ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------

PHẠM THỊ HƢƠNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH

DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG

THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

------------------

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ HƢƠNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH

DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG

THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Tang Bồng

Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Luận văn có sự kế thừa các

công trình nghiên cứu của những người đi trước và có bổ sung thêm những tư

liệu mới và những kết luận mới mà chưa được công bố ở bất cứ công trình

nào khác.

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015

Tác giả luận văn

Phạm Thị Hương

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn,

giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Tang Bồng đã tận tình hướng dẫn,

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban tuyên giáo,

Bộ chỉ huy quân sự và Thư viện Tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện thuận lợi,

giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử, và

các thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức

cho tôi suốt 2 năm học qua.

Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 5

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 5

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu. ................................ 6

6. Đóng góp của Luận văn ..................................................................................... 6

7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 7

CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG

PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG

CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950) ........................................... 8

1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền thống yêu nước

cách mạng của nhân dân Thái Bình ....................................................................... 8

1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội........................................ 8

1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình ..................... 15

1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến tranh du

kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi

chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950). ................................................. 21

1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích, làng kháng

chiến. .................................................................................................................... 21

1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát động phong

trào du kích chiến tranh ....................................................................................... 22

1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng tự do, cùng

quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng

của thực dân Pháp ................................................................................................ 29

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 36

CHƢƠNG 2 ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU

KÍCH TỪNG BƢỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƢU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT,

KHỦNG BỐ, BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG (2/1950

–7/1954) ................................................................................................................ 37

2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi âm mưu thủ

đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951) ............................. 37

2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau khi Thực

dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950) ........................................................... 37

2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng kháng chiến,

đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình định của địch

(6/1950- 12/1951) ................................................................................................. 49

2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp phần cùng quân

dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (11/1951–7/1954). ................. 56

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 81

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ......... 83

3.1 Một số nhận xét .............................................................................................. 83

3.1.1 Ưu điểm ....................................................................................................... 83

3.1.2 Hạn Chế ....................................................................................................... 89

3.2. Một số bài học kinh nghiệm .......................................................................... 91

3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám đất, bám dân,

bám đánh địch. ..................................................................................................... 91

3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ ................... 96

3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình thức và

mặt trận đấu tranh................................................................................................ 98

3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó

chủ động đề ra các biện pháp chống càn ........................................................... 100

3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức

và năng lực lãnh đạo .......................................................................................... 102

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 108

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 115

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Bình là một địa

bàn chiến lược có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Đây là nơi đứng chân của

nhiều cơ quan Đảng, chính quyền, đơn vị vũ trang của Liên khu và của Hải

Phòng, Kiến An trong những ngày đầu kháng chiến. Đây cũng là nơi các hoạt

động đấu tranh của quân dân ta phá các âm mưu, thủ đoạn, thâm độc, xảo

quyệt “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”

của địch diễn ra hết sức quyết liệt và gay gắt.

Nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, nhân thức rõ tầm quan trọng của

địa bàn đối với cuộc kháng chiến của địa phương cũng như với Liên khu 3,

với toàn quốc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ

Chí Minh và của Liên khu ủy, Bộ tư lệnh Liên khu III, Đảng bộ tỉnh Thái

Bình đã sớm tổ chức, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây

dựng các làng kháng chiến, các căn cứ du kích, khu du kích liên thôn, liên xã,

liên huyện, liên tỉnh, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, biến

hậu phương địch thành hậu phương của ta, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực

địch đồng thời ra sức đóng góp sức người, sức của góp phần cùng quân dân cả

nước đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi.

Nghiên cứu tìm hiểu quá trình lãnh Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây

dựng và tổ chức phát động chiến tranh du kích, kết hợp giữa đấu tranh quân sự

với đấu tranh chính trị, xây dựng và tổ chức hậu phương, kết hợp tiến công trên

chiến trường chính và tiến công ở vùng sau lưng địch, rút ra một số kinh

nghiệm tổ chức tiến hành chiến tranh du kích ở một tỉnh đồng bằng, nằm sâu

trong vùng địch tạm chiếm, khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến đúng

đắn sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình là việc hết sức cần thiết nhằm góp phần

1

làm phong phú thêm đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và

trường kỳ của Đảng, góp phần giáo dục truyền thống, đồng thời có thể vận

dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.

Với lý do trên, tôi chọn “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến

tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-

1954)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình…

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích

trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trên địa bàn Thái

Bình nói riêng. Theo đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu có thể sắp

xếp các công trình trên theo các nhóm sau:

2.1- Các nhóm công trình do các cơ quan, các nhà khoa học cấp

trung ƣơng biên soạn:

“ Những sự kiện lịch sử Đảng”, tập 1 (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979) của

Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương biên soạn; các công trình “ Lịch sử

Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1954)”, tập 1 (Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội,1994); “Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-

1954)” tập 1, tập 2 (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1994) do Viện Lịch sử

quân sự Việt Nam biên soạn;“ Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp, thắng lợi và bài học” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996) của Ban

chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị; “ Lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu III (1945-1955)” (Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của Bộ Tư lệnh Quân khu III và Viện Lịch sử

quân sự Việt Nam; “Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống thực dân

Pháp” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998) của Bộ tư lệnh Quân khu III;

“Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954)” (Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội,2009) của Đảng bộ quân đội nhân dân Việt Nam;

“ Trung đoàn 42 trung dũng” ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995) của

2

Bộ Tư lệnh Quân khu III; “ Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả ngạn

sông Hồng (1945 -1955)” ( Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Hội

đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả

Ngạn sông Hồng; “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc

Bộ (1946-1954)” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Vũ Quang

Hiển; v.v

2.2 Nhóm công trình do địa phƣơng biên soạn :

Công trình Sơ thảo “Tổng kết lịch sử du kích chiến tranh Thái Bình”

(Tỉnh đội Thái Bình xuất bản, 1961). Cuốn sách không chỉ đưa ra những điểm

tương đồng và khác biệt về chiến tranh du kích của tỉnh Thái Bình với tỉnh

khác mà còn đưa ra những nhận định đánh giá về những ưu điểm và hạn chế

và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để quân và dân Thái Bình tiếp

tục góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.

Công trình “ Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình 1945-1954” do

Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình xuất bản năm 1989. Cuốn sách đã trình bày

khá đầy đủ những sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh trong thời kỳ này. Đặc

biệt là những sự kiện về chiến tranh du kích, các đại hội Đảng bộ tỉnh, giúp

cho người đọc dễ dàng nắm được các mốc thời gian diễn ra các sự kiện của

Đảng bộ trong giai đoạn 1930 – 1945.

Cuốn sách “Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng” của Kịch Lịch

(Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963) đã phần nào dựng lại quá

khứ hào hùng của quân và dân Tán Thuật. Với lối đánh du kích sáng tạo, linh

hoạt, quân và dân Tán Thuật đã lập lên nhiều chiến công góp phần vào thắng

lợi chung của chiến tranh du kích ở Thái Bình.

Công trình “Thái Bình đánh giặc” (Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái

Bình, 1975). Từ nguồn tư liệu của các nhân chứng lịch sử, tác phẩm đã giúp

cho người đọc phần nào có thể hình dung về một thời chiến đấu đầy khó

3

khăn, gian khổ, hy sinh nhưng cũng rất anh dũng của quân và dân Thái Bình.

Sau khi đất nước thống nhất, chủ đề chiến tranh du kích ở tỉnh Thái

Bình (1950 - 1954) vẫn được nhiều cá nhân và tập thể tiếp tục đề cập

Năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình biên soạn và xuất bản

công trình “Thái Bình kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945 -1954”, cuốn

sách đã tái hiện lại bức tranh toàn cảnh tỉnh Thái Bình từ sau Cách mạng

tháng Tám cho đến ngày Thái Bình được giải phóng, trong đó giành khá

nhiều trang viết về cuộc chiến tranh du kích của quân và dân Thái Bình.

Cũng trong năm 1999, Tỉnh ủy Thái Bình biên soạn, xuất bản cuốn

“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927 – 1954)”. Tác phẩm đã làm nổi bật

vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ khi ra đời cho đến 1954. Với

đường lối chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và

dân trong tỉnh giành được nhiều thắng lợi to lớn trên mọi lĩnh vực, trong cuộc

chiến chống thực dân Pháp.

Gần đây nhất là công trình “ Lịch sử quân sự tỉnh Thái Bình 1947- 2007”

do Đảng bộ quân sự tỉnh Thái Bình tổ chức biên soạn và xuất bản năm 2010.

Cuốn sách phản ánh quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự và

lực lượng vũ trang tỉnh, từ khi thành lập Tỉnh đội ( 1947) đến 2007.

Các công trình nghiên cứu trên đã khai thác được nguồn tư liệu rất

phong phú và sinh động. Nhưng các công trình do trung ương biên soạn chủ

yếu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Liên

khu 3 mà không thể nghiên cứu sâu về chiến tranh du kích ở Liên khu 3 nói

chung, tỉnh Thái Bình nói riêng.

Các công trình do địa phương biên soạn chủ yếu trình bày các hoạt

động tác chiến, việc đề cập đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích

của Đảng bộ còn chưa đầy đủ.

Tuy nhiên, tất cả các công trình kể trên đều rất bổ ích, không chỉ cung

cấp tư liệu mà còn giúp định hướng, gợi mở cho học viên nhiều vấn đề trong

4

quá trình thực hiện luận văn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình

trong việc phát động, tổ chức lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích ở địa

phương và những đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, quân dân Thái Bình

trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; rút ra một

số bài học kinh nghiệm cần vận dụng trong quá trình xây dựng thế trận chiến

tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng Thái Bình

thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

nước hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ

- Tập hợp, hệ thống những nghị quyết, chỉ thị, văn kiện phản ánh các chủ

trương của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III và đảng bộ tỉnh Thái Bình trong

trong quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích thời kỳ 1945-1954.

- Góp phần khẳng định vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thái Bình

và những đóng góp to lớn, xứng đáng của chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình

trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Cố gắng phản ánh những sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong quá

trình tổ chức, chỉ đạo,lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích, từ đó rút ra

một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích trên địa bàn.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ trong tổ chức lãnh đạo các

hoạt động chiến tranh du kích tại địa phương trong cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp (1946-1954).

- Những thành tích tiêu biểu của phong trào chiến tranh du kích tỉnh

5

Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: trình bày phong trào chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Về thời gian: từ sau cách mạng tháng Tám, chủ yếu từ tháng 12/1946

đến tháng 7/1954.

5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu.

5.1 Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng và những chủ trương

lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Thái Bình

trong kháng chiến chống Pháp.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng quân sự

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh, luận văn chủ yếu sử

dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, ngoài ra còn sử

dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...

5.3. Nguồn tƣ liệu

Các văn kiện của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III, các chỉ thị, nghị

quyết, báo cáo của Tỉnh ủy và của các huyện ủy thuộc tỉnh ủy Thái Bình

trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Các công trình lịch sử, tổng

kết của trung ương và địa phương đã xuất bản. Các báo cáo của các cơ quan

quân sự tỉnh Thái Bình thời kỳ kháng chiến chống Pháp; Hồi ký của các lão

thành cách mạng…

6. Đóng góp của Luận văn

- Thông qua việc trình bày các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh

Thái Bình, luận văn làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong tổ chức, chỉ

6

đạo phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn từ 1946 đến 1954.

- Góp phần phản ánh rõ hơn, toàn diện hơn cuộc kháng chiến của Đảng

bộ quân dân Thái Bình, làm nổi bật vị trí đặc biệt quan trọng của phong trào

chiến tranh du kích trên địa bàn.

- Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử cuộc

kháng chiến chống Pháp tỉnh Thái Bình.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm 3 chương

Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng phong trào chiến

tranh du kích thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1950).

Chương 2: Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích từng bước đánh

bại mọi âm mưu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch, giải phóng quê

hương (2/1950 –7/1954)

7

Chương 3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

CHƢƠNG 1

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG PHONG

TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950)

1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền

thống yêu nƣớc cách mạng của nhân dân Thái Bình

1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội

Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1546 km2 (số liệu 2003) được bao bọc bởi 3 dòng sông

lớn. Phía Tây và Tây Nam là sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định.

Phía Bắc là sông Luộc giáp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Phía Đông Bắc

là sông Hóa giáp với thành phố Hải Phòng. Phía Đông là biển cả mênh mông

với trên 54km bờ biển trong Vịnh Bắc Bộ. Cùng với 3 dòng sông lớn bao

quanh, trên địa bàn còn có 70 dòng sông lớn nhỏ.

Thời nước Văn Lang của các vua Hùng, tỉnh Thái Bình ngày nay thuộc

bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Sau khi

Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( năm 938) chấm

dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc Châu Đông.

Năm 1005, thời Tiền Lê, Châu Đông được đổi thành phủ Thái Bình. Tên Thái

Bình có từ đây. Đến thời Lý, Trần vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc các lộ

Kiến Xương, Long Hưng, Tiên Hưng. Phủ Long Hưng có các huyện Ngự

Thiên, Duyên Hà, Cổ Lan, Thần Khê. Phủ Kiến Xương có các huyện Bí,

Bồng Điền, Kiến Xương, Chân Lợi. Phủ Tiên Hưng có các huyện Thái Bình,

A Côi, Đa Dực, Tây Quan. Thời Hậu Lê, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi,

Thái Bình có 3 phủ, 11 huyện, 525 châu, xã, thôn, trang… Thời Nguyễn

vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc trấn Sơn Nam Hạ chia làm 3 phủ gồm 11

huyện, 82 tổng, 602 xã, thôn, trang, phường. Ngày 21.3.1890, toàn quyền

8

Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Tính đến ngày 1.1.1893

tỉnh Thái Bình có 2 phủ gồm 10 huyện, 79 tổng, 548 xã. Đến năm 1926 Thái

bình có 12 phủ huyện gồm 95 tổng, 814 xã và 1 thị xã. Từ sau cách mạng

tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng tổ chức lại cấp xã. Xã mới

thường gồm một số xã cũ (hoặc một số làng) hoặc là một tổng cũ. Trong

kháng chiến chống Pháp, Thái Bình có 1 thị xã và 12 huyện ( Vũ Tiên, Thư

Trì, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan, Quỳnh Côi,

Phụ Dực, Duyên Hà, Hưng Nhân, Tiên Hưng) và 162 xã. [77. Tr.145-156].

Hiện nay, Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện ( Vũ Thư, Kiến Xương,

Tiền Hải, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Thái Thụy) với 7 thị trấn và 286

xã, phường. So với các tỉnh đồng bằng Tả Ngạn sông Hồng, Thái Bình có

diện tích tự nhiên tương đối rộng. Sông Hồng đoạn chảy qua Thái Bình dài

80km qua các huyện Hưng Nhân, Thư Trì , Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải

rồi đổ ra biển theo cửa Ba Lạt chỗ rộng nhất lên tới 1000m, có nhiều đoạn

quanh co gấp khúc bên lở bên bồi, sâu từ 15 đến 30m.. Trong kháng chiến,

sông Hồng là tuyến giao thông đường thủy chiến lược đối với việc vận

chuyển lương thực, quân số, vũ khí của địch từ ngoài biển vào Nam Định, Hà

Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Phía Tây Bắc là sông Luộc (phân lưu của

sông Hồng) bắt nguồn từ Hà Xá (Hưng Nhân) chảy qua huyện Hưng Nhân,

Quỳnh Côi, Phụ Dực, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) dài 40km, chỗ rộng nhất 150m,

hẹp nhất 70m. Sông Luộc cũng là con đường thủy vô cùng quan trọng. Phía

Đông Bắc là sông Hóa dài 60km, bắt nguồn từ Lộng Khê ( Phụ Dực) chạy

theo ven huyện Thụy Anh, Phụ Dực ra biển, quãng rộng nhất là 150m, hẹp

nhất 70m. Cả ba con sông này địch đều thiết lập một hệ thống đồn bốt để bảo

vệ, gây cho ta nhiều trong bảo quản giao thông liên lạc và tác chiến. Bờ biển

Thái Bình dài 54km, có các cửa sông lớn như: cửa Ba Lạt, cửa sông Trà Lý,

cửa sông Thái Bình và cửa Lân.[76,tr.8]

Ngoài ba con sông lớn bao quanh, nội đia Thái Bình còn có 4 con sông

9

tương đối lớn khác là: Trà Lý, Diêm Hộ, Kiến Giang, Sa Lung. Thái Bình là

tỉnh duy nhất của miền Bắc không có núi rừng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu,

nông nghiệp và ngư nghiệp khá phát triển, là 1 trong những vựa lúa lớn của

đồng bằng sông Hồng. Do điều kiện tự nhiên là vùng đất được phù sa bồi đắp,

bằng phẳng, các cánh đồng phần lớn có nước quanh năm. Đặc điểm địa hình

kể trên khiến cho việc bảo đảm hậu cần, cơ động lực lượng tác chiến của quân

dân ta rất khó giữ bí mật,việc phát triển, cất giấu thóc lúa, của cải và đào hầm

hào cũng rất khó khăn…Địa hình bằng phẳng còn có lợi thế cho địch đóng cứ

điểm, xây lô cốt cao, có thể kiểm soát cả một vùng.

Thái Bình còn có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện. Từ Thái

Bình theo đường quốc lộ số 10 có thể đi Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng theo

đường 10 có thể đến Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa vào Khu 4. Đường 39

nối Thái Bình với Hưng Yên, theo đường này có thể xuống Hải Dương, lên

Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc. Cùng với 2 con đường quan trọng

này, Thái Bình còn có một hệ thống đường giao thông liên huyện là đường

216, 217,218,219,220… dài tổng cộng 500km. Hệ thống đường giao thông

ngang dọc chia cắt địa bàn Thái Bình thành từng khu vực nhỏ từ 3-7km, tuy

thuận tiện cho việc giao thông, có lợi phần nào cho cách đánh du kích,

nhưng cũng gây trở ngại cho ta khi địch chiếm đóng chốt giữ những đoạn yết

hầu với những phương tiện hiện đại của chúng.[76, tr.7]

Nhìn chung, địa hình, đất đai, khí hậu… của Thái Bình đối với hoạt

động của con người chứa đựng sẵn hai mặt: thuận lợi, ưu đãi và khó khăn,

thách thức. Những thuận lợi tạo ra khả năng cho Thái Bình xây dựng một

nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, đảm bảo yêu cầu thiết yếu cho cuộc

sống và chiến đấu. Song những khó khăn lại đòi hỏi cư dân ở đây phải cố

kết chặt chẽ, phải biết lợi dụng quy luật tự nhiên, và chiến đấu chống lại sự

tàn phá của thiên nhiên, tạo điều kiện cho ý thức cộng đồng sớm hình thành

10

và phát triển.

Trong chiến tranh đây là địa bàn địch có khả năng phát huy ưu thế về

phương tiện và vũ khí hiện đại. Thực tế đó đòi hỏi quân dân Thái Bình phải

biết lợi dụng và cải biến địa hình địa vật để tổ chức xây dựng thế trận chiến

tranh nhân dân, phát động chiến tranh du kích để duy trì và phát triển lực

lượng, chủ động đánh địch với những hình thức thích hợp.

Dân cư Thái Bình có nguồn gốc từ nhiều nơi. Họ tụ cư và hợp cư ở đây

bằng lao động, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Sau cách mạng tháng Tám dân số Thái Bình có gần 1 triệu người, mật độ dân số 650 người /km2, xếp hạng

thứ 4 của đồng bằng sông Hồng và thứ 5 so với cả nước[66, tr.104, 106]. Vì

vậy, Thái Bình được ví như là kho người mà ta và địch đều muốn giành giật.

So với các tỉnh khác thuộc châu thổ Bắc Bộ thì Thái Bình có lịch sử

hình thành đất đai và cư dân mang tính gối sóng tương đối rõ rệt. Nhiều làng

cổ thuộc vùng đất Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Vũ Thư có lịch sử trên

dưới 2000 năm. Tuy nhiên, số làng được khai phá từ thời Trần trở về sau

chiếm tỉ lệ cao, những làng coi là mới được xác lập ở Tiền Hải từ cuộc đại

khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ bắt đầu từ năm 1828 đến nay cũng đã có

lịch sử gần 200 năm. Cư dân Thái Bình vốn là sự hội tụ từ các luồng cư dân

có gốc từ Sơn Tây, Hà Đông, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Yên, Hải Dương,

Hưng Yên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Nam, Nam Định,.. và có cả một bộ phận

theo đường biển từ Bắc xuống, từ Nam ra vốn làm nghề đánh cá về sau định

cư trên đất Thái Bình. Họ mang theo những tập quán sản xuất, những truyền

thống văn hóa ở nơi ở cũ đến vùng này và nhanh chóng hòa nhập với sự phát

triển chung của nền văn hóa bản địa. Đến nay, ở Thái Bình có 58 dòng họ, cư

dân hầu hết là người Kinh.

Người dân Thái Bình sống bằng nghề nông là chủ yếu nên làng xã là

điểm quần cư của họ. Những xóm làng nhỏ liền nhau được bao bọc bởi những

cánh đồng lúa nước mênh mông, có nơi làng nọ áp lưng vào làng kia, hay chỉ

11

cách nhau một con đường hoặc một con sông đào…Trong làng có nhiều ao,

ngòi, xen lẫn với những lũy tre, ngăn cách thành từng khu vực nhỏ. Xung

quanh làng thường được bao bọc bởi các lũy tre xanh tốt, dày đặc. Nhiều làng

còn được bao quanh bởi những con sông hoặc nằm giữa cánh đồng lầy.

Làng xóm ở phía bắc tỉnh thường rải rác nhỏ hẹp khó tổ chức chiến đấu

chống địch càn quét, dễ bị địch bao vây chia cắt. Các làng xóm ở phía nam

tỉnh rộng lớn hơn, gần kề liên tiếp nhau thuận lợi cho việc xây dựng trận địa

liên hoàn và rào làng kháng chiến như những khu : Thần Huống (Thái Ninh),

Trại Chè ( Kiến Xương), Quang Thẩm (Vũ Tiên)…

Nhìn chung, làng xóm ở Thái Bình thường gọn và tập trung, dễ bị phi

pháo của địch phá hoại, nhưng cũng là chướng ngại cho địch, chúng không

thể dễ dàng triển khai hành quân theo đội hình cũng như không thể giữ vững

cự ly của các mũi tiến quân, hoặc hoạt động của cơ giới khi bị ta phá hoại

đường xá. Về phía ta, đây là nơi bộ đội địa phương và dân quân du kích có thể

tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp. Trong kháng chiến ta đã dựa vào

những xóm làng tự nhiên này để xây dựng hàng loạt làng chiến đấu các khu

căn cứ du kích, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phá âm mưu “lấy chiến

tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch.

Thái Bình là nơi sắc thái văn hoá được hội tụ và biểu hiện qua tín

ngưỡng dân gian, những lễ hội truyền thống của các làng quê trong tỉnh. Các

lễ hội với nhiều nội dung phong phú phản ánh truyền thống “uống nước nhớ

nguồn”, tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước,

quê hương. Thái Bình cũng là một trong những cái nôi của nghệ thuật chèo

truyền thống. Đã từ lâu, chiếu chèo sân đình cùng với bến nước, gốc đa là

những thành tố văn hoá quan trọng, món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi

người dân quê lúa. Qua thống kê cho thấy, trước Cách mạng tháng Tám năm

1945, ở Thái Bình có 52 gánh hát chèo, trong đó phải kể đến ba làng chèo nổi

12

tiếng là Hà Xá (huyện Hưng Hà), Khuốc (huyện Đông Hưng), Sáo Đền

(huyện Vũ Thư). Cùng với nghệ thuật chèo, múa rối nước cũng là một loại

hình sân khấu độc đáo, thể hiện sự khéo léo, tài tình của người dân quê lúa.

Bên cạnh những giá trị văn hoá phi vật thể, Thái Bình còn là nơi lưu giữ

nhiều giá trị văn hoá vật thể đặc sắc với 1.404 công trình kiến trúc cổ như:

đình, đền, phủ, chùa, miếu… Mặc dù hiện nay đã thiếu vắng nhiều công trình

do chiến tranh do thiên nhiên và cả con người tàn phá, song số còn lại cũng để

lại nhiều dấu ấn đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc tinh xảo qua từng

mảng kiến trúc tại các di tích: chùa Keo, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, đền

Trần, đình An Cố, chùa Ký Con, đình Đông Lĩnh...

Là địa phương nằm xa các trung tâm văn hoá cổ, với địa hình bị chia cắt

bởi sông nước, nhưng Thái Bình lại có truyền thống hiếu học từ khá sớm.

Trong tổng số 2.898 trí thức đại khoa Việt Nam, Thái Bình có 111 vị, trong

đó có 2 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 3 thám hoa, 26 hoàng giáp, 78 người là

tiến sĩ, phó bảng.

Ngoài tín ngưỡng dân gian, có hai tôn giáo phát triển ở Thái Bình : Phật

giáo, Thiên chúa giáo.

Đạo Phật xuất hiện ở Thái Bình cách đây khoảng hơn 2000 năm, thịnh

hành nhất vào thời Lý –Trần. Hiện nay có 770 ngôi chùa nằm trên 267 xã

phường . Có 109 chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trong đó có

17 chùa được cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 92

chùa được chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đặc biệt chùa Keo

được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia.

Đạo Thiên chúa du nhập vào Thái Bình tương đối sớm. Theo gia phả họ

đạo xứ Dương Cước - Hồng Thái - Kiến Xương thì đạo Thiên chúa có mặt ở

đây từ năm 1665. Nhà thờ xứ đầu tiên được xây dựng vào năm 1700 là nhà

thờ xứ Lai Ổn - xã An Quí - Quỳnh Phụ. Năm 1936 Tòa thánh Vatican cho

phép công giáo Thái Bình tách khỏi "Địa phận Bùi Chu" thành lập "Địa phận

13

Thái Bình" gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Từ năm 1936 đến năm 1945,

tòa Giám mục Thái Bình đã qua 5 đời Giám mục, trong đó có 2 Giám mục

người nước ngoài. Hiện nay Thái Bình có 48 nhà thờ xứ, 300 nhà thờ họ lẻ,

và 1 trường tiểu chủng viện ở Cát Đàm (Đông Quan), 1 Giám mục và 26 linh

mục với gần 10 vạn giáo dân.. Các nhà thờ thường được xây dựng ở những

nơi đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng. Thời Pháp thuộc và trong kháng

chiến hệ thống tổ chức và thủ đoạn tuyên truyền của bọn giáo sĩ phản động

luôn được củng cố và phát triển rộng rãi với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc

tinh vi, xảo quyệt. Lợi dụng hoàn cảnh đói khổ của nông dân, chúng ra sức

mê hoặc, lôi kéo nhân dân theo đạo bằng cách cho lương thực, đến nay người

dân vẫn nhớ câu “ Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Vào Việt Nam cùng với chủ nghĩa

thực dân, Thiên Chúa giáo đã bị các thế lực đế quốc lợi dụng biến một bộ

phận giáo dân thành công cụ phục vụ cho âm mưu xâm lược của chúng. Tuy

nhiên đa số giáo dân là nông dân lao động chất phác, cần cù vẫn hướng về tổ

tiên, dòng họ, gia đình, do bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột nên đều có

tinh thần yêu nước thương nòi, căm ghét đế quốc phong kiến.

Thái Bình là 1 trong những vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh

nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác nguồn lợi biển (muối, cá…), người

dân Thái Bình cón có những nghề thủ công truyền thống như dệt lụa, dệt

chiếu, rèn, đúc đồng, chạm bạc …

Là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp lại phân tán

nhiều ở nông thôn, công nghiệp hầu như không phát triển nên ở Thái Bình có

hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ.

Nông dân Thái Bình chiếm 93% dân số. Hầu hết họ là những người có

rất ít hoặc không có ruộng đất . Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, hoặc

phải làm thuê cho chúng để kiếm sống. Lợi dụng tình hình đó, bọn địa chủ ra

sức tăng mức địa tô và các khoản tô phụ, người dân phải nộp hai phần ba hoa

lợi trên diện tích lĩnh canh. Ngoài ra nông dân còn phải đóng sưu cao, thuế

14

nặng. Thêm vào đó, bọn cường hào, lý dịch địa phương lại phù thu lạm bổ,

nhiều nông dân làm quanh năm mà không đủ tiền sưu thuế. Không có tiền nộp

sưu thì bị bọn quan lại, cường hào đánh đập, kìm kẹp tàn nhẫn. Vì vậy, người

nông dân Thái Bình sớm có truyền thống đấu tranh chống áp bức bất công,

chống bọn phong kiến cường quyền và kẻ thù xâm lược.

Giai cấp địa chủ Thái Bình chiếm 2% dân số nhưng chiếm đoạt 20%

tổng số ruộng đất. Khi bị đế quốc đụng chạm tới quyền lợi và khi phong trào

cách mạng lên cao, một số địa chủ có tinh thần yêu nước đã tham gia chống

Pháp với mức độ khác nhau. Song nhìn chung đây là chỗ dựa của đế quốc để

áp bức bóc lột nhân dân ta ở vùng nông thôn.

1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình

Với vị trí trọng yếu của đất nước và đồng bằng Bắc Bộ, Thái Bình sớm

phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm. Trong nhiều thập kỷ, người dân

nơi đây rất nổi tiếng bởi ý chí kiên cường, bất khuất, lập nên bao kỳ tích anh

hùng. Ngay từ buổi đầu dựng nước, vào năm 40 sau công nguyên, hưởng ứng

lời hịch cứu nước của Hai Bà Trưng, nhiều anh hùng hào kiệt ở Thái Bình đã

nổi dậy phất cờ khởi nghĩa chống lại chế độ cai trị hà khắc của nhà Đông Hán.

Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Vũ Thị Thục ở Tiên La Trang (nay là xã

Đoan Hùng, huyện Hưng Nhân), dưới ngọn cờ “Phù Trưng phạt Hán”. Cuộc

khởi nghĩa đã tập hợp được đông đảo, nhân dân trong vùng nhanh chóng phát

triển ra khắp tỉnh trở thành cánh quân mạnh của Hai Bà Trưng ở vùng hạ lưu

sông Hồng.

Ở thế kỷ thứ VI, Thái Bình là một trong những căn cứ đầu tiên nhen

nhóm cuộc khởi nghĩa Lý Bí, lật đổ ách đô hộ của nhà Lương, lập nên nhà

nước Vạn Xuân (544-602). Đến năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng diệt

quân xâm lược Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương xây nền tự chủ, đất nước

ta bước vào thời kỳ độc lập, chấm dứt gần 1.000 năm Bắc thuộc. Tuy nhiên,

sau khi Ngô Quyền mất, triều đình khủng hoảng, đã tạo cho các thủ lĩnh địa

15

phương nổi dậy, dẫn đến loạn 12 sứ quân, Trần Lãm cai quản vùng Bố Hải

Khẩu (thành phố Thái Bình ngày nay) là sứ quân mạnh hơn cả. Biết được sức

mạnh của sứ quân Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh đã sớm tìm đến nương tựa. Sau

khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh kế tục binh quyền kéo quân về Hoa Lư,

chiêu mộ thêm binh lính và lần lượt dẹp tan các sứ quân khác, chấm dứt nội

chiến, lập nên nhà Đinh.Vào thế kỷ XIII, Thái Bình không chỉ là đất dấy

nghiệp của nhà Trần mà còn là địa bàn chiến lược trong kế sách chống giặc

Nguyên - Mông, Thái Bình trở thành hậu phương quan trọng cung cấp quân

đội, lương thảo cho cuộc kháng chiến và là tuyến phòng thủ quan trọng bảo

vệ hành cung Thiên Trường.

Đầu thế kỷ XV (1407-1427), hàng loạt các cuộc nổi dậy chống ách đô

hộ của nhà Minh nổ ra liên tục trên đất Thái Bình. Bất chấp thủ đoạn tàn bạo

của kẻ thù, nhân dân các vùng ven biển, các huyện Kiến Xương, Đa Dực đều

nhất tề đứng lên chống giặc. Dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nghĩa quân Lê

Điệt và Bùi Đằng Liêu ở Kiến Xương và 6 anh em họ Phạm là: Phạm Bôi,

Phạm Quý, Phạm Lưu, Phạm Du, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê ở huyện Đa Dực

(Phụ Dực, huyện Quỳnh Phụ ngày nay) đã tập hợp đông đảo nhân dân Thái

Bình đứng lên chống giặc. Khi Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn - Thanh Hoá thì

cả Bùi Đằng Liêu và Phạm Bôi đều đem quân vào xin nhập với đại quân của

Lê Lợi, góp phần đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập vào năm 1427. Vào

thế kỷ XVIII trước tình hình triều đình Lê – Trịnh ngày càng thối nát, hàng

loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra trên khắp địa bàn tỉnh như: cuộc khởi

nghĩa của Nguyễn Sơn (Hồng Việt, Đông Hưng), Bùi Đá, Hoàng Sỏi (huyện

Quỳnh Côi), sau phát triển sang huyện Thần Khê, Duyên Hà, tiếp đó phát

triển sang Hải Phòng phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu… chống

lại sự thối nát, mục ruỗng cùng ách áp bức bóc lột hà khắc của triều đình

phong kiến. Tuy nhiên, có ảnh hưởng lớn nhất lúc bấy giờ là cuộc khởi nghĩa

của Hoàng Công Chất. Hoàng Công Chất, người làng Hoàng Xá, xã Nguyên

16

Xá, huyện Vũ Thư đã liên kết được nhiều lực lượng ở đồng bằng, trung du và

vùng Tây Bắc kéo dài cuộc khởi nghĩa trong 30 năm. Vào thế kỷ XIX, dưới triều

nhà Nguyễn, ngọn lửa đấu tranh của nông dân nổi lên dữ dội. Tiêu biểu trong

các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta lúc đó là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá

Vành, người làng Minh Giám, xã Vũ Bình, huyện Kiến Xương. Cuộc khởi nghĩa

đã tập hợp được hàng vạn nông dân tham gia, mở rộng khắp vùng đồng bằng

duyên hải sông Hồng và đến tận Quảng Ninh. Đi đến đâu nghĩa quân cũng thực

hiện khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” và trừng trị thẳng tay bọn

phú hào, địa chủ nên được nhân dân hết lòng che chở giúp đỡ. Vào thời điểm

Pháp đánh chiếm miền Bắc lần thứ nhất (năm 1873) và lần thứ hai (năm 1882), ở

Thái Bình xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa do các văn thân sĩ phu không cam

chịu nỗi nhục mất nước, bất hợp tác với thực dân Pháp và triều đình Huế đã từ

quan về quê tổ chức nhân dân dựng cờ khởi nghĩa, bất chấp lệnh bãi binh của

triều đình. Tiêu biểu trong số đó là cuộc khởi nghĩa của cha con Nguyễn Mậu

Kiến (Động Trung, huyện Kiến Xương), tiến sĩ Nguyễn Khuê (xã Song Lãng,

Vũ Thư), cuộc khởi nghĩa của Biện Tốn (Tam Nông, huyện Hưng Hà), cử nhân

Ngự sử Phạm Huy Quang (huyện Đông Hưng), Tạ Hiện (xã Quang Lang, huyện

Thái Thuỵ) và Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm.

Những năm đầu thế kỷ XX, Thái Bình là một trong những địa phương

có phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản phát triển mạnh nhất.

Nhiều lớp học của Đông kinh Nghĩa thục được mở ra ở Động Trung,Thượng

Gia, Cần Phán.Hưởng ứng phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi

xướng nhiều thanh niên ở Thái Bình đã hăng hái xuất dương như: Ngô Quang

Đoan, Lê Văn Tập, Hoàng Chuyên, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Hữu Cương,

Phạm Tư Trực. Mặc dù các phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản

cuối cùng bị thực dân Pháp đàn áp nhưng các phong trào đó thể hiện ý chí

kiên cường bất khuất của nhân dân. Đồng thời, là cơ sở, điều kiện để chủ

nghĩa Mác-Lênin thâm nhập vào vùng đất Thái Bình dẫn đến sự ra đời của tổ

17

chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Thái Bình từ đầu năm 1927.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với lời kêu gọi của

lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc như một luồng gió mới thổi bùng ngọn lửa đấu tranh

cách mạng trong cả nước.

Trong cao trào cách mạng 1930-1931, ở Thái Bình đã diễn ra nhiều

cuộc đấu tranh quyết liệt của nông dân với chính quyền tay sai phong kiến ở

các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên, Thái Ninh, Thư Trì. Tiêu biểu là hai cuộc

biểu tình của nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng ngày 1/5/1930 và cuộc biểu

tình của nông dân Tiền Hải ngày 14/10/1930. Mặc dù các cuộc biểu tình đều

bị đàn áp khốc liệt, hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng,

trong đó có cả Ban Tỉnh uỷ đều bị địch bắt, tra tấn, tù đày nhưng nó đã mở ra

một thời kỳ mới, thời kì đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng cách mạng dưới

sự lãnh đạo của Đảng.

Từ sau cao trào cách mạng 1930-1931, những năm 1932-1935, phong

trào cách mạng trong cả nước cũng như trong tỉnh bị địch khủng bố ác liệt,

nhiều cơ sở cách mạng của Đảng bị phá vỡ. Ba Ban Tỉnh uỷ kế tiếp nhau

được thành lập nhưng đều bị địch bắt, phong trào cách mạng gặp nhiều khó

khăn. Tuy nhiên, các đảng viên và quần chúng vẫn kiên cường đứng vững,

duy trì và từng bước phát triển phong trào đấu tranh cách mạng. Từ đầu năm

1934, mặc dù không còn cơ quan lãnh đạo của tỉnh nhưng một số chi bộ ở địa

phương vẫn tiếp tục hoạt động. Hình thức chủ yếu là hoạt động hợp pháp để

duy trì cơ sở.

Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939, phong trào cách mạng phát

triển mạnh ở thành thị rồi lan về nông thôn, tạo đà phát triển cho phong trào

cách mạng ở Thái Bình. Tháng 6-1937, Hội nghị bầu Ban Tỉnh uỷ thống nhất

được tiến hành tại Vũ Lăng (Kiến Xương), gồm 7 đồng chí. Hội nghị tập

trung bàn về công tác tuyên truyền, công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần

chúng cũng như việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức

18

phong phú. Khắp nơi trong tỉnh đều nổ ra những cuộc đấu tranh chống ách áp

bức bóc lột hà khắc, đòi giảm các khoản đóng góp trong làng xã, đòi cải cách

hương thôn. Đồng thời, nông dân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc vận động

do Trung ương và Xứ uỷ phát động như: đấu tranh đòi trả tự do cho các chính

trị phạm, phản đối dự án thuế thân của Saten, cử đại biểu đi dự mít tinh ở Hà

Nội, quyên góp ủng hộ báo của Mặt trận dân chủ, ủng hộ nhân dân Trung

Quốc chống Nhật…

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 11-1939,

Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 quyết định chuyển hướng hoạt

động. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương

thay cho Mặt trận dân chủ. Tại Thái Bình, việc chuyển hướng các mặt trận

công tác cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đã được Ban Tỉnh uỷ

thực hiện.

Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta sống

trong tình cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát

xít Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương đã

họp và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết thảy mọi

tầng lớp nhân dân tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tỉnh đã triển khai chỉ thị của Trung ương

Đảng, triệu tập cuộc họp đại biểu Việt Minh các phủ, huyện tại Động Trung,

huyện Kiến Xương, bàn biện pháp mở rộng cơ sở cứu quốc, thành lập Ban

chấn chỉnh phong trào. Giữa lúc đó, Thái Bình xảy ra nạn đói, trong vòng 5

tháng đầu năm 1945, toàn tỉnh đã có 28 vạn người chết (chiếm gần 30% dân

số toàn tỉnh lúc đó). Ban chấn chỉnh phong trào đã lãnh đạo vận động cuộc

cứu đói trong dân, đấu tranh với chính quyền bù nhìn thân Nhật để cứu tế.

Tháng 4-1945, Ban chấn chỉnh phong trào họp tại Động Trung, huyện

Kiến Xương, đổi tên thành Ban Tỉnh uỷ lâm thời và bầu Ban Thường vụ do

19

đồng chí Nguyễn Đức Tâm (Tâm Hậu) làm Bí thư. Hội nghị tiến hành một số

nhiệm vụ cấp thiết để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền như:

chuẩn bị về lực lượng, tổ chức, thành lập an toàn khu Phương Quả (huyện

Quỳnh Côi), tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát xít Nhật và

bè lũ tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Ban Tỉnh uỷ

lâm thời, phong trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra sôi nổi trong toàn tỉnh.

Đến cuối tháng 7-1945, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh đã lên

đến cao trào, cơ sở cứu quốc phát triển nhanh chóng, không khí chuẩn bị khởi

nghĩa sục sôi khắp nơi. Ngày 18-8-1945, sau khi nhận được lệnh Tổng khởi

nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã họp phiên bất thường tại

Thái Ninh ra lệnh tổng khởi nghĩa. Chiều ngày 18-8-1945, cuộc khởi nghĩa nổ

ra đầu tiên ở Thái Ninh, tiếp sau đó là ở thị xã Thái Bình, các huyện Duyên

Hà, Thuỵ Anh, Hưng Nhân, Kiến Xương, Vũ Tiên, Tiền Hải, Thư Trì. Đến

hết ngày 24-8, các địa phương trong toàn tỉnh đều đã giành được chính quyền.

Tối ngày 24-8, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập.

Ngày 25-8-1945, khắp nơi trong tỉnh tổ chức mít tinh mừng thắng lợi của

tổng khởi nghĩa và thành lập chính quyền cách mạng.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan ách thống trị

của thực dân, đế quốc trong gần 100 năm và xóa bỏ chế độ phong kiến gần

1000 năm, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, nhân dân đứng lên

làm chủ vận mệnh của mình.

Sau cách mạng tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thái

Bình bước vào cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân

dân. Bên cạnh những thuận lợi căn bản là những khó khăn vô cùng to lớn.

Trước tình hình đó, Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt tài tình đưa

nước ta thoát khỏi thế “ ngàn cân treo sợi tóc”, rồi sau đó bước vào cuộc chiến

20

đấu lâu dài với thực dân Pháp mà ta biết chắc là không thể tránh khỏi.

1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến

tranh du kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mƣu mở

rộng phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950).

1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích,

làng kháng chiến.

“Chiến tranh du kích là chiến tranh được tiến hành theo phương thức

đánh địch tại chỗ với lực lượng nhỏ, nòng cốt là lực lượng vũ trang địa

phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về sức mạnh quân sự.

Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược khi so sánh lực

lượng ở những nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính quy. Chiến

tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn phối

hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy. Ở Việt Nam chiến tranh du kích trở

thành một trong những phương thức tiến hành chiến tranh trong kháng chiến

chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, trong đó tư tưởng không ngừng tiến

công địch và kiên trì bám trụ, làm chủ làng (bản), xã, phố phường, kết hợp

đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công quân sự với nổi

dậy của quần chúng giành và giữ quyền làm chủ ở cơ sở là đặc trưng tiêu biểu

của chiến tranh du kích ở Việt Nam”[38,tr.224]

“Căn cứ du kích là vùng lãnh thổ và dân cư được giải phóng nằm trong

vùng địch tạm chiếm được xây dựng thành căn cứ của chiến tranh du kích. Ở

Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ

du kích có đặc trưng là: chính quyền và lực lượng vũ trang của đối phương đã

bị tiêu diệt, các tổ chức chính trị phản động đã tan rã; chính quyền cách mạng

được thành lập công khai quản lý mọi sinh hoạt xã hội, các đoàn thể cách

mạng công khai hoạt động; lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức và

phát triển mạnh mẽ để bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến công địch; còn

trong vòng vây của địch, tình hình chưa được ổn định, thường xuyên bị địch

uy hiếp. Nếu căn cứ du kích được củng cố vững chắc sẽ phát triển thành vùng

21

giải phóng”[38,tr.226].

“Khu du kích là khu vực dân cư nằm trong vùng địch tạm chiếm, ở đó

có chiến tranh du kích của lực lượng kháng chiến và thường xuyên diễn ra

tranh chấp giằng co với địch để giành quyền làm chủ hoàn toàn.

Đặc điểm của khu du kích là: chính quyền cách mạng chưa hình thành

hoặc đã hình thành những hoạt động bí mật hoặc nửa công khai, các lực lượng

vũ trang cách mạng chưa đủ sức diệt hết các cứ điểm của đối phương; chính

quyền và một số cứ điểm của đối phương tồn tại nhưng không đủ sức kiểm

soát, khống chế nhân dân như cũ, các đơn vị của đối phương không dám tự do

để lại, các tổ chức phản cách mạng và gián điệp hoạt động nửa công khai,

không đủ sức khống chế nhân dân; nhân dân được cách mạng bảo vệ nhưng

chưa thoát khỏi sự kìm kẹp của địch vừa lo đóng góp cho cách mạng vừa phải

cống nạp một phần cho địch. So với căn cứ du kích, khu du kích có thể rộng

lớn hơn về mặt giới hạn địa lý nhưng đời sống chính trị xã hội của dân chưa

an toàn, ổn định. Khu du kích là bước quá độ từ cơ sở chính trị của kháng

chiến tiến lên căn cứ du kích”[ 38,tr.568].

“Làng xã kháng chiến, làng xã được xây dựng và chuẩn bị mọi mặt để

nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vừa sinh sống vừa bám trụ đánh

địch và đấu tranh chống địch. Làng xã kháng chiến được xây dựng vững

mạnh toàn diện: tổ chức đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể nhân dân

được tổ chức và giáo dục chu đáo; thế trận, công sự, vật cản và các cơ sở vật

chất khác được chuẩn bị trước và trong quá trình chống địch đã phát huy tốt

vai trò cơ sở của chiến tranh nhân dân”[38,tr.583].

1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát

động phong trào du kích chiến tranh

Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, sau Hiệp định sơ bộ 6-3-

1946 thực dân Pháp, tăng quân trái phép và bố trí lực lượng chiếm đóng các

22

vị trí then chốt trên đất nước ta như Hà Nội, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng.

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng (26-11-1946)

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: “Nếu quân

Pháp tái diễn ở Hà Nội việc chúng đã làm ở Hải Phòng thì cả nước sẽ nhất tề

đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược”. “Quân Pháp chỉ chờ cơ hội là lập

tức đánh ta. Ta cần tìm mọi cách để tránh nổ ra chiến tranh. Trong khi hết sức

tích cực, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, tuyệt đối không sa vào âm mưu

khiêu khích để địch lợi dụng đánh ta sớm. Ở thành thị biến mỗi thành phố

thành một chiến hào, ở nông thôn mỗi làng thành một pháo đài. Kháng chiến

của ta sẽ là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” [42,tr.33]

Khi khả năng hòa hoãn không còn nữa, mọi nhân nhượng đến giới hạn

cuối cùng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động

kháng chiến toàn quốc.

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, đường lối kháng chiến

của Đảng đã sớm được hình thành trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”

của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của

Thường vụ Trung ương Đảng (22-12-1946) và được giải thích cụ thể trong tác

phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng Bí thư Trường

Chinh. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ

và tự lực cánh sinh. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ,

không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng

lên đánh thực dân Pháp , cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm

dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra

sức chống thực dân, cứu nước” [69,tr.480].

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị của

Thường vụ Trung ương Đảng, công tác chuẩn bị kháng chiến, sẵn sàng chiến

đấu được tiến hành hết sức khẩn trương. Các thành phố, thị xã đều xúc tiến kế

23

hoạch tác chiến.

Chiến trường Chiến khu 3 gồm những tỉnh có đô thị lớn có đường giao

thông chiến lược quan trọng như: Nam Định, Kiến An, Hải Phòng… Theo

hiệp định sơ bộ địch được đóng trú tại đây từ đầu tháng 3 năm 1946. Tháng 3-

1947, địch cho một tiểu đoàn biệt kích đột nhập vào thị xã Thái Bình nhằm

mục đích: Thăm dò lực lượng của ta, chặn đường tiếp viện, giải vây quân

chúng đang bị ta xiết chặt vòng vây ở thành phố Nam Định, cài lại tổ chức

gián điệp, đồng thời đưa 1 số linh mục người Pháp về Hà Nội. Chúng chỉ

đóng ở đây 2 ngày, 2 đêm rồi bí mật rút lui.

Thái Bình tạm thời là vùng tự do, chưa bị chiếm đóng nên có nhiều

nhân lực, vật lực cung cấp cho tiền tuyến và chuẩn bị kháng chiến tại chỗ khi

chiến tranh lan tới. Nhưng trước tình hình thực dân Pháp tăng cường càn quét

nhằm mở rộng vùng chiếm đóng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, mở rộng vùng

ven đường quốc lộ 5. Liên khu ủy khu 3 nhận định: thế nào địch cũng đánh

Thái Bình và chỉ thị cho tỉnh phải tăng cường công tác chuẩn bị sẵn sàng

chiến đấu, lập các phương án tác chiến, chú trọng phát triển sản xuất…

Để tiến hành chiến tranh nhân dân phải tiến hành vũ trang cho nhân dân,

phát động phong trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân

tham gia tác chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào

để bổ sung và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài” [76, tr.314].

“ Toàn dân và dân quân du kích bổ sung cho quân đội chính quy. Dân

quân nhiều làng, nhiều tổng hợp lại cùng đánh có thể thành đội du kích địa

phương; đội du kích địa phương tiến bộ, họp lại cùng đánh, có thể thành quân

chính quy. Trong cuộc kháng chiến lâu dài của ta, từ thường dân đến quân

chính quy, có một quá trình phát triển luôn luôn không dứt. Ta xem đó đủ

biết, nhân dân là nguồn nhân lực của bộ đội và dân quân du kích là nơi tuyển

lựa đội viên, rèn luyện chiến sĩ. Dân quân mạnh thì bộ đội khỏe, Dân quân du

kích và quân đội chính quy cùng khỏe thì nhất định thắng” [41,tr.315 và 316].

24

“ Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực

lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu

được thắng lợi” [75,tr.173].

Căn cứ vào tình hình thực tế, ngày 21-2-1947 Ủy ban kháng chiến hành

chính tỉnh Thái Bình đã họp và nhất trí tách Ủy ban quân sự thuộc Ủy ban

kháng chiến hành chính tỉnh để thành lập Tỉnh đội dân quân.

Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên “Bộ Tổng chỉ huy quân

đội quốc gia Việt Nam” thành “ Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân

quân tự vệ Việt Nam”; đồng thời quyết định thành lập các Ban chỉ huy tỉnh

đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc ủy ban hành chính các cấp.

Ngày 20-4-1947 Tỉnh đội dân quân Thái Bình chính thức ra mắt tại khu

nhà Séc trong sân vận động phủ Sóc – Kiến Xương, đồng chí Vũ Đan Tùng

giữ chức Tỉnh đội trưởng. Sau khi thành lập Tỉnh đội dân quân, các huyện

đội, xã đội dân quân trong toàn tỉnh đều được thành lập và đi vào hoạt động.

Sự ra đời của Tỉnh đội dân quân, các huyện đội, xã đội dân quân là cột mốc

đánh giá sự phát triển của lực lượng vũ trang trong tỉnh. Sự kiện này cũng

khẳng định công cuộc chuẩn bị cho kháng chiến về mặt quân sự của Đảng bộ,

quân dân Thái Bình đã có bước phát triển mới.

Giữa năm 1947, Ban chỉ huy mặt trận Thái Bình được thành lập gồm:

đại biểu Vệ quốc quân (tiểu đoàn 53), đại biểu cảnh vệ Tỉnh đội ; đại biểu dân

quân du kích.

Ở các huyện, lực lượng vũ trang lúc này có từ 1 trung đội đến 1 đại đội.

Khi bổ sung quân số cho tỉnh, huyện lại lựa chọn một số dân quân tự vệ các

xã thành lập đơn vị du kích tập trung của các huyện. Từ chỗ do Mặt trận Việt

Minh tổ chức lãnh đạo chỉ huy, từ tháng 3-1947 lực lượng bán vũ trang của

Thái Bình và các địa phương trên toàn quốc thống nhất gọi là dân quân và du

kích do cấp ủy chính quyền các xã trực tiếp lãnh đạo chỉ huy. Đây là các mốc

25

lịch sử đánh dấu ba thứ quân của quân đội ta chính thức hình thành.

Về tổ chức dân quân gồm nam giới và nữ giới từ 18 đến 45 tuổi, chia

thành các trung đội, tiểu đội do xã đội, thôn đội trực tiếp chỉ huy, làm nhiệm

vụ canh gác giữ làng. Riêng du kích được tổ chức chặt chẽ hơn, gồm những

người tích cực nhất trong dân quân, cũng như ở các đoàn thể, không phân biệt

già trẻ, nam nữ phiên chế thành các tiểu đội, trung đội nam du kích, nữ du

kích, lão du kích và thiếu nhi du kích. Điều kiện trở thành du kích phải qua sự

giới thiệu của đoàn thể hoặc tập thể du kích nhận xét.

Dân quân du kích tổ chức theo hệ thống thôn, xã. Thôn có du kích và

dân quân do thôn đội chỉ huy. Xã đội chỉ huy chung và trực tiếp điều động

dân quân du kích ở các thôn. Riêng xã có lực lượng du kích tập trung.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, ngày

25-1-1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh 120-SL thành lập Liên khu 3

trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2, Chiến khu 3 và Chiến khu 11, gồm các tỉnh,

thành phố: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội,

Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Hòa Bình. Từ giai

đoạn này,công tác quân sự tỉnh Thái Bình đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của

Liên khu ủy – Bộ Tư lệnh Liên khu 3.

Sau một thời gian thực hiện chủ trương phát triển lực lượng vũ trang cơ

sở, đến tháng 8-1948, số dân quân trong toàn tỉnh phát triển lên tới 115.000

người, du kích có trên 15.000 người. Đến tháng 8-1949, số lượng dân quân du

kích toàn tỉnh có 160.191 người trong đó có 34.000 du kích. Mỗi xã trung

bình có 150 du kích như Cổ Tuyết (Quỳnh Côi), Thần Huống (Thái Ninh).

Tuy lực lượng đông, nhưng vũ khí trang bị của dân quân du kích còn rất

thiếu thốn. Hầu hết mới chỉ có mìn, lựu đạn, gươm đao, mã tấu. Để đảm bảo

vũ khí trang bị, tỉnh ủy chủ trương thành lập công binh xưởng của Tỉnh và

thành lập các tổ sửa chữa vũ khí của mỗi huyện. Chủ trương đúng đắn trên đã

từng bước đáp ứng được một phần nhu cầu trang bị cho dân quân du kích.

26

Nhân dân các xã đều tổ chức Hội bảo trợ dân quân và phát động phong trào

ủng hộ dân quân du kích mua sắm vũ khí. Nhờ đó nhiều xã đã mua thêm được

hàng trăm mìn, lựu đạn như An Định (Thụy Anh), Cát Hộ, Thượng Phương

(Đông Quan). Có nơi nhân dân đặt ra mức thi đua, nhà có trâu ủng hộ 2 mìn,

có bò ủng hộ 2 lựu đạn v.v…Những đám cưới đời sống mới cũng thách cưới

mìn, lựu đạn thay lễ vật

Trước kia phụ nữ lấy chồng

Thách cốm cùng hồng tiền gạo liên miên

Bây giờ phụ nữ kết duyên

Bỏ lối thách tiền thay thế mìn gang

Để cho du kích trong làng

Có thêm vũ khí đánh tan quân thù.

Được nhân dân hết lòng giúp đỡ, dân quân du kích từng bước được

nâng cao trình độ chính trị, quân sự. Tuy nhiên trong quá trình phát triển lực

lượng vũ trang từ tỉnh đến huyện xã cũng bộc lộ một số khuyết điểm: Giai

đoạn đầu (1947-1948) lực lượng dân quân du kích phát triển ồ ạt, dẫn đên tình

trạng đông về số lượng (đầu năm 1948 mỗi huyện đã có một đại đội du kích

tập trung), nhưng chất lượng chưa đảm bảo, trang bị vũ khí thiếu thốn; việc

cung cấp cho lực lượng vũ trang còn khó khăn, công tác huấn luyện còn nặng

hình thức. Đến giữa năm 1949, lực lượng dân quân, du kích trong toàn tỉnh

không những chỉ tăng về số lượng, chất lượng, mà còn rất đa dạng gồm du

kích tập trung ở tỉnh và huyện; nam du kích; nữ du kích; lão du kích; dân

quân; du kích bí mật..v.v.

Ngoài ra nhiều xã còn có Hội mẹ nuôi du kích để động viên và giúp đỡ

dân quân du kích .

Cùng với việc xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng dân quân

du kích, việc xây dựng làng kháng chiến ở Thái Bình được đặc biệt trú trọng.

Chấp hành nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy: “Phát triển chiến tranh

27

du kích, phát động toàn dân xây dựng thôn trang chiến liên hoàn, chuẩn bị

phối hợp giữa chủ lực và địa phương, giữa nội tuyến và ngoại tuyến” [13;84],

ngay từ đầu năm 1947, công tác xây dựng làng kháng chiến đã được tiến

hành. Thời gian này mới chỉ tập trung vào rào những làng ven sông lớn, ven

biển, nơi được coi là trọng điểm của các địa phương như: Minh Tân (Kiến

Xương), Quang Thẩm, Mỹ Lộc (Thư Trì), Hồng Châu, Dũng Tiến (Thụy

Anh), Thần Huống (Thái Ninh), Phong Châu, Nguyên Xá (Tiên Hưng)….

Việc xây dựng làng kháng chiến được các ủy viên quân sự từ tỉnh,

huyện, xã trực tiếp chỉ đạo. Làng kháng chiến ban đầu cấu trúc còn đơn giản.

Bên ngoài trồng tre, trong là lũy đất rồi đến hào giao thông, bên trong là công

sự chiến đấu. Nhân dân trong làng ra vào bằng các cổng (có cổng chính và

cổng phụ), cổng các làng được làm bằng tre để nguyên thân ghép lại thành hai

lớp, giữa ghép đầy rào gai, đóng mở bằng cách chống lên, hạ xuống.

Đầu 1948, địch tăng cường đánh phá các làng xã ven sông lớn, ven

biển, phong trào xây dựng làng kháng chiến càng diễn ra sôi nổi. Nhân dân lợi

dụng địa hình sẵn có: ụ đất, mồ mả, sông ngòi, ao hồ, lũy tre, đường xá vào

việc xây dựng làng chiến đấu. Trong các lũy đất có lỗ châu mai, trong làng có

nhiều ổ tác chiến bố trí hai bên vệ đường để khi tiến hay lui vẫn có thể đánh

địch. Hầm hố cá nhân tránh phi pháo được đào khắp trong làng. Nơi đất trũng

cững có các hố cá nhân nửa chìm, nửa nổi. Nhiều làng đã đào được hầm bí

mật để bộ đội dân quân du kích ở lại tác chiến. Có làng được rào thành nhiều

tuyến có giao thông hào liên hoàn hỗ trợ cho nhau khi đánh địch, các cổng

làng đều được củng cố lại, có dân quân du kích canh gác ngày đêm, kiểm tra

giấy tờ, người lạ mặt, nhất là những làng có đơn vị bộ đội hay cơ quan đóng.

Tính riêng trong tháng 11-1948, tỉnh Thái Bình đã xây dựng được 105 làng

kháng chiến, trong đó có 10 làng kháng chiến kiểu mẫu.

Sang năm 1949, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng làng kháng chiến của

Kiến An, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và các tỉnh miền Bắc mới bị địch

28

chiếm, quân dân Thái Bình lại sôi nổi phong trào tu sửa và xây dựng làng

kháng chiến. Sau khi phân tích tình hình địch, tình hình địa bàn và tầm quan

trọng của từng địa phương, tỉnh đã quyết định phân làng kháng chiến trong

toàn tỉnh ra làm nhiều khu vực: khu vực ven biển có năm khu, khu vực ven

sông lớn có tám khu, dọc đường 10 có chín khu. Mỗi khu có nội dung xây

dựng và phương pháp tác chiến phù hơp. Đến tháng 6-1949 toàn tỉnh đã có

425 làng kháng chiến (chiếm 51,2%). Ngoài những làng kháng chiến kiểu

mẫu ở các huyện xã, một số nơi còn xây dựng khu “quyết tử” như ở An Cố

(Thụy Anh), Hội An (Vũ Tiên).

Làng kháng chiến ra đời thuận lợi cho việc tập luyện của dân quân du

kích, thuận lợi cho việc đánh trả địch đổ bộ cướp phá, nhân dân có thể sơ tán

người, của và chuẩn bị tác chiến một cách chủ động, địch di chuyển lực lượng

khó khăn hơn.

Tính từ năm 1946 đến hết năm 1949, Thái Bình đã tranh thủ thuận lợi là

tỉnh tự do duy nhất của khu vực Tả ngạn sông Hồng để xây dựng lực lượng vũ

trang, căn cứ du kích, phát triển kinh tế để cung cấp nhân lực, vật lực cho tiền

tuyến và chuẩn bị kháng chiến tại chỗ khi chiến tranh lan tới.

1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng

tự do, cùng quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng

phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp

Là tỉnh tự do cuối cùng của khu vực Tả ngạn sông Hồng, đảng bộ quân

dân Thái Bình có trách nhiệm lớn trong việc đón tiếp các cơ quan, ban

nghành, đoàn thể của các tỉnh, huyện đã bị địch chiếm đóng, rút về đứng chân

trên địa bàn và giúp đỡ đồng bào tản cư. Năm 1947, tỉnh Thái Bình đã giúp

đỡ 7 vạn đồng bào từ Hải-Kiến, Hải Dương, Hưng Yên tản cư về Thái Bình

ổn định cuộc sống.

Tuy chưa mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Bình nhưng từ đầu năm

1947 đến đầu năm 1950, thực dân Pháp đã cho quân đánh vào nội địa Thái

29

Bình 159 lần, máy bay của chúng đã ném xuống các địa bàn trong tỉnh 877

quả bom, 99 lần pháo kích từ tàu chiến hoặc từ các tỉnh xung quanh vào Thái

Bình [18,tr.121].

Các trận tập kích, bắn phá của địch trong thời gian này đã gây tổn thất

lớn về người và của cho nhân dân trong tỉnh làm 778 người chết, 525 người bị

thương, đốt cháy 5.454 nóc nhà, bắt và bắn chết 292 con trâu, bò, bắn đắm 16

thuyền, bắt 123 người và cướp 12.410 thùng thóc[18,tr.122].

Sau sự kiện địch tập kích vào thị xã, ngày 14-4-1947 các cơ quan và

nhân dân đã nhanh chóng sơ tán về các vùng nông thôn. Cơ quan quân sự của

tỉnh kịp thời tổ chức, nắm địch từ xa, xem xét việc bố phòng ở những nơi

xung yếu, đồng thời đẩy mạnh công tác an ninh tiễu trừ nội phản. Đầu năm

1947, bộ đội và công an tỉnh đã bắt 40 tên phản động thuộc tổ chức “ xã hội

công giáo Hưng Thái” khi chúng đang họp ở Phú Ân –Kiến Xương. Từ cuối

năm 1948 đến giữa năm 1949, lực lượng vũ trang đẩy mạnh hơn các hoạt

động truy quét những tổ chức phản động, giữ gìn an ninh chính trị. Ngày 20 -

11-1948, ta bắt 37 tên trong tổ chức “ Mặt trận quốc gia Liên Việt” tại Văn

Hạnh- Lê Lợi –huyện Kiến Xương. Ngày 29-11-1948 ta bắt 12 tên còn lại của

tổ chức này. Tháng 3-1949, ta phát hiện và triệt phá 3 trạm thu tin của bọn

phản động, núp dưới danh nghĩa là chủ hiệu ảnh, giáo viên bình dân học vụ ở

Bến Hiệp, phố huyện Quỳnh Côi, ngã tư Môi – Phụ Dực.

Do các tổ chức đảng trong lực lượng quân sự ngày càng được củng cố,

tăng cường, nên từ đầu năm 1948 trở đi, lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh đã

chuyến biến mạnh mẽ cả về tư tưởng và hành động. Trong hai năm (1948-

1949) quân dân Thái Bình đã đánh địch 132 trận, diệt 118 tên, làm bị thương

trên 300 tên, bắn cháy 8 tàu chiến, ca nô. Những trận đánh trên đã động viên cổ

vũ, khích lệ mạnh mẽ tinh thần và quyết tâm chiến đấu của quân dân trong tỉnh.

Tháng 3-1949, Đại đội Lê Lợi (chủ lực của tỉnh) phối hợp với bộ đội

trung đoàn 42 bắn cháy 2 tàu chiến và 1 ca nô của địch ở An Tứ (Tiền Hải).

30

Ngày 26-12-1949, du kích xã Đào Tạo (Phụ Dực) phối hợp với bộ đội Kiến

An đánh đoàn ca nô vận tải của địch trên sông, bắn cháy 2 chiếc trong số 7 ca

nô của chúng. Bọn địch trên các ca nô còn lại đổ bộ lên bờ, quân ta chiến đấu

quyết liệt. Không tiêu diệt nổi lực lượng của ta, địch rút xuống ca nô và điều

thêm lự lượng đến giải vây. Phán đoán được địch sẽ tiếp tục quay lại, chiến sĩ

ta đã gài mìn ở những địa điểm địch sẽ đổ quân. Đúng như dự đoán, vào lúc

14 giờ chiều cùng ngày, bọn chúng tiếp tục đổ bộ lên bờ và sa vào bãi mìn

của quân ta, 30 tên địch bị thương vong…

Trong các trận đánh trả địch bảo vệ địa bàn, các đảng viên trong bộ đội

và dân quân du kích luôn là những người đứng đầu đơn vị dũng cảm chiến

đấu tiêu diệt địch, động viên cổ vũ đồng đội chiến đấu góp phần vào thắng lợi

của các trận đánh.

Do yêu cầu của công tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương dưới

sự lãnh đạo của Đảng bộ, từ cuối năm 1948 công tác xây dựng Đảng trong các

đơn vị bộ đội tỉnh huyện và du kích tập trung được đẩy mạnh. Đến tháng 9-

1949, ở các đơn vị bộ đội tỉnh, tỷ lệ đảng viên đã chiếm 15%. Số đảng viên

trong lực lượng du kích có 9.274 đồng chí trong tổng số 30.400 du kích toàn

tỉnh [76,tr.25].

Cùng với công tác xây dựng Đảng, từ ngày 19-2-1949 đến ngày 19-

5-1949 Tỉnh ủy Thái Bình phát động phong trào thi đua “ Ba tháng chuẩn

bị tổng phản công” với nội dung nhằm vào 2 nhiệm vụ trọng tâm là quân sự

và kinh tế. Chỉ trong vòng 3 tháng (tháng 2 đến tháng 5-1949) số dân quân

du kích trong tỉnh đã tăng 28,6% so với trước ngày 19-2-1949. Tỉnh đã tổ

chức huấn luyện cho 121.383 lượt dân quân du kích. Số thanh niên gia

nhập lực lượng vũ trang trong vòng 3 tháng chiếm 13,2 % tổng số người

trong độ tuổi từ 18 đến 45 (kể cả nam, nữ). Toàn tỉnh lập thêm 63 làng

kháng chiến, đưa số làng kháng chiến trong tỉnh đến ngày 19-5-1949 là 265

làng. Toàn tỉnh đào thêm 385.457 hố cá nhân, 18.320 hầm bí mật, 739.457

31

mét giao thông hào [20,tr.121].

Những thành tích mà quân và dân trong tỉnh đạt được trong dợt thi đua

“Ba tháng chuẩn bị tổng phản công” là bước chuẩn bị hết sức quan trọng giúp

Thái Bình bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.

Đến giữa năm 1949, địch đã đánh chiếm hầu hết các tỉnh Nam Định,

Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Hải Phòng. Chúng thường xuyên

dùng ca nô, tàu chiến chạy trên sông Hồng, sông Luộc, dùng lực lượng bộ

binh đổ bộ lên các làng ven sông, ven biển cướp của giết người, thăm do lực

lượng của ta. Trước tình hình trên, theo chỉ đạo của Liên khu ủy tháng 7-1949

tỉnh ủy Thái Bình tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ.

Đại hội đánh giá tình hình cấp bách trước mắt, quyết định phải khẩn

trương tích cực chuẩn bị cho kháng chiến, tiếp tục rào làng thành khu chiến

đấu liên hoàn để có thể hỗ trợ nhau khi xảy ra chiến đấu, thực hiện cho được

phương châm “Mỗi làng là một pháo đài”; nâng cao chất lượng bộ đội địa

phương và dân quân du kích; thường xuyên diễn tập chiến đấu và báo động

phòng không để kiểm tra các phương án đánh địch .

Đại hội chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho

đảng viên, đưa đảng viên vào bộ đội và dân quân du kích, Thường vụ Tỉnh ủy

phải trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang tỉnh.

Thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, toàn tỉnh sôi nổi trong

phong trào xây dựng “Khu chiến đấu liên hoàn”, “Thôn trang chiến” tạo nên

thế trận, tạo cơ sở chiến đấu và chiến thắng cho chiến tranh du kích ở cơ sở.

Bộ đội địa phương và dân quân du kích hăng hái luyện tập ngày đêm.

Từ tháng 6 đến tháng 9-1949, lực lượng vũ trang tỉnh Thái Bình hăng

hái hưởng ứng đợt thi đua “Luyện quân lập công” do Ủy ban kháng chiến

hành chính Liên khu phát động, tập trung vào những nội dung chính: củng cố

và phát triển lực lượng dân quân du kích, nâng cao chất lượng huấn luyện,

củng cố và phát triển làng kháng chiến, tổ chức mọi người dân đều trở thành

32

người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương.

Được Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Tỉnh đội chỉ đạo,

lại được các đoàn thể hết sức cổ vũ động viên giúp đỡ, công tác huấn luyện

dân quân du kích lực lượng chiến đấu trực tiếp bảo vệ làng xã ơ cơ sở, cũng là

lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp của chiến tranh du kích, chiến tranh

nhân dân ở cơ sở được đẩy mạnh. Tính từ tháng 6 đến tháng 9-1949, dưới sự

chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh đội dân quân, toàn tỉnh đã được 7000 lớp huấn

luyện cho nam nữ dân quân du kích các huyện và các thôn xã với trên 50.000

lượt nguời tham dự. Đặc biệt cuối tháng 9-1949, Tỉnh đội dân quân đã tổ chức

huấn luyện cho 1.400 cán bộ chỉ huy các cấp trong toàn tỉnh thời gian 15

ngày. Nội dung huấn luyện gồm: cách sử dụng những vũ khí được trang bị,

cách chiến đấu trong làng, công tác địch vận và công tác tuyên truyền. Ngoài

các lớp huấn luyện tập trung, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban

kháng chiến hành chính tỉnh, những lúc nhàn rỗi sau mùa thu hoạch, tất cả các

buổi chiều từ 5 giờ đến 7 giờ, nam nữ thanh niên từ 18 đến 45 tuổi đều tham

gia luyện tập quân sự. Tổng kết đợt huấn luyện, tính trung bình mỗi cán bộ từ

tiểu đội đến trung đội ít nhất đã qua 3 lớp huấn luyện từ 5 đến 15 ngày, thời

gian huấn luyện năm 1949 so với năm 1948 đã tăng gấp 3 lần. Để phối hợp

tác chiến giữa các lực lượng dân quân du kích trong tỉnh và kiểm tra công tác

chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của toàn dân, trong giai đoạn này, toàn tỉnh tổ

chức 3 cuộc tập dượt phòng không, 5 cuộc diễn tập chiến đấu. Sau các đợt

huấn luyện các đội viên dân quân du kích đã tích cực tham gia công tác chuẩn

bị cho kháng chiến ở địa phương như: đào giao thông hào, hố cá nhân, hầm bí

mật, đắp ụ đất, con trạch trên đê, trên đường để cản bước tiến của địch khi có

tác chiến, củng cố làng kháng chiến với tổng số 344.763 ngày công, tương

đương 8.619.075 đồng[20,tr.142].

Qua các đợt huấn luyện, tinh thần, kỹ năng chiến đấu của cán bộ, đảng

viên, dân quân du kích trong tỉnh được nâng lên rõ rệt. Theo chỉ đạo của Tỉnh

33

và các huyện, nhiều cá nhân và đơn vị được cử sang các tỉnh có chiến sự để

làm quen với tiếng sung, tích lũy kinh nghiệm tác chiến và phối hợp chiến

đấu. Chỉ tính từ tháng 6 đến tháng 9-1949, Tỉnh đội dân quân Thái Bình đã 8

lần đưa 7 đại đội sang các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An

tham gia chiến đấu. Riêng đại đội Lê Lợi bộ đội địa phương tỉnh đã sang

chiến đấu ở mặt trận đường 5 hơn một tháng.

Do bị thất bại ở Việt Bắc, Tây Bắc, những tháng cuối năm 1949 địch tăng

cường mở rộng phạm vi chiếm đóng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày 16-10-1949,

chúng mở chiến dịch “ Ăng-tơ-ra-xít” đánh chiếm Bùi Chu, Phát Diệm, một số

vùng thuộc Thanh Hóa, Nam Định. Ngày 22-12-1949, chúng mở chiến dịch “Đi-

a-blô” đánh chiếm hầu hết các vùng tự do còn lại của hai tỉnh Hải Dương, Hưng

Yên. Như vậy, đến thời điểm này, Thái Bình đã bị bao vây 4 mặt. Liên khu ủy 3

nhận định “cuộc tấn công vào nội địa Thái Bình của địch bước cuối cùng trong

âm mưu chiếm đóng nốt Tả Ngạn chỉ còn là vấn đề thời gian”.

Trước tình hình cấp bách trên, những ngày cuối tháng 12-1949 Ban

chấp hành tỉnh Đảng bộ triệu tập Hội nghị mở rộng tại thôn Cẩm Phương-

huyện Đông Quan. Về dự hội nghị có đầy đủ các đồng chí trong Ban chấp

hành, đại biểu đại diện các đoàn thể, các cơ quan, ngành giới.

Hội nghị tập trung bàn và thông qua kế hoạch bố phòng khi bị địch tấn

công; công tác bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, khi chiến sự xảy ra của

Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Tỉnh đội dân quân; xác định những

vùng xung yếu trong tỉnh, đồng thời cử các Tỉnh ủy viên xuống chỉ đạo trực

tiếp công tác bố phòng; lấy quốc lộ số 10 làm đường ranh giới, tạm chia tỉnh

thành 2 miền Nam và Bắc, mỗi miền thành lập một ban chỉ đạo kháng chiến

đề phòng khi có chiến sự, giao thông bị tắc nghẽn.

Về sử dụng lực lượng, hội nghị nhất trí đẩy mạnh phối hợp tác chiến

giữa lực lượng bộ đội chủ lực của Liên khu (Trung đoàn 42) với bộ đội địa

phương và dân quân du kích của tỉnh. Ở huyện nào chưa có chiến sự, bộ đội

34

huyện phải chia thành các tổ 3 người đưa về các xã làm nòng cốt cho hoạt

động chiến đấu của dân quân du kích và nhân dân. Bộ đội chủ lực Liên khu và

bộ đội địa phương tỉnh được bố trí trên trục đường giao quan trọng và những

nơi xung yếu sẵn sàng nổ súng ngay khi có địch. Các cơ quan của Tỉnh ủy

chuyển vào hoạt bí mật, cất giấu tài liệu, thu gọn cơ quan. Đồng thời Tỉnh ủy

chỉ thị cho các Huyện ủy, các chi bộ lập bộ phận bí mật để có thể hoạt động

hợp pháp khi địch đánh chiếm.

Sau hội nghị, cấp ủy Liên chi quân sự thuộc Tỉnh đội đã tổ chức ngay

cuộc họp, kịp thời nêu ra những yêu cầu cấp thiết về định hướng lãnh đạo tư

tưởng cho bộ đội; về chủ trương hoạt động quân sự; kế hoạch tác chiến khi

tình hình huống xảy ra. Cấp ủy Liên chi Tỉnh đội chỉ đạo các chi bộ quân sự

huyện đội dân quân đẩy mạnh công tác động viên tư tưởng bộ đội, dân quân

du kích, phát huy tính tiên phong của từng đảng viên trong tình huống địch

đánh đến địa phương và chủ động phối kết hợp thật tốt các lực lượng tiêu diệt

sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng. Bên cạnh đó, cấp ủy Liên

chi Tỉnh đội cũng chỉ ra những điểm yếu cần khắc phục ngay, đó là:

“ Tuy lực lượng vũ trang đang trên đà trưởng thành nhưng công tác

huấn luyện còn nặng về hình thức quy mô theo phương thức chính quy. Nhiều

nơi huấn luyện dân quân du kích đã tách rời phương châm du kích chiến và

địa hình, địa vật thực tế của địa phương. Cũng vì vậy mà chiều hướng của bộ

đội địa phương và dân quân du kích thích chiến đấu tập trung hơn là hoạt

động phân tán, xây dựng cơ sở.

Công tác giáo dục chính trị với việc xây dựng lực lượng vũ trang, bán

vũ trang cũng nặng tính chất thời bình, chưa chuẩn bị đầy đủ cho anh em có

một tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao. Giáo dục quan hệ lực lượng vũ trang,

bán vũ trang chưa được thấu đáo, nên có hiện tượng bộ đội địa phương coi

thường dân quân du kích, ít chú ý dìu dắt giúp đỡ hoặc chiến đấu phối hợp.

Công tác tổ chức màng lưới giao thông quân báo nắm địch còn yếu,

35

nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt đê tiêu diệt địch.

Trong lúc địch chuẩn bị tấn công Thái Bình, theo yêu cầu của trên, một

số đơn vị của tỉnh đã được tôi luyện thử thách trong chiến đấu, lại bổ sung

phần lớn cho chủ lực và tuyển du kích, dân quân địa phương lên thay; nên lực

lượng vũ trang của tỉnh đến cuối năm 1949, khả năng kỹ- chiến thuật cũng

như kinh nghiệm chiến đấu nói chung là yếu…”[ 9,tr.80].

Khắc phục những hạn chế trên, ngay trong tháng 1-1950, các cấp ủy

đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và dân quân du kích tập trung

cao độ vào công tác huấn luyện quân sự, giáo dục tư tưởng, sẵn sàng chiến

đấu với kẻ thù.

Tiểu kết chƣơng 1

Thái Bình là nơi có địa hình bằng phẳng, bốn bề sông biển bao bọc.

Trong tỉnh có nhiều đường giao thông thủy bộ quan trọng, làng mạc tương

đối tập trung, có nhiều lũy tre kiên cố.

Tuyệt đại đa số nhân dân Thái Bình đời sống gắn liền với đồng ruộng

lại bị giai cấp thống trị áp bức nặng nề nên có tinh thần căm thù địch sâu sắc,

tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch hồ Chí Minh. Cơ sở

Đảng ở Thái Bình đã có ngay từ năm 1930. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thử

thách đã tôi luyện cho nhân dân Thái Bình có trình độ giác ngộ, có tinh thần

anh dũng, chịu đựng gian khổ, chiến thắng quân địch.

Thái Bình là vựa lúa lớn của đồng bằng sông Hồng, dân số đông là kho

người kho của, nên khi địch quay về đánh chiếm đồng bằng, Thái Bình đã trở

thành vị trí quan trọng trong việc thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi

chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch. Đảng bộ tỉnh Thái

Bình thực hiện chỉ thị của Trung ương đã sớm tổ chức phát động nhân dân

trong tỉnh tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện.Thái Bình trở thành nơi

giành giật quyết liệt giữa ta và địch, vừa là chiến trường đánh địch, vừa là nơi

36

khai thác sức người, sức của phục vụ kháng chiến.

CHƢƠNG 2

ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪNG

BƢỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƢU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT, KHỦNG BỐ,

BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG (2/1950 –7/1954)

2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi

âm mƣu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951)

2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau

khi Thực dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950)

Là hậu phương của Liên khu Ba, Thái Bình có vị trí chiến lược quan

trọng về các mặt: địa lý, quân sự, kinh tế và xã hội. Nằm trong khu tam giác

Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định nên Thái Bình là một tỉnh trong chiến trường

chính Bắc bộ. Đánh chiếm Thái Bình, thực dân Pháp nhằm mục đích: giành

giật kho người, kho của với ta, củng cố sự an toàn phía sau của chúng, tạo

thuận lợi trong đối phó với cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên chiến

trường chính Bắc Bộ.

Thực hiện âm mưu này, ngày 16-10-1949 địch mở chiến dịch

Antoracite (Ăng-tơ-ra-xít-tơ) đánh chiếm Phát Diệm và Nam Định. Ngày 22-

12-1949, chúng mở chiến dịch Diabolo (Đi-a-bô-lô) đánh chiếm những vùng

tự do của hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 21-1-1950 sau khi đánh

chiếm Hưng Yên, Hải Dương, kiểm soát dọc sông Luộc, địch chiếm hữu ngạn

sông Hồng, từ Vũ Điện xuống Lý Nhân (Hà Nam) ép Thái Bình vào tình thế

bị bao vây bốn mặt.

Trước tình hình trên, ngày 3-2-1950, Ban Thường vụ Liên khu ủy III

ra chỉ thị “về việc phá tan âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch”. Chỉ thị

nêu rõ: Sau khi củng cố chắc mặt trận Hải Dương, Hưng Yên, địch có thể

đánh rộng sang Thái Bình và phía hữu ngạn sông Hồng nhằm càn quét, phá

37

cơ sở của ta”. [60,tr 190].Liên khu ủy yêu cầu các địa phương phải “tổng

động viên nhân lực, vật lực, tài lực phụng sự tiền tuyến”, “chống tư tưởng lạc

quan quá trớn và bi quan hoàng hốt”, “chuẩn bị kế hoạch tự động và tự túc

mọi mặt khi đứt liên lạc”, “nắm chắc và phát triển du kích xã, chống càn quét,

phát triển mạnh mẽ kháng chiến liên hoàn”, “gấp rút xây dựng thêm chủ lực”,

“chống âm mưu giặc cướp phá…”[60,tr 190]. Tuy nhiên, việc chống âm mưu

chiếm đóng đồng bằng của địch vẫn được coi là một nhiệm vụ nằm trong

công tác chuẩn bị tổng phản công.

Để bảo vệ vùng tự do cuối cùng của khu Tả Ngạn, Liên khu ủy đã điều

động Trung đoàn 64 sang Thái Bình “với nhiệm vụ chặn gãy từng mũi tấn

công nhỏ của địch, chống càn quét, dìu dắt và phát triển lực lượng vũ trang

địa phương”[60, tr.190]. Nhưng việc điều động này thực hiện chậm. Đến khi

địch đánh Thái Bình thì lực lượng chủ lực chiến đấu trên địa bàn tỉnh chỉ có

các Tiểu đoàn 505 và 124 của Trung đoàn 42 và bốn đại đội địa phương tỉnh

mới được xây dựng, vũ khí thiếu thốn, địa lôi, mìn để lâu không dùng nên

hỏng nhiều[60,tr 191].

Cuối tháng 12-1949, Tỉnh ủy Thái Bình họp mở rộng thảo luận và thông

qua một số biện pháp nhằm chủ động đối phó khi địch tấn công. Hội nghị chủ

trương lập ở miền Nam, Bắc đường 10 mỗi khu vức có một ban chỉ đạo kháng

chiến để đề phòng đứt lien lạc khi chiến sự xảy ra; phối hợp lực lượng của

Trung đoàn 42 và các đơn vị bộ đội địa phương dân quân du kích tỉnh, huyện,

án ngữ các đường giao thông quan trọng, những nơi địch có thể đổ bộ, chặn

đường k cho chúng tiến sâu vào nội địa. Các cơ quan tỉnh ủy phải chuyển

hướng hoạt động bí mật; các huyện ủy, chi ủy lập bộ phận bí mật để ở lại hoạt

động khi địch chiếm. Hội nghị cũng đã phê phán những biểu hiện tư tưởng chủ

qua cho rằng “Thái Bình phi chiến địa”, mơ hồ trong đánh giá địch…

Việc chuẩn bị đối phó với địch được quán triệt tới các cấp, ngành, nhưng

không khí “chuẩn bị tổng phản công” đang rất sôi nổi, nhận thức của một số

38

cán bộ, đảng viên và nhân dân còn lệch lạc. Nhiều ý kiến cho rằng “đã bốn năm

nay địch không dám đánh chiếm Thái Bình huống chi là nay, tương quan lực

lượng của ta đang chuyển mạnh sang tổng phản công, địch đang dốc lực lượng

để đối phó”[60, tr.191] Lúc này Thái Bình là hậu phương của Tả Ngạn. Các

tỉnh đội, cơ quan Dân, Chính, Đảng của năm tỉnh đều tập trung tại đây, sinh

hoạt rất nhộn nhịp càng làm cho nhân dân chủ quan. Việc chuẩn bị tác chiến ở

một số nơi còn sơ sài, chủ quan, mất cảnh giác, một phần cũng do ta còn ấu trĩ

(làm bè ngăn tàu địch trên sông Hồng, sông Luộc; “vót chông mà cắm đầy

đồng, đề phòng quân Pháp tấn công, nhảy dù”). Liên khu ủy III nhận xét:

“Bệnh chủ quan cho là địch chưa đủ quân chiếm đóng đất Thái Bình đã

dẫn tới việc chuẩn bị đề phòng thiếu sót nên đối phó bị động và vấp thêm

nhiều khó khăn”

Ngày 8.2.1950 chỉ hai ngày sau khi đánh chiếm Vĩnh Bảo,Thực dân

Pháp huy động trên 5000 quân tinh nhuệ hầu hết là lính Âu Phi thiện chiến do

tên Đại tá Găng Đô trực tiếp chỉ huy, xuất phát từ Nam Định, Hà Nam, Hưng

Yên, Hải Dương, Kiến An, đã ồ ạt tấn công Thái Bình. Với sự hỗ trợ của 2

tàu chiến, 4 ca nô, 18 xe lội nước cùng với pháo binh và không quân, quân

Pháp chia thành nhiều mũi nhanh chóng thọc sâu và chia cắt Thái Bình thành

hai phần Nam- Bắc đường 10.

Từ Hữu Ngạn sông Hồng hơn 1000 tên địch do một thiếu tá chỉ huy

vượt sông Hồng đổ bộ vào Tân Đệ, Mỹ lộc, Gia Lộc (Thư Trì). Từ đó địch

chia làm ba mũi theo đường 10.220,223 đánh chiếm thị xã Thái Bình. Một

toán quân của chúng tiếp tục vượt sông Trà Lý đánh chiếm nhà thờ Cát Đàm,

ngã tư An Lễ.

Từ Hải Dương, Hưng Yên, địch theo ba đường tiến đánh Thái Bình.

Mũi thứ nhất, khoảng 1.500 tên từ thị xã Hưng Yên vượt sông Luộc đánh vào

Hưng Nhân, Duyên Hà nhằm chặn đường tiếp viện của ta từ Hữu Ngạn sang.

Mũi thứ hai, khoảng 1.000 tên từ Hào Khê (Hải Dương) vượt sông Luộc sang

39

bến Hiệp, theo đường 217, tiến đánh huyện lỵ Quỳnh Côi, rồi tiến ra đường

10 chiếm giữ ngã ba Đọ. Mũi thứ ba, với lực lượng hơn 1.000 tên, từ Ninh

Giang vượt sông Luộc, tiến vào chiếm huyện lỵ Phụ Dực, sau đó tiến ra

đường 10, phối hợp với một cánh quân từ Vĩnh Bảo (Kiến An) sang đánh

chiếm cầu Nghìn. Từ đó, chúng theo đường 10 về hội quân ở ngã ba Đọ rồi

đánh rộng ra các khu vực xung quanh. Các mũi tiến công của địch đều bị bộ

đội các huyện và du kích các xã chặn đánh, gây cho chúng những tổn thất.

Ở phía biển và các cửa sông Hóa, sông Trà Lý, tàu chiến, ca nô địch

tuần tiễu, bao vây uy hiếp lực lượng vũ trang ta.

Bằng nhiều mũi tấn công ồ ạt, chiều ngày 8-2-1950, quân Pháp đã

chiếm được thị xã Thái Bình, đóng các vị trí then chốt trên đường 10 và các

huyện miền bắc như Đọ (Đông Quan), Dục Linh (Phụ Dực), bến Hiệp (Quỳnh

Côi), Hà Xá, Đoan Bản, Do Đạo (Hưng Nhân), Thượng Hộ (Thư Trì)…

Ngày 10-2-1950, địch từ thị xã Thái Bình đánh ra ngã tư An Lễ. Đại

đội Trần Quốc Tuấn (bộ đội chủ lực tỉnh) phục kích tại cầu Sa Cát diệt hơn 30

tên. Khi tiến đến giữa quãng đường Trực Nội và Đống Năm, quân địch lại bị

Tiểu đoàn 124 (thuộc trung đoàn 42) phục kích diệt hơn 20 tên. Mũi tấn công

theo sông Trà Lý tới Đông Lan của địch cũng bị trúng mìn, 7 tên chết tại chỗ.

Khi chúng xông vào xóm, chúng bị du kích ném lựu đạn diệt 5 tên.

Sau hai ngày địch tiến công, ngày 10-2-1950, Thường vụ Tỉnh ủy Thái

Bình triệu tập hội nghị bất thường với Ban chỉ huy mặt trận 5, đại diện các

ngành, các giới, các huyện để bàn biện pháp lãnh đạo nhân dân đánh giặc. Hội

nghị nhận định địch đánh Thái Bình để mở rộng vùng chiếm đóng, vơ vét

nhân lực, vật lực, phá cơ sở kháng chiến.

Về lực lượng chiến đấu, Hội nghị bàn việc chuẩn bị đón Trung đoàn 64

vào Thái Bình tác chiến. Trung đoàn 42 bố trí Tiểu đoàn 505 xuống miền nam

Thái Bình; Tiểu đoàn 124 đóng ở miền bắc tỉnh, chủ động tổ chức các trận

đánh các mũi tiến công của địch. Các đơn vị bộ đội huyện và du kích xã bám

40

làng chiến đấu, phát triển lối đánh du kích, tiêu hao sinh lực của địch. Bốn đại

đội của tỉnh vừa đánh địch, vừa phát triển chiến tranh du kích ở địa phương,

giứ vững liên lạc với Liên khu và Trung ương. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh

công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, tổ chức các đội vũ trang tuyên

truyền sâu vào vùng công giáo để vận động gây cơ sở chính trị; tổ chức mạng

lưới phòng gian, ngăn chặn các hoạt động của bọn phản động, phát triển công

tác địch vận, đơn giản cơ quan, bổ sung người cho đơn vị chiến đấu, phân tán

kho tàng, cất giấu của cải.

Hội nghị Tỉnh ủy bất thường (10-2-1950) có ý nghĩa quan trọng. Hội

nghị không những đã đề ra phương châm chỉ đạo tác chiến mà còn đề ra

những chủ trương hành động sát với tình hình thực tế. Lòng tin của Đảng,

nhân dân và lực lượng vũ trang được củng cố, cơ sở được giữ vững, tạo điều

kiện thuận lợi cho địa phương bước vào kháng chiến.

Để giảm bớt khó khăn cho Thái Bình, giữa tháng 2-1950, Mặt trận 5

cũng chỉ thị cho các tỉnh Tả Ngạn và các đơn vị bộ đội chủ lực Liên khu tổ

chức hoạt động phối hợp với chiến trường Thái Bình.

Sau khi ổn định vị trí đứng chân, làm chủ các tuyến giao thông quan

trọng, từ ngày 16-2-1950, địch tập trung lực lượng đánh chiếm các huyện phía

bắc đường 10. Mặc dù trước lực lượng quân địch áp đảo, lại được pháo binh,

máy bay yểm trợ, song dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quân và dân

các huyện phía bắc đường 10 đã đánh 64 trận ở hầu hết các mũi tiến công của

địch, trong đó 4 trận chống càn của quân dân Phú La, Hậu Trung, Nguyên Xá,

Khánh Lai diễn ra rất quyết liệt.

Tại Phú La (Tiên Hưng) từ 7 giờ sáng đến 13 giờ chiều ngày 11-2-

1950, Đại đội Quang Trung phối hợp với trung đội bộ đội Quỳnh Côi cùng

với du kích địa phương dựa vào làng chiến đấu chặn đánh quyết liệt nhiều đợt

tấn công của một tiểu đoàn địch, diệt và làm bị thương hàng chục tên. Đến 14

giờ cùng ngày, máy bay địch tới ném bom, bắn phá gần 30 phút, ta rút lui để

41

bảo toàn lực lượng.

Tại Hậu Trung ngày 14-2-1950, một trung đội bộ đội huyện cùng hai

trung đội du kích xã, trang bị hầu hết là mìn, dao găm, lựu đạn, mã tấu đã kiên

cường đánh trả cuộc tấn công bất ngờ của địch trong 6 giờ liền, tiêu diệt hơn

chục tên. Mãi đến trưa địch mới vào được làng.

Tại Nguyên Xá ngày 17-2-1950, du kích làng đã sử dụng lựu đạn, mìn,

đao, kiếm… chống lại cuộc tấn công của 400 tên địch có hỏa lực mạnh. Sau

sáu lần tấn công, lần sau quyết liệt hơn lần trước, địch vẫn không vào được

làng và phải rút lui, một số tên chết và bị thương.

Ở Khánh Lai (Tiên Hưng) ngày 18-2-1950, một bộ phận của Đại đội

Đề Thám, Đại đội 24 (tiểu đoàn 505, Trung đoàn 42) cùng du kích địa

phương bố trí lực lượng chống lại cuộc tấn công của trên 100 tên địch. Cuộc

chiến đấu đã diễn ra quyết liệt từ sáng đến trưa, quân địch phải bỏ dở cuộc

càn quét, mang theo hơn chục tên chết và bị thương.

Do sự chống trả của quân và dân ta, mãi đến ngày 28-2-1950 địch mới

cơ bản đánh chiếm xong các huyện miền bắc Thái Bình. Chúng chiếm được

các đường giao thông quan trọng, đóng các vị trí then chốt ở thị xã, dọc

đường 10, đường 39, đê sông Hồng, sông Luộc; vũ trang cho bọn phản động

trong thiên chúa giáo, dựng đồn, lập tề chống lại kháng chiến.

Trong cuộc chiến đấu chống địch đánh chiếm, quân và dân các huyện

phía bắc đường 10 đã kiên cường đánh trả địch. Tuy nhiên, ta không bẻ gẫy

được các mũi tấn công của địch, nhiều nơi không giữ được làng. Những nơi địch

đánh phá, cơ sở kháng chiến bị vỡ, cán bộ, đảng viên, du kích bị bật đất. Một số

nơi, nhân dân sợ địch khủng bố, không dám cho bộ đội, du kích vào làng.

Sau 21 ngày tiến công đánh chiếm 4 huyện phía bắc tỉnh Thái Bình, địch

thường xuyên duy trì một lực lượng gần 5.000 quân, lập thành một hệ thống

gồm 39 đồn bốt ở các địa bàn trọng yếu như: thị xã, thị trấn, các huyện lỵ phía

bắc tỉnh và trục đường giao thông. Tiếp đến ngày 29-2-1950, chúng lại điều

42

thêm 2.000 quân từ Hải Dương, Hưng Yên sang nhằm mục đích tăng cường

lực lượng để chuẩn bị tấn công đánh chiếm các huyện phía nam tỉnh Thái Bình,

bao gồm: Thái Ninh, Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Tiên và Thụy Anh.

Sáng ngày 3-3-1950, địch tập trung 2.500 quân cơ động, từ trục đường

10, địch chia làm ba mũi đánh xuống các huyện phía nam, phối hợp với cánh

quân từ các cửa sông Diêm, sông Hóa, sông Hồng đánh lên.

Mũi thứ nhất, 1.000 tên xuất phát từ thị xã theo đường 39 đánh xuống

huyện Kiến Xương và Tiền Hải. Đi đến đâu chúng cũng vũ trang cho bọn

phản động trong các nhà thờ nổi dậy chống lại kháng chiến. Lực lượng bộ đội

huyện và du kích địa phương chặn đánh chúng quyết liệt ở Thường Kiệt, Tán

Thuật (ngày 3-3-1950); An Ninh, Diên Trì, Hưng Đạo (ngày 4-3-1950). Do

phần lớn mìn và lựu đạn không nổ nên địch ít bị thương vong, trái lại ta hy

sinh hàng chục chiến sĩ.

Mũi tiến công thứ 2 gần 800 tên cùng xuất phát từ thị xã Thái Bình theo

đường 217 và đê sông Trà Lý tiến đánh cầu Gọ, cầu Cất, đò Tìm, cầu Cau

(Thái Ninh), Bằng Trạch, cống Dục Dương (Kiến Xương); vũ trang cho bọn

phản động ở nhà thờ Nam Lâu, Mai Chử, Dương Cước (Kiến Xương) nổi dậy

chống kháng chiến.

Mũi thứ ba, khoảng 700 tên từ ngã ba Đọ trên đường 10 tiến đánh xã

Đồng Tiến (Phụ Dực), vũ trang cho bọn phản động ở nhà thờ Bất Nạo, rồi tiến

xuống Diêm Điền. Đồng thời một cánh quân khác của địch với hơn 100 tên từ

Dục Linh (Phụ Dực) qua Ninh Cù xuống vũ trang cho bọn phản động nhà thờ

Vân Đồn, Thượng Phúc (Thụy Anh). Ngày 4-3-1950, cánh quân này bị Đại đội

Lê Lợi ( bộ đội tỉnh) và du kích xã chặn đánh ở Lạng Thượng diệt gần 30 tên.

Những ngày sau đó, từ các vị trí đóng quân, địch liên tục mở các cuộc

hành quân đánh phá các làng chiến đấu của ta. Đi tới đâu chúng cũng bị dân

quân các huyện phía nam đường 10 chống trả. Trong cuộc chiến đấu chống

địch đánh chiếm, quân và dân các huyện phía nam của tỉnh đã đánh 78 trận,

43

chủ yếu là những trận đánh nhỏ bằng mìn, quấy rối nơi địch đóng quân, gọi

loa địch vận… Nổi bật nhất là trận chống càn oanh liệt của quân và dân thôn

An Định, xã Tràng An (Thụy Anh). Tại đây, một trung đội bộ đội huyện phối

hợp với các lực lượng dân quân du kích đã anh dũng cùng nhân dân chiến đấu

chống lại cuộc tấn công của 600 tên địch có pháo yểm trợ. Cuộc chiến đấu

diễn ra ác liệt, kéo dài từ sáng sớm đến 16 giờ chiều ngày 6-3-1950. Khi hết

đạn, các chiến sĩ ta đã dùng dao găm, mã tấu, đòn gánh kiên cường đánh địch.

Trong chiến đấu đã nổi lên nhiều tấm gương quả cảm. Kết thúc trận đánh, 135

chiến sĩ và người dân trong thôn hy sinh, hàng trăm nóc nhà bị đốt trụi, nhưng

cũng tiêu diệt được hơn 100 tên địch.

Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân dân các huyện miền nam Tỉnh,

lực lượng vũ trang các huyện miền bắc cùng tiểu đoàn 124 (Trung đoàn 42)

đã tổ chức đánh địch ở những nơi chúng sơ hở, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Ngày 7-3-1950, quân Pháp kết thúc cuộc hành quân đánh chiếm các

huyện miền nam Thái Bình. Ngày 10-3-1950, địch chấm dứt cuộc hành quân

Tônnô. Lực lượng chủ lực của chúng rút về Hà Nội, giao việc bình định lại

cho quân địa phương đảm nhiệm.

Trong cuộc chiến đấu chống địch đánh chiếm phía nam đường 10, do

địch có lực lượng áp đảo, sử dụng những biện pháp dã man, tàn bạo, bọn phản

động trong thiên chúa giáo lại nổi dậy tiếp tay cho thực dân Pháp điên cuồng

chống phá kháng chiến, nên quân và dân các huyện gặp rất nhiều khó khăn,

tình hình tư tưởng do đó cũng diễn biến phức tạp. Có nơi du kích không bám

làng, chỉ gài mìn rồi rút; có nơi lại ỷ vào lũy cao, hào sâu để cố thủ dẫn đến

tổn thất nặng. Một số nơi nhân dân hoang mang, bỏ sản xuất, thanh niên chỉ lo

chạy càn, lánh giặc. Thậm chí một số nơi không cho du kích đánh mìn ở làng,

ép du kích chon sung hoặc treo cờ trắng khi địch tấn công. Về phương diện

lãnh đạo, chỉ huy, việc hiệp đồng chiến đấu cục bộ và trên toàn địa bàn chưa

ăn khớp; một số yếu kém trong tổ chức chưa được khắc phục, thông tin liên

44

lạc không kịp thời… nên hạn chế hiệu suất đánh địch và chống địch.

Sau khi tiến công chiếm đóng các huyện ở phía bắc và phía nam đường

10, địch thường xuyên duy trì ở Thái Bình một lực lượng gần 5.000 tên, chủ

yếu là quân địa phương. Chúng lập một hệ thống gồm 39 đồn bốt đóng ở tất

cả các địa bàn trọng yếu như thị xã, thị trấn, huyện lỵ, trên các trục đường

giao thông quan trọng và các cửa biển… để kìm kẹp nhân dân, vơ vét của cải,

nhân lực phục vụ chiến tranh. Đặc biệt, chúng còn dựng nhiều đồn vệ sĩ, sử

dụng bọn phản động trong Thiên chúa giáo truy tìm, bắt giết cán bộ, chống lại

kháng chiến.

Thực hiện chủ trương của Liên khu, Trung đoàn 64 (chủ lực Liên khu

III) từ Hữu Ngạn vượt sông Hồng tiến vào Thái Bình phối hợp cùng lực lượng

vũ trang và nhân dân trong tỉnh đánh địch. Do bị địch ngăn chặn ráo riết nên

đến ngày 17-3-1950 những đơn vị đầu tiên của Trung đoàn mới đặt chân lên

đất Hưng Nhân tỉnh Thái Bình. Trung đoàn 64 trở lại đã gây niềm phấn khởi

trong quân và dân Thái Bình. Các chi bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở

những xã bị bật ra ngoài, nghe tin Trung đoàn vào cũng trở về bám địa

phương hoạt động.

Khi đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 64 sang hết đất Thái Bình, ngay

đêm 19-3-1950, Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Mặt trận 5, Ban chỉ huy Trung đoàn 64

và trung đoàn 42 đã họp liên tịch tại một địa điểm thuộc huyện Duyên Hà,

bàn các chủ trương, biện pháp đánh địch. Hội nghị quyết định phân tán các

đơn vị để làm nhiệm vụ xây dựng lại các cơ sở kháng chiến trong vùng địch

hậu; phát động chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích; từng bước làm thất

bại kế hoạch bình địch của địch. Theo phương hướng đó, Trung đoàn 64 phân

công tiểu đoàn 23 ở phía bắc có nhiệm vụ phối hợp với địa phương chặn đánh

những cánh quân nhỏ đi càn quét, cướp phá. Tiểu đoàn 605 ở phía nam đường

10 vũ trang tuyên truyền vào vùng công giáo, xây dựng dân quân, du kích,

gây cơ sở, giúp địa phương phát triển chiến tranh nhân dân. Tiểu đoàn 182

45

pháo binh và Trung đoàn bộ chủ yếu hoạt động trên địa bàn Duyên Hà, hỗ trợ

cho quân du kích địa phương củng cố xây dựng và rào làng kháng chiến.

Trung đoàn 42 tập trung về Quỳnh Côi, Duyên Hà, nhanh chóng củng cố rồi

chuyển sang hoạt động ở Hưng Yên, Hải Dương. Các đơn vị bộ đội tỉnh cũng

được giao nhiệm vụ cụ thể: Đại đội Đề Thám đảm nhiệm Hưng Nhân, Duyên

Hà; Đại đội Trần Quốc Tuấn bám thị xã; Đại đội Lê Lợi xuống Đông Quan;

Đại đội Quang Trung về Phụ Dực cùng với lực lượng vũ trang huyện chống

càn, chống địch bắt lính, bắt phu, xây dựng cơ sở kháng chiến, tạo địa bàn

đứng chân để phát triển lực lượng.

Trung đoàn 64 cùng với lực lượng vũ trang Thái Bình đã nhanh chóng

triển khai lực lượng chống địch. Ngày 24-3-1950, tiểu đoàn 23 phục kích địch

ở thôn Tài Giá (Quỳnh Côi) diệt và làm bị thương 63 tên. Tiểu đoàn 605 vừa

triển khai xuống nam đường 10 đã đánh thắng trận càn của địch ở Thuyền

Quan (Thái Ninh) diệt hơn 40 tên. Phối hợp với hoạt động của bộ đội chủ lực,

bộ đội địa phương cùng dân quân du kích ở các xã, thôn thuộc các huyện

Kiến Xương, Vũ Tiên, Thư Trì, Đông Quan, Quỳnh Côi đã tổ chức hàng chục

trận chống càn, phục kích, tập kích tiêu diệt địch, loại khỏi vòng chiến đấu

hàng trăm tên địch.

Khi tiểu đoàn 605 về hoạt động, các cuộc càn quét nhỏ của địch ở phía

nam đường 10 giảm xuống. Tinh thần nhân dân được củng cố. Nhiều thôn xã

thuộc các huyện Kiến Xương, Thái Ninh, Thụy Anh du kích lại tiếp tục tổ

chức tuần tra, canh gác; nhân dân lại rào làng, sẵn sàng chiến đấu.

Sau gần hai tháng đánh phá, càn quét, quân Pháp không thực hiện được

ý đồ nhanh chóng đè bẹp sức đề kháng của quân và dân ta ở Thái Bình. Tiếng

mìn, tiếng súng vẫn nổ ở nhiều nơi. Hoạt động của Trung đoàn 64 đã góp

phần quan trọng vào việc đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh của tỉnh

Thái Bình.

Phát hiện chủ lực Liên khu III vào Thái Bình, ngày 30 và 31-3-1950

46

địch điều thêm bốn tiểu đoàn thuộc hai binh đoàn Bôphơrê và Commuynan

cùng một tiểu đoàn ngụy vào Thái Bình, đưa tổng số quân của chúng ở Thái

Bình lên 4.600 tên, ý đồ của địch nhằm tìm diệt các Trung đoàn 64 và 42 chủ

lực Liên khu. Hành động mới của địch nằm ngoài dự đoán của Liên khu ủy.

Sau khi địch kết thúc cuộc hành quân Tônnô (ngày 10-3-1950), Liên khu ủy

III nhận định: địch sẽ đánh chiếm nốt Hữu Ngạn để hoàn thành âm mưu

chiếm đóng đồng bằng; địa điểm địch tấn công đầu tiên sẽ là Phủ Lý. Từ nhận

định trên, Liên khu ủy chủ trương điều động hai trung đoàn chủ lực của Liên

khu đến Phủ Lý để chặn địch. Trong khi Liên khu III tập trung vào hướng Phủ

Lý, các hoạt động phối hợp với Thái Bình chưa được đề cao đúng mức thì từ

ngày 2 đến ngày 6-4-1950, địch tập trung lực lượng, bao vây, truy tìm hòng

tiêu diệt chủ lực của ta ở các huyện phía bắc đường 10, trọng tâm nhằm vào

khu vực Quỳnh Côi, Duyên Hà, Tiên Hưng, Hưng Nhân.

Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Trung đoàn 64, 42, Ban chỉ huy Mặt

trận 5 đang đứng chân trên địa bàn đã họp nhiều lần bàn kế hoạch đối phó.

Các cuộc họp đều nhận định rằng: lực lượng địch mạnh, số lượng lại áp đảo

nên ta không thể tập kích các vị trí để phá cuộc tấn công của chúng, ta cũng

không phân tán vì Trung đoàn 64 chưa gây được cơ sở, Trung đoàn 42 đang

tập trung củng cố để sang hoạt động ở Hưng Yên và Hải Dương theo kế

hoạch từ trước của Liên khu. Do đó, hội nghị quyết định khi địch tấn công ở

khu vực đứng chân của tiểu đoàn nào thì tiểu đoàn đó độc lập tác chiến,

nhưng phải báo cáo về Ban chỉ huy chung. Nguyên tắc “bảo tồn lực lượng

nhưng phải giữ ảnh hưởng chính trị, danh nghĩa của chủ lực, phải tiêu hao

địch”[81] được quán triệt xuống các đơn vị của trung đoàn 64. Theo phương

hướng đó, các đơn vị chủ lực đứng chân ở phía bắc cùng lực lượng vũ trang

địa phương hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu ngoan cường, vừa chống địch vừa

luồn càn bảo toàn lực lượng. Kết thúc cuộc càn quét, địch không thực hiện

47

được ý đồ tiêu diệt chủ lực ta, mà còn bị tiêu diệt hơn 100 tên.

Phối hợp với quân dân các huyện phía bắc, tiểu đoàn 605 đẩy mạnh hoạt

độngcùng dân quân du kích địa phương tổ chức nhiều trận đánh ở phía nam

đường 10. Trong tuần đầu của tháng 4-1950, quân dân các huyện Thụy Anh,

Kiến Xương, Vũ Tiên, Thư Trì đã tổ chức hơn 10 trận phục kích, tập kích,

chống càn, quấy rối và diệt tề. Địch phải điều 600 quân từ Hưng Nhân xuống,

600 tên từ Nam Định sang để tăng cường các vị trí của chúng ở Kiến Xương.

Thực hiện kế hoạch bao vây lớn không đạt được kết quả, từ ngày 7-4-

1950, quân Pháp chuyển sang thực hiện bao vây khu vực nhỏ, trong phạm vi

vài thôn, xã liên tục truy kích các đơn vị của Trung đoàn 42 và 64, tiếp tục ý

đồ tìm diệt chủ lực ta. Hành động mới này của địch đã gây cho quân dân ta

nhiều khó khăn. Ngày 12-4-1950, Ban chỉ huy Mặt trận 5 quyết định: Trung

đoàn 64 phân tán thành từng đại đội để đánh địch. Từ ngày 14-4-1950, chủ

trương phân tán đã nhanh chóng được thực hiện ở các tiểu đoàn đang hoạt

động ở cả phía bắc và phía nam đường 10. Trong khi Trung đoàn 64 phân tán

đánh địch thì tiểu đoàn 124 cùng Trung đoàn 42 và Ban chỉ huy Mặt trận 5 về

đóng tai Cổ Tiết, Xuân La, Lương Mỹ (Quỳnh Côi) để chuẩn bị vượt sông

sang Hải Dương, Hưng Yên. Do phán đoán địch không đúng, không có kế

hoạch phòng bị nên 5 giờ sáng ngày 22-4-1950, địch bất ngờ vây đánh làng

Cổ Tiết. Đơn vị hy sinh 20 chiến sĩ, 10 đồng chí bị bắt, một số bị thương; mất

một súng cối 60 ly, hai đại liên, ba trung liên và 19 súng trường.

Chủ trương kịp thời phân tán bộ đội chủ lực là phù hợp với tình hình so

sánh địch ta, làm thất bại âm mưu tìm diệt chủ lực ta của địch. Sau khi phân

tán, bộ đội vẫn dìu dắt quân dân du kích và phục vụ cho việc gây lại cơ sở

chính trị ở những nơi bị tan rã. Nhưng do chưa khẩn trương thực hiện nên tiểu

đoàn 124 bị địch tiến công bất ngờ, gây tổn thất đáng kể. Việc chỉ đạo bộ đội

hoạt động độc lập lúc đầu cũng chưa có nội dung cụ thể nên có tình trạng bộ

đội không đánh địch mà chủ yếu tìm cách luồn tránh, gây ảnh hưởng không

48

tốt đến tư tưởng và tinh thần chiến đấu của nhân dân.

Đầu tháng 5-1950, Trung đoàn 64 rút khỏi Thái Bình. Cuộc chiến đấu

của quân dân trong tỉnh chuyển sang thời kỳ đấu tranh gian khổ giành giật

quyết liệt với kẻ thù.

Khác với các cuộc hành quân Antơraxít (ở Ninh Bình) và cuộc hành

quân Điabôlô (ở Hải Dương và Hưng Yên) cuộc hành quân Tônnô đánh

chiếm Thái Bình của địch phải kéo dài và bị nhiều thiệt hại. Tuy chiếm được

những địa bàn xung yếu nhưng chúng không sao triệt phá hết các làng chiến

đấu, các căn cứ du kích của ta. Mặc dù huy động một lực lượng lớn binh lính,

thực hiện những cách đánh phá thâm độc, nguy hiểm, địch vẫn bất lực trong

việc tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nhân dân Thái Bình, không tiêu diệt

được cơ quan lãnh đạo ở địa phương. Chiếm được đất nhưng địch không

chiếm được dân, không kìm kẹp được nhân dân ủng hộ kháng chiến.

2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng

kháng chiến, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình

định của địch (6/1950- 12/1951)

Đến cuối tháng 5 năm 1950, kế hoạch tiến công đánh chiếm Thái Bình

của quân Pháp được coi như hoàn tất. Lực lượng cơ động của chúng được rút

dần để tiến hành các cuộc hành binh ở nơi khác: lực lượng chiếm đóng tại chỗ

phần lớn là quân ngụy.

Qua bốn tháng liên tục đối phó với các âm mưu thủ đoạn của địch, tinh

thần và kinh nghiệm chiến đấu của quân dân trong tỉnh đã dầy dạn hơn. Số

đông cán bộ đảng viên vẫn bám đất, bám dân để hoạt động, cơ sở tuy đảo lộn

nhưng ít bị tan vỡ. Song tư tưởng cầu an phát triển mạnh. Số đảng viên lưu

vong vẫn còn nhiều. Cơ sở ở vùng công giáo, ven đường giao thông và trong

thị xã còn rất mỏng manh. Từ tỉnh xuống cơ sở các cấp ủy đều thiếu cán bộ.

Ban chấp hành tỉnh ủy trước ngày địch đánh chiếm Thái Bình ( 8.2.1950) có

49

18 đồng chí, nhưng đến tháng 6-1950 chỉ còn 10 đồng chí.

Trước tình hình hình trên, được sự chỉ đạo trực tiếp của Liên khu ủy III,

ngày 2-6-1950 Ban chấp hành Tỉnh ủy đã họp hội nghị mở rộng, kiểm điểm

công tác lãnh đạo trong 4 tháng qua và ra nghị quyết lãnh đạo thời gian tới.

Những nhiệm vụ được nghị quyết đề cập tới là: “Chống càn quét giữ vững cơ

sở. Triệt phá tổ chức ngụy quyền võ trang hay võ trang bí mật, phá tuyển mộ

ngụy quân. Tích cực phòng gian. Phát triển du kích chiến tranh mạnh mẽ. Xây

dựng bộ đội địa phương phát triển lực lượng dự bị cho trung đoàn 42 và cung

cấp hậu bị quân cho Liên khu. Đả phá tư tưởng cầu an ỷ lại. Công tác địch

vận phải tăng cường”[20, tr.174].

Tỉnh ủy đề ra phương châm: “Lấy xã làm căn bản, đánh du kích là

chính, bộ đội huyện phân tán về dìu dắt du kích xã, bộ đội tỉnh và Liên khu

phân tán làm nhiệm vụ đại đội độc lập, tất cả mọi lực lượng đều có nhiệm vụ

xây dựng khu du kích liên hoàn và chuẩn bị chiến trường nhằm bảo tồn lực

lượng chiến đấu lâu dài”[20, tr.174].

Ban chấp hành Tỉnh ủy đề ra khẩu hiệu: “ Bám đất, bám dân, tiến sâu

vào lòng địch”.[20, tr.175]

Để tránh địch truy quét, cơ quan của mặt trận 5 và các tỉnh bạn tạm thời

rút ra khỏi Thái Bình. Bộ tư lệnh Liên khu quyết định điều trung đoàn 42 về

Hải Dương; Trung đoàn 64 chỉ để lại Thái Bình tiểu đoàn 605 tiếp tục hoạt

động; đồng thời Liên khu cũng chỉ thị thành lập Ban chỉ huy mặt trận Thái

Bình, thành phần gồm có Tỉnh đội và Ban chỉ huy tiểu đoàn 605.

Tháng 6 năm 1950, Trung ương quyết định mở chiến dịch Biên giới.

Tháng 8 năm 1950 bộ tư lệnh Liên khu III quyết định mở đợt hoạt động mạnh

trong toàn Liên khu để phối hợp với chiến dịch Biên giới và phối hợp với hoạt

động của Đại đoàn 304 đánh địch ở Ninh Bình. Bộ tư lệnh Liên khu tăng

cường cho Thái Bình tiểu đoàn 722 (thuộc trung đoàn 64) để đẩy mạnh phong

50

trào du kích chiến tranh của Tỉnh.

Thực hiện chủ trương, phương châm, phương hướng do hội nghị tỉnh ủy

tháng 6 năm 1950 đề ra đồng thời hưởng ứng đợt hoạt động mạnh của Liên

khu III, nhằm phối hợp với chiến dịch Biên giới: trong tháng 7 và tháng 8

năm 1950, quân và dân Thái Bình đã tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động. Mở

đầu là trận đánh đồn Thanh Hương (Thư Trì) ngày 7-6-1950. Sau hơn 30 phút

chiến đấu, bộ đội huyện Thư Trì kết hợp với du kích Cự Lâm đã tiêu diệt

được hơn một chục tên địch, thu một số vũ khí. Khi bọn địch ở các vị trí xung

quanh đến ứng cứu cho đồng bọn ở Thanh Hương thì quân ta đã rút lui an

toàn. Tuy không diệt được đồn Thanh Hương, nhưng đây là trận đánh mở

đầu, do bộ đội huyện phối hợp với du kích xã, bằng vũ khí thô sơ dám đánh

địch giữa ban ngày.

Tiếp sau đó, trong ba tháng 6,7 và 8, bộ đội của tỉnh và dân quân du

kích các huyện: Thái Ninh, Phụ Dực, Duyên Hà, Quỳnh Côi, Tiên Hưng, Thư

Trì, Vũ Tiên, Hưng Nhân, Tiền Hải, Đông Quan đã chủ động đánh địch,

chống càn, huy động được đông đảo nhân dân tham gia, vừa phục vụ chiến

đấu, vừa trực tiếp chiến đấu, với mọi thứ vũ khí trong tay cùng bộ đội, du kích

đánh giặc. Tiêu biểu như trận đánh của dân quân du kích Thần Đầu, Thần

Huống (Thái Ninh) vào thượng tuần tháng 6-1950, đã đánh trả hai đại đội

địch vào xã, chị em phụ nữ các em thiếu nhi và các cụ phụ lão vừa làm liên

lạc, vừa làm công tác địch vận, vừa tiếp tế cho dân quân, du kích đánh địch.

Nhiều lần địch liều mạng xông vào trận địa của ta, chúng đều bị đánh bật trở

lại. Từ sáng đến tối địch vẫn không vào được làng, sau nhiều lần bị tổn thất

nặng nề, địch phải rút quân.

Cho đến ngày nay, nhân dân tỉnh Thái Bình vẫn truyền miệng bài vè ca

ngợi tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân dân du kích và nhân dân Thần

Đầu, Thần Huống.

“Thần Đầu, Thần Huống

51

Dựng thôn trang chiến

Mấy lần Tây đến

Mấy lần bỏ xác Tây đi

Tây đi du kích cười khì

Điếu cày lại rít thổi phì khói thơm”.

Từ tháng 6 đến tháng 8- 1950, dân quân du kích Thái Bình cùng bộ đội

chủ lực, bộ đội địa phương liên tục đánh địch bằng nhiều hình thức từ nhỏ tới

vừa, từ diệt tề, quấy rối, vây hãm, chống càn, diệt đồn, đến phục kích… đã

gây thiệt hại đáng kể cho quân địch.

Trước sự phát triển ấy, từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 9 năm 1950. Ban

thường vụ Tỉnh ủy họp và nhận định:

“ Địch tạm thời giành được thắng lợi ban đầu, nhưng chúng đang có

những khó khăn mâu thuẫn, bộc lộ những mặt yếu và bị động. Ta có những

khó khăn trước mắt, nhưng mọi hoạt động đều có tiến bộ và trên đà trưởng

thành , địch sẽ ra sức bình định các khu tạm chiếm mà hình thức phổ biến

nhất là càn quét…”[16,tr.110].

Hội nghị kết luận:... “Ở Thái Bình muốn đẩy mạnh du kích chiến tranh

để phát triển nhân dân chiến tranh lên cao, thì việc sửa đổi cách tổ chức lãnh

đạo của các cấp là quan trọng”; điều cần thiết trong sửa đổi là: “ Phải tăng

cường sự lãnh đạo quân sự”. Kết luận này được rút ra trên cơ sở hội nghị đã

nghiêm khắc tự phê bình những khuyết điểm trong thời gian qua là: “ Coi nhẹ

công tác quân sự, nặng về tác chiến, nhẹ về xây dựng…” và “ Hiện nay sự phân

công nói chung của các cấp ủy viên vào ngành quân sự chưa cử những đồng

chí có năng lực để đảm nhiệm công việc…”[16,tr.111]. Hội nghị thường vụ mở

rộng 9-1950 đã giải quyết được những vấn đề và thúc đẩy việc xây dựng lưc

lượng để chuẩn bị cùng toàn quốc chuyển mạnh sang tổng phản công.

Để phối hợp với chiến trường chính trong chiến dịch Biên giới các cơ

quan Dân, Chính, Đảng, các lực lượng vũ trang Tỉnh, Huyện, Xã đều hoạt

52

động sôi nổi. Nhiều khu vực địch hội quân chuẩn bị đi càn quét đều bị bộ đội

địa phương và dân quân du kích tập kích. Nhiều huyện trước đó bộ đội và dân

quân hoạt động yếu nay đã chuyển mình mạnh mẽ, liên tục đánh địch như

Thái Ninh, Thụy Anh, Kiến Xương.

Bên cạnh lãnh đạo xây dựng lực lưỡng vũ trang, cấp ủy các địa phương

trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo tác chiến chống địch càn quét như ở xã Đồng Tiến

(Phụ Dực) . Ngày 20-12-1950 địch huy động 500 tên quân đến bao vây xã

Đồng Tiến. Chi ủy chi bộ đã lãnh đạo tổ chức dân quân du kích và nhân dân

dùng chông, mìn, lựu đạn, gươm, giáo, mã tấu đánh địch trong làng, ngoài

đồng lúa, liên tiếp đánh bại 4 đợt tiến công của địch. Địch không những

không vào được làng mà còn tổn thất nặng nề, bị tiêu diệt tại chỗ 27 tên, hàng

chục tên khác bị thương. Sau trận này địch không dám sục sạo như trước. Khu

du kích Đồng Tiến được mở rộng.

Ở Duyên Hà, bộ đội huyện phối hợp với một đơn vị thuộc trung đoàn

64 diệt đồn Tịnh Xuyên bằng nội công, ngoại kích tiêu diệt 2 trung đội địch,

tịch thu toàn bộ vũ khí, mở khu căn cứ du kích ra tận ven sông Hồng. Ở Đông

Quan, đại đội 4 diệt đồn cầu Gọ và ngã tư An Lễ bằng địch vận. Ở Thư Trì,

dân quân du kích và bộ đội huyện ngụy trang mật tập diệt vị trí Thanh Hương

bắt 1 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Những chiến thắng trên, đã có tác

dụng động viên cổ vũ, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh nhân dân

Thái Bình lên cao. Đặc biệt phong trào “ Nữ du kích Hoàng Ngân” ở Thái

Bình cũng diễn ra sôi nổi. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, chị em còn đảm nhận

các công tác cứu thương, tải thương, tiếp tế, địch vận, giao thông, quân báo.

Nhiều chị em hoàn thành tốt nhiệm vụ theo dõi địch, chắp nối liên lạc, len lỏi

giữa vòng vây quân địch, qua những chặng đường địch kiểm soát chặt chẽ

giúp cấp ủy và chỉ huy các cấp nắm tình hình, cán bộ, đảng viên từ đó phục

hồi, duy trì các hoạt động kháng chiến ở cơ sở. Điển hình là nữ đảng viên du

kích xã Tán Thuật huyện Kiến Xương Nguyễn Thị Chiên trung đội trưởng.

53

Một lần dẫn cán bộ đi họp bất ngờ gặp địch, chị đã mưu trí đánh lạc hướng,

thu hút địch về phía mình, chịu cho địch bắt để cứu thoát cán bộ của Đảng.

Đặc biệt ngày 26.1.1952, đã dũng cảm xông lên cùng dân quân du kích và bộ

đội địa phương đuổi giặc bắt sống 10 tên. Tên quan hai Mơduya đồn Đông

Hướng bị bắt phải nộp sung đầu hàng[60, tr.92]. Ngoài Nguyễn Thị Chiên

Thái Bình còn nhiều nữ du kích dũng cảm như các chị Hà Thị Thuần, Hà Thị

Trù, Phạm Thị Nhành, Hà Thị Vấn đã được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua

của tỉnh[62, tr.95].

Từ đầu năm 1951 phong trào du kích chiến tranh ở Thái Bình phát triển

ngày càng mạnh mẽ. Huyện nào trong tỉnh đều có nhiều làng kháng chiến và

khu du kích.

Để đối phó với phong trào du kích và làng kháng chiến ngày càng lớn

mạnh của ta, địch tập trung quân liên tiếp càn quét với mục đích triệt phá

những khu căn cứ du kích của ta. Trước tình hình trên Ban Thường vụ Tỉnh

ủy đã kịp thời ra chỉ thị cho các địa phương, các ngành mở đợt hoạt động

mạnh để phối hợp với chiến trường chính trong tháng 3-1951.

Thực hiện chỉ thị trên, các địa phương trong tỉnh đã lập nhiều thành tích

trong các trận chống càn ở Ngã tư Và (Quỳnh Côi) ngày 24-3 địch chết 40

tên, trận Lương Nhân (Hưng Hà) ngày 26-3 địch chết 30 tên, trận Văn Hành

(Thái Ninh) ngày 7-4 diệt 110 tên. Đặc biệt là trận phục kích tai cống Kem

(Kiến Xương) tháng 4-1951 trong trận này bộ đội địa phương huyện đã bắt

sống tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Trần Hưng Đạo của quân ngụy cùng 2 tên

đại đội trưởng và 10 vệ sĩ. Những thành tích trên đã góp phần rèn luyện và

giúp cho bộ đội địa phương cùng dân quân du kích học được nhiều kinh

nghiệm đánh đồn , tạo điều kiện để phối hợp với chiến trường chính.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5- 1951, Đảng bộ Thái Bình đã tổ chức học tập

quán triệt nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2. Theo chỉ thị của

Trung ương, Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tại khu du kích Thần

54

Huống để chào mừng Đảng ra hoạt động công khai. Các huyện trong tỉnh đều

họp ban thường vụ huyện ủy mở rộng, phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy và

nghiên cứu lựa chọn đưa một số đảng viên ra hoạt động công khai. Việc đưa

Đảng viên ra hoạt động công khai đã làm cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh

tăng thêm niềm tin tưởng phấn khởi đối với sự lãnh đạo của Đảng. Mối liên

hệ giữa Đảng và quần chúng ngày càng thêm chặt chẽ, gắn bó.

Sau những trận càn quét lớn của địch vào bốn huyện Đông Quan, Phụ

Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh, ngày 15-5-1951, Ban thường vụ Tỉnh ủy họp bàn

kế hoạch đề phòng địch đánh khu căn cứ Tiên – Duyên – Hưng ( Tiên Hưng,

Duyên Hà, Hưng Nhân). Hội nghị nêu rõ những thiếu sót trong chỉ đạo trận

chống càn Mê đuy-dơ và nhận định : “Hiện nay trên chiến trường chính chưa

mở chiến dịch, số quân của địch chưa bị rút lên đó để đối phó với ta nên có

thể trở lại khủng bố, tàn phá cơ sở ta hơn nữa, nhất là vùng Tiên-Duyên-

Hưng… nơi mà cơ quan, bộ đội ở tập trung khá đông và cũng là nơi đang xây

dựng làng kháng chiến để ngăn cản bước tiến của địch” [14,tr245]. Hội nghị

cũng chỉ rõ những điểm cấp ủy các cấp và dân quân du kích cần chú trọng

địch đánh tới là : “Bảo vệ cán bộ, giữ vững cơ sở, giữ vững tinh thần nhân

dân, phát triển mọi hành động du kích dù là địch càn quét lớn, giữ vững

đường giây giao thông”[14,tr245], đồng thời đề ra kế hoạch thực hiện. Nghị

quyết nêu rõ:

“ Phải bám sát tình hình địch. Khi thấy địch tập trung quân có triệu

chứng càn quét lớn, các đồng chí huyện ủy viên và cán bộ được phân công về

phụ trách địa phương nào phải họp ngay với cấp ủy địa phương đó để định kế

hoạch… sau khi địch càn quét phải kịp thời họp để giữ vững tinh thần nhân

dân củng cố phong trào. Đặc biệt phải phát triển rộng rãi những hoạt động tác

chiến du kích trong khi địch càn quét mặc dầu là càn quét lớn nhưng khi địch

tới đâu cũng làm cho địch gặp phải sức kháng chiến của ta” [14,tr.245].

Thực hiện nghị quyết của ban thường vụ Tỉnh ủy, cấp ủy các địa

55

phương trong tỉnh đã tích cực chuẩn bị đề phòng, xây dựng kế hoạch chống

càn cho bộ đội và dân quân du kích. Từ 30-5 đến 16-6 dân quân du kích cùng

bộ đội huyện đã tiêu diệt năm vị trí địch ở Quỳnh Côi, Phụ Dực, Tiền Hải ,

bức rút 4 vị trí ở các huyện Tiên Hưng, Quỳnh Côi, Thụy Anh (Đồng Phó,

Giao Thiên, Trà Hồi, An Lệnh). Đặc biệt bộ đội và du kích đã liên tiếp chống

càn, phục kích, tập kích, bao vây vị trí địch tiêu diệt 244 tên bắt sống 74 tên,

thu 4 trung liên cùng nhiều súng trường đạn dược và quân trang quân dụng.

Nhưng do chúng ta còn chủ quan trong việc nhận định, đánh giá quy

luật càn quét đánh phá của địch sau mỗi trận càn quét thường không kịp thời

rút kinh nghiệm, bổ khuyết cho công tác lãnh đạo nên kết quả công tác chống

địch càn quét không cao. Phong trào xây dựng làng chiến đấu tuy rầm rộ

nhưng còn nặng về hình thức chỉ chú trọng xây dựng lũy cao, hào sâu mà

chưa qua tâm đến nội dung chính trị cũng như kỹ thuật chiến đấu cho dân

quân du kích. Trong công tác xây dựng dân quân du kích nhìn chung còn

nặng về xây dựng lực lượng tập trung của xã (du kích), coi nhẹ việc phát triển

du kích xuống thôn xóm.

2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp

phần cùng quân dân cả nƣớc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến

(11/1951–7/1954).

Từ cuối năm 1951, Đảng bộ, quân dân Thái Bình hăng hái hưởng ứng

đợt thi đua do Liên khu 3 phát động “ Phối hợp với chiến trường chính Hòa

Bình thi đua tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố

phong trào cơ sở, tranh thủ nhân dân”.

Sau một thời gian đối phó với các cuộc tấn công của ta ở Trung du,

đường số 18 và Hà - Nam - Ninh, thực dân Pháp tập trung lực lượng, đánh

phá hết sức ác liệt các cơ sở kháng chiến của ta trong vùng chúng tạm chiếm

đóng, cướp đoạt tài sản, giành giật nhân lực, vật lực với ta , gây cho ta nhiều

khó khăn mới. Nhiều vùng bị chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh

của địch được dựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng

56

địch tạm chiếm gặp rất nhiều khó khăn.

Cuối tháng 10-1951, Đại tướng Đờ Lát Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân

viễn chinh Pháp cho rằng đã đến lúc giành lại quyền chủ động chiến lược

bằng cuộc tấn công trên địa bàn do Pháp lựa chọn ở ngoài vùng châu thổ sông

Hồng để đánh quỵ chủ lực đối phương, xoay chuyển cục diện chiến tranh có

lợi cho Pháp đồng thời cũng nhằm xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần đội quân

viễn chinh tranh thủ viện trợ của Mĩ. Tỉnh Hòa Bình được Bộ chỉ huy quân

đội Pháp ở Đông Dương lựa chọn là mục đích tấn công nhằm đạt được những

mục đích ấy.

Ngày 9-11-1951, Đờ Lát sử dụng một lực lượng cơ động chiến lược

mạnh (gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết

giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàu thuyền) mở cuộc hành quân mang tên

Tuylíp, đánh chiếm chợ Bến nhằm cắt con đường giao thông liên lạc của bộ

đội ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng vào khu 4. Ngày 14-11, chúng mở cuộc

hành quân Lôtuýt đánh chiếm Hòa Bình. Đến ngày 15-11, chúng đã hoàn

thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hòa Bình - Đường

số 6 - Sông Đà - Ba Vì.

Về phía ta, bước vào thu - đông năm 1951, Bộ Tổng tham mưu đã vạch

kế hoạch sẵn sàng đối phó với các tiến công của địch ra vùng tự do của ta ở

Bắc Bộ. Ngay sau khi được tin địch đánh ra Hòa Bình, Tổng quân ủy kiến

nghị với Bộ Chính trị: “Mở chiến dịch Hòa Bình, chuyển kế hoạch hoạt động

thu đông sang tiến công địch nơi chúng chiếm đóng…Hòa Bình sẽ là hướng

chính, các nơi khác phối hợp nhằm tiêu diệt sinh lực địch ở chiến trường Hòa

Bình, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích…” [60, tr. 297].

Ngày 18-11, Tổng quân ủy hạ quyết tâm tiêu diệt địch ở mặt trận Hòa

Bình và lợi dụng lúc chúng sơ hở đánh sâu vào vào địch hậu, đẩy mạnh chiến

tranh du kích, phá âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt

57

đánh người Việt”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chính trị hoàn toàn nhất trí với chủ trương

và quyết tâm của tổng quân ủy. Ngày 24-11, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch”, chỉ thị

khẳng định: “Đây là cơ hội tốt để ta diệt địch, cho chiến tranh du kích Tả Hữu

Ngạn sông Hồng phát triển, cơ hội tốt để khôi phục, củng cố, mở rộng căn

cứ” [60, tr. 298].

Hạ tuần tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ bộ

đội chủ lực, dân quân du kích. Người khẳng định: “Trước kia ta phải lừa địch

ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội tốt cho ta….Bộ đội chủ

lực đánh, bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải

phối hợp chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực của địch, để đánh tan kế hoạch Thu-

Đông của chúng” [59, tr. 298].

Bộ Chính trị và Tổng quân ủy hạ quyết tâm đẩy mạnh đánh địch ở mặt

trận chính diện (khu vực Hòa Bình) và mặt trận sau lưng địch. Thực hiện

quyết tâm của Bộ Chính trị và Tổng quân ủy ngày 27-11-1951, Ban chỉ đạo

Mặt trận đồng bằng họp xác định kế hoạch phối hợp tác chiến với mặt trận

chính diện. Ban chỉ đạo quyết định tập trung lực lượng đánh mạnh vào vùng

sau lưng địch nhân lúc các đơn vị cơ động của thực dân Pháp đang kéo ra

chiếm giữ Hòa Bình, nhằm phá vỡ hệ thống chiếm đóng của chúng, tranh thủ

nhân dân, phục hồi cơ sở, mở rộng và củng cố các khu du kích, các căn cứ du

kích, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đẩy mạnh công tác

địch vận làm tan rã khối ngụy quân, giành lại kho nhân tài, vật lực ở đồng

bằng. Đối với vùng Tả Ngạn, Đại đoàn 320 sẽ vượt sông Hồng sang Thái

Bình phối hợp với Trung đoàn 42 cùng bộ đội địa phương và dân quân du

kích tác chiến, mở rộng các khu du kích, uy hiếp quốc lộ 5 và đường sắt Hải

Phòng - Hà Nội.

Thực hiện sự chỉ đạo trên, Tỉnh ủy Thái Bình chủ trương: “Đẩy mạnh

58

đấu tranh võ trang để phá âm mưu bình định Tiên - Duyên – Hưng của địch,

phục hồi cơ sở mọi mặt” [60, tr. 312]. Hướng hoạt động lúc đầu trọng tâm là

Thái Ninh, Đông Quan nhưng sau đó Mặt trận 5 đã chỉ đạo chuyển sang Phụ

Dực, Thụy Anh để hợp đồng tác chiến với Tiên Lãng, Vĩnh Bảo phá âm mưu

thành lập khu quân sự Vĩnh-Ninh (Vĩnh Bảo – Ninh Giang) tạo nên tuyến

phòng thủ sông Hóa của địch.

Cuối tháng 12 năm 1951 một Tiểu đoàn của Trung đoàn 42 được Mặt

trận 5 tăng cường cho Thái Bình cùng Tiểu đoàn 38 tiến vào huyện Phụ Dực,

Thụy Anh.

Ngày 1-1-1952, một đơn vị của Trung đoàn 42 diệt đồn vệ sĩ Đồng

Bằng. Ngày 2-1- 1952, bộ đội huyện Phụ Dực ( Đại đội 218) cùng du kích các

xã tiêu diệt, bức hàng, bức rút một loạt đồn vệ sĩ: Đào Động, Đại Điền, Vọng

Lỗ, Thanh Mai, Lý Xá, An Hải, Tô Đê. Ngày 9-2 một đơn vị của Trung đoàn

42 cùng bộ đội huyện Phụ Dực phục kích đánh địch tại Dục Linh, An Lộng

diệt và làm bị thương gần 100 tên địch, thu 3 trung liên, 5 tiểu liên, 37 súng

trường, …Sau những thắng lợi này, khu du kích Phụ Dực đã được mở rộng

thêm gồm: Tô Công, Tô Xuyên, Tô Hải, Tân Tiến.

Tại Thụy Anh, đêm 1-1-1951 bộ đội huyện phối hợp với du kích bao

vây các đồn An Tiêm, Đông Hồ, Duyên Trữ. Ngày 2-1-1951 ta tiêu diệt đồn

An Tiêm, các đồn Đông Hồ, Duyên Trữ xin ra hàng, ta thu hơn 20 súng

trường và nhiều đạn được. Được sự hỗ trợ của bộ đội tỉnh, ngày 9-1-1951 bộ

đội và dân quân du kích Thụy Anh phục kích đại đội Commăngđô của địch

đang chuyển quân từ Ninh Giang về Xá Thị, diệt 15 tên, bắt sống tên chỉ huy

Pháp. Để kỉ niệm chiến thắng, Đại đội bộ đội huyện Thụy Anh được Bộ tư

lệnh Liên khu và Tỉnh đội cho phép được mang tên từ đại đội thành đại đội

91. Phát huy chiến thắng, Đại đội 91 phối hợp với Tiểu đoàn 38 liên tục tấn

công địch, tiêu diệt bốt Đoài, Cao Ninh, giải thoát cho hơn 100 đồng bào bị

59

bắt giam ở đây, đánh đồn tổng dũng Hạc Ngang bức rút các vị trí: Thượng

Phúc, Cúc Mai, Cam Động, phá một loạt tề vũ trang: Hồng Hưng, Nghĩa

Hưng, Đại An, Trường Sơn…

Theo sự chỉ đạo của tỉnh, huyện Đông Quan cũng chủ động phối hợp

với Thụy Anh. Bộ đội huyện và du kích Đông Quan đã bao vây diệt đồn Bảo

chính đoàn Đông Khê (quận lỵ Đông Quan) vũ trang tuyên truyền, bức rút các

đồn hương dũng vệ sĩ: Liên Phương, An Bình, Bắc Lạng.

Ở Tiên - Duyên - Hưng, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân du

kích các làng thuộc các xã Kim Châu, Tiến Thuật, Hồng Việt (Tiên Hưng),

Hồng Lĩnh, Chí Minh (Duyên Hà) và các làng Then, Mẹo (Hưng Nhân) làm

tan rã nhiều ban tề do địch mới lập tháng 10-1951.

Chỉ trong 10 ngày hoạt động đầu tháng 1-1952, quân dân Thái Bình đã

tiêu diệt và bức rút 40 đồn địch, chủ yếu là các đồn hương dũng, tổng dũng,

vệ sĩ. Kết quả này đã góp phần cùng quân dân huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo

(Hải Phòng) phá vỡ một mảng lớn tuyến phòng thủ sông Hóa thuộc Khu quân

sự (Secteur) Vĩnh Ninh của địch. Tinh thần quần chúng lên cao, tư tưởng bi

quan, sợ càn quét lớn được khắc phục. Quân và dân trong tỉnh phấn khởi

chuẩn bị mọi mặt để đón bộ đội chủ lực vào Thái Bình.

Để chuẩn bị đón Đại đoàn 320 về Thái Bình phối hợp với quân và dân

trong tỉnh chiến đấu, trung tuần tháng 12-1951, Tỉnh ủy Thái Bình đã họp hội

nghị, với sự tham gia của các đồng chí trong Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến

hành chính, tỉnh đội, bàn kế hoạch chuẩn bị chiến trường đón bộ đội chủ lực.

Đồng chí Nguyễn Xuân Quang quyền Bí thư Tỉnh ủy đã trình bày nội dung

các công việc cụ thể như: Khẩn trương thông báo cho các cấp (huyện, xã)

chuẩn bị đón bộ đội chủ lực vào hoạt động ở địa phương; tổ chức thống nhất

ban theo dõi tình hình địch, chuẩn bị nhân mối, lập binh yếu địa chí địa bàn

hoạt động. Phân tán thuế nông nghiệp về cất giấu tại các gia đình. Dự trữ,

chuẩn bị lương thực cho bộ đội. Huy động nhân dân ở những vùng căn cứ du

60

kích ven sông chuẩn bị 300 đến 400 chiếc thuyền nan, các nơi khác chuẩn bị

200 đến 250 chiếc để sẵn sàng phục vụ bộ đội vượt sông. Hội mẹ chiến sĩ và

Hội phụ nữ thành lập tổ “Hỏa thực” lo việc cơm nước. Chuẩn bị lực lượng

thanh niên bổ sung cho bộ đội khi cần. Điều chỉnh lại lực lượng bộ đội, đổi

phiên hiệu Tiểu đoàn 38 thành 66, chuyển hướng hoạt động từ Phụ Dực, Thụy

Anh về Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải, mỗi huyện thành lập một trung đội

dự trữ. Dân quân du kích cac thôn xã tích cực hoạt động phối hợp với các

hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực.

Thực hiện kế hoạch chuẩn bị chiến trường, Tỉnh đội đã điều Tiểu đoàn

66 đang hoạt động ở Phụ Dực, Thụy Anh cấp tốc về Vũ Tiên, Tiền Hải. Đêm

ngày 24 rạng ngày 25-1-1952, Tiểu đoàn 66 bao vây buộc quân địch ở các

đồn vệ sĩ Trung Đồng, Đông Thành ra hàng. Tiếp đó ta lại bức hàng, bức rút

thêm một lọat vị trí như Thanh Châu, Bạch Long, Lương Điền, Cam Lai, Chí

Trung, Lạc Thiện (Tiền Hải), Bắc Trạch (Kiến Xương). Trong những ngày

cuối tháng 1-1952, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích bức

rút 9 vị trí của lực lượng vệ sĩ thiên chúa giáo phản động giải phóng phần lớn

huyện Tiền Hải.

Được sự hỗ trợ của nhân dân, ngày 17-1-1952, cánh quân thứ nhất của

Đại đoàn 320 đã vựơt sông Hồng sang Quang Thẩm (Vũ Tiên). Một tuần sau

ngày 25-1-1952 bộ phận còn lại (cánh quân thứ hai) của Đại đoàn 320 cũng

vượt sông an toàn. Bộ tư lệnh Đại đoàn đứng chân tại làng Kiến Xá huyện

Thư Trì. Đây là lần đầu tiên, một lực lượng lớn chủ lực ta luồn sâu vào vùng

địch tạm chiếm, phối hợp với chủ lực của tỉnh và bộ đội địa phương, dân quân

du kích thực hiện trong ngoài cùng đánh, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiến

tới đánh bại quân địch ở Hòa Bình, giữ vững quyền chủ động chiến lược.

Ngay sau khi cánh quân thứ hai của Đại đoàn vượt sông, một cuộc họp

quan trọng giữa đại diện Ban Cán sự Tả Ngạn, Bộ tư lệnh Đại đoàn 320, Bộ

chỉ huy Mặt trận 5, Tỉnh ủy Thái Bình đã triệu tập tại thôn Kinh Nhuế (Phía

61

bắc huyện Kiến Xương). Cuộc họp đã được quán triệt Nghị quyết của Liên

khu ủy III về việc thành lập Đảng ủy mặt trận Tả Ngạn sông Hồng. Trong

cuộc họp này Đảng ủy nhận định: “Ở phía nam đường 10, cơ sở một vài nơi

còn yếu nhưng một số vùng như Kiến Xương, Vũ Tiên, phong trào du kích

chiến tranh đang phát triển mạnh mẽ…Phía nam đường 10 là nơi địch đóng

nhiều vị trí, các vị trí phản động đóng tại các nhà thờ Thiên chúa giáo có

nhiều sơ sở” [60, tr. 302]. Đảng ủy Mặt trận quyết định thực hiện phương

châm tác chiến đề ra là “Bộ đội chủ lực tạo mọi điều kiện để đánh điểm diệt

viện; kết hợp uy hiếp bằng quân sự với vận động chính trị rộng rãi. Bộ đội địa

phương và dân quân du kích phải phối hợp với chủ lực…đẩy mạnh bao vây

uy hiếp, tước vũ khí hương tổng dũng và bọn phản động đội lốt Thiên chúa

giáo; vũ trang tuyên truyền vào vùng địch tạm chiếm diệt tề phản động, bắt do

thám, tranh thủ nhân dân, phục hồi, củng cố cơ sở, triệt để phá hoại giao

thông…” [60, tr. 303].

Căn cứ vào chủ trương của Đảng ủy Mặt trận, Tỉnh ủy Thái Bình chỉ

đạo các địa phương khẩn trương phối hợp chiến đấu với Đại đoàn 320. Hướng

hoạt động tác chiến ban đầu được xác định chủ yếu là miền bắc Thái Bình,

nơi có khu căn cứ du kích Tiên - Duyên - Hưng - Quỳnh Côi rộng lớn đang bị

địch chiếm đóng. Tuy nhiên, do bị binh đoàn cơ động số 4 (GM4) của địch ra

sức ngăn chặn, nên đại bộ phận lực lượng của Đại đoàn 320 không thể sang

Hưng Nhân mà phải vượt sông vào miền nam Thái Bình. Vì vậy, hướng tác

chiến ban đầu được chuyển xuống địa bàn phía nam tỉnh. Địa bàn cụ thể được

xác định là hệ thống chiếm đóng của địch ở Kiến Xương và Tiền Hải.

Mở đầu đợt hoạt động, ngày 26-1-1952, Tiểu đoàn Đống Đa, thuộc Trung

đoàn 48, Đại đoàn 320 phối hợp cùng du kích phục kích trên đường 39, đánh tan

một trung đội Âu - Phi khi chúng đang trên đường từ Đông Hướng tới Thanh Nê

(Kiến Xương). Trung đội nữ du kích và nhân dân xã Tán Thuật (Kiến Xương) đã

cùng bộ đội xông ra đánh giáp lá cà với địch. Nữ du kích Nguyễn Thị Chiên tay

62

không bắt sống tên trung úy chỉ huy Maduya. Trận mở màn thắng lợi đã gây

tiếng vang lớn, thanh thế của bộ đội chủ lực lan rộng. Tinh thần binh lính trong

các đồn bốt ngụy và vệ sĩ công giáo hoang mang, lo sợ.

Để mở rộng khu du kích nam sông Trà Lý, cơ quan tỉnh đội và một bộ

phận lực lượng của Đại đoàn 320 quyết định tiến công Chi khu quân sự La

Cao (còn gọi là Đông Hướng), nơi đặt đầu mối chỉ huy 19 đồn bốt, trong đó

có cả vị trí do quân Âu Phi chiếm đóng và đồn bốt của bọn vệ sĩ công giáo hai

huyện Kiến Xương, Tiền Hải. Đồn La Cao do một đại đội đóng giữ, có

boongke hầm ngầm kiên cố nối thông giữa các lô cốt hoặc rút theo cửa bí mật

sang đồn khác khi nguy khốn, là một vị trí trung tâm của Chi khu quân sự,

nếu bị tiêu diệt sẽ có tác động quyết định đến số phận của các đồn bốt khác.

Sau gần một tháng bị quân dân địa phương bao vây, địch phải dùng

máy bay chở đồ tiếp tế cho La Cao. Sáng ngày 31-1-1952, Tiểu đoàn Đống

Đa và Tiểu đoàn pháo binh 834 có dân quân du kích phối hợp nổ súng tiến

công La Cao. Sau nửa giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt và bắt sống hai trung

đội địch. Số còn lại rút xuống hầm ngầm cố thủ và tìm cách rút chạy sang đồn

Trà Lý (Tiền Hải). Song chúng bị rơi vào trận địa phục kích của ta. Tên đồn

trưỏng Vôret khét tiếng gian ác và một số tên khác bị bắt sống. La Cao được

giải phóng. Ngay sau đó, các đồn phụ cận như Vũ Lăng, Giáo Nghĩa (Kiến

Xương) đầu hàng. Đến lượt binh lính đồn Trà Lý phải rút chạy.

Phát huy chiến thắng La Cao, bộ đội và du kích liên tiếp tổ chức đánh

vận động phục kích, nội ứng, công kích diệt đồn bốt địch. Tiểu đoàn 66 bộ

đội địa phương tỉnh nhân thời cơ quân địch rệu rã, hoang mang, dùng chiến

thuật bao vây, bức hàng 9 vị trí vệ sĩ công giáo, giải phóng huyện Tiền Hải,

trong đó có Đông Thành, một vùng Thiên chúa giáo tập trung. Từ Tiền Hải,

Tiểu đoàn 66 lại vận động đến phía nam huyện Vũ Tiên, Kiến Xương phối

hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt, bức hàng 12 vị trí lớn

nhỏ, giải phóng gần hết huyện Kiến Xương và khu vực phía nam huyện Vũ

63

Tiên. Đặc biệt đối với vị trí Liên hiệp Pháp ở Hội Khê (Vũ Tiên) và vị trí vệ sĩ

công giáo Cao Mại (Kiến Xương), ta kết hợp giáo dục, thuyết phục kết hợp

với việc dùng áp lực quân sự đấu tranh buộc địch phải nộp vũ khí đầu hàng.

Trước sức uy hiếp mạnh mẽ của bộ đội và dân quân du kích, một loạt

10 đồn bốt do tổng dũng, vệ sĩ đóng giữ thuộc hai huyện Kiến Xương, Vũ

Tiên đã phải ra hàng hoặc rút chạy.

Cho đến đầu tháng 2 -1952, tại nam Thái Bình, các đơn vị của Đại đoàn

320 cùng dân quân du kích, bộ đội địa phương đã giải phóng một vùng rộng

lớn gồm các huyện Kiến Xương, Tiền Hải và phía nam huyện Vũ Tiên. Vừa

tác chiến, bao vây bức hàng các vị trí địch, các lực lượng chủ lực và địa

phương vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân vùng mới

giải phóng, nhất là vùng tập trung đông đảo đồng bào theo đạo Thiên chúa,

hướng bà con tham gia các hoạt động kháng chiến, hỗ trợ cho bộ đội đánh

địch có hiệu quả.

Trong lúc các đơn vị thuộc Trung đoàn 48 phối hợp với Tiểu đoàn 66

(sau đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 705) hoạt động ở khu vực phía nam sông Trà

Lý thì các đơn vị khác của Đại đoàn 320 đã tranh thủ vượt sông Trà Lý đánh

địch ở các huyện Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan.

Tại Thái Ninh ngày 8-12-1952, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 320 tổ chức

tiến công Tiểu khu chợ Cổng (Thái Ninh), diệt và bắt sống 130 tên địch, thu

nhiều vũ khí, trong đó có cả khẩu đại bác 105 ly. Thừa thắng, ngày hôm sau,

đơn vị tiến công vị trí Thanh Đầu. Hoảng sợ trước sức tấn công mạnh mẽ,

quyết liệt của quân ta, một loạt các đồn nhỏ lân cận như Xuân Hòa, Danh

Giáo, Đồng Chanh, Xuân Hải, Cống Cất, Đồng Tỉnh, Sơn Thọ, Các Động,

Bích Du đã nhanh chống đầu hàng khi ta vừa nổ súng. Riêng đối với vị trí

Nghĩa Phong, do một đại đội Liên hiệp Pháp chiếm giữ, Đại đội Lê Lợi, phối

hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện Đông Quan đã tổ chức

tấn công địch liên tục trong một giờ đồng hồ mới chiếm được, diệt và bắt 131

tên. Cho đến giữa tháng 2- 1952, cả huyện Thái Ninh địch chỉ còn hai vị trí là

64

Cầu Sắt và Chùa Khô.

Tại huyện Thụy Anh, trong các ngày 9 và 10-2-1952, Trung đoàn 52 tổ

chức bao vây các vị trí Trà Linh, Diêm Điền, Đông Hòa, Bình Lạng khiến

quân địch ở đây bị cô lập, phải dùng máy bay tiếp tế.

Bị đánh quyết liệt ở Hòa Bình, sông Đà, Ba Vì, đường số 6 và ở Trung

du, lại bị tổn thất nặng nề ở đồng bằng, quân Pháp lâm và tình thế “tiến thoái

lưỡng man” trên mặt trận Hòa Bình. Để đối phó với Đại đoàn 320 và đại đoàn

304 đang hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, đối

phó với hoạt động mạnh mẽ của quân dân Thái Bình cùng quân dân các tỉnh

Tả Ngạn sông Hồng, bộ chỉ huy Pháp buộc phải điều động binh đoàn cơ động

số 4 và số 7, mở cuộc hành binh Crasanh (Mưa Phùn) đánh vào các khu căn

cứ du kích phía nam huyện Đông Quan, sau đó tiến sang các huyện Thụy

Anh, Phụ Dực… nhằm ngăn chặn chủ lực ta phát triển hoạt động lên phía bắc

đường 10 (bắc Thái Bình). Tuy nhiên cuộc hành quân Crasanh của địch đã

không thu được kết quả, trái lại binh đoàn GM4 và GM7 còn bị tổn thất nặng

nề . Hàng trăm lính Âu - Phi bị chết, bị thương và bị bắt. Các Tiểu đoàn Tiên

Yên (d884), Kiên Trung (d337), Thanh Lũng (d868) thuộc Đại đoàn 320 đã

phối hợp với du kích, bộ đội địa phương vừa đánh quân cơ động của địch, vừa

bao vây bức hàng, bức rút một loạt các vị trí địch ở Thái Ninh, Thụy Anh,

Phụ Dực, Duyên Hà.

Phối hợp với mặt trận phía nam tỉnh, mặc dù chưa có sự hỗ trợ trực tiếp

của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các huyện phía bắc cũng tổ

chức bao vây, bức rút, bức hàng một số vị trí như Tạ Xá (Tiên Hưng), Nguyệt

Lãng (Thư Trì), Cần Phán (Quỳnh Côi)…

Trên đà thắng lợi, Ban chỉ đạo Mặt trận Tả Ngạn quyết định chuyển

phần lớn lực lượng chủ lực lên hoạt động ở phía bắc đường 10, khôi phục lại

khu căn cứ du kích Tiên - Duyên - Hưng. Tiểu đoàn Tiên Yên đã phối hợp với

bộ đội địa phương và nhân dân du kích các huyện bao vây, bức hàng một loạt

65

đồn như Dốc Văn, Buộm, Phú Vật, Mỹ Đình (Hưng Nhân), Cúc Đình (Duyên

Hà). Đặc biệt quân dân ta còn quyết định đánh bốt Đào Thành để mở cống lấy

nước tưới cho 3000 ha ruộng lúa của ba huyện Tiên - Duyên - Hưng đang khô

hạn. Để đảm bảo bí mật, bất ngờ, Bộ tư lệnh Đại đoàn 320 quyết định giao

nhiệm vụ đánh vị trí Đào Thành cho Tiểu đoàn Đồng Mít (d 706) thuộc Trung

đoàn 64 đang hoạt động ở Hà Nam. Đêm mùng 9-2-1952, Tiểu đoàn 706 đã

vượt sông Hồng sang địa phận Hưng Nhân(Thái Bình), nổ súng tấn công địch

với khẩu hiệu “Quyết lấy nước về cho đồng bào”. Trận đánh diễn ra quyết liệt

đến rạng sáng 10-2 vẫn chưa kết thúc. Tiểu đoàn 884 thuộc trung đoàn 64 tổ

chức một trận phục kích tại Hà Nguyên trên dường 39, tiêu diệt gọn Đại đội 3

thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 của địch (5e REI) đến cứu viện cho

vị trí Đào Thanh. Thấy đồng bọn bị tiêu diệt, ngay chiều hôm đó, số quân

địch cố thủ ở Đào Thành buộc phải tháo chạy theo đường sông. Cống Đào

Thành đưa nước từ sông Luộc tới các cánh đồng rộng lớn thuộc ba huyện

Tiên - Duyên - Hưng được mở, cứu sống 3000 ha lúa chiêm đang cằn héo.

Lúc mở cống, có người dân đã mang chai hứng dòng nước chảy đầu tiên đem

về đặt lên bàn thờ gọi là “Chai nước cụ Hồ”. Khuếch trương thanh thế Đào

Thành, bộ đội, du kích các huyện Hưng Nhân, Duyên Hà, Quỳnh Côi tiếp tục

chiến đấu diệt thêm năm vị trí địch khiến cho vùng giải phóng và căn cứ du

kích ở Thái Bình ngày càng mở rộng.

Qua hơn một tháng phối hợp với Đại đoàn 320, quân và dân Thái Bình

đã tiêu diệt, tiêu hao, mở vùng giải phóng, làm tròn nhiệm vụ tác chiến góp

phần giam chân địch ở mặt trận địch hậu đồng bằng, tạo điều kiện cho mặt

trận Hòa Bình giành thắng lợi, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn chiếm

đóng Hòa Bình của thực dân Pháp. Hai huyện Kiến Xương, Tiền Hải được

giải phóng. Ba phần tư huyện Thái Ninh và một nửa huyện Thụy Anh cũng

trở về tay chính quyền kháng chiến. Quân và dân ta đã diệt, làm bị thương và

bắt sống 3000 tên địch, khôi phục, củng cố hàng loạt khu du kích, căn cứ du

66

kích tại các huyện Tiên Hưng, Duyên Hà, Hưng Nhân, Quỳnh Côi, Phụ Dực,

Vũ Tiên. Có thể nói hệ thống chính quyền cơ sở ngụy quyền địch ở Thái Bình

đã bị phá rã về cơ bản. Kết quả càn quét, bình định của địch trong suốt những

năm 1950, 1951 trên địa bàn Thái Bình đã bị phá tan chỉ trong thời gian ngắn.

Ta biến vùng địch chiếm ở Thái Bình thành hậu phương và tiền phương của

ta, giành lại quyền làm chủ cho nhân dân. Lực lượng vệ sĩ công giáo, vốn là

nòng cốt bảo vệ các khu tập trung giáo dân và là chỗ dựa đắc lực của thực dân

Pháp ở Thái Bình đa bị giáng một đòn chí tử. Các đội vũ trang tuyên truyền

của ta, theo chân bộ đội chủ lực, đã thâm nhập vào những khu vực công giáo

toàn tòng để tuyên truyền, giác ngộ, động viên giáo dân tham gia kháng chiến.

Phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, từ tháng 1 đến tháng 4-1952, quân

dân Thái Bình cùng bộ đội chủ lực Liên khu 3 đã tiêu diệt, bức hàng, bức rút

75 đồn bốt, cứ điểm của địch (trong đó có 44 vị trí vệ sĩ thiên chúa giáo); bắt

giáo dục và phóng thích tại chỗ gần 2000 vệ sĩ, làm tan rã các lực lượng phản

động, chỗ dựa của quân đội Pháp tại Thái Bình.

Quân dân Thái Bình đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch;

thu nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh của chúng, phá và làm mất hiệu lực

80% tổng số ban tề của địch ở Thái Bình. Bộ máy ngụy quyền các cấp hầu

như rệu rã; giải thoát trên 10 000 thanh niên bị giặc bắt quân dân trong tỉnh

đã. Mở được một vùng giải phóng rộng lớn bao gồm hầu hết các huyện Tiền

Hải, Thái Ninh, Kiến Xương, Thụy Anh. Khu căn cứ du kích đã nối liền giữa

Nam Thư Trì với Nam Vũ Tiên qua Nam Kiến Xương đến Tiền Hải. Khu căn

cứ Bắc Kiến Xương nối liền với khu Bắc Vũ Tiên. Các khu căn cứ du kích

Tiên-Duyên-Hưng, Đông Quỳnh Côi nối với khu du kích Thụy Anh. Các khu

du kích của tỉnh Thái Bình lúc này đã nối liền với các khu du kích của tỉnh

bạn: Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Hà Nam, Nam Định… thành một khu

du kích liên tỉnh rộng lớn của Liên khu 3.

Đây là thắng lợi to lớn của Thái Bình kể từ ngày địch tiến công chiếm

67

đóng (8-2-1950) đã diệt được nhiều sinh lực địch nhất, mở được khu du kích

với diện tích rộng nhất, huy động được đông đảo lực lượng phối hợp chiến

đấu, phục vụ chiến đấu. Đây không những thắng lợi về quân sự, chính trị mà

còn thắng lợi cả về kinh tế. Thắng lợi này đã làm thay đổi tương quan lực

lượng giữa ta và địch tại Thái Bình, tạo ra bước ngoặt quan trọng để đưa cuộc

kháng chiến của tỉnh ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Căn cứ vào kinh nghiệm các trận chống càn trước, ngày 22-3-1952, Ban

Cán sự Tả Ngạn nhận định địch sẽ tập trung lực lượng để càn quét lớn vùng

căn cứ mới mở của ta. Nhiệm vụ cấp bách truớc mắt của quân dân các tỉnh Tả

Ngạn sông Hồng lúc này là: Củng cố các căn cứ, tăng cường các lực lượng vũ

trang chủ lực, địa phương, dân quân du kích.Chuẩn bị sẵn sàng chống các cuộc

càn quét lớn. Tỉnh Thái Bình đã quán triệt, thực hiện chỉ thị của Trung ương và

nhiệm vụ của Ban Cán sự Mặt trận Tả Ngạn giao cho một cách tự giác, tích cực

và hoàn toànchủ động. Ngay khi địch chưa rút Hòa Bình, Tỉnh ủy đã cùng

Đảng ủy Đại đoàn 320 tổ chức quán triệt tình hình nhiệm vụ, học tập kinh

nghiệm chống càn cho chủ lực , bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Đúng như dự đoán của ta, sau khi càn quét Hà Nam, Nam Định, ngày

23-3-1952, thực dân Pháp điều 5 binh đoàn cơ động (GM1, GM2, GM3, GM4

và GM7) cùng nhiều lực lượng, vũ khí phương tiện mở cuộc hành binh Méc-

quya (Thủy Ngân), do đích thân tướng Sa-lăng Tổng chỉ huy quân viễn chinh

Pháp ở Đông Dương chỉ huy cuộc càn quét, đánh phá Thái Bình. Mục đích

của cuộc hành binh nhằm: tiêu diệt hoặc ít nhất cũng đẩy được Đại đoàn 320

ra khỏi Thái Bình; củng cố hệ thống chiếm đóng, chia cắt và đánh phá vùng

du kích Nam đường 10 để bảo vệ thị xã; bắt thanh niên đi lính, cướp phá kinh

tế, phá cơ sở chính trị. Địa bàn địch tập trung đánh phá là Thụy Anh, Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải với diện tích 700km2.

Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1952, sau khi mũi tiến công của địch tạo

thành một vòng vây lớn địch, chúng cho quân bao vây đánh chiếm từng

68

làng.Trong 10 ngày chống càn Thủy Ngân, quân dân Thái Bình bộ đội hai

trung đoàn 48, 52 (Đại đoàn 320), đã đánh trên 200 trận, loại khỏi vòng chiến

đấu 2500 tên, đánh bại trận càn Thủy Ngân của địch

Sự trưởng thành nhanh chóng và những thành tích to lớn của Đảng bộ,

quân dân Thái Bình trong giai đoạn từ 1950 đến năm 1952 đặc biệt là những

thành tích nổi bật trong năm 1952 đã được Hội nghị thi đua toàn quân ngày

12-4-1952 đánh giá cao. Quân dân Thái Bình được Hồ Chủ tịch tặng cờ

“Quân dân một lòng tiêu diệt địch”. Nguyên Xá-làng kháng chiến của huyện

Tiên Hưng thực hiện tốt chủ trương “Ba không” (không lập tề, không làm tay

sai cho giặc, không đi lính ngụy) và “ba được” (đánh được giặc, giữ được

làng, tăng gia sản xuất được) được Hồ Chủ tịch tặng cờ “Nguyên Xá làng

kháng chiến kiểu mẫu”. Toàn tỉnh có 13 chiến sĩ thi đua được bầu chọn đi dự

“ Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc” lần thứ nhất tổ

chức tại Việt Bắc từ 30.4 đến 6.5 năm 1952. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn

Thị Chiên chi ủy viên, trung đội trưởng du kích xã Tán Thuật (Kiến Xương)

vinh dự được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang

nhân dân, là một trong số bốn Anh hùng quân đội đầu tiên, là nữ anh hung

đầu tiên của cả nước.

Đầu năm 1953, trước sự tiến công vây hãm của quân dân trong tỉnh,

quân địch phải rút bỏ một loạt các vị trí: An Tập (Tiên Hưng); Cầu Nại (Hưng

Nhân); Đồng Châu, Tân Mỹ (Quỳnh Côi). Nhiều vị trí khác bị vây hãm,

chúng phải xin tiếp viện bằng máy bay.

Để cứu nguy cho tình thế khốn quẫn đó, trung tuần tháng 1-1953, quân

Pháp lại điều các binh đoàn cơ động GM3, GM4, GM5 và 4 tiểu đoàn pháo

liên tiếp mở hai cuộc hành binh Ác toa và Crapo trong 20 ngày, bắt đầu từ

ngày 16-1-1953 đánh Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực Vũ Tiên và Kiến

Xương nhằm giải vây và tiếp tế cho các đồn bốt đóng trên trục đường 10, 39,

217, xua giãn lực lượng ta. Trong cuôc càn này chúng đã bắt trên 2000 thanh

69

niên, đốt trên 600 nóc nhà, cướp phá hàng chục tấn thóc lúa.

Do đã có kinh nghiệm chống các trận càn lớn trước đây, nên khi địch

đến đâu cũng bị các lực lượng vũ trang và nhân dân dũng cảm đánh trả. Kết

thúc cuộc hành binh này, địch bị chết, bị thương và bị bắt gần 1000 tên.

Với ta, do thủ đoạn của địch thay đổi nên lúc đầu cả 3 thứ quân đều

lung túng. Nhưng sau khi phát hiện được chỗ yếu của địch, không có hỏa lực

mạnh chi viện sẽ không dám tiến quân, đặc biệt không dám dàn mỏng lực

lượng, bộ đội dân quân du kích tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở

của địch. Trong khi chúng đang càn quét, ngày 18-1-1953 Tiểu đoàn Đống Đa

(Trung đoàn 48) đánh chi khu quân sự Quỳnh Côi, một đại đội địch ra hàng.

Mấy ngày sau, Tiểu đoàn 705 (bộ đội tỉnh) về dân quân du kích lại đánh vào

quận lỵ Quỳnh Côi, và đồn Bạch Linh, binh lính địch hoảng sợ bỏ đồn rút

chạy. Khi các binh đoàn quân cơ động rút đi, các đồn địch lại tiếp tục bị ta

vây hãm.

Đến cuối tháng 6-1953 địch phải rút một loạt đồn bốt: Bình Lạng, Nha

Xuyên, Cầu Sắt (Thái Ninh); Trà Linh (Thụy Anh); Go (Đông Quan): Cầu Sa

( Quỳnh Côi); Tuy Lai, Tịnh Xuyên, Nội Trung (Duyên Hà)…. Địch chỉ còn

giữ được các vị trí quanh thị xã, dọc đường 10 và một số đồn bốt đóng ở các

nhà thờ do bọn phản động khống chế được dân. Hoạt động quân sự của địch

lúc này chủ yếu dùng phi pháo để giải vây, tổ chức nhiều cuộc càn quét, tập

kích, biệt kích để bắt lính và phá cơ sở, cướp thóc lúa của nhân dân, duy trì trị

an ở vùng tạm chiếm.

Đến cuối năm 1953, Tỉnh Thái Bình đã có một vùng tự do rộng lớn

chiếm 4 phần 5 đất đai toàn tỉnh. Khu căn cứ du kích và các khu du kích liên

xã, liên huyện, liên tỉnh nối tiếp nhau. Phía bắc có Hưng Nhân, Duyên Hà,

Tiên Hưng, Quỳnh Côi và một phần Phụ Dực. Phía đông nam có Thụy Anh,

Thái Ninh, Tiền Hải và phần lớn hai huyện Vũ Tiên, Kiến Xương… Nhờ đó

cán bộ, bộ đội có điều kiện củng cố tổ chức, chỉnh huấn, chỉnh quân để nâng

70

cao trình độ tác chiến, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Đến đầu tháng 12-1953, bộ đội tỉnh đã có một tiểu đoàn và 3 đại đội

độc lập, mỗi huyện có 1 đại đội và 1 trung đội dự bị bổ sung. Tổng số bộ đội

tỉnh, huyện có 3.184 người, trong đó có 726 đảng viên. Du kích tập trung, mỗi

xã có từ 1 trung đội đến 1 đại đội. Tổng số du kích toàn tỉnh có 15394 người.

Chấp hành chỉ thị của Tổng Quân ủy, Khu ủy Tả Ngạn về hoạt động

Đông – Xuân 1953-1954; và chỉ thị khẩn về chống phá càn của đồng chí Bí

thư Khu ủy, ngày 17-11-1953, Tỉnh ủy Thái Bình họp ra nghị quyết với nội

dung trọng tâm là “ …Toàn bộ công tác của ta là ở địch hậu, nhiệm vụ đấu

tranh lúc nào cũng là chủ yếu”[16, 393]. Nghị quyết nhấn mạnh “ Phát huy

tinh thần công kích địch thật mạnh mẽ, đánh mạnh để thu hút lực lượng địch

làm nhẹ cho chiến trường khác”[16, 393]. Về nhiệm vụ tác chiến: “Đánh địch

ở vùng du kích, căn cứ du kích là chính, đồng thời mạnh bạo tập kích phá

hoại kho tang, cơ quan đầu não, trường đào tạo sĩ quan của địch, diệt bọn đại

gian ác trong vùng tạm chiếm”[16, 393]. Tỉnh ủy phổ biến tình hình địch,

nhiệm vụ chống càn cho các huyện phía Nam và giao cho Tỉnh đội có trách

nhiệm kiểm tra đôn đốc, điều động lực lượng.

Sau hội nghị, Tỉnh đội điều Tiểu đoàn 53 xuống hai huyện Kiến Xương,

Tiền Hải tăng cường cho địa phương chống phá càn. Các cơ quan, ngành giới

cử cán bộ xuống cơ sở hướng dẫn nhân dân phân tán kho tàng, cất dấu của cải,

gặt nhanh lúa mùa; gặt đến đâu, cất giấu ngay đến đấy; đào thêm công sự tránh

phi pháo; chuẩn bị thuyền, bè, bến bãi bảo đảm vận chuyển khi cần thiết.

Thấy không thể xua dãn lực lượng ta và giải vây bằng phi pháo, cuối

năm 1953 quân Pháp tập trung binh hỏa lực mở hai cuộc càn lớn vào các khu

du kích của tỉnh nhằm giải vây cho các đồn; tăng cường bảo vệ thị xã ; bảo vệ

giao thông; phá căn cứ du kích, khu du kích đồng thời cướp thóc lúa, bắt lính.

Ngày 27-11-1953, địch mở cuộc hành quân Buýp- phlơ, với lực lượng

gồm 3 binh đoàn cơ động, có cả xe tăng pháo binh, máy bay, tàu chiến hỗ trợ

71

chia ra thành nhiều mũi đánh vào hai huyện Kiến Xương, Tiến Hải.

Do có sự chuẩn bị chu đáo, tiểu đoàn 53 sát cánh cùng quân dân 2

huyện chủ động chiến đấu. Khi quân địch tiến xuống Kiến Xương, một xe cơ

giới bị trúng mìn nổ tung. Hàng chục tên bị thụt hố chông. Buổi tối, khi địch

trú quân tại Phố Nê ( Kiến Xương) lại bị du kích Tán Thuật tập kích, diệt và

làm bị thương một số tên. Tại huyện Tiền Hải, quân dân địa phương đã loại

khỏi vòng chiến đấu 225 tên, phá hủy hai xe tăng, đánh hỏng nặng 6 xe cơ

giới. Đây là chiến thắng phá càn lớn nhất của quân dân Tiền Hải tính đến đầu

năm 1954.

Trong khi địch đang càn quét các huyện phía Nam, được tin cơ sở của

ta từ thị xã báo ra, sở chỉ huy cuộc hành binh của địch có nhiều sơ hở. Sau khi

tiến hành trinh sát, một đại đội của Trung đoàn 50 táo bạo tập kích sở chỉ huy

địch ngay trong đêm 4-12-1953. Trận đánh diễn ra trong 10 phút, trên 100 tên

địch bị bắt và bị giết, 28 xe cơ giới bị phá hủy.

Đây là trận tập kích đầu tiên vào sở chỉ huy của dịch ở Thái Bình, là kết

quả của tư tưởng chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở vùng địch hậu của Trung

ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh. Trước thất bại đau đớn này, thực dân Pháp

phải bỏ dở cuộc hành binh mà chúng dự định tiến hành vào ngày 5-12-1953.

Ngày 12-12-1953, quân Pháp điều 6 binh đoàn cơ động và một số lực

lượng khác cùng nhiều vũ khí phương tiện mở cuộc hành quân Giéc- phô, kéo

dài hơn 1 tháng, đánh vào địa bàn tỉnh Thái Bình.

Những ngày chiến đấu chống 2 trận càn Buýt-phlơ và Giéc-phô, lực

lượng ta không còn bị động đối phó với địch như trước. Mặc dù địch tập trung

quân số đông hơn cả cuộc hành quân Méc-quya; nhưng dân quân du kích đã

đủ sức độc lập bám làng chống càn để bộ đội chủ động tìm địch mà đánh. Thế

trận ấy làm cho địch khi càn đến nơi nào, đến làng xóm nào cũng đều khiếp

sợ. Ngay khi quân địch dừng chân, trú quân ban đêm thậm chí cả ban ngày

trong và ngoài vòng càn cũng đều bị quân dân ta bất ngờ tiến công và bị

72

thương vong nhiều.

Trong đợt phá càn này, xuất hiện nhiều đơn vị, địa phương chiến đấu

dũng cảm kiên cừơng. Dân quân du kích xã Vân Trường (Kiến Xương) trong

5 ngày đánh địch 27 trận. Dân quân du kích xã An Đồng (Duyên Hà) đánh

địch suốt 9 ngày liền càng đánh càng thêm hăng hái. Dân quân du kích các

làng Tiểu Hoàng, Thư Điền, An Khang (Tiền Hải) đánh địch 37 trận trong

suốt cuộc càn của địch, diệt và làm bị thương 124 tên. Quân dân thôn Kinh

Nhuế (Kiến Xương) chống lại 2 tiểu đoàn địch liên tục trong hai ngày, địch

không vào được làng. Khi chúng rút, du kích truy đuổi, giải thoát được một số

thanh nên bị chúng bắt.

Bộ đội huyện và du kích các xã với vũ khí bộ binh kết hợp với chông

mìn, cạm bẫy dày đặc và thế trận làng xã chiến đấu liên hoàn là lực lượng

chống phá càn có hiệu quả nhất trong đợt chống phá càn quét này. Quân dân

Duyên Hà đánh địch từ ngày 18-12-1953 đến ngày 10-2-1954 diệt 262 tên,

làm bị thương 153 tên, phá hủy 2 xe tăng, 2 ô tô vận tải. Riêng ở Duyên Hà

địch vấp nổ 64 quả mìn và địa lôi, thụt 108 hố chông. Huyện Kiến Xương chỉ

trong hai trận càn, quân địch đã bị thụt 526 hố chông.

Tổng cộng trong cuộc chiến đấu chống hai trận càn quét này , quân dân

Thái Bình đã tiêu diệt, làm bị thương, bắt sống, làm tan rã gần 5000 tên địch,

phá hủy và thu được nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Sau những

trận càn quét này, địch buộc phải rút thêm 9 đồn bốt để tránh bị vây hãm.

Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy và Khu ủy Tả Ngạn, từ tháng 2-1954,

quân dân địa phương tiếp tục vây ép các đồn bốt còn lại với mức độ cao hơn;

vừa gọi loa địch vận; vừa đốt rào gỡ mìn, đào giao thông hào, đào hố vào sát

đồn bốt bắt lính gác, khống chế địch, chặn giao thông tiếp tế, bắn máy bay,

thả dù… làm cho địch càng thêm khốn quẫn.

Trước tình hình ấy, địch phải liên tục mở các cuộc hành quân càn quét

73

hòng xua dãn bộ đội chủ lực để bảo vệ thị xã và tuyến đường 10; nhưng đến

đâu, quân cơ động địch cũng bị du kích, bộ đội ta chặn đánh. Trong 3 ngày

chống càn quân dân huyện Thư Trì diệt 96 tên, làm bị thương 161 tên.

Mở các trận càn vào Thái Bình, ngoài mục đích phá các làng kháng

chiến, tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, địch còn tìm mọi cách dồn dân vào các

khu tập trung hòng khiến cho bộ đội, du kích mất chỗ dựa. trong các khu tập

trung dân, nổi tiếng nhất là khu Thân Thượng (Kiến Xương). Nơi có tới 4000 dân bị địch bắt dẫn về. Khu này rộng trên 3km2 , bao trùm cả thôn Đông,

thôn Quán, giữa có nhà thờ lớn mà bọn phản động đã biến thành một đồn lớn.

Lực lượng địch ở đây có 157 tên và nhiều tên phản động ở nơi khác chạy về,

vì vậy chúng bảo vệ rất nghiêm ngặt, tổ chức phòng thủ kiên cố.

Quyết tâm tiêu diệt vị trí này, Tỉnh đội giao cho cấp ủy, chỉ huy tiểu

đoàn 53 lên phương án tiến công . Được sự hỗ trợ của dân quân du kích, Tiểu

đoàn bí mật trinh sát, nghiên cứu, nắm tình hình. Ngày 10-2-1954, tiểu đoàn

53 do đồng chí Trương Thuận, phó Bí thư chi bộ, quyền tiểu đoàn trưởng chỉ

huy, có sự phối hợp của bộ đội và du kích các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên,

Tiền Hải đã hóa trang kỳ tập đồn địch. Chưa đầy 30 phút chiến đấu, ta đã làm

chủ trận địa, tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống trên 100 tên địch, thu nhiều

vũ khí, quân trang, quân dụng.

Trận thắng Thân Thượng nhanh chóng được Bộ tư lệnh khu Tả Ngạn

thông báo cho các tỉnh, các đơn vị trong toàn khu nghiên cứu học tập để rút

kinh nghiệm, đánh những đồn bốt tương tự.

Chiến thắng Thân Thượng là một đòn chí mạng đánh vào âm mưu dồn

làng tập trung dân của địch ở Thái Bình, giải phóng 4000 đồng bào, đập tan

được tổ chức địa phương quân do bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo

dựng lên ở đây từ hơn 3 năm trước. Chiến thắng Thân Thượng làm cho đồng

bào giáo dân tận mắt thấy rõ những việc làm tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ,

đồng bào càng cảm phục tinh thần kỷ luật, lòng thương dân của bộ đội, đánh

74

giặc nhưng hết sức bảo vệ dân, bảo vệ tôn giáo, tín ngưỡng.

Mất Thân Thượng, quân Pháp ở Thái Bình không đủ sức để tái lập lại;

vì lúc này trước sự lớn mạnh của quân và dân ta vấn đề quan trọng hơn mang

tính sống còn đối với chúng là phải bảo vệ đường giao thông và thị xã. Mối đe

dọa Cầu Nguyễn và đường 10 là làng chiến đấu Nguyên Xá (Tiên Hưng).

Làng Nguyên Xá cách thị xã Thái Bình 12km, cách đường 10 khoảng 500m,

xung quanh làng có ngòi nước bao bọc, phía trong ngòi có lũy tre gai ken dầy,

kín đáo. Dựa vào địa hình nhâ dân và dân quân du kích đã xây dựng 13km

giao thông hào, 7.300 hầm các loại, 23000 hố chiến đấu cá nhân. Cả xã có 4

cổng ra vào theo một đường độc đạo. Muốn khai thông đường quốc lộ 10 địch

buộc phải phá cho được làng kháng chiến này. Vì vậy chúng đã sử dụng Binh

đoàn cơ động số 8, tập trung càn quét và đánh phá làng kháng chiến Nguyên

Xá từ ngày 20 đến ngày 25-2-1954.

Một lần nữa quân dân Nguyên Xá đã thể hiện tinh thần anh dũng, kiên

cường đánh thắng quân địch đông hơn mình gấp bội. Dựa vào dân, 80 du kích

Nguyên Xá, trong đó có 24 đảng viên với vũ khí gồm 1 trung liên, 1 tiểu liên,

40 súng trường, cùng chông mìn, cạm bẫy, đã kiên cường đánh trả các đợt

tiến công của hàng ngàn tên địch.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ và Ban chỉ huy xã đội, du kích Nguyên Xá

đánh địch suốt 5 ngày liền, tiêu diệt và làm bị thương 88 tên trong đó có một

quan ba Pháp, 26 tên thụt hầm chông, 33 tên bị trúng mìn. Địch không vào

được làng.

Thắng lợi của quân dân Nguyên Xá chứng tỏ sự trưởng thành nhanh

chóng của lực lượng dân quân du kích địa phương; đồng thới đánh dấu thời

kỳ suy yếu và bất lực của những binh đoàn cơ động Pháp.

Có thể nói tháng 2-1954 là một tháng hoạt động mạnh, chiến đấu đạt

hiệu quả cao của bộ đội tỉnh, huyện và dân quân du kích Thái Bình trong

75

chống càn và đánh phá giao thông địch. Lực lượng vũ trang toàn tỉnh đã đánh

114 trận, diệt, bắt sống và làm bị thương gần 1000 tên địch; thu và phá hủy

nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng.

Thực hiện nghị quyết “ Đẩy mạnh nhiệm vụ phối hợp với chiến trường

chính” của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tỉnh đội, huyện, thị đội và các địa

phương trong tỉnh đều sớm đề ra kế hoạch tác chiến và kế hoạch phục vụ

chiến trường của địa phương mình và đơn vị mình.

Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phối hợp với chiến trường chính, bộ đội và du kích các huyện Đông Quan,

Phụ Dực, Thái Ninh, Quỳnh Côi đồng loạt tấn công bao vây các vị trí địch.

đánh phá giao thông . Một loạt các vị trí địch ở Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đường

10, đường 39… sông Luộc, sông Hóa, bị vây hãm, đặt mìn…

Bên cạnh nhiệm vụ tác chiến, các huyện, xã đều củng cố tăng cường lực

lượng vũ trang và dân công hỏa tuyến. Các đại đội bộ đội huyện 217 và 218

của Quỳnh Côi, Phụ Dực, sau khi bổ sung cho bộ đội chủ lực của khu và bộ

đội tỉnh, được tuyển thêm quân số, mỗi đại đội có 4 trung đội. Vũ khí, trang bị

cũng được tăng cường.

Các đoàn dân công hỏa tuyến của các xã được thành lập dưới sự lãnh

đạo chỉ đạo của cấp ủy địa phương có đảng viên làm nòng cốt, sẵn sàng nhận

lệnh đi phục vụ chiến trường. Các địa phương đều coi công tác chuẩn bị chiến

trường và phối hợp với chiến trừơng chính là nhiệm vụ trọng tâm.

Ngày 28-3-1954, một đơn vị của Trung đoàn 64 (chủ lực khu) hỗ trợ bộ

đội huyện và du kích địa phương bao vây bức hàng vị trí Mụa Đông (Duyên

Hà). Bộ đội tỉnh hỗ trợ bộ đội huyện Vũ Tiên diệt vị trí quận lỵ Vũ Tiên…

Ngày 14-4-1954, Ban thường vụ Tỉnh ủy họp ra Nghị quyết “ Động

viên toàn Đảng, toàn dân trong tỉnh thi đua hoàn thành nhiệm vụ chi viện

chiến trường , tích cực hoạt động phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ”.

Thực hiện chủ trương trên, quân dân trong tỉnh tích cực nhằm vào

76

những chỗ sơ hở của địch mà đánh.

Trung tuần tháng 4-1954, Tiểu đoàn 53 tuy đã có lệnh bổ sung cho khu

Tả Ngạn, nhưng vẫn hiệp đồng với 1 trung đội của trung đoàn 64 phục kích

đánh 1 tiểu đoàn ngụy đi càn trên đường 218 thuộc địa bàn huyện Phụ Dực,

tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống gần 100 tên địch. Trước sự tấn công và

vây ép của ta, địch buộc phải rút khỏi Trực Định, Quan Đình, Bất Nạo (Thụy

Anh). Quân và dân huyện Thụy Anh diệt đồn Kha Lý, Vân Am… Địch hoảng

sợ rút chạy, hệ thống phòng thủ sông Hóa của chúng bắt đầu tan vỡ.

Chỉ tính riêng trong tháng 4-1954, tháng phối hợp với Điện Biên Phủ,

quân dân Thái Bình đã đánh 197 trận, diệt và làm bị thương gần 1000 tên

địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới.

Cùng với việc đẩy mạnh đánh địch, Thái Bình còn bổ sung cho khu Tả

Ngạn tiểu đoàn 53 bộ đội tỉnh và nhanh chóng xây dựng tiểu đoàn mới lấy

phiên hiệu là tiểu đoàn 54. Cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 54 đều là những cán bộ

chiến sĩ bộ đội địa phương và du kích các huyện xã đã dày dạn kinh nghiệm

chiến đấu.

Từ tháng 2 đến tháng 5- 1954, thanh niên trong tỉnh hăng hái tòng quân,

bổ sung kịp thời cho bộ đội chủ lực gần 3000 người. Nhiều đảng viên trong

lực lượng dân quân du kích xung phong nhập ngũ. Dân công Thái Bình ngày

nào cũng có hàng nghìn người gánh gạo, vượt sông Hồng, sông Đáy đi phục

vụ chiến dịch.

Càng nguy khốn ở chiến trường chính Điện Biên Phủ địch càng tăng

cường bắt lính ở đồng bằng. Tại Thái Bình chúng bắt cả nữ thanh niên Thiên

chúa giáo vào lính. Chống lại âm mưu này của địch, tháng 4-1954 toàn tỉnh tổ

chức 116 hội nghị “Thanh niên chống địch bắt lính” với 16.000 thanh niên

tham dự. Thư của Hồ Chủ Tịch “Gửi thanh niên trong vùng tạm chiếm” là tài

liệu học tập hướng dẫn cho thanh niên đoàn kết chống bắt lính.

Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bị quân ta tiêu diệt.

77

Tin chiến thắng truyền về làm nức lòng Đảng bộ, quân và dân Thái Bình.

Càng phấn khởi quân dân trong tỉnh càng tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động và

ra sức tiến công, vây hãm các đồn bốt địch. Thấy không thể đứng vững được,

trong tháng 5-1954, một loạt đồn địch trong tỉnh đã theo nhau rút chạy.

Không những đẩy mạnh mọi hoạt động trong tỉnh, một số đơn vị bộ đội

tỉnh, huyện, du kích xã nơi không còn giặc đã xung phong sang các tỉnh bạn

phối hợp tác chiến. Tiểu đoàn 54 phối hợp với bộ đội Khu Tả Ngạn phục kích

đánh tàu địch vận chuyển trên sông Luộc; tập kích một tiểu đoàn của địch

đóng ở Đông Tạ (Vĩnh Bảo- Kiến An). Đại đội 5 (Tiền Hải) và du kích một số

xã trong hai tháng 4 và 5 đã sang mặt trận đường 5 cùng bộ đội chủ lực thu,

tiêu diệt 3 đồn địch ở địa phận Hưng Yên.

Chào mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo sát sao của

các cấp ủy địa phương, của cấp ủy các chi bộ thuộc bộ đội tỉnh, huyện, quân

dân Thái Bình trong tháng 5-1954 đánh 238 trận, diệt và làm bị thương, bắt

sống hàng ngàn tên, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.

Trước tình hình thuận lợi, từ ngày 26 đến ngày 28-5-1954, hội nghị Tỉnh

ủy họp mở rộng quyết định một số nhiệm vụ quân sự trong thời gian tới là:

“ Bao vây từng vị trí có khác nhau, nhưng đều phải phục vụ cho việc

thu hoạch mùa màng của nhân dân, vì vậy dù thắt chặt hay nới rộng phải chú

ý mấy điểm sau: bao vây phải tranh thủ sự đồng tình của nhân dân; Bàn bạc

với dân tìm mọi cách thu hoạch, như tổ chức gặt đêm; nơi gặp khó khăn quá

có thể áp dụng đấu tranh chính trị hợp pháp để gặt lúa; đánh mìn, phá hoại

giao thông trên tất cả các tuyến đường có địch thường qua lại.

Tích cực chống càn nhỏ, chống địch phục kích, tập kích.”[14, 378]

Hội nghị thông qua 5 phương châm tác chiến của các lực lượng vũ trang

là: “giành thế chủ động đánh địch, nhưng phải chú trọng phá những cuộc càn

quét to, nhỏ tiêu diệt được nhiều sinh lực địch; đánh nhỏ ăn chắc, đánh ngoài

công sự là chính; đánh đêm là chính, nhưng phải khắc phục khó khăn đánh cả

78

ban ngày, những vùng tạm chiến có điều kiện chuyển lên đấu tranh vũ trang,

phải chuyển kịp thời; hoạt động quân sự phải kết hợp đấu tranh chính trị, đấu

tranh kinh tế trong vùng tạm chiếm; tác chiến là chủ yếu, đồng thời phải tranh

thủ xây dựng lực lượng”[14, tr378].

Tháng 6-1954, nhiều đồn bốt địch bị bao vây chặt. Dân quân du kích ở

các địa phương có đường 10, đường 39 chạy qua đã cắt phá đường, đắp ụ,

ngăn chặn địch rút chạy. Dân quân du kích xã Tô Công (Phụ Dực) huy động

hàng nghìn cây tre, cây xoan cắm kè ngăn sông Hóa, chặn đường tiếp tế của

tàu chiến và ca nô địch.

Bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang tỉnh tìm mọi sơ hở của địch để

đánh. Ngày 7-6-1954, tiểu đoàn 652 thuộc Trung đoàn 50 cùng Đại đội 218

(Phụ Dực) phục kích đánh địch trên đường 218, diệt 30 tên, bắt sống 13 lính

Âu Phi. Trung tuần tháng 6-1954, một tiểu đoàn của Trung đoàn 64 có bộ đội

du kích huyện Tiên Hưng phối hợp tiêu diệt đồn Đình Thượng. Ngày 23-6-

1954 bộ đội trung đoàn 64 có bộ đội du kích huyện Đông Quan phối hợp diệt

đồn An Lễ bằng nội ứng. Ngày 27-6-1954, Đại đội 125 của tỉnh diệt đồn La

Uyên (Thư Trì).

Hoạt động mạnh của ta khiến cho địch không thể chống đỡ nổi. Nhiều

nơi chúng hoảng hốt rút chạy. Hạ tuần tháng 6-1954, thị xã Thái Bình thực sự

náo động, nhiều gia đình công chức, các nhà buôn tới tấp chuyển gia đình đi

Nam Định, Hà Nội. Đồng bào lao động, buôn bán nhỏ kéo nhau ra vùng tự do.

Trong khi ấy lực lượng ta tích cực hoạt động binh vận. Phong trào bỏ ngũ, rã

ngũ trong binh lính địch diễn ra ngày càng mạnh mẽ, liên tục. Tại Tân Đệ, một

đại đội ngụy rã ngũ gần hết. Ở Thư Trì, có xã một ngày đón 70 hàng binh.

Cuối tháng 6-1954, Tỉnh Thái Bình nhận được điện thông báo của bộ

Tổng Tư lệnh: Địch sẽ rút khỏi Thái Bình và cả Nam đồng bằng Bắc bộ.

Ngay lập tức Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính, Tỉnh đội và Ban chỉ

79

huy Trung đoàn 64 khẩn trương điều động lực lượng bố trí đánh địch.

Sáng ngày 30-6-1954, quân địch ở Cầu Nguyễn, Phong Lôi, Đông Các

rút chạy về thị xã. Đến 11 giờ, quân địch về tới ngã tư Gia Lễ. Lực lượng của

ta bố trí ở khu vực này có trung đoàn 64, Đại đội 2 ( Đông Quan) và đại đội 5

( Tiền Hải) bất ngờ nổ súng đánh địch, tiêu diệt và làm tan rã 1 tiểu đoàn địch,

thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện. Đến 17 giờ ngày 30-6-1954, tàn

quân địch rút vào thị xã sợ ta truy kích, chúng giật mìn phá sập cầu Bo. Đến

22 giờ 30 phút, cùng một lúc toàn bộ quân Pháp ở thị xã rút theo ba đường:

đường thủy từ cầu Bo theo sông Trà Lý ra cửa Thượng Lỗ bằng ca nô và tàu

thủy. Đường bộ từ thị xã theo đường 10 ra Tân Đệ sang Nam Định và từ thị

xã theo đường 223 qua Cọi Khê ra Thái Hạc đến sông Hồng. Ở đâu địch cũng

đều bị bộ đội và du kích ta chặn đánh.

Rạng sáng ngày 1-7-1954 cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc dinh Tỉnh

trưởng ngụy quyền. Đến 9 giờ sáng cùng ngày , các đơn vị bộ đội tỉnh, bộ đội

các huyện Kiến Xương, Đông Quan và bộ đội Trung đoàn 64 tiến vào tiếp

quản thị xã Thái Bình. Lúc này trên địa phận tỉnh Thái Bình vẫn còn 10 đồn

địch đóng ở Phụ Dực, Thụy Anh (nằm trong hệ thống séc tơ Vĩnh Ninh). Tại

đây chúng đã bị bao vây, tinh thần binh lính hoang mang cực độ. Đêm 20-7-

1954 trước giờ ngừng bắn, một đại đội ngụy ở Dục Linh đã ra hàng tại An

Bài, chính quyền địa phương tiếp đón, tạo điều kiện thuận lợi cho họ về quê

hương. Số đồn còn lại đến cuối tháng 8-1954 địch mới rút hết.

Từ đây Tỉnh thái Bình sạch bóng quân xâm lược, Đảng bộ, quân và dân

80

Thái Bình phấn khởi bước sang thời kỳ mới.

Tiểu kết chƣơng 2

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi.

Trong niềm vui chung của cả nước, Đảng bộ và quân, dân Thái Bình tự hào

đã có đóng góp rất xứng đáng vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Là tỉnh tự do duy nhất cuối cùng của Tả Ngạn sông Hồng, suốt trong

giai đoạn từ năm 1946 đến hết tháng 1-1950, tỉnh Thái Bình thực sự là chỗ

dựa vững chắc tin cậy của Liên Khu 3 và các tỉnh lân cận Nam Định, Hà

Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An. Dưới sự lãnh đạo có hiệu quả, sâu sát

của các cấp ủy đảng, quân dân trong tỉnh vừa nhanh chóng xây dựng tiềm lực

cho cuộc kháng chiến, phát triển kinh tế, phát triển xây dưng lực lượng vũ

trang, xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng…Lực lượng dân quân du

kích phát triển nhanh chóng đặc biệt từ có Sắc lệnh của Chính phủ về thành

lập Tỉnh đội dân quân.

Ngày 8-2-1950, thực dân Pháp cho quân đánh chiếm Thái Bình, từ đây

quân dân Thái Bình phải trực tiếp đương đầu với một kiểu chiến tranh tổng

lực. Đảng bộ quân và dân trong tỉnh với sự hỗ trợ của các đơn vị chủ lực Liên

khu 3, Khu Tả Ngạn và các địa phương đã kiên trì chiến đấu, giành giật với

địch. Cuộc chiến tranh diễn ra càng khốc liệt thì phong trào kháng chiến ở địa

phương càng phát triển mạnh. Bộ đội chủ lực kết hợp chặt chẽ với bộ đội địa

phương, dân quân du kích cùng toàn dân tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân

chống kẻ thù xâm lược.

Trong quá trình tổ chức lãnh đạo cuộc chiến tranh du kích trong thế trận

chiến tranh nhân dân trên địa bàn, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng địa

phương luôn được phát huy có ý nghĩa quyết định. Mối liên hệ giữa Liên khu

ủy , Tỉnh ủy và cấp ủy các địa phương, đơn vị luôn được đề cao, tạo nên sự

thống nhất trong chỉ đạo điểu hành phong trào chiến ranh du kích trên địa bàn.

Trong thời kỳ này, hầu hết các nghị quyết của Tỉnh ủy đều đặt công tác quân

81

sự lên hàng đầu; và từng đảng viên thấm nhuần công tác đó. Tỉnh ủy lãnh đạo

đảng bộ và nhân dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, bổ sung cho bộ

đội chủ lực trên 3 sư đoàn; củng cố, phát triển bộ đội địa phương và dân quân

du kích từ những đơn vị nhỏ đến chỗ có gần 2 vạn dân quân du kích, 12 đại

đội bộ đội địa phương huyện và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Tỉnh, với trang

bị kỹ, chiến thuật tương đối mạnh, làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh du kích,

góp phần quyết định vào việc hình thành, phát triển và phát huy hiệu quả của

82

thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn.

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1 Một số nhận xét

3.1.1 Ưu điểm

Thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình là kết quả tổng hợp của

nhiều yếu tố.

Trước hết đó là sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối kháng chiến

đúng đắn, sáng tạo qua những chỉ thị quan trọng “ Kháng chiến kiến quốc”, “

Hòa để tiến”, “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “ Toàn dân kháng chiến”

… Đó chính là những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến của toàn

Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Để phát động chiến tranh nhân dân, Đảng không

chỉ xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, xây dựng quân đội nhân dân mà

còn chú trọng xây dựng các khu căn cứ du kích nhằm huy động và bồi dưỡng

nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến, đảm bảo việc cung cấp sức người, sức

của cho cuộc kháng chiến lâu dài. Đường lối, chủ trương kháng chiến đó đã

được Ban chấp hành đảng bộ Thái Bình quán triệt, vận dụng đúng đắn, phù

hợp với hoàn cảnh địa phương, từng bước tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực

hiện thắng lợi những nhiệm vụ của sự nghiệp kháng chiến và đưa sự nghiệp

kháng chiến của địa phương ngày càng phát triển.

Là một Đảng bộ được thành lập sớm. Đảng bộ Thái Bình đã xây dựng

được một đội ngũ đảng viên đông đảo, đoàn kết và được rèn luyện thừ thách

trong đấu tranh cách mạng nên có tinh thần tận tụy hy sinh hết lòng, hết sức

phục vụ nhân dân. Thực hiện đường lối quân sự của Đảng. Đảng bộ đã

thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang, hết sức coi

trọng công tác tư tưởng, chính trị, công tác xây dựng Đảng. Thực hiện chủ

trương “ toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” do Trung ương Đảng

83

đề ra, đảng bộ đã sớm quán triệt và biết vận dụng phương châm đấu tranh ở

vùng tạm chiếm nhằm đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn,

góp phần vào thắng lợi của sự ngiệp kháng chiến. Trong việc chỉ đạo quân sự

Đảng bộ Thái -bình còn biết nắm quy luật, vận dụng thời cơ, linh hoat phối

hợp chặt chẽ với hoạt động của chiến trường, biết nhằm những chỗ sơ hở nhất

của địch để tấn công. Biết kết hợp lãnh đạo thống nhất giữa các ngành để

phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm từng thời kỳ. Nhất là về mặt chỉ đạo toàn

diện. Trên cơ sở mặt trận dân tộc thống nhất ngày được củng cố và không

ngừng phát triển; Tỉnh Đảng bộ Thái-bình đã tổ chức và động viên được cả

một khối nhân dân lao động lương, giáo gồm 95% dân số trong tỉnh, dựa vào

chính sách đoàn kết, lấy nguyên tắc công nông liên minh làm nền tảng lôi kéo

và huy động được các tầng lớp khác tập chung người và của vào đánh đế

quốc, trong đó có cả tầng lớp than hào than sĩ, địa chủ yêu nước… Nhân dân

lao động Thái-bình , dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng từ cụ già em nhỏ,

thợ thuyền, nông dân, trí thức, nhà sư, nhà giáo…tất cả đều đứng dậy kháng

chiến và đóng góp nhân vật lực phục vụ tiền tuyến. Họ đã bỏ đình chùa, mang

áo tế, áo nậu, cờ thần ra may áo cho bộ đội, các tập quán lâu đời như lềnh lệ,

phe giáp đều được hết sức tiết kiệm để dành tiền nuôi quân, các đám cưới xin

chuyển từ hình thức thách ăn uống, thách tiền của sang hình thức thách mìn,

lựu đạn, thách dao găm mã tấu để lấy vũ khí ủng hộ dân quân du kích đánh

giặc. Khi giặc tới, bà già cũng xung phong đi đặt chông mìn, cạm bẫy, các em

nhỏ tình nguyện đi làm giao thông liên lạc trinh sát. Người khỏe đánh giặc

trực tiếp ở tiền tuyến, người yếu làm công tác tiếp tế vận tải, nuôi dưỡng

thương binh ở hậu phương. Hàng triệu người đều đánh giặc, cho nên kẻ địch

tuy hung ác, nhưng bị hãm vào thế bao vây dầy đặc của toàn dân khiến chúng

càng bị nguy khốn.

Đảng bộ Thái Bình còn được Khu ủy Liên khu Ba và sau đó là Khu ủy

Tả ngạn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn. Cuộc

kháng chiến trên địa bàn thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân trong đó chiến

84

tranh du kích, tác chiến du kích có vai trò hết sức quan trọng.

Cuộc kháng chiến ở Thái Bình là một cuộc chiến tranh du kích mang

tính chất toàn dân, toàn dân tham gia chiến tranh, thực hiện mỗi người dân là

một người lính, mỗi xóm làng là một pháo đài. Nhân dân Thái Bình, mà lực

lựơng chủ yếu đông đảo nhất là nông dân sẵn có lòng yêu nước nồng nàn, tinh

thần đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, được Đảng giác ngộ và

tổ chức, đoàn kết và quyết tâm kháng chiến đến cùng vì độc lập tự do với tinh

thần “ thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không

chịu làm nô lệ”[70;tr 62]. Ngay từ khi mở đầu cuộc kháng chiến, già trẻ, gái

trai đều tham gia đánh địch. Đó là cơ sở vững chắc nhất để chống lại kẻ thù

bằng mọi hình thức, từ hình thức phá hoại, bất hợp tác với giặc, chống sự áp

bức bóc lột của giặc đến phá tề, giành quyền làm chủ, tham gai lực lượng vũ

trang, xây dựng làng chiến đấu, cùng bộ đội và dân quân du kích chiến đấu

đánh trả các cuộc càn quét, cướp phá, dồn dân, bắt lính của địch, tiến lên xây

dựng các khu du kích, căn cứ du kích trong lòng địch. Biến hậu phương của

địch thành tiền phương của ta khiến hậu phương của chúng không bao giờ ổn

định, biến hậu phương địch thành hậu phương của ta.

Đánh giặc giữ làng là truyền thống của dân tộc ta, nhân dân đồng bằng

Bắc Bộ nói chung và nhân dân Thái Bình nói riêng. Truyền thống đó được kế

thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng vào nhiệm vụ cụ

thể là xây dựng làng kháng chiến, biến mỗi làng xã thành một pháo đài, mỗi

căn nhà, mỗi thửa ruộng, mỗi khóm tre thành một trận địa chiến đấu, gắn chặt

giữ nước với giữ làng, thực hiện “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. “ Làng là

cơ sở gốc rễ của chiến tranh du kích, là nơi quân dân đánh giặc bảo vệ mình.

Địa hình và cấu trúc làng xóm rất thuận tiện cho tác chiến du kích. Làng là cơ

sở của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện” [40; tr.61,62]. Làng là nơi có

thể huy động mọi người tham gia đánh giặc, đánh giặc bằng mọi vũ khí trong

tay, có thể phát động và duy trì một cuộc chiến tranh du kích lâu dài. Ở Thái

85

Bình, Đảng bộ, quân dân địa phương còn xây dựng nhiều làng chiến đấu liên

hoàn hợp thành một khu du kích hoặc căn cứ du kích. Làng là một thành tố

không thể thiếu trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc,

làng chiến đấu là thành tố không thể thiếu của chiến tranh du kích. Sớm nhận

rõ điều đó Đảng luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng làng kháng chiến để làm chỗ

dựa tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Thực hiện đường lối đó, đảng bộ

Thái bình đã xây dựng 890 thôn thành làng kháng chiến (tổng số toàn tỉnh có

1038 thôn). Có nhiều làng kháng chiến kiểu mẫu đặc biệt như làng Nguyên

Xá ( Tiên Hưng), Tán Thuật, Đình Phùng (Kiến Xương), Thần Huống (Thái

Ninh) đã đánh trả trên một trăm trận càn quét lớn nhỏ của địch.

Chiến tranh du kích chỉ có thể phát động và phát huy hiệu quả trên cơ

sở động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Nhận thức rõ điều đó Đảng bộ Thái

Bình đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt

để phát động toàn dân đánh giặc. Ngay từ khi Thực dân Pháp mở rộng chiếm

đóng đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện sự chỉ đạo của trung ương Đảng, của Liên

khu ủy, Đảng bộ chủ trương phân tán một bộ phận bộ đội tỉnh huyện thành

các đại đội, trung đội, phân đội luồn sâu vào vùng sau lưng địch để phát động

chiến tranh du kích, dìu dắt dân quân du kích, làm nòng cốt cho phong trào

toàn dân đánh giặc ở các thôn xóm. Các đại độ, trung đội, phân đội độc lập,

các đội vũ trang tuyên truyền cùng dân quân du kích và nhân dân các địa

phương đã anh dũng chiến đấu chống lại các cuộc hành quân càn quét của

địch, phân tán, giam chân khiến địch phải căng lực lượng ra khắp nơi để đối

phó, khiến nhiều nơi địch đã chiếm đóng, lập tề nhưng hoạt động tiến công

quân sự của lực lượng vũ trang đã hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá tề, giành

quyền làm chủ. Lực lượng vũ trang, bán vũ trang của Thái Bình tương đối

vững mạnh, được giác ngộ chính trị, có quan điểm quần chúng và có ý thức

bám sát đất, sát dân rõ rệt. Nếu nói về bộ đội địa phương Thái Bình mà chỉ

nhìn vào quân số, vũ khí thì không có gì nổi bật, nhưng điều đáng chú ý là :

86

lực lượng ấy đã được xây dựng trên nề tảng một phong trào du kích chiến sâu

rộng, hầu hết các chiến binh, trước khi vào bộ đội, thường đã tham gia dân

quân du kích chiến đấu bảo vệ làng, được đoàn thể địa phương giáo dục chính

trị nên khi vào bộ đội đã có một trình độ giác ngô chính trị nhất định, một khả

năng quân sự tối thiểu làm cơ sở để dễ dàng tiếp thu sự giáo luyên của bộ đội.

Lực lượng này kinh qua tác chiến và công tác đã mau chóng trưởng thành.

Khi tập chung, khi phân tán đều phát huy được tác dụng tốt, mặc dầu ở trong

một hoàn cảnh đầy khó khăn gian khổ.

Chiến tranh du kích của Thái Bình thắng lợi nhờ sự chi viện và hợp

đồng chiến đầu, sự đóng góp xương máu của bộ đội chủ lực Liên khu ( Đại

đoàn 320, Trung đoàn 42, trung đoàn 50) và của quân dân các tỉnh bạn như

Hải Phòng, Kiến An, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương…Sự phối

hợp này thực sự có hiệu quả to lớn và rất quan trọng, góp phần làm nên chiến

lợi của cuộc kháng chiến.

Xây dựng cơ sở chính trị và chi bộ đảng là nhân tố quan trọng trong

chiến tranh du kích

Ở Thái Bình cơ sở chính trị đã được xây dựng từ quá trình đấu tranh

giành chính quyền trong thời kỳ từ 1930 đến 1945. Sau Tổng khởi nghĩa

Tháng Tám cơ sở chính trị của Tỉnh càng được củng cố vững chắc hơn, phát

triển mạnh hơn và được quan tâm xây dựng trong suốt quá trình kháng chiến.

“ Cơ sở chính trị là cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng đã được giác ngộ, sẵn

sàng ủng hộ và tham gia hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có

thể hiểu cơ sở chính trị với nhiều mức khác nhau. Những vùng có quần chúng đã

được giác ngộ và ủng hộ cách mạng, hoặc đã xây dựng được tổ chức Đảng, tổ

chức vũ trang tự vệ, đều có thể coi là vùng có cơ sở chính trị. Những vùng này

vẫn thuộc quyền thống trị của địch ; chính quyền, các tổ chức chính trị và vũ

trang của chúng vẫn còn mạnh nhưng chúng không hoàn toàn khống chế được

87

nhân dân, vì quần chúng đã đi theo cách mạng ngày càng nhiều”[53, tr.208].

Ở Thái Bình, trong kháng chiến các làng xóm, thị trấn, thị xã đều có cơ

sở chính trị. Đó là cơ sở để Đảng lãnh đạo kháng chiến trong vùng tạm bị

chiếm, từng bước xây dựng lực lượng dân quân du kích làm nòng cốt trong

chiến đấu chồng địch càn quét, cướp phá, phá tề, trừ gian tiến lên giành quyền

làm chủ khi hoàn cảnh cho phép. Bộ đội du kích trong vùng tạm chiếm vừa

đánh địch vừa gây cơ sở chính trị, vừa đánh địch vừa làm nòng cốt cho quần

chúng nhân dân tiến hành đấu tranh chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa ngay

trong vùng địch tạm chiếm.

Để đưa kháng chiến đến thắng lợi Đảng đã sớm đề ra đường lối kháng

chiến đúng đắn, cách mạng, sáng tạo. Nhưng để biến đường lối đó thành hiện

thực đòi hỏi công tác tổ chức thực tiễn, trong đó chi bộ đảng có vai trò quan

trọng đặc biệt, “ tất cả mọi đường lối ấy đều do chi bộ đảng đảm bảo sự thành

công… Ngay từ đầu trong tình thế gian khổ nguy nan nhất, chi bộ đã thực sự

làm nòng cốt của chiến tranh cách mạng, chống thực dân phản động Pháp.

Chi bộ là cơ sở, là yếu tố căn bản” [40,tr.43].

Chi bộ là những tế bào của Đảng nằm trong quần chúng nhân dân, lãnh

đạo quần chúng tiến hành khãng chiến ở cơ sở, thường xuyên đấu tranh với kẻ

thù một cách toàn diện trong mọi hoàn cảnh. “Không có chi bộ mạnh, kiên

cường và tài giỏi thì không thể có chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ và

rộng khắp” [54,tr.407].

Trong kháng chiến, chi bộ Đảng là nơi biến quyết tâm cách mạng của

Đảng thành quyết tâm cách mạng của quần chúng. Trên cơ sở giáo dục đường

lối cách mạng, các chi bộ đảng thường xuyên chăm lo đến các tổ chức quần

chúng, tạo ra cơ sở chính trị vững chắc. Đó là chỗ dựa để Đảng tiến hành các

hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo. Chi bộ Đảng còn là người trực tiếp tổ chức và lãnh

đạo lực lượng dân quân du kích, đưa cán bộ đảng viên vào dân quân du kích,

88

xây dựng lực lưỡng vũ trang rộng khắp, tạo ra phong trào toàn dân đánh giặc.

Ủy ban kháng chiến hành chính xã dưới sự chỉ đạo của chi bộ đảng,

thường xuyên được kiện toàn và trở thành công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp

kháng chiến kiến quốc. xây dựng chính quyền cách mạng là điều kiện căn bản

để củng cố, xây dựng các làng kháng chiến, các khu du kích, căn cứ du kích,

đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Sự lãnh đạo của chi bộ đảng trong chiến tranh du kích là sự lãnh đạo

toàn diện. Mỗi chi bộ đảng là một bộ tham mưu để xây dựng “ mỗi làng xã

thành một pháo đài”. Chi bộ đảng vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng làng xã

chiến đấu, xây dựng lực lượng về mọi mặt (quân sự, chính trị, kinh tế), vừa

lãnh đạo đấu tranh toàn diện với kẻ thù, nhất là đấu tranh vũ trang, phát triển

du kích, huy động nhân dân đóng góp sức người sức của cho kháng chiến.

Chi bộ đảng cũng là nơi bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới, đưa ra khỏi

Đảng những người biến chất, thoái hóa, những phần tử cầu an, vụ lợi, mất ý

chí chiến đấu, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối và toàn diện của đảng

đối với cuộc kháng chiến. Chi bộ đảng là nhân tố quyết định để tổ chức phát

động, phát huy sức mạnh của phong trào chiến tranh du kích mạnh mẽ và sôi

nổi ở Thái Bình.

3.1.2 Hạn Chế

- Ở Thái-bình, lúc đầu địch ồ ạt đánh chiếm, nhân dân chưa có kinh

nghiệm chiến tranh, một số lớn có tư tưởng hoang mang dao động. Cán bộ ta

một số ở những vùng Kiến-xương, Vũ-tiên, Tiên-Duyên-Hưng quan niệm

bám đất, bám dân chưa đúng. Có nơi bỏ dân, bỏ đất chạy dài, cơ sở mất hết,

không nắm được dân, phong trào đấu tranh chống địch bị xẹp xuống khá

mạnh. Cũng có nơi cán bộ ở lại bám đất, bám dân, nhưng lại cầu an sợ địch,

không dám lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch, kết quả phong trào

không phát triển được, mà còn bị do thám chỉ điểm bắt mất cán bộ.

- Trong cuộc chiến tranh du kích Thái-bình, tư tưởng chỉ đạo có nơi, có

89

lúc, có bộ phận chưa quán triệt rõ ràng vấn đề :” muốn tranh thủ nhân dân

phải bảo vệ nhân dân, tích cực tấn công vào mọi âm mưu vơ người vét của

của địch và lãnh đạo nhân dân đấu tranh đúng mức” nên mắc sai phạm: khi thì

có khuynh hướng nặng về chiến đấu kém chú trọng bảo vệ nhân vật lực của

nhân dân, hoặc thiếu cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn gian ác của

địch. Hoặc cũng có nơi chủ trương thì có, nhưng kế hoạch thự hiện không cụ

thể để địch vơ vét được nhiều người của như những trận chống càn Mesduse,

Mandarine…

- Việc xây dựng lực lượng vũ trang Thái-bình thời kỳ chuẩn bị ta có

dựa trên tính chất quần chúng rộng rãi nên chỉ trong mấy năm lực lượng vũ

trang và bán vũ trang của ta đã tăng lên tới một số lượng trên 17 vạn. Nhưng

vì việc xây dựng lực lượng vũ trang lúc đó ta chưa quán triệt đầy đủ nọi dung

giai cấp nên đã có khuynh hướng chỉ chọn lọc những người khỏe mạnh, lanh

lợi, ăn nói hoạt bát vào lực lượng vũ trang. Thậm chí những người chỉ huy lực

lượng bán vũ trang ở nông thôn phần lớn là con cái phú nông, địa chủ lắm

giữ. Ta lại chưa chú trọng đúng mức đến nội dung chiến đấu, nên lực lượng

vũ trang và bán vũ trang của ta lúc ấy chỉ đạt được với mức độ số lượng, khi

địch đánh tới lúc đầu không đảm bảo chiến đấu, có nơi bị tan vỡ nhanh chóng.

Cũng có thời gian việc xây dựng lực lượng vũ trang Thái-bình có dựa trên cơ

sở đoàn thể. Nhưng đoàn thể chưa quan niệm rõ vấn đề xây dựng lực lượng

vũ trang là nhiệm vụ của mình nên có hiện tượng “ trống đánh xuôi, kèn thổi

ngược” tranh chấp đoàn viên gây ảnh hưởng xấu, làm cho việc xây dựng lực

lượng vũ trang gặp nhiều trở ngại. Khi có tác chiến thực sự chiến tranh du

kích không phát triển được.

- Chưa thấy hết tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang

phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Chưa quan niệm rõ đấu tranh vũ trang

và xây dựng lực lượng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành đều

phải trực tiếp bắt tay tiến hành. Chưa nhận rõ quân đội là của nhân dân lao

90

động vì vậy mà con em nhân dân lao động có nhiệm vụ tham gia bộ đội để

bảo vệ quyền lợi của mình. Chưa quán triệt cơ sở của việc tong quân xây

dựng lực lượng là ở xã và chưa thấy hết ý nghĩa vận động tòng quân cũng là

một phương pháp tích cực phá âm mưu bắt lính của địch. Do trên cơ sở sai

lầm này đã ảnh hưởng xấu đến các mặt chấp hành chính sách như : Chưa

chiếu cố gia đình bộ đội, chưa triệt để thực hiện chính sách thương binh tử sĩ,

chưa thấu đáo tầm quan trọng chính sách tôn giáo, biện pháp giáo dục tư

tưởng và vận động thanh niên tòng quân chưa có kinh nghiệm.

3.2. Một số bài học kinh nghiệm

3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám

đất, bám dân, bám đánh địch.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chiến tranh cách

mạng, kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc trong kháng

chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

sớm đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đặc biệt là đã sớm biết

tổ chức, phát động kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ, “Chiến

tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn, không dùng toàn lực lượng của

nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được”. “Dân khí

mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi” [42, tr. 295].

Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mình

là chính, vì thế việc tranh thủ và phát động đông đảo nhân dân đứng lên

kháng chiến là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược to lớn. Hồ Chí Minh khẳng

định: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân”, Người nói

“phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt

được”[74, tr.295].

Xuất phát từ quan điểm của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân,

ngay từ khi bắt đầu kháng chiến, Đảng bộ Thái Bình đã biết lãnh đạo nhân

dân Thái Bình cùng với nhân dân cả nước, phát huy cao độ lòng căm thù giặc

91

sâu sắc, sớm xây dựng một quyết tâm chiến đấu rất cao. Lòng căm thù, ý chí

quyết tâm và lòng tin của nhân dân Thái Bình càng ngày càng cao do hành

động xâm lược, đàn áp, khủng bố, cướp bóc của thực dân Pháp, từ truyền

thống chống ngoại xâm của dân tộc, từ kinh nghiệm trong thời kì Cách mạng

Tháng Tám và từ đường lối kháng chiến của Đảng. Nhưng buổi đầu kháng

chiến chưa ai có thể nghĩ ra đáp số cho bài toán hóc búa cụ thể ở một tỉnh

không có rừng núi, địa hình bằng phẳng, bốn mặt đều là sông nước trong khi

so sánh lực lượng hai bên là quá chênh lệch, địch có hàng vạn quân Âu Phi cơ

động, cùng hàng vạn quân ngụy được trang bị nhiều vũ khí phương tiện chiến

tranh hiện đại, còn ta không chỉ trong vòng vây của địch mà vũ khí hết sức

thiếu thốn, ban đầu còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Làm thế nào để chống

lại và đánh thắng các cuộc càn quét đánh phá ác liệt cùng các âm mưu thủ

đoạn tàn bạo và thâm hiểm của địch? Từng bước, qua thực tế chiến đấu, cán

bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân Thái Bình đã hiểu một cách thấm thía

rằng, giải pháp cơ bản là phải xây dựng tổ chức, phát động phong trào toàn

dân đánh giặc đúng như lời của Hồ Chí Minh đã dạy từ ban đầu. Đây cũng là

quy luật làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến nói chung, chiến tranh du

kích ở Thái Bình nói riêng, là sức mạnh của mọi sức mạnh. Hơn nữa, đối với

một tỉnh thuần nông như Thái Bình, việc phát huy sức mạnh của nhân dân,

thực chất là phát huy sức mạnh của giai cấp nông dân, mà nếu “khéo tổ chức

khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay chuyển đất, bao nhiêu thực dân và

phong kiến cũng sẽ bị lực lượng ấy đánh tan” [60, tr. 290]. Nhưng hiểu được

sức mạnh của nhân dân đã khó, làm thế nào để phát huy sức mạnh của nhân

dân lại càng khó hơn. Thực tế cuộc chiến tranh du kích ở Thái Bình cho ta

thấy muốn phát huy sức mạnh của dân, trước tiên phải kiên trì bám đất, bám

dân, bám đánh địch. Nếu không bám đất, bám dân, bám đánh địch thì cuộc

kháng chiến nói chung, chiến tranh du kích nói riêng sẽ không thể giành được

thắng lợi. Bởi “Du kích như cá. Dân chúng như nước. Cá không có nước thì

92

cá chết. Du kích không có dân thì du kích chết”[67, tr. 469].

Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu chúng ta đã nhận thức được vấn đề

này. Trước và trong những ngày đầu thực dân Pháp tấn công Thái Bình, do

nhận thức còn chưa đầy đủ thậm chí còn sai lầm trong đánh giá về địch đã dẫn

đến tưởng bám đất, bám dân, bám đánh địch không được coi trọng, biểu hiện

là những khuyết điểm, thiếu sót trong quá trình chuẩn bị mọi mặt cho chiến

đấu. Vì vậy, khi địch tấn công Thái Bình chúng ta không những không chặn

được giặc, bảo vệ được nhân dân mà ngược lại không ít cán bộ, đảng viên lực

lượng vũ trang, chạy dài hoặc có tư tưởng cầu an. Tình trạng này khiến cho

nhân dân hoang mang, dao động mất niềm tin vào lực lượng cách mạng trong

tỉnh. Ở nhiều nơi trong tỉnh, nhân dân không dám che chở cho lực lượng cách

mạng vì sợ địch khủng bố. Xuất phát từ lẽ đó, chiến tranh du kích ở Thái Bình

đã chịu những tổn thất nghiêm trọng.

Từ bài học thực tế của việc mất đất, mất dân dưới sự chỉ đạo kiên quyết

của Trung ương và Liên khu ủy, các cấp lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, lực lượng

vũ trang trong tỉnh đã vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, trở lại tìm mọi cách bám

đất, bám dân để gây dựng lại cơ sở từ đó tổ chức phát động phong trào kháng

chiến, bám đánh địch để giữ làng. Nhờ đó chiến tranh du kích ở Thái Bình

không những nhanh chóng được khôi phục mà còn có những bước phát triển

vững chắc, tiến lên giành và giữ vững thế chủ động đập tan mọi âm mưu, cố

gắng của địch trên địa bàn tỉnh, biến vùng chiếm đóng của địch thành tiền

phương và hậu phương của ta, góp phần tạo điều kiện cho các chiến trường cả

nước giành thắng lợi. Chính vì vậy, du kích không chỉ là “du” (đi) để “kích”

(đánh) mà phải kiên trì bám đất, bám dân, bám địch mà đánh là đánh địch từ cơ

sở làng xã. Đó chính là cuộc chiến tranh nhân dân tại chỗ ở cơ sở. Đúng như

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn tại Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích (7 -

1952): "Phải bám sát lấy dân, rời dân ra là nhất định thất bại. Bám lấy dân là

làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc

93

gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi” [72, tr. 525].

Muốn phát huy sức mạnh của dân, việc huy động phải gắn liền với việc

bồi dưỡng sức dân. Đây là việc làm thường xuyên của cha ông ta trong lịch sử

cũng như của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vừa kháng

chiến, vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương, vừa huy

động sức dân vừa bồi dưỡng sức dân luôn có mối quan hệ biện chứng với

nhau. Ở Thái Bình, những chính sách ruộng đất cùng những cải cách dân chủ

được thực hiện ngay sau Cách mạng Tháng Tám và tích cực thực hiện ngay

trong kháng chiến ở những khu du kích đã làm cho nhân dân hiểu rõ giá trị

thiêng liêng của những quyền lợi mà mình đang có, vì vậy họ càng thêm một

lòng, một dạ gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính

là gốc rễ, là nền tảng vững chắc để chiến tranh du kích Thái Bình làm nên

những kì tích trong kháng chiến chống Pháp. Đúng như lời khẳng định của

Lênin: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa

số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính

quyền của mình… chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự

nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ, cũng như cho con cái họ, có

khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con

người”[75, tr. 378].

Để phát triển, đẩy mạnh chiến tranh du kích, các lực lượng vũ trang ta

phải tích cực bám đánh địch bảo vệ nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân

dân tham gia kháng chiến. Trước chiến dịch Hòa Bình, trong các cuộc tấn

công, càn quét của địch, lực lượng vũ trang trong tỉnh đã không làm tốt được

nhiệm này. Trước sự đánh phá, khủng bố điên cuồng của địch, nhân dân một

số nơi trong tỉnh đã có tư tưởng hoang mang, dao động, mất niềm tin vào lực

lượng vũ trang. Thậm chí có nơi nhân dân còn không dám cho du kích, bộ đội

địa phương vào bám làng để chiến đấu vì sợ địch khủng bố. Đây là nguyên

nhân chính dẫn đến những tổn thất nghiêm trọng của chiến tranh du kích nói

94

chung, lực lượng vũ trang nói riêng ở Thái Bình. Nhưng, khi lực lượng vũ

trang trong tỉnh kiên trì, dũng cảm bám đất, bám dân gây dựng lại cơ sở, tích

cực bám đánh địch hỗ trợ quần chúng nhân dân đấu tranh, thì nhân dân trong

tỉnh không những hăng hái tham gia xây dựng lực lượng vũ trang mà họ còn

phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch bằng nhiều hình thức với mọi vũ

khí trong tay, tạo ra thế trận toàn dân đánh giặc. Những thắng lợi của chiến

tranh du kích ở Thái Bình từ sau Chiến dịch Hòa Bình là một minh chứng cho

điều này. Mối quan hệ giữa quân và dân luôn khăng khít và chặt chẽ như cá

với nước, thúc đẩy nhau phát triển. Vì vậy, muốn huy động được nhân dân

tham gia đánh giặc, lực lượng vũ trang luôn phải quán triệt tư tưởng lấy dân

làm gốc, phải tích cực bám đánh địch để bảo vệ được dân và luôn là lực lượng

nòng cốt để hỗ trợ nhân dân kháng chiến. Bài học này đã được lịch sử chứng

minh luôn là chìa khóa của những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Để có thể phát triển phong trào du kích chiến tranh việc vận động đồng

bào trong vùng địch tạm chiếm có vị trí, vai trò rất quan trọng. Ngoài việc

kiên trì bám đất, bám dân thì phải có hình thức linh hoạt, phù hợp với tín

ngưỡng và đặc điểm của từng vùng. Riêng đối với đồng bào công giáo do đặc

điểm về tín ngưỡng nên họ rất dễ bị kẻ địch dụ dỗ, lôi kéo. Vì vậy, ngoài

những hoạt động tuyên truyền, giáo dục thì việc tố cáo tội ác của phản động

đội lốt Thiên chúa giáo cũng là việc làm hết sức cần thiết. Việc chính quyền

cách mạng trong tỉnh tiến hành khai quật thi hài của những người dân bị bọn

phản động Thiên chúa giáo giết hại ở Quỳnh Lang (Quỳnh Côi), Phương Xá

(Đông Quan), Tràng Lũ (Phụ Dực) và mở phiên tòa xử án tử hình đối với Mai

Đức Tín tên phản động đội lốt Thiên chúa giáo có nhiều nợ máu đối với nhân

dân (12-5-1953) đã giúp nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là đồng bào theo đạo

hiểu rõ hơn bộ mặt thật của chúng, tạo điều kiện cho cuộc vận động đồng bào

95

lương giáo có hiệu quả.

Để phát huy được sức mạnh của nhân dân đòi hỏi những người lãnh đạo

phải bám sát dân, phải biết dựa vào dân từ đó mới có thể đưa ra những biện

pháp, chính sách phù hợp đối với từng vùng, từng thời kì lịch sử.

3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ

Bất cứ một cuộc chiến tranh nào cũng đều phải có hậu phương. Trong

kháng chiến chống Pháp, đường lối xây dựng căn cứ địa hậu phương chiến

tranh nhân dân của Đảng đã sớm hình thành, ngày càng hoàn chỉnh với những

chính sách ngày càng cụ thể. Đảng, Bác Hồ không quan niệm hậu phương

theo nghĩa thông thường của chiến tranh quy ước, hiện đại, có chiến tuyến rõ

rệt, mà có sự phát triển mới về lý luận và được chứng minh bằng thực tiễn,

với những điểm sáng tạo, độc đáo, tạo ra ngay trong vùng địch tạm chiếm

đóng thành nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của cuộc kháng chiến, cả về chính

trị, quân sự, kinh tế và văn hóa; nơi huy động nhân vật lực cho kháng chiến và

tạo chỗ dựa về tinh thần cho cuộc kháng chiến ở địch hậu. Có nhiều loại hình

hậu phương tạo ra thế trận xen kẽ một cách triệt để giữa ta và địch, làm cho

hậu phương và tiền tuyến đan xen, luôn luôn biến động, không có ranh giới

ổn định mà thường xuyên chuyển hóa, xoay vần cùng với kẻ địch trong một

quá trình trường kì kháng chiến, tạo nguồn sức mạnh vô tận cho chiến tranh

nhân dân, trong đó mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xã là một pháo

đài, đánh giặc một cách toàn diện và bằng mọi thứ vũ khí có trong tay.

Xuất phát từ quan điểm của Đảng, Bác Hồ, hậu phương của chiến tranh

du kích ở Thái Bình là hậu phương tại chỗ. Hậu phương này lấy làng xã làm

chỗ dựa. Vì làng chiến đấu chính là gốc rễ của chiến tranh du kích. Đánh giặc

giữ làng đã trở thành truyền thống của người dân Thái Bình. Truyền thống

này đã được kế thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên

phong, hướng nhiệm vụ cụ thể là xây dựng làng kháng chiến, biến mỗi làng

xã thành một pháo đài, gắn chặt việc giữ nước với giữ làng. Cơ sở làng xã là

96

nơi xây dựng nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, nên có thể dựa vào sức

mạnh tại chỗ để kiên trì cuộc chiến đấu lâu dài, dù có bị chia cắt, càn quét

khốc liệt. Xây dựng nhiều làng kháng chiến sẽ là cơ sở để hình thành các khu

du kích hoặc các căn cứ du kích. Vì vậy, có thể ví làng chiến đấu ở Thái Bình

là từng viên gạch, căn cứ du kích là bức tường, là khối tổng hợp các làng

chiến đấu tạo ra sức mạnh và tác dụng to lớn. Tuy nhiên trong quá trình xây

dựng làng chiến đấu, quân dân trong tỉnh đã mắc phải một số sai lầm, đặc biệt

là tư tưởng hình thức, đánh giá quá cao làng chiến đấu dẫn đến những tổn thất

như cuộc chiến đấu của nhân dân làng An Định (Thụy Anh) diễn ra vào ngày

6-3-1950. Vì vậy, việc sử dụng làng chiến đấu cần phải có một sự linh hoạt

dựa vào tương quan lực lượng giữa ta và địch là việc làm cần thiết để phát

huy tối đa hiệu quả của làng kháng chiến.

Bên cạnh đó, do nét đặc sắc của chiến tranh du kích ở đồng bằng nói

chung, Thái Bình nói riêng, hậu phương của ta không chỉ nằm ở vùng giải

phóng mà còn nằm ngay trong vùng địch tạm chiếm, đồng thời hậu phương

cũng là tiền tuyến. Hơn nữa, hậu phương và tiền tuyến không cố định mà có

thể hoán đổi vị trí cho nhau phụ thuộc vào thế và lực giữa ta và địch. Chính vì

vậy muốn xây dựng được hậu phương tại chỗ được vững chắc, việc cốt lõi là

phải dựa vào dân. Thực chất cuộc kháng chiến ở vùng sau lưng địch là cuộc

chiến đấu giành đất, giành dân, bên nào giành được dân bên đó sẽ giành thắng

lợi. Ở đâu có nhân dân ủng hộ ở đó có hậu phương. Cuộc chiến tranh du kích

ở Thái Bình đã cho thấy, từ khi cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang

trong tỉnh kiên trì quay về bám đất, bám dân chúng ta đã xây dựng được thế

trận lòng dân không chỉ ở vùng giải phóng, mà cả ở vùng tạm chiếm. Vì vậy

mà ta đã có một hậu phương vững chắc không chỉ ở vùng giải phóng mà còn

ngay trong vùng địch tạm chiếm. Trong khi đó, thực dân Pháp chiếm được đất

nhưng chúng không chiếm được lòng dân, vì vậy âm mưu “lấy chiến tranh

97

nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch ở Thái Bình

không những bị phá sản, mà ngược lại chúng còn bị hao người, tốn của bởi

cuộc chiến tranh không có giới tuyến rõ ràng của quân và dân Thái Bình.

3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình

thức và mặt trận đấu tranh.

Sức mạnh của chiến tranh du kích không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang

và đấu tranh vũ trang, mà chủ yếu dựa vào lực lượng quần chúng đông đảo.

Đó là lực lượng rộng lớn trong các đoàn thể của mặt trận. Đấu tranh quân sự

phải gắn liền với đấu tranh chính trị và kết hợp với đấu tranh chính trị, hỗ trợ

cho quần chúng nổi dậy phá tề, trừ gian giành và giữ quyền làm chủ kết hợp

tiến công tiêu diệt địch. Đấu tranh chính trị phát huy ưu thế của cuộc chiến

tranh chính nghĩa, tập hợp và đoàn kết quần chúng, xây dựng và bảo vệ chính

quyền cách mạng, chống lại thủ đoạn chính trị lừa bịp của kẻ thù.

Đấu tranh kinh tế là một nội dung rất quan trọng trong chiến tranh du

kích. Phải đấy mạnh tăng gia sản xuất và tiết kiệm, đồng thời phải bảo vệ sản

xuất, chống địch phá hoại ruộng vườn, hoa màu, không cho địch cướp phá

thóc lúa, bắn giết trâu bò, làm thất bại chính sách “ lấy chiến tranh nuôi chiến

tranh” của chúng. Có như vậy mới xây dựng được nền kinh tế “ tự cấp, tự

túc”, đảm bảo cuộc chiến đấu tại chỗ, đảm bảo đời sống nhân dân và lực

lượng vũ trang của ta.

Kháng chiến về tư tưởng văn hóa cũng là một măt trận đấu tranh “để

đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.

Phải triệt để tẩy trừ mọi ảnh hưởng nô dịch của văn hóa thực dân đồng thời

phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. vì thế mà cuộc đấu tranh

trên mặt trận văn hóa tư tưởng diễn ra rất quyết liệt.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chiến tranh du kích ở

Thái Bình không chặn được các cuộc tấn công, càn quét lớn của địch là do

trong tác chiến chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các vùng miền trong

98

tỉnh, giữa vùng tạm chiếm và vùng tự do, giữa đấu tranh quân sự với đấu

tranh chính trị, kinh tế, địch vận, giữa cuộc chiến đấu của quân dân Thái Bình

với quân dân của các chiến trường cả nước đặc biệt là ở trên chiến trường

chính. Vì vậy, Chiến dịch Hòa Bình tạo ra bước ngoặt đối với chiến tranh du

kích ở Thái Bình không chỉ bởi nó tạo điều kiện cho quân dân trong tỉnh tiêu

diệt địch mà quan trọng hơn nó đã tạo điều kiện để chiến tranh du kích ở Thái

Bình có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận tạo ra sức mạnh tổng hợp

để tiêu diệt địch.

Sau Chiến dịch Hòa Bình, sở dĩ ta luôn giành và giữ vững thế chủ động

là do ta đã có sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu của quân dân trong tỉnh cả ở

vùng giải phóng lẫn vùng tạm chiếm, cả bằng quân sự, chính trị, kinh tế, địch

vận, bằng sự phối hợp chiến đấu giữa quân dân Thái Bình với quân dân các

chiến trường cả nước. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng và ăn khớp như vậy nên

có những trận càn địch sử dụng số quân lớn hơn cả cuộc hành quân ra Hòa

Bình như trận càn Thủy Ngân, trận càn Cá Măng… nhưng chúng không

những không đạt được mục đích mà ngược lại chúng còn bị thiệt hại nặng nề.

Đây cũng chính là đặc điểm nổi bật của cuộc kháng chiến chống Pháp nói

chung, chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng.

Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam thường cho

rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Thực tế, Đảng

ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và cũng chưa bao giờ

hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược chiến tranh

cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự,

chính trị, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy,

kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh địch bằng mọi cách, bằng mọi

thứ vũ khí có trong tay. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển

chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực từ cấp

tiểu đoàn, trung đoàn, đến cấp đại đoàn (sư đoàn), trở thành những “quả đấm

99

thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.

Đây cũng chính là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới thời đại

Hồ Chí Minh, là ánh sáng soi đường cho chiến trường cả nước nói chung,

chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng giành thắng lợi.

3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du

kích, từ đó chủ động đề ra các biện pháp chống càn

Trong các kế hoạch của mình, từ Rơve, Đờ lát, Xalăng cho đến Nava

đều coi càn quét là yếu tố quyết định để bình định. Đây vốn là con bài quen

thuộc để địch thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng

người Việt đánh người Việt”. Từ đó có thể thấy rằng, chống càn là một trong

những nhiệm vụ căn bản của chiến tranh du kích. Vì vậy “Càn quét và chống

càn quét là hình thức đấu tranh chủ yếu giữa ta và địch…là quy luật phát triển

của cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch [54, tr.281]. Chỉ có kiên quyết chống

càn mới phá được âm mưu của địch, giữ vững được cuộc đấu tranh sau lưng

địch. “Chống càn cũng là nhiệm vụ trường kì gian khổ [59, tr. 281].

Thực tế chiến tranh du kích ở Thái Bình luôn gắn liền với hiệu quả của

việc chống càn của quân dân trong tỉnh. Lúc đầu do quân dân Thái Bình

không đánh giá hết được âm mưu cũng như mức độ khốc liệt của các cuộc

càn quét lớn của địch nên việc chống càn của quân dân trong tỉnh luôn ở thế

bị động. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 10-1951,

bằng các cuộc càn quét liên tiếp với quy mô lớn, tính chất khốc liệt cao lại

được sự hỗ trợ đắc lực của bọn phản động, tay sai, thực dân Pháp đã gây ra

những thiệt hại to lớn cho chiến tranh du kích ở Thái Bình. Từ sau Chiến dịch

Hòa Bình, hoạt động chống càn của quân dân trong tỉnh mới đem lại hiệu quả,

tất cả các cuộc càn quét lớn nhỏ của địch đều bị bẻ gãy, chiến tranh du kích ở

trong tỉnh vẫn trụ vững bất chấp quy mô và mức độ của các cuộc càn quét

ngày càng ác liệt. Ngoài những điều kiện thuận lợi mà Chiến dịch Hòa Bình

đem lại, ta đạt được những kết quả này là do quân dân Thái BÌnh ngày càng

100

thấy rõ tầm quan trọng của việc chống càn. Từ sự chuyển biến về nhận thức

đã dẫn đến những thay đổi trong hoạt động chống càn. Thay vì bị động như

trước, ta luôn bám sát mọi âm mưu và hành động của địch từ đó chủ động đưa

ra các chủ trương biện pháp đối phó có hiệu quả với ba mức độ càn nhỏ, càn

trung bình và càn quét lớn của địch.

Đối với các cuộc càn quét nhỏ, công việc chính cần làm là tăng cường

công tác bí mật, trừ gian đồng thời đánh chặn các đội biệt kích của địch trước

khi chúng vào tới làng.

Đối với các cuộc càn trung bình, trước hết phải bám sát những vị trí

lớn của địch trong vùng và lân cận để có kế hoạch chuẩn bị. Dân quân du kích

phải tích cực, kiên quyết đánh tiêu hao khiến cho địch gặp nhiều khó khăn.

Bộ đội địa phương tập trung lực lượng vừa giúp đỡ du kích vừa đánh những

cánh quân nhỏ, yếu của địch theo lối đánh phục kích, tập kích, địa lôi, cạm

bẫy và chú trọng giải thoát cho đồng bào bị bắt và trâu bò, thóc lúa bị địch

cướp đi.

Đối với các cuộc càn quét lớn thì tập trung lực lượng du kích, bộ đội địa

phương đánh tiêu hao bằng mìn, cạm bẫy, tìm cách luồn càn, thoát khỏi vòng

vây để đánh vào sau lưng địch. Các nơi khác phối hợp chặt chẽ khi địch rút

quân ứng chiến, địa bàn chiếm đóng của chúng bị sơ hở.

Xuất phát từ những biện pháp và chủ trương như vậy, ta thực hiện nội

ngoại tuyến giáp công, hợp đồng tác chiến trong phạm vi xã, huyện, tỉnh,

trong toàn khu, biết phân tán luồn càn, tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu và

sơ hở bằng phương thức “chia ra để tránh, tụ lại để đánh” với yếu tố bí mật,

bất ngờ, chớp nhoáng. Thực hiện phát động quần chúng, củng cố cơ sở, tổ

chức phòng gian tích cực. Tăng cường cho lực lượng du kích và bộ đội địa

phương về trang bị vũ khí và tổ chức. Xúc tiến xây dựng và củng cố làng

chiến đấu làm nơi đứng chân cho bộ đội chủ lực.

Đối với bộ đội, chuẩn bị các phương án tác chiến, giữ bí mật, giấu kín

101

lực lượng, bám sát tình hình địch đồng thời có kế hoạch cụ thể bảo vệ nhân

dân và tổ chức giải thoát cho dân khi bị địch bắt. Nhân dân có kế hoạch sơ tán

cất giấu tài sản, thóc lúa.

Cán bộ, đảng viên bám sát dân khi họ đi sơ tán để giải thích, tuyên

truyền, giữ vững tinh thần cho nhân dân. Đồng thời từng bước kết hợp chống

càn bằng đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang với đấu tranh chính trị của

nhân dân nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hạn chế sự khủng bố,

phá hoại của kẻ thù, hạn chế tác hại của các cuộc càn quét. Điểm cốt lõi để

chiến tranh du kích chống được càn là phải huy động toàn dân tham gia chống

càn, cả ba thứ quân cùng phối hợp chiến đấu khi địch càn, đánh địch ở khắp

mọi nơi (trong làng, ngoài đồng) bằng mọi vũ khí có trong tay đặc biệt là

chông, mìn, cạm bẫy, địa lôi khiến địch đi đến đâu cũng bị đánh, bị tiêu hao,

bị quấy rối, bị đánh cả trước mặt, sau lưng, trong vòng vây và ngoài vòng vây,

bị đánh ở bên sườn đội hình, thậm chí bị tiến công trực tiếp vào bộ chỉ huy

cuộc càn như trong trận càn Con Trâu.

3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện

về tổ chức và năng lực lãnh đạo

Từ khi Đảng ra đời, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định

đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng để chủ trương, đường lối

của Đảng được áp dụng một cách linh hoạt vào địa phương, đòi hỏi vai trò

quyết định của Đảng bộ ở địa phương đó, trong đó chi bộ đảng có vai trò đặc

biệt. “Tất cả mọi đường lối ấy đều do chi bộ đảng đảm bảo sự thành

công…Ngay từ đầu, trong tình thế gian khổ nguy nan nhất, chi bộ thực sự đã

làm nòng cốt của chiến tranh cách mạng, chống thực dân Pháp phản động

Pháp. Chi bộ là cơ sở, là yếu tố căn bản” [40,tr. 43].“Không có chi bộ mạnh,

kiên cường và tài giỏi, thì không thể có chiến tranh nhân dân phát triển mạnh

mẽ và rộng khắp” [54, tr. 407].

Lần đầu tiên lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cùng dân tộc tiến hành một

102

cuộc chiến tranh cách mạng, một loạt các vấn đề được đặt ra cho Đảng bộ

Thái Bình. Với một tỉnh địa hình không thuận lợi cho chiến tranh du kích, kẻ

địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, làm thế nào để áp dụng một cách linh hoạt

đường lối kháng chiến của Đảng, Bác Hồ để lãnh đạo toàn thể quân dân thực

hiện một cuộc chiến tranh du kích đánh bại quân thù, giải phóng quê hương.

Đây là những vấn đề mà Đảng bộ Thái Bình chưa có kinh nghiệm. Những

kinh nghiệm trong những ngày tổng khởi nghĩa, trong việc xây dựng và bảo

vệ chính quyền ở những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám chưa đủ để giải

quyết một loạt vấn đề mới mà cuộc chiến tranh du kích ở Thái Bình đặt ra.

Sự thiếu kinh nghiệm này được biểu hiện ngay từ khi địch thực hiện

cuộc tấn công Cái Thùng (Tonnô) đánh chiếm Thái Bình. Không ít đảng viên

trong tỉnh đã bỏ đất, bỏ dân chạy dài, một số ở lại có tư tưởng cầu an, số khác

nằm im không dám hoạt động gây tổn thất rất to lớn cho phong trào kháng

chiến nói chung, chiến tranh du kích nói riêng. Nguyên nhân dẫn đến hiện

tượng này một phần là do so sánh lực lượng giữa ta và địch, kẻ địch lại sử

dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn bạo thâm độc, nhưng nguyên nhân chủ yếu

đó là do sự thiếu kinh nghiệm, sự bỡ ngỡ của cán bộ đảng viên trong tỉnh khi

Thái Bình chuyển từ vùng tự do thành vùng tạm chiếm.

Tuy nhiên được sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên ủy khu đặc biệt là

bài học xương máu rút ra từ thực tiễn chiến đấu, Đảng bộ Thái Bình đã tìm ra

những đáp số để giải những bài toán khó khăn mà chiến tranh du kích trong

tỉnh đang gặp phải. Đó là các chi bộ đảng ở trong tỉnh phải không ngừng hoàn

thiện về tổ chức và năng lực lãnh đạo. Trong đó, muốn lãnh đạo quân dân

trong tỉnh đánh tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù, các chi bộ đảng trong

tỉnh phải có bản lĩnh của một Đảng cầm quyền lãnh đạo chiến tranh. Đó là ý

chí quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, đó là tính chủ động,

nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình và chỉ đạo thực tiễn. Đó là năng lực

tổ chức bám đất, bám dân, từng bước xây dựng thực lực cách mạng với

103

phương châm “rời dân ra là thất bại”. Đảng phải luôn đặt mình trong tình thế

chiến tranh, luôn tập dượt mọi tình huống của chiến tranh, thường xuyên theo

dõi, quan sát, phán đoán mọi âm mưu của địch, dự báo các khả năng có thể

xảy ra trên địa bàn, nhất là các khả năng xấu, từ đó có các phương án xử lý

các tình huống, hết sức tránh trường hợp bị bất ngờ. Sự phối hợp chặt chẽ

giữa các chi bộ đảng trong tỉnh, giữa Đảng bộ tỉnh với Đảng bộ tỉnh bạn và

nhận rõ mối quan hệ giữa địa phương với tình hình toàn quốc là điều hết sức

quan trọng để có những đối sách một cách kịp thời và thích hợp. Phải xây

dựng Đảng với số lượng đảng viên đủ, nhưng chất lượng, có tư tưởng kiên

định, thắng không kiêu, bại không nản, tư tưởng chủ động tiến công địch

trong bất cứ tình huống nào.

Thực tế thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình đã chứng minh

nếu như nhân dân Thái Bình luôn là nền tảng, là sức mạnh của mọi sức mạnh

để chiến tranh du kích trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn tiến lên giành thắng

lợi, thì sự lãnh đạo của Đảng bộ Thái Bình luôn là nhân tố quyết định của mọi

thắng lợi đó. Những giai đoạn khó khăn và thành công của chiến tranh du

kích có mối quan hệ chặt chẽ với sự lãnh đạo của Đảng bộ trong tỉnh. Đây là

104

một bài học mang tính quy luật mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

KẾT LUẬN

Âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người

Việt đánh người Việt” luôn được coi là điều kiện tiên quyết để thực dân Pháp

tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vì vậy, việc xâm chiếm và bình

định đồng bằng Bắc Bộ luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong các kế hoạch

của địch.

Thái Bình có vị trí chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ, trong những năm

đẩu kháng chiến chống Pháp, nơi đây là an toàn khu của Liên khu III. Vì vậy,

thực dân Pháp quyết tâm đánh chiếm và bình định bằng được tỉnh Thái Bình.

Nằm ở một vị trí chiến lược như vậy, nhưng cho đến trước tháng 2-

1950, Thái Bình vẫn còn là một tỉnh tự do. Đặc điểm này một mặt tạo điều

kiện thuận lợi để nhân dân Thái Bình từng bước khắc phục những khó khăn

của những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đồng thời ra sức chuẩn bị mọi

mặt cho cuộc chiến đấu khi địch tấn công Thái Bình. Tuy nhiên, cũng vì là địa

bàn chưa có chiến sự lại nhận được sự chỉ đạo chuẩn bị “tổng phản công” của

Trung ương nên đa số cán bộ, đảng viên và quân dân Thái Bình có tư tưởng

chủ quan không đánh giá hết được âm mưu của địch. Tư tưởng này đã ảnh

hưởng không nhỏ đến quá trình chuẩn bị mọi mặt cho chiến đấu khi địch đánh

chiếm Thái Bình.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 8-2-1950, thực dân Pháp chính thức

mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Bình. Do nhận thức chưa đầy đủ, mắc sai

lầm trong việc đánh giá về địch cùng những khuyết điểm trong quá trình

chuẩn bị đã khiến cho quân dân trong tỉnh bị bất ngờ trước các cuộc tấn công

tàn bạo và thâm hiểm của địch. Vì vậy, dù chiến đấu rất dũng cảm, ngoan

cường nhưng quân dân trong tỉnh không ngăn được cuộc tấn công đánh chiếm

Thái Bình của địch. Chiến tranh du kích ở Thái Bình chịu những tổn thất nặng

nề, nghiêm trọng. Hơn 80% đất đai trong tỉnh trở thành vùng tạm chiếm, đa số

105

cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang trong tỉnh bị bật đất, bật dân, chạy dài,

số còn lại có tư tưởng cầu an hoặc nằm im không dám hoạt động. Nhân dân

hoang mang, dao động trước sự khủng bố điên cuồng của kẻ thù. Chiến tranh

du kích ở trong tỉnh bước vào thời kì gay go, quyết liệt.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên khu ủy III mà trực tiếp

là của Đảng bộ Thái Bình, cán bộ, đảng viên và các lực lượng vũ trang đã

vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, kiên trì bám đất, bám dân gây dựng lại

phong trào chiến tranh du kích. Nhờ vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một năm

(từ tháng 5-1950 đến tháng 3- 1951), chiến tranh du kích ở trong tỉnh không

chỉ phục hồi mà còn có những bước phát triển. Tuy nhiên, những thành quả

đó cũng chưa đủ sức để ngăn nổi các cuộc càn quét liên tiếp, cường độ cao,

quy mô lớn với tính chất vô cùng tàn bạo và thâm hiểm của địch. Một lần nữa

chiến tranh du kích ở Thái Bình lại chịu những tổn thất nặng nề. Nguyên nhân

dẫn đến tình trạng này thì chủ yếu là do chiến tranh du kích ở Thái Bình chưa

có sự phối hợp chặt chẽ giữa các khu vực, các vùng trong tỉnh, chưa có được

hỗ trợ có hiệu quả của các địa phương bạn và chiến trường trên cả nước, đặc

biệt là trên chiến trường chính. Vì vậy, chiến dịch Hòa Bình chính là bước

ngoặt để chiến tranh du kích ở vùng địch hậu nói chung, ở Thái Bình nói

riêng tiến lên phát triển mạnh mẽ.

Phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, được sự hỗ trợ trực tiếp của Đại

đoàn 320 cùng những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế chiến đấu,

chiến tranh du kích ở Thái Bình đã có bước phát triển mạnh mẽ. Quân dân

trong tỉnh không chỉ tấn công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai mà quan trọng

hơn nó đã tạo điều kiện chiến tranh du kích ở Thái Bình giành được thế chủ

động. Vì vậy, từ sau chiến dịch Hòa Bình, chiến tranh du kích ở Thái Bình

vẫn giữ vững được quyền làm chủ, lần lượt đập tan các âm mưu của địch, giải

phóng quê hương qua đó góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại hoàn toàn

106

cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có sự hậu thuẫn của Mĩ.

Thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình có một vị trí, ý nghĩa lịch

sử to lớn. Nó không chỉ góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

Pháp, chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo đường lối kháng chiến của Đảng,

Bác Hồ mà nó còn cho thấy khả năng cách mạng to lớn của nhân dân trong

tỉnh đồng thời tạo ra cái vốn cho cách mạng sau này. Bên cạnh đó, nó còn để

lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho cách mạng Việt Nam nói chung,

tỉnh Thái Bình nói riêng, đó là: Chiến tranh du kích phải phát huy được sức

mạnh của nhân dân. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức, mặt

trận đấu tranh. Phải xây dựng được hậu phương tại chỗ. Phải coi càn quét và

chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó chủ động đề ra

các biện pháp chống càn, đồng thời Đảng bộ ở địa phương phải không ngừng

củng cố và hoàn thiện về đường lối, tổ chức và năng lực lãnh đạo.Những ý

nghĩa và một số bài học kinh nghiệm của chiến tranh du kích ở Thái Bình

trong kháng chiến chống Pháp không chỉ là nguồn cổ vũ to lớn để quân dân

Thái Bình đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi của cuộc kháng chiến

chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) mà cho đến ngày hôm nay nó vẫn còn giữ

107

nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Ban chỉ huy quân sự huyện Đông Hưng (2008), Lịch sử quân sự huyện

Đông Hưng (1945-2005), Nxb Lao động Xã hội, Thái Bình.

3. Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Phụ (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang

nhân dân huyện Quỳnh Phụ (1945-2000).

4. Ban chỉ huy quân sự huyện Vũ Thư(2007), Lịch sử quân sự huyện Vũ Thư

(1930- 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tiền Hải (1998), Lịch sử Đảng bộ Tiền Hải,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thái Thụy (2005), Lịch sử đảng bộ huyện

Thái Thụy (1927 – 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vũ Thư (1989), Những sự kiện lịch sử

Đảng bộ huyện Vũ Thư 1945-1954.

8. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1999), Lịch sử đảng bộ tỉnh Thái

Bình tập 1 (1927 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình

tập 1 (1941-1951). Thái Bình 01/2007.

10. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình : Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình

tập 2(1952). Thái Bình 02/2007.

11. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình

tập3 (1953). Thái Bình 04/2007.

12. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình

108

tập 4(1954). Thái Bình 01/2007

13. Ban chấp hành Đảng bộ Quân sự Tỉnh Thái Bình ( 2010), Lịch sử đảng bộ

quân sự Tỉnh Thái Bình (1947-2007). Tỉnh Thái Bình xuất bản.

14. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương (1979), Những sự kiện lịch sử

Đảng, Tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

15. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình (1976), Thái Bình đánh giặc (hồi

ký kháng chiến chống Pháp) tập II.

16. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình (1980), Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ

Thái Bình ( 1945- 1954).

17. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình (1991) , Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Thái Bình ( 1929- 1954).

18. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình (1989), Những sự kiện lịch sử Đảng tinh

Thái Bình (1945-1954).

19. Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Thái Bình (1950), Báo cáo năm 1950, phông

LKU 3, Cục Lưu trữ VPTƯĐ, Hà Nội.

20. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (1999), Thái Bình kháng chiến chống

Pháp xâm lược. BCHQS Thái Bình xuất bản.

21. Bộ Tổng Tham mưu (1998) Chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa

phương trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 -1975) –

Những bài nói và viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh du kích,

chiến tranh nhân dân địa phương. , Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

22. Bộ Tổng Tham Mưu (1998) : Chiến tranh du kích trong kháng chiến

chống thực dân Pháp (1946-1954)- chuyên đề: Đặc trưng của chiến tranh

du kích vùng đồng bằng liên khu III trong kháng chiến chống Pháp, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

23. Bộ tư lệnh Quân khu III (2001), Lịch sử ngành kỹ thuật quân khu 3 trong

kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

24. Bộ tư lệnh Quân khu III (2005), Lịch sử hậu cần Quân khu 3 trong kháng

109

chiến chống Pháp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

25. Bộ tư lệnh Quân khu III – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân liên khu 3, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Bộ tư lệnh Quân khu III (1998) , Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

27. Bộ Quốc phòng – Quân khu III (1995) , Trung đoàn 42 trung dũng, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

28. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Tổng kết tác

chiến phòng ngự trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ

xâm lược ( 1945- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

29. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2003): Lịch sử chiến

thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 – 1975) tập 1, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

30. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2011), Lịch sử chiến

thuật vận động tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng

chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( 1945- 1975), Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

31. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2009), Lịch sử cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tập I, II,III, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

32. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương

chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

33. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Lịch sử kỹ thuật

quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),

110

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

34. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Giải quyết một

số vấn đề kỹ thuật quân sự trong 30 năm kháng chiến (1945-1957), Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

35. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử quân đội

nhân dân Việt Nam, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

36. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Một số trận đánh

trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975) tập

VII. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

37. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Lịch sử hậu cần

– kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Thực dân Pháp

(1945 – 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

38. Bộ Quốc phòng – Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, ( 2004), Từ điển

bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

39. Trường Chinh (1983), Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

40. Trường Chinh (1987). Tuyển tập, T1, 1937-1954, Nxb Sự Thật, Hà Nội

41. Lê Duẩn (1993), “Về chiến tranh nhân dân Việt Nam”. Nxb Chính Trị

Quốc Gia, Hà Nội

42. Văn Tiến Dũng (1974), Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

43. Văn Tiến Dũng (1978), Về chiến tranh nhân dân – quốc phòng toàn dân,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 8, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 9, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 10, Nxb

111

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 11, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 12, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, tập 13, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 14, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 15, Nxb

Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam (2009); Lịch sử Đảng bộ Quân đội

nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954) , Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

53. Võ Nguyên Giáp (1974), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước

tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

54. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh

bảo vệ tổ quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

55. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh nhân dân và Quân đội nhân dân,

Nxb Sự Thật, Hà Nội.

56. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân

dân và Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

57. Võ Nguyên Giáp (1969), “ Chỉ đạo chiến tranh du kích”, Bộ tổng tham

mưu xuất bản.

58. Võ Nguyên Giáp (1948), “Phát động du kích chiến tranh”, Chính trị cục

xuất bản.

59. Vũ Quang Hiển (2001) : Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng

112

bằng Bắc Bộ (1946-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp

Khu Tả ngạn sông Hồng (2001) : Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả

ngạn sông Hồng (1945 -1955), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Hội Liên hiệp phụ nữ Tỉnh Thái Bình (2003): Lịch sử phong trào phụ nữ

Thái Bình (1927 -2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam – Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ

Liên khu 3 (2002), Lịch sử phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1955), Nxb Lao động- Xã hội,

Hà Nội.

63. Đồng Sĩ Nguyên (1965), “Làng chiến đấu”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

64. Đinh Xuân Lâm (1992), Quân khu 3 mảnh đất giàu truyền thống yêu nước

chống xâm lược, tạp chí Lịch sử quân sự, số 6, tr21-24.

65. Đinh Xuân Lâm (1997), Bài viết của Bác Hồ về Chiến tranh du kích Việt

Nam, tạp chí Lịch sử quân sự, số 3/1997, tr13-15.

66. Kịch Lịch (1963), Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

67. Hồ Chí Minh (1970), Đấu tranh vũ trang và các lực lượng vũ trang nhân

dân, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (1980), Chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

69. Hồ Chí Minh Toàn Tập (1995), T3, 1930-1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

70. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T4, 1945-1946, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

71. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T5,1947-1949, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

113

Nội.

72. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T6,1950-1952. Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

73. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T7, 1953-1954,Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

74. Hồ Chí Minh ( 1975), Về Vấn đề quân sự, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

75. V.I LêNin (1980), Bàn về chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự và nghệ

thuật quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

76. Tổng kết lịch sử chiến tranh du kích Thái Bình, Tỉnh đội Thái Bình xuất

bản năm 1961.

77. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình(2010): Địa

chí Thái Bình, Nxb Văn hóa thông tin

78. Tổng cục Hậu cần (1998), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

(1944-1975). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

79. Phát triển chiến tranh du kích chuyển mạnh sang tổng phản công, Cục

Tuyên huấn xuất bản 1951, Lưu TVTWQĐ.

80. Quân khu 3 (1994): “ Những trận đánh điển hình trên chiến trường vùng

châu thổ sông Hồng (1945-1975) tập 2”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

81. Quân khu 3 (1998): Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

82. Quân khu 3, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (2007), Thái Bình những

trận đánh tiêu biểu (1945-1975) tập 1. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình

114

xuất bản.

PHỤ LỤC

Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình

( ảnh từ thư viện tỉnh Thái Bình)

Bản đồ tiến công Thái Bình của thực dân Pháp ( 8-2-1950 – 19-3-1950)

(ảnh chụp trong cuốn Thái Bình những trận đánh tiêu biểu)

Nhân dân thị xã Thái Bình bãi chợ và đòi giải tán căng chợ Bo, đòi thực dân Pháp trả tự do cho người bị bắt sau trận càn Mandarine.

Hũ gạo kháng chiến

Đội trưởng đội du kích Tán Thuật( AHLLVT) Nguyễn Thị Chiên

Ban đốc chiến xã Tán Thuật ( huyện Kiến Xương) họp bàn kế hoạch tác chiến.

Lính Pháp đi càn bị thụt hố chông tại Tán Thuật ( huyện Kiến Xương)

Du kích Thần Huống ( Thái Thụy – Thái Bình)

Bia chiến thắng tại chợ Cổng ghi dấu trận đánh thắng quân Pháp của quân dân Thần Huống (Thái Thụy) (tác giả chụp T8/2014)

Du kích Nguyên Xá ( Đông Hưng- Thái Bình)

Lão du kích Nguyên Xá bảo vệ Làng.

Tượng đài du kích làng Nguyễn trong kháng chiến chống thực dân Pháp

(Trang điện tử Báo Thái Bình)