Thượng Phùng. Trên cơ sở đó, năm 1978, Lâm trường Thượng Phùng (còn gọi là Lâm trường Săm Pun) được thành lập và đóng tại thôn 71
  10. Giàng Cái, với nhiệm vụ chính là sản xuất lâm nghiệp, trồng rừng, đồng thời phối hợp với các đơn vị giữ vững an ninh chính trị, tham gia bảo vệ vùng biên giới của Tổ quốc. Nhân dân xã Thượng Phùng với tinh thần đoàn kết đã đóng góp lương thực, thực phẩm, đóng góp ngày công, vật liệu làm lán trại cho cán bộ, công nhân viên lâm trường. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, cán bộ, đảng viên và công nhân viên lâm trường đã sát cánh cùng nhân dân các dân tộc xã Thượng Phùng và các lực lượng bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc, cùng nhân dân chia ngọt, sẻ bùi, tham gia giúp đồng bào ổn định đời sống, giảm bớt khó khăn trong những năm tháng diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Đặc biệt, với chức năng và nhiệm vụ của mình, cán bộ, đảng viên và công nhân viên lâm trường đã giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, trồng và bảo vệ hàng ngàn héc-ta rừng (chủ yếu là thông, xa mộc), phủ xanh nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc. II. Chi bộ xã Thượng Phùng lãnh đạo nhân dân tích cực sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần bảo vệ biên giới phía Bắc tổ quốc (1979 - 1985) Bước sang năm 1979, phía Trung Quốc có những hành động quân sự áp sát biên giới. Ngày 14/01/1979, phía Trung Quốc cho quân áp sát biên giới, khiêu khích, lấn sâu vào đất ta. Ngày 02/02/1979, Trung Quốc sử dụng 1 tiểu đoàn đánh vào khu vực Đồn Biên phòng Săm Pun và Lâm trường Thượng Phùng. Lực lượng vũ 72
  11. trang của đồn và tự vệ Lâm trường đánh trả quyết liệt, buộc địch phải rút về bên kia biên giới. Công tác chuẩn bị chiến đấu được tiến hành khẩn trương. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã, lực lượng dân quân tập trung của xã nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng phối hợp với các lực lượng đánh địch. Lực lượng dân quân và thanh niên trẻ khỏe được huy động tham gia đào đắp hầm hào, công sự, khai thác và vận chuyển gỗ cho bộ đội làm nhà và hầm tránh pháo, vận chuyển xi măng, sắt thép lên các chốt tiền tiêu. Nhân dân tích cực ủng hộ lương thực, thực phẩm cho bộ đội, dân quân ăn no đánh thắng. Rạng sáng ngày 17/02/1979, phía đối phương mở cuộc tấn công ồ ạt trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Tại tuyến biên giới Mèo Vạc, Trung Quốc sử dụng 1 trung đoàn chủ lực tiến công các mục tiêu quân sự của ta ở các xã biên giới, trong đó có xã Thượng Phùng. Sau khi sử dụng hàng chục khẩu pháo, cối các loại bắn dữ dội vào các đồn biên phòng Lũng Làn, Xín Cái, Săm Pun và các điểm cao ta chốt giữ, địch vượt qua các mốc 138, 140 và 21 tiến đánh vào 3 đồn biên phòng và điểm cao 1379. Ngày 08/3/1979, địch tập trung 1 trung đội ở thôn Xín Phìn Chư của xã Thượng Phùng; lực lượng dân quân xã Thượng Phùng phối hợp với các đơn vị đã tập kích đánh địch tiêu diệt 14 tên. Ngay sau khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, lực lượng dân quân xã cùng các lực lượng vũ trang trong huyện tham gia chiến đấu ngoan cường, bẻ 73
  12. gãy nhiều đợt tiến công của địch; thực hiện kìm chân, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, cơ bản bảo toàn được lực lượng, bảo đảm an toàn cho nhân dân và cơ quan đóng trên địa bàn. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ và chính quyền xã đã triển khai nhiều biện pháp lãnh đạo nhân dân đi sơ tán về khu vực tuyến sau (chủ yếu là người già và trẻ nhỏ); số lao động và thanh niên ở lại vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ quê hương. Do được chuẩn bị kỹ và chu đáo nên đã hạn chế được thiệt hại, không bị bất ngờ. Thực hiện mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc phòng, từ ngày 17/02 - 19/3/1979, nhân dân xã Thượng Phùng cùng nhân dân toàn huyện phối hợp với bộ đội biên phòng quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, dũng cảm chiến đấu góp phần bảo vệ biên cương Tổ quốc. Trước sự lên án mạnh mẽ của nhân dân thế giới và bị thua đau trên chiến trường, đối phương buộc phải tuyên bố rút quân. Song họ vẫn duy trì lực lượng quân sự áp sát biên giới nước ta, liên tiếp có những hành động gây căng thẳng, thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt. Tháng 5/1979, Chi bộ xã lãnh đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp trên địa bàn xã. Qua bầu cử, Hội đồng nhân dân xã được kiện toàn với 19 đại biểu được bầu. Tại kỳ họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân xã bầu đồng chí Giàng Cà Chu giữ chức 74
  13. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Chá Sìa Chứ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Tháng 6/1979, Đại hội Chi bộ xã Thượng Phùng lần thứ VIII được tổ chức, với sự tham gia của 7 đảng viên(10). Đại hội đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội VII đề ra, đồng thời xác định phương hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong những năm 1979 - 1981 là: Trước hết phải tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra; giữ vững và duy trì mức sản xuất, ổn định đời sống nhân dân; củng cố hệ thống chính trị, nâng cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đại hội bầu đồng chí Cháng Dũng Sính giữ chức Bí thư Chi bộ. Trước yêu cầu nhiệm vụ hết sức nặng nề của giai đoạn vừa sản xuất, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đảng viên và quần chúng được chi bộ quan tâm đặc biệt. Trong những năm 1979 - 1980, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được triển khai liên tục qua các đợt vận động tuyên truyền học tập Nghị quyết Trung ương 5, 6 (khóa IV), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp; tuyên truyền giáo dục về tình hình nhiệm vụ mới và thảo luận góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác phát Trong đợt chỉnh huấn theo Thông tri 22 của Trung ương, xã có 4 đồng chí (10) đã bị đưa ra khỏi Đảng. Đến năm 1979, toàn chi bộ có 7 đảng viên. 75
  14. triển Đảng được quan tâm, trong 2 năm (1979 - 1980), chi bộ đã kết nạp thêm 2 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng tổng số đảng viên của chi bộ lên 9 đồng chí. Cùng với việc tăng cường công tác xây dựng Đảng, Chi bộ luôn chăm lo, phát huy tốt chức năng quản lý Nhà nước và vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã bám sát các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên đoàn kết tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới, tích cực phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Thực hiện các nhiệm vụ trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, trực tiếp là chi bộ xã, nhân dân xã Thượng Phùng tập trung nhanh chóng ổn định đời sống vừa giữ vững và đẩy mạnh sản xuất, củng cố phong trào hợp tác hóa, phát triển cây lương thực, chăn nuôi và nghề rừng. Sản lượng lương thực năm 1979 - 1980 đạt 160 tấn (thấp hơn 20 tấn so với giai đoạn 1976 - 1977); toàn xã có 455 con gia súc, 5.912 con gia cầm. Trong hoàn cảnh vừa phải khôi phục và phát triển kinh tế, vừa phải dốc sức chi viện và là một trong những địa bàn trực tiếp bị đánh phá, vừa phải chống chọi sự phá hoại tàn khốc của thiên nhiên. Hơn nữa điểm xuất phát của xã lại thấp, kinh tế còn nghèo. Chính vì vậy, những kết quả đạt được cũng là một thành quả đáng được trân trọng bởi sự cố gắng vô cùng to lớn của chi bộ và nhân dân trong xã. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn và đối chiếu với các chỉ tiêu mà Đại hội 76
  15. Đảng bộ huyện, Đại hội Chi bộ xã đề ra thì nhiều năm xã không đạt thậm chí còn ở mức thấp. Đời sống của nhân dân trong xã gặp nhiều khó khăn, một bộ phận nhân dân thiếu ăn triền miên, nghĩa vụ với Nhà nước hoàn thành ở mức thấp... Văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Quy mô trường, lớp tiếp tục được duy trì, phong trào “ánh sáng văn hóa vùng cao” phát triển mạnh. Công tác bổ túc văn hóa, xóa mù chữ tiếp tục được triển khai ở các thôn. Trạm xá xã được củng cố, công tác khám, chữa bệnh, tuyên truyền vệ sinh phòng dịch bệnh được tăng cường; phong trào tiêm chủng được tiến hành thường xuyên, nhân dân tích cực thực hiện ăn chín, uống sôi, đêm ngủ nằm màn... Hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền văn hóa xung kích kịp thời chuyển hướng bám sát cơ sở, giữ vững hoạt động phục vụ sản xuất và chiến đấu, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, khơi dậy tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân, phản bác lại luận điệu tuyên truyền phản động và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Trong thời gian này, nhiều đơn vị quân đội về đóng quân trên địa bàn hoặc tiếp giáp với địa phương, nhân dân xã Thượng Phùng tạo mọi điều kiện cần thiết để các đơn vị bộ đội tác chiến, tích cực phối hợp với các chiến sĩ tham gia sản xuất và phục vụ chiến đấu. Lực lượng dân quân rộng rãi được biên chế thành 3 lực lượng: Lực 77
  16. lượng cơ động chi viện chiến đấu, lực lượng phục vụ chiến đấu, lực lượng bảo vệ dân, giúp dân sơ tán. Lúc cao điểm, quân số của xã lên tới gần 200 chiến sĩ. Công tác củng cố bổ sung hầm, hào, công sự chiến đấu được triển khai tích cực. Các cơ quan, trường học, trạm xá, hộ gia đình đều có hầm tránh pháo. Hàng trăm lượt dân quân, dân công của xã đã luân phiên có mặt trên các điểm cao xây dựng trận địa chiến đấu, vận chuyển bê tông cốt thép, lương thực, thực phẩm lên các điểm tựa, góp phần xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Công tác an ninh được triển khai hiệu quả, do đó đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn nhiều âm mưu chống phá của kẻ địch. Tóm lại, những năm 1979 - 1980, Thượng Phùng đứng trước những khó khăn và nhiệm vụ đột xuất là chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc. Nhưng trước những thử thách mới, Chi bộ xã vẫn vững vàng, kiên định, phát huy tinh thần tự lực tự cường, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn gian khổ, kiên cường bám trụ, duy trì sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cả nước, đánh bại âm mưu và hành động chiến tranh phá hoại của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh chính trị bảo vệ biên giới Tổ quốc. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc, cuối năm 1981, Chi bộ xã Thượng Phùng tổ chức Đại hội lần thứ IX (vòng 1), với sự tham dự của 9 đảng viên. Tại Đại hội vòng 1, các đảng viên đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá những tồn tại, khuyết điểm của chi bộ cũng 78
  17. như từng cá nhân đảng viên, đề ra biện pháp khắc phục; đóng góp vào dự thảo Báo cáo Chính trị Đảng bộ cấp trên; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện Mèo Vạc lần thứ X. Tháng 9/1982, Đại hội Chi bộ xã Thượng Phùng lần thứ IX (vòng 2) được tổ chức với sự tham dự của 9 đảng viên. Đại hội đã tập trung đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của xã, đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: coi trọng công tác quốc phòng, an ninh, củng cố, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với các lực lượng đập tan các cuộc tập kích, lấn chiếm của kẻ thù. Trong phát triển kinh tế, tập trung sản xuất lương thực với 2 cây trồng chính là lúa và ngô nhằm giải quyết nhu cầu của nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước; khuyến khích nhân dân chăn nuôi, phát triển nghề rừng; chú trọng nâng cao các mặt đời sống văn hóa, y tế, giáo dục cho nhân dân. Đại hội bầu đồng chí Cháng Dũng Sính giữ chức Bí thư Chi bộ. Tiếp đó, năm 1984, Đại hội Chi bộ xã lần thứ X (nhiệm kỳ 1984 - 1986) được tổ chức với sự tham gia của 9 đảng viên. Đại hội tổng kết, đánh giá kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tiếp theo: Đẩy mạnh sản xuất nông - lâm nghiệp, chủ yếu là cây lương thực, tập trung thâm canh, tăng năng suất phấn đấu đạt mục tiêu đủ lương thực đảm bảo nhu cầu cho nhân dân; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm; nâng cao cảnh giác, bảo vệ 79
  18. an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đại hội tiếp tục bầu đồng chí Cháng Dũng Sính giữ chức Bí thư Chi bộ. Tháng 5/1985, đồng chí Cháng Dũng Sính chuyển công tác khác, đồng chí Vi Trường Giang được bầu giữ chức Bí thư Chi bộ. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Chi bộ đề ra, xã Thượng Phùng còn nhiều khó khăn, bộ máy chính quyền xã, hợp tác xã chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; kinh tế chậm phát triển, trình độ canh tác thấp, đời sống phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên... nhưng với quyết tâm vượt mọi khó khăn, tinh thần cần cù trong lao động, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Thượng Phùng vươn lên hoàn thành thắng lợi các kế hoạch đề ra. Sau những sa sút trong sản xuất nông nghiệp trên cả nước, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Khoán 100). Theo cơ chế Khoán 100, trong 8 khâu chu trình khép kín của sản xuất nông nghiệp, từ khâu làm đất đến giao nộp sản phẩm, từng khâu được phân chia cụ thể. Hợp tác xã chịu trách nhiệm điều hành 5 khâu: giống, làm đất, cung ứng vật tư, bảo vệ thực vật và thủy lợi; các hộ xã viên đảm nhận 3 khâu: gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch và giao nộp sản phẩm. Chỉ thị 100 có ý nghĩa quan trọng trong việc mở đường thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. 80
  19. Là địa bàn có diện tích núi đá chiếm phần lớn, diện tích canh tác ít, lại thường xuyên bị thiếu nước. Ngoài ra, từ sau cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, lực lượng lao động bị thiếu hụt, diện tích canh tác lại càng thu hẹp, một phần là do nhân dân bỏ hoang, một phần bị địch khống chế hoặc chưa được rà phá bom mìn nên không sản xuất được… Vì thế, Chi bộ chỉ đạo chỉ áp dụng Khoán 100 ở những nơi đủ điều kiện, những nơi khác giữ nguyên công tác “3 khoán, 3 quản” đã áp dụng từ trước. Chi bộ, chính quyền xã chỉ đạo, vận động nhân dân tích cực phục hồi diện tích canh tác đã bỏ hoang, khai hoang, mở rộng diện tích ngô ở khu vực chân núi, thung lũng. Mặc dù thời gian này, nhân dân xã vẫn sử dụng giống ngô địa phương, nhưng nhờ tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ nên năng suất cao hơn hẳn. Năm 1985, năng suất lúa đạt 2,3 tấn/ha, năng suất ngô đạt 1,2 tấn/ha, sản lượng lương thực quy thóc đạt trên 220 tấn (tăng 20 tấn so với năm 1981), bình quân lương thực đầu người đạt 175 kg/năm. Chăn nuôi hộ gia đình tiếp tục duy trì với đàn gia súc là 534 con, đàn gia cầm 5.360 con. Sản xuất nông nghiệp không những đảm bảo đời sống nhân dân mà còn hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước; tích cực chi viện cho các lực lượng vũ trang trên địa bàn. Hàng năm xã làm nghĩa vụ với Nhà nước 15 - 20 tấn lương thực (chủ yếu là ngô), 2 - 3 tấn thực phẩm. Công tác giáo dục còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, đường giao thông đi lại vất vả, những hạn chế 81
  20. trong nhận thức của đồng bào các dân tộc đặt ra nhiều thách thức trong việc vận động học sinh đến trường. Được sự quan tâm, chỉ đạo của Chi bộ, chính quyền, sự động viên của các ban, ngành, đoàn thể cùng sự phối hợp giúp đỡ của Đồn Biên phòng Săm Pun, các thầy, cô giáo “cắm bản” trên địa bàn xã Thượng Phùng đã khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” được toàn thể giáo viên và học sinh hưởng ứng sôi nổi. Toàn xã có gần 200 học sinh, 9 giáo viên. Công tác xóa mù tiếp tục được duy trì, hàng năm xã xóa mù cho 40 - 50 người. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Các đội chiếu bóng lưu động của huyện thường xuyên về xã tổ chức các buổi chiếu phim phục vụ nhân dân. Đội văn nghệ của các bản tích cực tập luyện tham gia vào các buổi giao lưu văn nghệ do xã tổ chức nhằm tăng cường tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc. Hoạt động truyền thanh được chính quyền xã chú trọng nhằm truyền tải các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể nhân dân trong xã. Trước năm 1980, do điều kiện còn khó khăn nên Trạm y tế xã hoạt động tại trụ sở xã. Đến năm 1981, được sự đầu tư của Nhà nước, Trạm y tế xã (nhà cấp 4) được xây dựng tại thôn Xà Phìn, biên chế 3 cán bộ, do đồng chí Sùng Mí Dình làm Trưởng Trạm đầu tiên (thời điểm này mới bắt đầu có chức danh Trạm trưởng Trạm y tế xã). Từ khi xây dựng Trạm y tế xã, hoạt động khám, 82
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1