intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm lâm sàng và chất lượng sống ở bệnh nhân đau đầu mạn tính hàng ngày

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

49
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xác định các thể, các đặc điểm lâm sàng và đánh giá ảnh hưởng của đau đầu mạn tính hàng ngày đến chất lượng sống của người bệnh tại phòng khám thần kinh bệnh viện Đại Học Y Dược.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm lâm sàng và chất lượng sống ở bệnh nhân đau đầu mạn tính hàng ngày

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG SỐNG Ở BỆNH NHÂN<br /> ĐAU ĐẦU MẠN TÍNH HÀNG NGÀY<br /> Vũ Anh Nhị*, Nguyễn Anh Diễm Thúy**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: xác định các thể, các đặc điểm lâm sàng và đánh giá ảnh hưởng của đau đầu mạn tính hàng ngày<br /> đến chất lượng sống của người bệnh tại phòng khám Thần Kinh bệnh viện Đại Học Y Dược.<br /> Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt ca.<br /> Kết quả: nữ chiếm 72,1% và nam chiếm 27,9%; tuổi khởi phát trung bình là 38,5 tập trung ở lứa tuổi 3140; 76,7% bị đau cả hai bên; 51,2% đau ở mức độ vừa; đa số không có triệu chứng nào đi kèm với cơn đau đầu.<br /> Có 4 thể là migraine mạn tính (16,3%), đau đầu dạng căng thẳng mạn tính (58,1%), thể có cả hai đặc điểm trên<br /> (7%) và thể đau đầu mạn tính hàng ngày khác (18,6%). Ngoại trừ ở mức PF, đa số bệnh nhân đều bị suy giảm ở<br /> các mức điểm còn lại của thang SF-36.<br /> Kết luận: có hai thể chính là migraine mạn tính và đau đầu dạng căng thẳng mạn tính. Chất lượng sống<br /> của bệnh nhân đau đầu mạn tính hàng ngày bị ảnh hưởng một cách rõ rệt trên hầu hết các mức điểm của thang<br /> SF-36.<br /> Từ khóa: Đau đầu, đau đầu mạn tính hàng ngày, chất lượng sống.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> CLINICAL FEATURES AND QUALITY OF LIFE OF CHRONIC DAILY HEADACHE PATIENTS<br /> Vu Anh Nhi, Nguyen Anh Diem Thuy<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 306 - 312<br /> Objectives: determine the chronic daily headache entities and its clinical features and assess its impact to the<br /> quality of life of patients in University Medical Center Ho Chi Minh city.<br /> Methods: case series.<br /> Results: women make up 72.1%, men 27.9%; average age of onset is 38.5 concentrated in 31-40 years old;<br /> 76.7% had pain on bilateral; 51.2% had moderate pain; most of them have not symptoms associated with<br /> headaches. There are 4 entities: chronic migraine (16.3%), chronic tension type headache (58.1%), entity which<br /> have both characteristics (7%) and the other chronic daily headaches (18.6%). Except PF, almost patients were<br /> impaired on most scales of the SF-36.<br /> Conclusions: there are two majority entities - chronic migraine and chronic tension type headache. Quality<br /> of life of chronic daily headache patients were affected significantly on most scales of the SF-36.<br /> Keywords: headache, chronic daily headache, quality of life.<br /> một than phiền thường gặp đứng hàng thứ tư ở<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> các phòng cấp cứu(13). Theo Davenport (2008),<br /> Đau đầu là cảm giác khó chịu ở vùng đầu<br /> đau đầu là một triệu chứng ảnh hưởng đến 95%<br /> mặt, không đặc hiệu cho một bệnh lý nào và là<br /> dân số xét trong cả cuộc đời và ảnh hưởng đến<br /> Bộ Môn Thần Kinh – Khoa Y Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh<br /> Khoa Thần Kinh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương<br /> Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Anh Diễm Thúy, ĐT: 0909250417, Email: doc_thuy@yahoo.com<br /> *<br /> <br /> **<br /> <br /> 306<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa I<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> 75% dân số ở bất kỳ tuổi nào(6). Theo Nguyễn<br /> Văn Chương và cộng sự (2008), tỉ lệ mắc bệnh<br /> đau đầu là 82,8% qua điều tra ngẫu nhiên 2000<br /> người tình nguyện(16). Mặc dù chưa chính thức<br /> được xếp riêng trong phân loại quốc tế về đau<br /> đầu lần 2 (ICHD-II), đau đầu mạn tính hàng<br /> ngày (ĐĐMTHN) thường được các thầy thuốc<br /> lâm sàng dùng để ám chỉ đến một nhóm các hội<br /> chứng đau đầu khác nhau với diễn tiến mạn<br /> tính và có bằng chứng loại trừ các nguyên nhân<br /> thứ phát. Có ít nhất 90% các bệnh nhân đau đầu<br /> ở các phòng khám thần kinh ngoại trú bị đau<br /> đầu migraine, đau đầu dạng căng thẳng hay<br /> một hội chứng đau đầu mạn(6).<br /> Mặc dù nhân loại đã có những hiểu biết sâu<br /> sắc và cách nhìn toàn diện về các mặt của<br /> ĐĐMTHN từ bản chất sinh lý bệnh, các thay đổi<br /> ở mức độ phân tử cho đến cách thức điều trị<br /> nhưng vẫn còn tồn tại một số khó khăn và bàn<br /> cãi trong vấn đề chẩn đoán các thể của nó.<br /> Ngoài ra, cũng có nhiều công trình nghiên cứu<br /> và báo cáo trên thế giới cho thấy ĐĐMTHN làm<br /> suy giảm chất lượng sống của bệnh nhân một<br /> cách có ý nghĩa cả về sức khỏe tâm thần cũng<br /> như trên khía cạnh hoạt động thể chất, xã hội và<br /> nghề nghiệp(4,5,9,14,23). Nghiên cứu này nhằm tìm<br /> hiểu các thể, các đặc điểm lâm sàng và đánh giá<br /> ảnh hưởng của ĐĐMTHN đến chất lượng sống<br /> của người bệnh tại phòng khám Thần Kinh bệnh<br /> viện ĐHYD.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Tiêu chuẩn chọn bệnh<br /> Bệnh nhân từ 14 tuổi trở lên đến khám lần<br /> đầu vì ĐĐMTHN tại phòng khám Thần Kinh<br /> bệnh viện ĐHYD.<br /> <br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> Có bằng chứng về lâm sàng, CT hay MRI sọ<br /> não và các xét nghiệm khác cho thấy đau đầu là<br /> hậu quả thứ phát; đang mang thai hay có bệnh<br /> mạn tính khác kèm theo có thể ảnh hưởng đến<br /> chất lượng sống cũng như tiền sử trầm cảm hay<br /> bệnh tâm thần khác trước khi khởi phát đau<br /> đầu.<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa I<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Thu thập số liệu<br /> Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi, thăm<br /> khám và tham khảo các xét nghiệm hình ảnh<br /> học.<br /> <br /> Công cụ thu thâp số liệu<br /> Bộ câu hỏi khảo sát chất lượng sống SF-36v2<br /> mẫu chuẩn của John E. Ware.<br /> <br /> Xử lý số liệu<br /> Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần<br /> mềm SPSS 17.<br /> <br /> Các yếu tố khảo sát<br /> Giới, tuổi, nơi cư ngụ, học vấn, nghề nghiệp,<br /> mức sống, yếu tố gia đình, các thay đổi hay biến<br /> cố lớn gây căng thẳng trong cuộc sống trước khi<br /> khởi phát bệnh, tuổi khởi phát, đặc điểm-tính<br /> chất của cơn đau đầu và các triệu chứng kèm<br /> theo, các yếu tố khởi phát hay thay đổi độ nặng<br /> cơn đau, yếu tố lạm dụng thuốc, thể đau đầu,<br /> chất lượng sống dựa trên các mức điểm theo<br /> thang SF-36: PF (chức năng thể chất), RP (những<br /> hạn chế vì lý do thể chất), BP (đau thân thể), GH<br /> (nhận thức về sức khỏe tổng quát), PCS (phức<br /> bộ điểm về thể chất), VT (sinh lực), SF (chức<br /> năng xã hội), RE (những hạn chế vì lý do cảm<br /> xúc), MH (sức khỏe tinh thần), MCS (phức bộ<br /> điểm về tinh thần).<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> Số bệnh nhân dược khảo sát là 86 với 62 nữ<br /> (72,1%) và 24 nam (27,9%). Tuổi khởi phát<br /> ĐĐMTHN trung bình là 38,5 tập trung ở lứa<br /> tuổi 31-40 (27,9%). 81% bệnh nhân không có yếu<br /> tố gia đình; 94,2% không có các thay đổi hay<br /> biến cố lớn gây căng thẳng trong cuộc sống<br /> trước khi khởi phát bệnh; 68,6% có thời gian<br /> bệnh dưới 1 năm; 51% có cơn đau đầu kéo dài<br /> trên 4 giờ; 57% có tần suất 1 cơn/ngày và 69,8%<br /> có thời gian cơn thường xảy ra không cố định<br /> trong ngày. 76,7% bệnh nhân bị đau cả hai bên<br /> trong các cơn đau đầu khác nhau; 40,7% bị đau<br /> cả đầu; 51,2% có cường độ đau ở mức độ vừa<br /> với đau kiểu mạch đập chiếm 20,9% và đau kiểu<br /> cảm giác nặng chiếm 24,4%. Đa số các bệnh<br /> nhân không có triệu chứng nào đi kèm với cơn<br /> <br /> 307<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> đau đầu; 64% không có yếu tố tăng đau; 62,8%<br /> ghi nhận giảm đau khi nằm nghỉ. 58,1% có lạm<br /> dụng thuốc.<br /> <br /> Thể<br /> <br /> Bảng 1. Phân bố các thể đau đầu mạn tính hàng ngày<br /> trong mẫu nghiên cứu theo giới và tuổi khởi phát<br /> Thể<br /> <br /> Tần<br /> số<br /> 14<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> <br /> Đau đầu dạng căng<br /> thẳng mạn tính<br /> Có cả 2 đặc điểm<br /> <br /> 50<br /> <br /> 58,1<br /> <br /> 6<br /> <br /> 7<br /> <br /> Đau đầu mạn tính<br /> hàng ngày khác<br /> Tổng cộng<br /> <br /> 16<br /> <br /> 18,6<br /> <br /> 86<br /> <br /> 100<br /> <br /> Migraine mạn tính<br /> <br /> 16,3<br /> <br /> Tỉ lệ Tuổi khởi phát<br /> nữ<br /> trung bình<br /> 78,6 31,9 (tập trung<br /> 31-40)<br /> 70 39 (tập trung 3140 và 51-60)<br /> 66,7 28,7 (tập trung<br /> 21-30)<br /> 75<br /> 46,7 (tập trung<br /> 31-40)<br /> 100<br /> <br /> Ở nhóm migraine mạn tính (MMT): 57,1%<br /> bệnh nhân bị đau hai bên; cường độ đau ở mức<br /> vừa và nặng đều chiếm 42,9%; đau kiểu mạch<br /> đập phổ biến nhất chiếm 42,9%; các trường hợp<br /> có kèm theo buồn nôn nhẹ và nôn đều chiếm<br /> 42,9%; 57,1% các trường hợp sợ ánh sáng và<br /> 78,6% sợ tiếng động; 92,9% có yếu tố tăng đau<br /> chính là hoạt động thân thể hàng ngày; yếu tố<br /> giảm đau chính là nằm nghỉ trong tất cả các<br /> trường hợp; số trường hợp có và không kèm<br /> theo lạm dụng thuốc là ngang nhau.<br /> Ở nhóm đau đầu dạng căng thẳng mạn tính<br /> (ĐĐCTMT): 86% bệnh nhân bị đau hai bên; 62%<br /> có cường độ đau ở mức vừa; đau kiểu cảm giác<br /> nặng là phổ biến chiếm 40%; 82% bệnh nhân<br /> không kèm nhạy ấn đau quanh sọ; đa số không<br /> có triệu chứng đi kèm; 76% không có yếu tố<br /> giảm đau nào; nằm nghỉ vẫn là yếu tố giảm đau<br /> chính chiếm 64%; 62% không kèm theo lạm<br /> dụng thuốc.<br /> Bảng 2. So sánh giá trị trung bình các mức của<br /> thang điểm SF-36 ở bệnh nhân trong mẫu nghiên<br /> cứu với người bình thường<br /> Thể<br /> <br /> Mức<br /> <br /> Trung<br /> bình<br /> <br /> Chung<br /> <br /> PF<br /> RP<br /> BP<br /> GH<br /> PCS<br /> <br /> 90,9<br /> 53,1<br /> 42<br /> 28,9<br /> 53,6<br /> <br /> 308<br /> <br /> người Mỹ<br /> bình thường<br /> ()<br /> 84,2<br /> 80,9<br /> 75,2<br /> 71,9<br /> 50<br /> <br /> tỉ lệ dưới<br /> mức bình<br /> thường<br /> 12,8<br /> 83,7<br /> 96,5<br /> 98,8<br /> 46,5<br /> <br /> MMT<br /> <br /> ĐĐCTMT<br /> <br /> Có cả hai<br /> đặc điểm<br /> <br /> ĐĐMTHN<br /> khác<br /> <br /> Mức<br /> <br /> Trung<br /> bình<br /> <br /> VT<br /> SF<br /> RE<br /> MH<br /> MCS<br /> PF<br /> RP<br /> BP<br /> GH<br /> PCS<br /> VT<br /> SF<br /> RE<br /> MH<br /> MCS<br /> PF<br /> RP<br /> BP<br /> GH<br /> PCS<br /> VT<br /> SF<br /> RE<br /> MH<br /> MCS<br /> PF<br /> RP<br /> BP<br /> GH<br /> PCS<br /> VT<br /> SF<br /> RE<br /> MH<br /> MCS<br /> PF<br /> RP<br /> BP<br /> GH<br /> PCS<br /> VT<br /> SF<br /> RE<br /> MH<br /> MCS<br /> <br /> 43,2<br /> 46,4<br /> 56,3<br /> 48<br /> 48,2<br /> 93,2<br /> 44,2<br /> 35<br /> 30,6<br /> 50,8<br /> 40,8<br /> 38,4<br /> 53,6<br /> 44,7<br /> 44,4<br /> 91,4<br /> 56,4<br /> 45,8<br /> 29,6<br /> 55,8<br /> 45,3<br /> 50,5<br /> 58,3<br /> 50,7<br /> 51<br /> 87,5<br /> 49<br /> 39,2<br /> 30<br /> 51,4<br /> 42,7<br /> 39,6<br /> 55,6<br /> 46,7<br /> 46,1<br /> 88,8<br /> 52,3<br /> 37,3<br /> 25<br /> 45<br /> 39,1<br /> 43<br /> 52,6<br /> 43<br /> 43,8<br /> <br /> người Mỹ<br /> bình thường<br /> ()<br /> 60,9<br /> 83,3<br /> 81,3<br /> 74,7<br /> 50<br /> <br /> tỉ lệ dưới<br /> mức bình<br /> thường<br /> 67,4<br /> 94,2<br /> 89,5<br /> 90,7<br /> 51,2<br /> 7,1<br /> 100<br /> 100<br /> 100<br /> 57,1<br /> 78,6<br /> 100<br /> 100<br /> 85,7<br /> 64,3<br /> 10<br /> 80<br /> 94<br /> 98<br /> 38<br /> 64<br /> 90<br /> 84<br /> 94<br /> 38<br /> 33,3<br /> 83,3<br /> 100<br /> 100<br /> 50<br /> 66,7<br /> 100<br /> 83,3<br /> 83,3<br /> 66,7<br /> 18,8<br /> 81,2<br /> 100<br /> 100<br /> 62,5<br /> 68,8<br /> 100<br /> 100<br /> 87,5<br /> 75<br /> <br /> () Ware J.E. (2004). "SF-36 Health Survey Update".<br /> The Use of Physiological Testing for Treatment<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa I<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> Planning and Outcomes Assessment.<br /> Erlbaum Associates. 3 rd. 3. pp 693-718.<br /> <br /> Lawrence<br /> <br /> Ở nhóm có cả đặc điểm của MMT và<br /> ĐĐCTMT: 50% bệnh nhân bị đau hai bên; 50%<br /> có cường độ đau ở mức vừa và 50% đau kiểu<br /> mạch đập; 83,3% kèm theo buồn nôn nhẹ và tất<br /> cả các trường hợp đều không kèm theo nôn; đa<br /> số không có triệu chứng khác đi kèm; 50% các<br /> trường hợp không có yếu tố tăng đau và 66,7%<br /> không có yếu tố giảm đau rõ rệt; 66,7% không<br /> kèm theo lạm dụng thuốc.<br /> Ở nhóm ĐĐMTHN khác: 75% bệnh nhân bị<br /> đau hai bên; 50% có cường độ đau ở mức vừa,<br /> đau nhói và đau kiểu mạch đập đều chiếm<br /> 31,3%; 56,3% kèm theo buồn nôn; đa số không<br /> có triệu chứng khác đi kèm cơn đau đầu; 81,3%<br /> không có yếu tố tăng đau và 50% không có yếu<br /> tố giảm đau rõ rệt; số trường hợp có và không<br /> kèm theo lạm dụng thuốc là ngang nhau.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Hầu hết các nghiên cứu trên thế giới đều cho<br /> thấy tỉ lệ nữ cao hơn nam ở các bệnh nhân<br /> ĐĐMTHN(2,3,15,17). Trong nghiên cứu của chúng<br /> tôi, số bệnh nhân nữ cũng cao hơn nam một<br /> cách có ý nghĩa (72,1% so với 27,9%).<br /> Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của<br /> chúng tôi sống ở ngoại thành (87,2%). Theo tác<br /> giả Nguyễn Thị Thúy Lan, số bệnh nhân sống ở<br /> nông thôn cũng chiếm ưu thế (63%)(15).<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh<br /> nhân nghèo, thất nghiệp hoặc nghỉ hưu, tình<br /> trạng hôn nhân là ly thân hay ly dị chiếm thiểu<br /> số (7%; 16,3% và 4,7%). Theo tác giả Nguyễn Thị<br /> Thúy Lan, cũng chỉ có 17,3% số bệnh nhân được<br /> gọi là có tình trạng kinh tế kém, 11% già-hưu trí<br /> và 13,6% có tình trạng hôn nhân là ly thân hay<br /> ly dị(15). Như vậy, cả hai nghiên cứu đều cho kết<br /> quả khác với các nghiên cứu trên thế giới được<br /> thực hiện trong cộng đồng (cho thấy tỉ lệ lưu<br /> hành của ĐĐMTHN dường như tỉ lệ nghịch với<br /> tình trạng kinh tế xã hội(10,12,17,22) bởi vì cả hai<br /> nghiên cứu đều thực hiện tại phòng khám nên<br /> không phản ánh được tương quan giữa tỉ lệ lưu<br /> hành của ĐĐMTHN và tình trạng kinh tế xã hội<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa I<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> của cộng đồng. Ngoài ra, sự khác biệt có thể còn<br /> do tiêu chuẩn chọn bệnh cũng như liên quan<br /> đến đặc điểm kinh tế và bảo hiểm y tế của người<br /> dân Việt Nam.<br /> Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi lại cho<br /> thấy số bệnh nhân có trình độ văn hóa thấp (từ<br /> cấp II trở xuống) chiếm đa số (68,6%). Theo kết<br /> quả từ công trình nghiên cứu của Scher và cộng<br /> sự, tỉ lệ lưu hành của các thể đau đầu thường<br /> xuyên cao nhất ở nhóm có trình độ học vấn thấp<br /> nhất(17). Nhưng trong nghiên cứu của tác giả<br /> Nguyễn Thị Thúy Lan, chỉ có 49% bệnh nhân có<br /> trình độ học vấn từ cấp II trở xuống(15). Sự khác<br /> biệt này giữa nghiên cứu của chúng tôi và của<br /> Nguyễn Thị Thúy Lan có thể do sự khác biệt về<br /> cỡ mẫu.<br /> Về mặt tiền căn, kết quả thu được qua<br /> nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 14% số bệnh<br /> nhân có yếu tố gia đình. Trong khi đó, theo tác<br /> giả Nguyễn Thị Thúy Lan, có đến 63,1% số bệnh<br /> nhân có người thân bị đau đầu(15). Sự khác biệt<br /> giữa hai kết quả có thể liên quan đến cỡ mẫu và<br /> các tiêu chuẩn chọn mẫu. Ngoài ra, nếu như<br /> những thay đổi trong cuộc sống được xem như<br /> một yếu tố thúc đẩy ĐĐMTHN trên các mẫu<br /> lâm sàng hay các mẫu được chọn lọc khác trong<br /> các nghiên cứu trên thế giới(1,7,8) thì trong nghiên<br /> cứu của chúng tôi, chỉ có 5,8% số bệnh nhân có<br /> các thay đổi hay biến cố lớn gây căng thẳng<br /> trong cuộc sống trước khi khởi phát ĐĐMTHN<br /> vì nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại một<br /> phòng khám với cỡ mẫu nhỏ nên khó phản ánh<br /> được chính xác tương quan giữa tỉ lệ lưu hành<br /> của ĐĐMTHN với các biến cố gây căng thẳng<br /> trong cuộc sống.<br /> Nếu như Silberstein và Lipton xếp MMT và<br /> ĐĐCTMT vào nhóm ĐĐMTHN có độ dài cơn<br /> trên 4 giờ(19) thì tiêu chuẩn chẩn đoán của ICHDII lại không đưa ra mốc thời gian tối thiểu cụ thể<br /> về độ dài cơn của các thể này(11). Ngoài ra, hầu<br /> hết các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu đều<br /> không có thói quen cũng như chưa được<br /> khuyến khích ghi lại một nhật ký theo dõi đau<br /> đầu trong khi các thể ĐĐMTHN đều có một quá<br /> <br /> 309<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> trình diễn tiến kéo dài (ít nhất là 3 tháng) chưa<br /> kể quãng thời gian đau đầu trước khi chuyển<br /> sang ĐĐMTHN đã có từ rất lâu và cảm giác đau<br /> (cường độ, kiểu đau) lại phụ thuộc rất nhiều vào<br /> cảm nhận chủ quan của người bệnh. Tất cả<br /> những yếu tố này đều ảnh hưởng đến kết quả<br /> nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng của bệnh<br /> nhân ĐĐMTHN trong nghiên cứu của chúng<br /> tôi.<br /> Tuổi khởi phát ĐĐMTHN trong nghiên cứu<br /> của chúng tôi trung bình là 38,5. Trong nghiên<br /> cứu của Bigal và cộng sự tại một trung tâm đau<br /> đầu, tuổi khởi phát ĐĐMTHN trung bình ở<br /> nhóm thanh thiếu niên là 15,5 và ở người lớn là<br /> 25,4(2). Sự khác biệt này có thể do sự khác biệt về<br /> cỡ mẫu, các tiêu chuẩn chọn mẫu và cách phân<br /> tầng mẫu giữa hai nghiên cứu. Tuy nhiên,<br /> nghiên cứu của Colas và cộng sự lại cho thấy<br /> tuổi khởi phát ĐĐMTHN trung bình gần giống<br /> với chúng tôi là 38(4). Trong nghiên cứu của<br /> chúng tôi, nhóm tuổi khởi phát ĐĐMTHN cao<br /> nhất là từ 31-40 tuổi (27,9%). Theo tác giả<br /> Nguyễn Thị Thúy Lan nhóm tuổi này là 40-50(15).<br /> Sự khác biệt này có thể do cách chọn mẫu của<br /> chúng tôi để loại trừ các bệnh lý đi kèm có thể<br /> ảnh hưởng đến chất lượng sống, mà các bệnh<br /> nhân cao tuổi thường hay có các bệnh nội khoa<br /> đi kèm hơn.<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số các<br /> bệnh nhân bị ĐĐMTHN ngay từ lúc bắt đầu<br /> cũng có thể là do cách chọn mẫu. Có 68,6% số<br /> bệnh nhân ghi nhận thời gian bị ĐĐMTHN cho<br /> đến ngày đến khám tại phòng khám Thần Kinh<br /> ĐHYD dưới 1 năm do chúng tôi muốn khảo sát<br /> đặc điểm lâm sàng chính xác hơn ở các bệnh<br /> nhân đến điều trị lần đầu vì bệnh này. Theo tác<br /> giả Bigal và cộng sư, thời gian đau đầu mạn tính<br /> trung bình là 2,5 năm ở thanh thiếu niên và 16,1<br /> năm ở người lớn(2). Đa số các bệnh nhân trong<br /> nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận cơn đau đầu<br /> kéo dài trên 4 giờ (88,4%). Điều này phù hợp với<br /> thực tế là tỉ lệ lưu hành của nhóm ĐĐMTHN có<br /> độ dài cơn dưới 4 giờ (gồm đau đầu cụm, đau<br /> nửa đầu kịch phát, đau đầu lúc ngủ, đau nhói<br /> đầu vô căn và SUNCT) trong dân số là rất hiếm.<br /> <br /> 310<br /> <br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số các bệnh<br /> nhân có tần suất cơn đau đầu là 1 cơn/ngày với<br /> thời gian cơn thường xảy ra không xác định<br /> trong ngày. Điều này cũng phù hợp với thực tế<br /> là tỉ lệ lưu hành của đau đầu lúc ngủ trong dân<br /> số là rất hiếm cũng như tỉ lệ lưu hành của<br /> ĐĐHNTM và đau nửa sọ liên tục không phổ<br /> biến như ĐĐCTMT và MMT.<br /> Theo kết quả nghiên cứu chúng tôi về tính<br /> chất của cơn đau đầu nói chung ở bệnh nhân<br /> ĐĐMTHN: có 76,7% bệnh nhân bị đau cả hai<br /> bên trong các cơn đau đầu khác nhau; 51,2%<br /> bệnh nhân có cường độ đau ở mức độ vừa với<br /> đau kiểu mạch đập chiếm 20,9% và đau kiểu<br /> cảm giác nặng chiếm 24,4% các trường hợp; 64%<br /> không có yếu tố tăng đau. Theo kết quả của<br /> Nguyễn Thị Thúy Lan: có 57,1% số bệnh nhân bị<br /> đau hai bên; 60% đau ở mức độ vừa; 68,5% đau<br /> theo kiểu mạch đập; 59,5% đau kiểu thắt chặt;<br /> 61,7% kèm buồn nôn; 22,6% tăng đau khi hoạt<br /> động(15). Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cho<br /> kết quả khác với kết quả của Nguyễn Thị Thúy<br /> Lan trong hầu hết các đặc điểm về tính chất của<br /> cơn đau đầu nói chung ở bệnh nhân ĐĐMTHN<br /> và sự khác biệt này có thể do sự khác biệt về cỡ<br /> mẫu, các tiêu chuẩn chọn mẫu và cách phân<br /> tầng mẫu giữa hai nghiên cứu.<br /> Kết quả từ các nghiên cứu dịch tễ học trong<br /> Y văn cũng cho thấy sự dao động về tỉ lệ lưu<br /> hành của migraine chuyển dạng(21). Trong<br /> nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh nhân<br /> ĐĐCTMT chiếm tỉ lệ cao nhất (58,1%) kế đến là<br /> MMT (16,3%). Kết quả này cũng giống kết quả<br /> của tác giả Nguyễn Thị Thúy Lan: ĐĐCTMT<br /> cũng chiếm tỉ lệ cao nhất (44,6%) kế đến là MMT<br /> (36,5%)(15). Tong khi đó, theo kết quả của Bigal<br /> và cộng sự, tỉ lệ của MCD và ĐĐCTMT ở nhóm<br /> thanh thiếu niên lần lượt là 68,8% và 10,1%<br /> trong khi ở người lớn tỉ lệ này lần lượt là 87,4%<br /> và 0,9%(2). Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng<br /> tôi còn có 7% số bệnh nhân có các đặc điểm của<br /> cơn đau đầu thỏa cả hai tiêu chuẩn chẩn đoán<br /> của MMT và ĐĐCTMT theo ICHD-II và một<br /> nhóm mà chúng tôi tạm xếp là “ĐĐMTHN<br /> khác” chiếm 18,6%. Điều này cũng phù hợp với<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa I<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1