ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
PHẠM THỊ HƢƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------------------
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ HƢƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Tang Bồng
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Luận văn có sự kế thừa các
công trình nghiên cứu của những người đi trước và có bổ sung thêm những tư
liệu mới và những kết luận mới mà chưa được công bố ở bất cứ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hương
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn,
giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Tang Bồng đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban tuyên giáo,
Bộ chỉ huy quân sự và Thư viện Tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử, và
các thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
cho tôi suốt 2 năm học qua.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 5
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu. ................................ 6
6. Đóng góp của Luận văn ..................................................................................... 6
7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 7
CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950) ........................................... 8
1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền thống yêu nước
cách mạng của nhân dân Thái Bình ....................................................................... 8
1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội........................................ 8
1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình ..................... 15
1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến tranh du
kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi
chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950). ................................................. 21
1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích, làng kháng
chiến. .................................................................................................................... 21
1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát động phong
trào du kích chiến tranh ....................................................................................... 22
1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng tự do, cùng
quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng
của thực dân Pháp ................................................................................................ 29
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 36
CHƢƠNG 2 ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU
KÍCH TỪNG BƢỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƢU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT,
KHỦNG BỐ, BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG (2/1950
–7/1954) ................................................................................................................ 37
2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi âm mưu thủ
đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951) ............................. 37
2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau khi Thực
dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950) ........................................................... 37
2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng kháng chiến,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình định của địch
(6/1950- 12/1951) ................................................................................................. 49
2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp phần cùng quân
dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (11/1951–7/1954). ................. 56
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 81
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ......... 83
3.1 Một số nhận xét .............................................................................................. 83
3.1.1 Ưu điểm ....................................................................................................... 83
3.1.2 Hạn Chế ....................................................................................................... 89
3.2. Một số bài học kinh nghiệm .......................................................................... 91
3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám đất, bám dân,
bám đánh địch. ..................................................................................................... 91
3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ ................... 96
3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình thức và
mặt trận đấu tranh................................................................................................ 98
3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó
chủ động đề ra các biện pháp chống càn ........................................................... 100
3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức
và năng lực lãnh đạo .......................................................................................... 102
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 108
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 115
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Bình là một địa
bàn chiến lược có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Đây là nơi đứng chân của
nhiều cơ quan Đảng, chính quyền, đơn vị vũ trang của Liên khu và của Hải
Phòng, Kiến An trong những ngày đầu kháng chiến. Đây cũng là nơi các hoạt
động đấu tranh của quân dân ta phá các âm mưu, thủ đoạn, thâm độc, xảo
quyệt “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”
của địch diễn ra hết sức quyết liệt và gay gắt.
Nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, nhân thức rõ tầm quan trọng của
địa bàn đối với cuộc kháng chiến của địa phương cũng như với Liên khu 3,
với toàn quốc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và của Liên khu ủy, Bộ tư lệnh Liên khu III, Đảng bộ tỉnh Thái
Bình đã sớm tổ chức, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây
dựng các làng kháng chiến, các căn cứ du kích, khu du kích liên thôn, liên xã,
liên huyện, liên tỉnh, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, biến
hậu phương địch thành hậu phương của ta, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực
địch đồng thời ra sức đóng góp sức người, sức của góp phần cùng quân dân cả
nước đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi.
Nghiên cứu tìm hiểu quá trình lãnh Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây
dựng và tổ chức phát động chiến tranh du kích, kết hợp giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, xây dựng và tổ chức hậu phương, kết hợp tiến công trên
chiến trường chính và tiến công ở vùng sau lưng địch, rút ra một số kinh
nghiệm tổ chức tiến hành chiến tranh du kích ở một tỉnh đồng bằng, nằm sâu
trong vùng địch tạm chiếm, khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến đúng
đắn sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình là việc hết sức cần thiết nhằm góp phần
1
làm phong phú thêm đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và
trường kỳ của Đảng, góp phần giáo dục truyền thống, đồng thời có thể vận
dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Với lý do trên, tôi chọn “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến
tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-
1954)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình…
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trên địa bàn Thái
Bình nói riêng. Theo đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu có thể sắp
xếp các công trình trên theo các nhóm sau:
2.1- Các nhóm công trình do các cơ quan, các nhà khoa học cấp
trung ƣơng biên soạn:
“ Những sự kiện lịch sử Đảng”, tập 1 (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979) của
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương biên soạn; các công trình “ Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1954)”, tập 1 (Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội,1994); “Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954)” tập 1, tập 2 (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1994) do Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam biên soạn;“ Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, thắng lợi và bài học” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996) của Ban
chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị; “ Lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu III (1945-1955)” (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của Bộ Tư lệnh Quân khu III và Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam; “Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998) của Bộ tư lệnh Quân khu III;
“Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954)” (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội,2009) của Đảng bộ quân đội nhân dân Việt Nam;
“ Trung đoàn 42 trung dũng” ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995) của
2
Bộ Tư lệnh Quân khu III; “ Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả ngạn
sông Hồng (1945 -1955)” ( Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Hội
đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả
Ngạn sông Hồng; “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc
Bộ (1946-1954)” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Vũ Quang
Hiển; v.v
2.2 Nhóm công trình do địa phƣơng biên soạn :
Công trình Sơ thảo “Tổng kết lịch sử du kích chiến tranh Thái Bình”
(Tỉnh đội Thái Bình xuất bản, 1961). Cuốn sách không chỉ đưa ra những điểm
tương đồng và khác biệt về chiến tranh du kích của tỉnh Thái Bình với tỉnh
khác mà còn đưa ra những nhận định đánh giá về những ưu điểm và hạn chế
và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để quân và dân Thái Bình tiếp
tục góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Công trình “ Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình 1945-1954” do
Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình xuất bản năm 1989. Cuốn sách đã trình bày
khá đầy đủ những sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh trong thời kỳ này. Đặc
biệt là những sự kiện về chiến tranh du kích, các đại hội Đảng bộ tỉnh, giúp
cho người đọc dễ dàng nắm được các mốc thời gian diễn ra các sự kiện của
Đảng bộ trong giai đoạn 1930 – 1945.
Cuốn sách “Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng” của Kịch Lịch
(Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963) đã phần nào dựng lại quá
khứ hào hùng của quân và dân Tán Thuật. Với lối đánh du kích sáng tạo, linh
hoạt, quân và dân Tán Thuật đã lập lên nhiều chiến công góp phần vào thắng
lợi chung của chiến tranh du kích ở Thái Bình.
Công trình “Thái Bình đánh giặc” (Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái
Bình, 1975). Từ nguồn tư liệu của các nhân chứng lịch sử, tác phẩm đã giúp
cho người đọc phần nào có thể hình dung về một thời chiến đấu đầy khó
3
khăn, gian khổ, hy sinh nhưng cũng rất anh dũng của quân và dân Thái Bình.
Sau khi đất nước thống nhất, chủ đề chiến tranh du kích ở tỉnh Thái
Bình (1950 - 1954) vẫn được nhiều cá nhân và tập thể tiếp tục đề cập
Năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình biên soạn và xuất bản
công trình “Thái Bình kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945 -1954”, cuốn
sách đã tái hiện lại bức tranh toàn cảnh tỉnh Thái Bình từ sau Cách mạng
tháng Tám cho đến ngày Thái Bình được giải phóng, trong đó giành khá
nhiều trang viết về cuộc chiến tranh du kích của quân và dân Thái Bình.
Cũng trong năm 1999, Tỉnh ủy Thái Bình biên soạn, xuất bản cuốn
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927 – 1954)”. Tác phẩm đã làm nổi bật
vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ khi ra đời cho đến 1954. Với
đường lối chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và
dân trong tỉnh giành được nhiều thắng lợi to lớn trên mọi lĩnh vực, trong cuộc
chiến chống thực dân Pháp.
Gần đây nhất là công trình “ Lịch sử quân sự tỉnh Thái Bình 1947- 2007”
do Đảng bộ quân sự tỉnh Thái Bình tổ chức biên soạn và xuất bản năm 2010.
Cuốn sách phản ánh quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự và
lực lượng vũ trang tỉnh, từ khi thành lập Tỉnh đội ( 1947) đến 2007.
Các công trình nghiên cứu trên đã khai thác được nguồn tư liệu rất
phong phú và sinh động. Nhưng các công trình do trung ương biên soạn chủ
yếu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Liên
khu 3 mà không thể nghiên cứu sâu về chiến tranh du kích ở Liên khu 3 nói
chung, tỉnh Thái Bình nói riêng.
Các công trình do địa phương biên soạn chủ yếu trình bày các hoạt
động tác chiến, việc đề cập đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích
của Đảng bộ còn chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, tất cả các công trình kể trên đều rất bổ ích, không chỉ cung
cấp tư liệu mà còn giúp định hướng, gợi mở cho học viên nhiều vấn đề trong
4
quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình
trong việc phát động, tổ chức lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích ở địa
phương và những đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, quân dân Thái Bình
trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; rút ra một
số bài học kinh nghiệm cần vận dụng trong quá trình xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng Thái Bình
thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp, hệ thống những nghị quyết, chỉ thị, văn kiện phản ánh các chủ
trương của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III và đảng bộ tỉnh Thái Bình trong
trong quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích thời kỳ 1945-1954.
- Góp phần khẳng định vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thái Bình
và những đóng góp to lớn, xứng đáng của chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Cố gắng phản ánh những sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong quá
trình tổ chức, chỉ đạo,lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích, từ đó rút ra
một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích trên địa bàn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ trong tổ chức lãnh đạo các
hoạt động chiến tranh du kích tại địa phương trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1946-1954).
- Những thành tích tiêu biểu của phong trào chiến tranh du kích tỉnh
5
Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: trình bày phong trào chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Về thời gian: từ sau cách mạng tháng Tám, chủ yếu từ tháng 12/1946
đến tháng 7/1954.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu.
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng và những chủ trương
lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
trong kháng chiến chống Pháp.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng quân sự
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh, luận văn chủ yếu sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
5.3. Nguồn tƣ liệu
Các văn kiện của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III, các chỉ thị, nghị
quyết, báo cáo của Tỉnh ủy và của các huyện ủy thuộc tỉnh ủy Thái Bình
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Các công trình lịch sử, tổng
kết của trung ương và địa phương đã xuất bản. Các báo cáo của các cơ quan
quân sự tỉnh Thái Bình thời kỳ kháng chiến chống Pháp; Hồi ký của các lão
thành cách mạng…
6. Đóng góp của Luận văn
- Thông qua việc trình bày các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình, luận văn làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong tổ chức, chỉ
6
đạo phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn từ 1946 đến 1954.
- Góp phần phản ánh rõ hơn, toàn diện hơn cuộc kháng chiến của Đảng
bộ quân dân Thái Bình, làm nổi bật vị trí đặc biệt quan trọng của phong trào
chiến tranh du kích trên địa bàn.
- Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử cuộc
kháng chiến chống Pháp tỉnh Thái Bình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng phong trào chiến
tranh du kích thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1950).
Chương 2: Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích từng bước đánh
bại mọi âm mưu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch, giải phóng quê
hương (2/1950 –7/1954)
7
Chương 3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.
CHƢƠNG 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG PHONG
TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950)
1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền
thống yêu nƣớc cách mạng của nhân dân Thái Bình
1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội
Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1546 km2 (số liệu 2003) được bao bọc bởi 3 dòng sông
lớn. Phía Tây và Tây Nam là sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định.
Phía Bắc là sông Luộc giáp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Phía Đông Bắc
là sông Hóa giáp với thành phố Hải Phòng. Phía Đông là biển cả mênh mông
với trên 54km bờ biển trong Vịnh Bắc Bộ. Cùng với 3 dòng sông lớn bao
quanh, trên địa bàn còn có 70 dòng sông lớn nhỏ.
Thời nước Văn Lang của các vua Hùng, tỉnh Thái Bình ngày nay thuộc
bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Sau khi
Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( năm 938) chấm
dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc Châu Đông.
Năm 1005, thời Tiền Lê, Châu Đông được đổi thành phủ Thái Bình. Tên Thái
Bình có từ đây. Đến thời Lý, Trần vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc các lộ
Kiến Xương, Long Hưng, Tiên Hưng. Phủ Long Hưng có các huyện Ngự
Thiên, Duyên Hà, Cổ Lan, Thần Khê. Phủ Kiến Xương có các huyện Bí,
Bồng Điền, Kiến Xương, Chân Lợi. Phủ Tiên Hưng có các huyện Thái Bình,
A Côi, Đa Dực, Tây Quan. Thời Hậu Lê, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi,
Thái Bình có 3 phủ, 11 huyện, 525 châu, xã, thôn, trang… Thời Nguyễn
vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc trấn Sơn Nam Hạ chia làm 3 phủ gồm 11
huyện, 82 tổng, 602 xã, thôn, trang, phường. Ngày 21.3.1890, toàn quyền
8
Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Tính đến ngày 1.1.1893
tỉnh Thái Bình có 2 phủ gồm 10 huyện, 79 tổng, 548 xã. Đến năm 1926 Thái
bình có 12 phủ huyện gồm 95 tổng, 814 xã và 1 thị xã. Từ sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng tổ chức lại cấp xã. Xã mới
thường gồm một số xã cũ (hoặc một số làng) hoặc là một tổng cũ. Trong
kháng chiến chống Pháp, Thái Bình có 1 thị xã và 12 huyện ( Vũ Tiên, Thư
Trì, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan, Quỳnh Côi,
Phụ Dực, Duyên Hà, Hưng Nhân, Tiên Hưng) và 162 xã. [77. Tr.145-156].
Hiện nay, Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện ( Vũ Thư, Kiến Xương,
Tiền Hải, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Thái Thụy) với 7 thị trấn và 286
xã, phường. So với các tỉnh đồng bằng Tả Ngạn sông Hồng, Thái Bình có
diện tích tự nhiên tương đối rộng. Sông Hồng đoạn chảy qua Thái Bình dài
80km qua các huyện Hưng Nhân, Thư Trì , Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải
rồi đổ ra biển theo cửa Ba Lạt chỗ rộng nhất lên tới 1000m, có nhiều đoạn
quanh co gấp khúc bên lở bên bồi, sâu từ 15 đến 30m.. Trong kháng chiến,
sông Hồng là tuyến giao thông đường thủy chiến lược đối với việc vận
chuyển lương thực, quân số, vũ khí của địch từ ngoài biển vào Nam Định, Hà
Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Phía Tây Bắc là sông Luộc (phân lưu của
sông Hồng) bắt nguồn từ Hà Xá (Hưng Nhân) chảy qua huyện Hưng Nhân,
Quỳnh Côi, Phụ Dực, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) dài 40km, chỗ rộng nhất 150m,
hẹp nhất 70m. Sông Luộc cũng là con đường thủy vô cùng quan trọng. Phía
Đông Bắc là sông Hóa dài 60km, bắt nguồn từ Lộng Khê ( Phụ Dực) chạy
theo ven huyện Thụy Anh, Phụ Dực ra biển, quãng rộng nhất là 150m, hẹp
nhất 70m. Cả ba con sông này địch đều thiết lập một hệ thống đồn bốt để bảo
vệ, gây cho ta nhiều trong bảo quản giao thông liên lạc và tác chiến. Bờ biển
Thái Bình dài 54km, có các cửa sông lớn như: cửa Ba Lạt, cửa sông Trà Lý,
cửa sông Thái Bình và cửa Lân.[76,tr.8]
Ngoài ba con sông lớn bao quanh, nội đia Thái Bình còn có 4 con sông
9
tương đối lớn khác là: Trà Lý, Diêm Hộ, Kiến Giang, Sa Lung. Thái Bình là
tỉnh duy nhất của miền Bắc không có núi rừng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu,
nông nghiệp và ngư nghiệp khá phát triển, là 1 trong những vựa lúa lớn của
đồng bằng sông Hồng. Do điều kiện tự nhiên là vùng đất được phù sa bồi đắp,
bằng phẳng, các cánh đồng phần lớn có nước quanh năm. Đặc điểm địa hình
kể trên khiến cho việc bảo đảm hậu cần, cơ động lực lượng tác chiến của quân
dân ta rất khó giữ bí mật,việc phát triển, cất giấu thóc lúa, của cải và đào hầm
hào cũng rất khó khăn…Địa hình bằng phẳng còn có lợi thế cho địch đóng cứ
điểm, xây lô cốt cao, có thể kiểm soát cả một vùng.
Thái Bình còn có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện. Từ Thái
Bình theo đường quốc lộ số 10 có thể đi Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng theo
đường 10 có thể đến Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa vào Khu 4. Đường 39
nối Thái Bình với Hưng Yên, theo đường này có thể xuống Hải Dương, lên
Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc. Cùng với 2 con đường quan trọng
này, Thái Bình còn có một hệ thống đường giao thông liên huyện là đường
216, 217,218,219,220… dài tổng cộng 500km. Hệ thống đường giao thông
ngang dọc chia cắt địa bàn Thái Bình thành từng khu vực nhỏ từ 3-7km, tuy
thuận tiện cho việc giao thông, có lợi phần nào cho cách đánh du kích,
nhưng cũng gây trở ngại cho ta khi địch chiếm đóng chốt giữ những đoạn yết
hầu với những phương tiện hiện đại của chúng.[76, tr.7]
Nhìn chung, địa hình, đất đai, khí hậu… của Thái Bình đối với hoạt
động của con người chứa đựng sẵn hai mặt: thuận lợi, ưu đãi và khó khăn,
thách thức. Những thuận lợi tạo ra khả năng cho Thái Bình xây dựng một
nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, đảm bảo yêu cầu thiết yếu cho cuộc
sống và chiến đấu. Song những khó khăn lại đòi hỏi cư dân ở đây phải cố
kết chặt chẽ, phải biết lợi dụng quy luật tự nhiên, và chiến đấu chống lại sự
tàn phá của thiên nhiên, tạo điều kiện cho ý thức cộng đồng sớm hình thành
10
và phát triển.
Trong chiến tranh đây là địa bàn địch có khả năng phát huy ưu thế về
phương tiện và vũ khí hiện đại. Thực tế đó đòi hỏi quân dân Thái Bình phải
biết lợi dụng và cải biến địa hình địa vật để tổ chức xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân, phát động chiến tranh du kích để duy trì và phát triển lực
lượng, chủ động đánh địch với những hình thức thích hợp.
Dân cư Thái Bình có nguồn gốc từ nhiều nơi. Họ tụ cư và hợp cư ở đây
bằng lao động, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Sau cách mạng tháng Tám dân số Thái Bình có gần 1 triệu người, mật độ dân số 650 người /km2, xếp hạng
thứ 4 của đồng bằng sông Hồng và thứ 5 so với cả nước[66, tr.104, 106]. Vì
vậy, Thái Bình được ví như là kho người mà ta và địch đều muốn giành giật.
So với các tỉnh khác thuộc châu thổ Bắc Bộ thì Thái Bình có lịch sử
hình thành đất đai và cư dân mang tính gối sóng tương đối rõ rệt. Nhiều làng
cổ thuộc vùng đất Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Vũ Thư có lịch sử trên
dưới 2000 năm. Tuy nhiên, số làng được khai phá từ thời Trần trở về sau
chiếm tỉ lệ cao, những làng coi là mới được xác lập ở Tiền Hải từ cuộc đại
khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ bắt đầu từ năm 1828 đến nay cũng đã có
lịch sử gần 200 năm. Cư dân Thái Bình vốn là sự hội tụ từ các luồng cư dân
có gốc từ Sơn Tây, Hà Đông, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Yên, Hải Dương,
Hưng Yên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Nam, Nam Định,.. và có cả một bộ phận
theo đường biển từ Bắc xuống, từ Nam ra vốn làm nghề đánh cá về sau định
cư trên đất Thái Bình. Họ mang theo những tập quán sản xuất, những truyền
thống văn hóa ở nơi ở cũ đến vùng này và nhanh chóng hòa nhập với sự phát
triển chung của nền văn hóa bản địa. Đến nay, ở Thái Bình có 58 dòng họ, cư
dân hầu hết là người Kinh.
Người dân Thái Bình sống bằng nghề nông là chủ yếu nên làng xã là
điểm quần cư của họ. Những xóm làng nhỏ liền nhau được bao bọc bởi những
cánh đồng lúa nước mênh mông, có nơi làng nọ áp lưng vào làng kia, hay chỉ
11
cách nhau một con đường hoặc một con sông đào…Trong làng có nhiều ao,
ngòi, xen lẫn với những lũy tre, ngăn cách thành từng khu vực nhỏ. Xung
quanh làng thường được bao bọc bởi các lũy tre xanh tốt, dày đặc. Nhiều làng
còn được bao quanh bởi những con sông hoặc nằm giữa cánh đồng lầy.
Làng xóm ở phía bắc tỉnh thường rải rác nhỏ hẹp khó tổ chức chiến đấu
chống địch càn quét, dễ bị địch bao vây chia cắt. Các làng xóm ở phía nam
tỉnh rộng lớn hơn, gần kề liên tiếp nhau thuận lợi cho việc xây dựng trận địa
liên hoàn và rào làng kháng chiến như những khu : Thần Huống (Thái Ninh),
Trại Chè ( Kiến Xương), Quang Thẩm (Vũ Tiên)…
Nhìn chung, làng xóm ở Thái Bình thường gọn và tập trung, dễ bị phi
pháo của địch phá hoại, nhưng cũng là chướng ngại cho địch, chúng không
thể dễ dàng triển khai hành quân theo đội hình cũng như không thể giữ vững
cự ly của các mũi tiến quân, hoặc hoạt động của cơ giới khi bị ta phá hoại
đường xá. Về phía ta, đây là nơi bộ đội địa phương và dân quân du kích có thể
tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp. Trong kháng chiến ta đã dựa vào
những xóm làng tự nhiên này để xây dựng hàng loạt làng chiến đấu các khu
căn cứ du kích, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phá âm mưu “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch.
Thái Bình là nơi sắc thái văn hoá được hội tụ và biểu hiện qua tín
ngưỡng dân gian, những lễ hội truyền thống của các làng quê trong tỉnh. Các
lễ hội với nhiều nội dung phong phú phản ánh truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”, tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước,
quê hương. Thái Bình cũng là một trong những cái nôi của nghệ thuật chèo
truyền thống. Đã từ lâu, chiếu chèo sân đình cùng với bến nước, gốc đa là
những thành tố văn hoá quan trọng, món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi
người dân quê lúa. Qua thống kê cho thấy, trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, ở Thái Bình có 52 gánh hát chèo, trong đó phải kể đến ba làng chèo nổi
12
tiếng là Hà Xá (huyện Hưng Hà), Khuốc (huyện Đông Hưng), Sáo Đền
(huyện Vũ Thư). Cùng với nghệ thuật chèo, múa rối nước cũng là một loại
hình sân khấu độc đáo, thể hiện sự khéo léo, tài tình của người dân quê lúa.
Bên cạnh những giá trị văn hoá phi vật thể, Thái Bình còn là nơi lưu giữ
nhiều giá trị văn hoá vật thể đặc sắc với 1.404 công trình kiến trúc cổ như:
đình, đền, phủ, chùa, miếu… Mặc dù hiện nay đã thiếu vắng nhiều công trình
do chiến tranh do thiên nhiên và cả con người tàn phá, song số còn lại cũng để
lại nhiều dấu ấn đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc tinh xảo qua từng
mảng kiến trúc tại các di tích: chùa Keo, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, đền
Trần, đình An Cố, chùa Ký Con, đình Đông Lĩnh...
Là địa phương nằm xa các trung tâm văn hoá cổ, với địa hình bị chia cắt
bởi sông nước, nhưng Thái Bình lại có truyền thống hiếu học từ khá sớm.
Trong tổng số 2.898 trí thức đại khoa Việt Nam, Thái Bình có 111 vị, trong
đó có 2 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 3 thám hoa, 26 hoàng giáp, 78 người là
tiến sĩ, phó bảng.
Ngoài tín ngưỡng dân gian, có hai tôn giáo phát triển ở Thái Bình : Phật
giáo, Thiên chúa giáo.
Đạo Phật xuất hiện ở Thái Bình cách đây khoảng hơn 2000 năm, thịnh
hành nhất vào thời Lý –Trần. Hiện nay có 770 ngôi chùa nằm trên 267 xã
phường . Có 109 chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trong đó có
17 chùa được cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 92
chùa được chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đặc biệt chùa Keo
được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia.
Đạo Thiên chúa du nhập vào Thái Bình tương đối sớm. Theo gia phả họ
đạo xứ Dương Cước - Hồng Thái - Kiến Xương thì đạo Thiên chúa có mặt ở
đây từ năm 1665. Nhà thờ xứ đầu tiên được xây dựng vào năm 1700 là nhà
thờ xứ Lai Ổn - xã An Quí - Quỳnh Phụ. Năm 1936 Tòa thánh Vatican cho
phép công giáo Thái Bình tách khỏi "Địa phận Bùi Chu" thành lập "Địa phận
13
Thái Bình" gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Từ năm 1936 đến năm 1945,
tòa Giám mục Thái Bình đã qua 5 đời Giám mục, trong đó có 2 Giám mục
người nước ngoài. Hiện nay Thái Bình có 48 nhà thờ xứ, 300 nhà thờ họ lẻ,
và 1 trường tiểu chủng viện ở Cát Đàm (Đông Quan), 1 Giám mục và 26 linh
mục với gần 10 vạn giáo dân.. Các nhà thờ thường được xây dựng ở những
nơi đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng. Thời Pháp thuộc và trong kháng
chiến hệ thống tổ chức và thủ đoạn tuyên truyền của bọn giáo sĩ phản động
luôn được củng cố và phát triển rộng rãi với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc
tinh vi, xảo quyệt. Lợi dụng hoàn cảnh đói khổ của nông dân, chúng ra sức
mê hoặc, lôi kéo nhân dân theo đạo bằng cách cho lương thực, đến nay người
dân vẫn nhớ câu “ Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Vào Việt Nam cùng với chủ nghĩa
thực dân, Thiên Chúa giáo đã bị các thế lực đế quốc lợi dụng biến một bộ
phận giáo dân thành công cụ phục vụ cho âm mưu xâm lược của chúng. Tuy
nhiên đa số giáo dân là nông dân lao động chất phác, cần cù vẫn hướng về tổ
tiên, dòng họ, gia đình, do bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột nên đều có
tinh thần yêu nước thương nòi, căm ghét đế quốc phong kiến.
Thái Bình là 1 trong những vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh
nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác nguồn lợi biển (muối, cá…), người
dân Thái Bình cón có những nghề thủ công truyền thống như dệt lụa, dệt
chiếu, rèn, đúc đồng, chạm bạc …
Là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp lại phân tán
nhiều ở nông thôn, công nghiệp hầu như không phát triển nên ở Thái Bình có
hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ.
Nông dân Thái Bình chiếm 93% dân số. Hầu hết họ là những người có
rất ít hoặc không có ruộng đất . Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, hoặc
phải làm thuê cho chúng để kiếm sống. Lợi dụng tình hình đó, bọn địa chủ ra
sức tăng mức địa tô và các khoản tô phụ, người dân phải nộp hai phần ba hoa
lợi trên diện tích lĩnh canh. Ngoài ra nông dân còn phải đóng sưu cao, thuế
14
nặng. Thêm vào đó, bọn cường hào, lý dịch địa phương lại phù thu lạm bổ,
nhiều nông dân làm quanh năm mà không đủ tiền sưu thuế. Không có tiền nộp
sưu thì bị bọn quan lại, cường hào đánh đập, kìm kẹp tàn nhẫn. Vì vậy, người
nông dân Thái Bình sớm có truyền thống đấu tranh chống áp bức bất công,
chống bọn phong kiến cường quyền và kẻ thù xâm lược.
Giai cấp địa chủ Thái Bình chiếm 2% dân số nhưng chiếm đoạt 20%
tổng số ruộng đất. Khi bị đế quốc đụng chạm tới quyền lợi và khi phong trào
cách mạng lên cao, một số địa chủ có tinh thần yêu nước đã tham gia chống
Pháp với mức độ khác nhau. Song nhìn chung đây là chỗ dựa của đế quốc để
áp bức bóc lột nhân dân ta ở vùng nông thôn.
1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình
Với vị trí trọng yếu của đất nước và đồng bằng Bắc Bộ, Thái Bình sớm
phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm. Trong nhiều thập kỷ, người dân
nơi đây rất nổi tiếng bởi ý chí kiên cường, bất khuất, lập nên bao kỳ tích anh
hùng. Ngay từ buổi đầu dựng nước, vào năm 40 sau công nguyên, hưởng ứng
lời hịch cứu nước của Hai Bà Trưng, nhiều anh hùng hào kiệt ở Thái Bình đã
nổi dậy phất cờ khởi nghĩa chống lại chế độ cai trị hà khắc của nhà Đông Hán.
Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Vũ Thị Thục ở Tiên La Trang (nay là xã
Đoan Hùng, huyện Hưng Nhân), dưới ngọn cờ “Phù Trưng phạt Hán”. Cuộc
khởi nghĩa đã tập hợp được đông đảo, nhân dân trong vùng nhanh chóng phát
triển ra khắp tỉnh trở thành cánh quân mạnh của Hai Bà Trưng ở vùng hạ lưu
sông Hồng.
Ở thế kỷ thứ VI, Thái Bình là một trong những căn cứ đầu tiên nhen
nhóm cuộc khởi nghĩa Lý Bí, lật đổ ách đô hộ của nhà Lương, lập nên nhà
nước Vạn Xuân (544-602). Đến năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng diệt
quân xâm lược Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương xây nền tự chủ, đất nước
ta bước vào thời kỳ độc lập, chấm dứt gần 1.000 năm Bắc thuộc. Tuy nhiên,
sau khi Ngô Quyền mất, triều đình khủng hoảng, đã tạo cho các thủ lĩnh địa
15
phương nổi dậy, dẫn đến loạn 12 sứ quân, Trần Lãm cai quản vùng Bố Hải
Khẩu (thành phố Thái Bình ngày nay) là sứ quân mạnh hơn cả. Biết được sức
mạnh của sứ quân Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh đã sớm tìm đến nương tựa. Sau
khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh kế tục binh quyền kéo quân về Hoa Lư,
chiêu mộ thêm binh lính và lần lượt dẹp tan các sứ quân khác, chấm dứt nội
chiến, lập nên nhà Đinh.Vào thế kỷ XIII, Thái Bình không chỉ là đất dấy
nghiệp của nhà Trần mà còn là địa bàn chiến lược trong kế sách chống giặc
Nguyên - Mông, Thái Bình trở thành hậu phương quan trọng cung cấp quân
đội, lương thảo cho cuộc kháng chiến và là tuyến phòng thủ quan trọng bảo
vệ hành cung Thiên Trường.
Đầu thế kỷ XV (1407-1427), hàng loạt các cuộc nổi dậy chống ách đô
hộ của nhà Minh nổ ra liên tục trên đất Thái Bình. Bất chấp thủ đoạn tàn bạo
của kẻ thù, nhân dân các vùng ven biển, các huyện Kiến Xương, Đa Dực đều
nhất tề đứng lên chống giặc. Dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nghĩa quân Lê
Điệt và Bùi Đằng Liêu ở Kiến Xương và 6 anh em họ Phạm là: Phạm Bôi,
Phạm Quý, Phạm Lưu, Phạm Du, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê ở huyện Đa Dực
(Phụ Dực, huyện Quỳnh Phụ ngày nay) đã tập hợp đông đảo nhân dân Thái
Bình đứng lên chống giặc. Khi Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn - Thanh Hoá thì
cả Bùi Đằng Liêu và Phạm Bôi đều đem quân vào xin nhập với đại quân của
Lê Lợi, góp phần đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập vào năm 1427. Vào
thế kỷ XVIII trước tình hình triều đình Lê – Trịnh ngày càng thối nát, hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra trên khắp địa bàn tỉnh như: cuộc khởi
nghĩa của Nguyễn Sơn (Hồng Việt, Đông Hưng), Bùi Đá, Hoàng Sỏi (huyện
Quỳnh Côi), sau phát triển sang huyện Thần Khê, Duyên Hà, tiếp đó phát
triển sang Hải Phòng phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu… chống
lại sự thối nát, mục ruỗng cùng ách áp bức bóc lột hà khắc của triều đình
phong kiến. Tuy nhiên, có ảnh hưởng lớn nhất lúc bấy giờ là cuộc khởi nghĩa
của Hoàng Công Chất. Hoàng Công Chất, người làng Hoàng Xá, xã Nguyên
16
Xá, huyện Vũ Thư đã liên kết được nhiều lực lượng ở đồng bằng, trung du và
vùng Tây Bắc kéo dài cuộc khởi nghĩa trong 30 năm. Vào thế kỷ XIX, dưới triều
nhà Nguyễn, ngọn lửa đấu tranh của nông dân nổi lên dữ dội. Tiêu biểu trong
các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta lúc đó là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá
Vành, người làng Minh Giám, xã Vũ Bình, huyện Kiến Xương. Cuộc khởi nghĩa
đã tập hợp được hàng vạn nông dân tham gia, mở rộng khắp vùng đồng bằng
duyên hải sông Hồng và đến tận Quảng Ninh. Đi đến đâu nghĩa quân cũng thực
hiện khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” và trừng trị thẳng tay bọn
phú hào, địa chủ nên được nhân dân hết lòng che chở giúp đỡ. Vào thời điểm
Pháp đánh chiếm miền Bắc lần thứ nhất (năm 1873) và lần thứ hai (năm 1882), ở
Thái Bình xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa do các văn thân sĩ phu không cam
chịu nỗi nhục mất nước, bất hợp tác với thực dân Pháp và triều đình Huế đã từ
quan về quê tổ chức nhân dân dựng cờ khởi nghĩa, bất chấp lệnh bãi binh của
triều đình. Tiêu biểu trong số đó là cuộc khởi nghĩa của cha con Nguyễn Mậu
Kiến (Động Trung, huyện Kiến Xương), tiến sĩ Nguyễn Khuê (xã Song Lãng,
Vũ Thư), cuộc khởi nghĩa của Biện Tốn (Tam Nông, huyện Hưng Hà), cử nhân
Ngự sử Phạm Huy Quang (huyện Đông Hưng), Tạ Hiện (xã Quang Lang, huyện
Thái Thuỵ) và Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm.
Những năm đầu thế kỷ XX, Thái Bình là một trong những địa phương
có phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản phát triển mạnh nhất.
Nhiều lớp học của Đông kinh Nghĩa thục được mở ra ở Động Trung,Thượng
Gia, Cần Phán.Hưởng ứng phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi
xướng nhiều thanh niên ở Thái Bình đã hăng hái xuất dương như: Ngô Quang
Đoan, Lê Văn Tập, Hoàng Chuyên, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Hữu Cương,
Phạm Tư Trực. Mặc dù các phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản
cuối cùng bị thực dân Pháp đàn áp nhưng các phong trào đó thể hiện ý chí
kiên cường bất khuất của nhân dân. Đồng thời, là cơ sở, điều kiện để chủ
nghĩa Mác-Lênin thâm nhập vào vùng đất Thái Bình dẫn đến sự ra đời của tổ
17
chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Thái Bình từ đầu năm 1927.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với lời kêu gọi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc như một luồng gió mới thổi bùng ngọn lửa đấu tranh
cách mạng trong cả nước.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, ở Thái Bình đã diễn ra nhiều
cuộc đấu tranh quyết liệt của nông dân với chính quyền tay sai phong kiến ở
các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên, Thái Ninh, Thư Trì. Tiêu biểu là hai cuộc
biểu tình của nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng ngày 1/5/1930 và cuộc biểu
tình của nông dân Tiền Hải ngày 14/10/1930. Mặc dù các cuộc biểu tình đều
bị đàn áp khốc liệt, hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng,
trong đó có cả Ban Tỉnh uỷ đều bị địch bắt, tra tấn, tù đày nhưng nó đã mở ra
một thời kỳ mới, thời kì đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Từ sau cao trào cách mạng 1930-1931, những năm 1932-1935, phong
trào cách mạng trong cả nước cũng như trong tỉnh bị địch khủng bố ác liệt,
nhiều cơ sở cách mạng của Đảng bị phá vỡ. Ba Ban Tỉnh uỷ kế tiếp nhau
được thành lập nhưng đều bị địch bắt, phong trào cách mạng gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, các đảng viên và quần chúng vẫn kiên cường đứng vững,
duy trì và từng bước phát triển phong trào đấu tranh cách mạng. Từ đầu năm
1934, mặc dù không còn cơ quan lãnh đạo của tỉnh nhưng một số chi bộ ở địa
phương vẫn tiếp tục hoạt động. Hình thức chủ yếu là hoạt động hợp pháp để
duy trì cơ sở.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939, phong trào cách mạng phát
triển mạnh ở thành thị rồi lan về nông thôn, tạo đà phát triển cho phong trào
cách mạng ở Thái Bình. Tháng 6-1937, Hội nghị bầu Ban Tỉnh uỷ thống nhất
được tiến hành tại Vũ Lăng (Kiến Xương), gồm 7 đồng chí. Hội nghị tập
trung bàn về công tác tuyên truyền, công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần
chúng cũng như việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức
18
phong phú. Khắp nơi trong tỉnh đều nổ ra những cuộc đấu tranh chống ách áp
bức bóc lột hà khắc, đòi giảm các khoản đóng góp trong làng xã, đòi cải cách
hương thôn. Đồng thời, nông dân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc vận động
do Trung ương và Xứ uỷ phát động như: đấu tranh đòi trả tự do cho các chính
trị phạm, phản đối dự án thuế thân của Saten, cử đại biểu đi dự mít tinh ở Hà
Nội, quyên góp ủng hộ báo của Mặt trận dân chủ, ủng hộ nhân dân Trung
Quốc chống Nhật…
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 11-1939,
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 quyết định chuyển hướng hoạt
động. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận dân chủ. Tại Thái Bình, việc chuyển hướng các mặt trận
công tác cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đã được Ban Tỉnh uỷ
thực hiện.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta sống
trong tình cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát
xít Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương đã
họp và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết thảy mọi
tầng lớp nhân dân tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tỉnh đã triển khai chỉ thị của Trung ương
Đảng, triệu tập cuộc họp đại biểu Việt Minh các phủ, huyện tại Động Trung,
huyện Kiến Xương, bàn biện pháp mở rộng cơ sở cứu quốc, thành lập Ban
chấn chỉnh phong trào. Giữa lúc đó, Thái Bình xảy ra nạn đói, trong vòng 5
tháng đầu năm 1945, toàn tỉnh đã có 28 vạn người chết (chiếm gần 30% dân
số toàn tỉnh lúc đó). Ban chấn chỉnh phong trào đã lãnh đạo vận động cuộc
cứu đói trong dân, đấu tranh với chính quyền bù nhìn thân Nhật để cứu tế.
Tháng 4-1945, Ban chấn chỉnh phong trào họp tại Động Trung, huyện
Kiến Xương, đổi tên thành Ban Tỉnh uỷ lâm thời và bầu Ban Thường vụ do
19
đồng chí Nguyễn Đức Tâm (Tâm Hậu) làm Bí thư. Hội nghị tiến hành một số
nhiệm vụ cấp thiết để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền như:
chuẩn bị về lực lượng, tổ chức, thành lập an toàn khu Phương Quả (huyện
Quỳnh Côi), tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát xít Nhật và
bè lũ tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Ban Tỉnh uỷ
lâm thời, phong trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra sôi nổi trong toàn tỉnh.
Đến cuối tháng 7-1945, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh đã lên
đến cao trào, cơ sở cứu quốc phát triển nhanh chóng, không khí chuẩn bị khởi
nghĩa sục sôi khắp nơi. Ngày 18-8-1945, sau khi nhận được lệnh Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã họp phiên bất thường tại
Thái Ninh ra lệnh tổng khởi nghĩa. Chiều ngày 18-8-1945, cuộc khởi nghĩa nổ
ra đầu tiên ở Thái Ninh, tiếp sau đó là ở thị xã Thái Bình, các huyện Duyên
Hà, Thuỵ Anh, Hưng Nhân, Kiến Xương, Vũ Tiên, Tiền Hải, Thư Trì. Đến
hết ngày 24-8, các địa phương trong toàn tỉnh đều đã giành được chính quyền.
Tối ngày 24-8, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập.
Ngày 25-8-1945, khắp nơi trong tỉnh tổ chức mít tinh mừng thắng lợi của
tổng khởi nghĩa và thành lập chính quyền cách mạng.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan ách thống trị
của thực dân, đế quốc trong gần 100 năm và xóa bỏ chế độ phong kiến gần
1000 năm, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, nhân dân đứng lên
làm chủ vận mệnh của mình.
Sau cách mạng tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thái
Bình bước vào cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân
dân. Bên cạnh những thuận lợi căn bản là những khó khăn vô cùng to lớn.
Trước tình hình đó, Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt tài tình đưa
nước ta thoát khỏi thế “ ngàn cân treo sợi tóc”, rồi sau đó bước vào cuộc chiến
20
đấu lâu dài với thực dân Pháp mà ta biết chắc là không thể tránh khỏi.
1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến
tranh du kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mƣu mở
rộng phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950).
1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích,
làng kháng chiến.
“Chiến tranh du kích là chiến tranh được tiến hành theo phương thức
đánh địch tại chỗ với lực lượng nhỏ, nòng cốt là lực lượng vũ trang địa
phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về sức mạnh quân sự.
Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược khi so sánh lực
lượng ở những nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính quy. Chiến
tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn phối
hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy. Ở Việt Nam chiến tranh du kích trở
thành một trong những phương thức tiến hành chiến tranh trong kháng chiến
chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, trong đó tư tưởng không ngừng tiến
công địch và kiên trì bám trụ, làm chủ làng (bản), xã, phố phường, kết hợp
đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công quân sự với nổi
dậy của quần chúng giành và giữ quyền làm chủ ở cơ sở là đặc trưng tiêu biểu
của chiến tranh du kích ở Việt Nam”[38,tr.224]
“Căn cứ du kích là vùng lãnh thổ và dân cư được giải phóng nằm trong
vùng địch tạm chiếm được xây dựng thành căn cứ của chiến tranh du kích. Ở
Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ
du kích có đặc trưng là: chính quyền và lực lượng vũ trang của đối phương đã
bị tiêu diệt, các tổ chức chính trị phản động đã tan rã; chính quyền cách mạng
được thành lập công khai quản lý mọi sinh hoạt xã hội, các đoàn thể cách
mạng công khai hoạt động; lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức và
phát triển mạnh mẽ để bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến công địch; còn
trong vòng vây của địch, tình hình chưa được ổn định, thường xuyên bị địch
uy hiếp. Nếu căn cứ du kích được củng cố vững chắc sẽ phát triển thành vùng
21
giải phóng”[38,tr.226].
“Khu du kích là khu vực dân cư nằm trong vùng địch tạm chiếm, ở đó
có chiến tranh du kích của lực lượng kháng chiến và thường xuyên diễn ra
tranh chấp giằng co với địch để giành quyền làm chủ hoàn toàn.
Đặc điểm của khu du kích là: chính quyền cách mạng chưa hình thành
hoặc đã hình thành những hoạt động bí mật hoặc nửa công khai, các lực lượng
vũ trang cách mạng chưa đủ sức diệt hết các cứ điểm của đối phương; chính
quyền và một số cứ điểm của đối phương tồn tại nhưng không đủ sức kiểm
soát, khống chế nhân dân như cũ, các đơn vị của đối phương không dám tự do
để lại, các tổ chức phản cách mạng và gián điệp hoạt động nửa công khai,
không đủ sức khống chế nhân dân; nhân dân được cách mạng bảo vệ nhưng
chưa thoát khỏi sự kìm kẹp của địch vừa lo đóng góp cho cách mạng vừa phải
cống nạp một phần cho địch. So với căn cứ du kích, khu du kích có thể rộng
lớn hơn về mặt giới hạn địa lý nhưng đời sống chính trị xã hội của dân chưa
an toàn, ổn định. Khu du kích là bước quá độ từ cơ sở chính trị của kháng
chiến tiến lên căn cứ du kích”[ 38,tr.568].
“Làng xã kháng chiến, làng xã được xây dựng và chuẩn bị mọi mặt để
nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vừa sinh sống vừa bám trụ đánh
địch và đấu tranh chống địch. Làng xã kháng chiến được xây dựng vững
mạnh toàn diện: tổ chức đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể nhân dân
được tổ chức và giáo dục chu đáo; thế trận, công sự, vật cản và các cơ sở vật
chất khác được chuẩn bị trước và trong quá trình chống địch đã phát huy tốt
vai trò cơ sở của chiến tranh nhân dân”[38,tr.583].
1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát
động phong trào du kích chiến tranh
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, sau Hiệp định sơ bộ 6-3-
1946 thực dân Pháp, tăng quân trái phép và bố trí lực lượng chiếm đóng các
22
vị trí then chốt trên đất nước ta như Hà Nội, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng.
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng (26-11-1946)
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: “Nếu quân
Pháp tái diễn ở Hà Nội việc chúng đã làm ở Hải Phòng thì cả nước sẽ nhất tề
đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược”. “Quân Pháp chỉ chờ cơ hội là lập
tức đánh ta. Ta cần tìm mọi cách để tránh nổ ra chiến tranh. Trong khi hết sức
tích cực, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, tuyệt đối không sa vào âm mưu
khiêu khích để địch lợi dụng đánh ta sớm. Ở thành thị biến mỗi thành phố
thành một chiến hào, ở nông thôn mỗi làng thành một pháo đài. Kháng chiến
của ta sẽ là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” [42,tr.33]
Khi khả năng hòa hoãn không còn nữa, mọi nhân nhượng đến giới hạn
cuối cùng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động
kháng chiến toàn quốc.
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, đường lối kháng chiến
của Đảng đã sớm được hình thành trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của
Thường vụ Trung ương Đảng (22-12-1946) và được giải thích cụ thể trong tác
phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng Bí thư Trường
Chinh. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ
và tự lực cánh sinh. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp , cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra
sức chống thực dân, cứu nước” [69,tr.480].
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị của
Thường vụ Trung ương Đảng, công tác chuẩn bị kháng chiến, sẵn sàng chiến
đấu được tiến hành hết sức khẩn trương. Các thành phố, thị xã đều xúc tiến kế
23
hoạch tác chiến.
Chiến trường Chiến khu 3 gồm những tỉnh có đô thị lớn có đường giao
thông chiến lược quan trọng như: Nam Định, Kiến An, Hải Phòng… Theo
hiệp định sơ bộ địch được đóng trú tại đây từ đầu tháng 3 năm 1946. Tháng 3-
1947, địch cho một tiểu đoàn biệt kích đột nhập vào thị xã Thái Bình nhằm
mục đích: Thăm dò lực lượng của ta, chặn đường tiếp viện, giải vây quân
chúng đang bị ta xiết chặt vòng vây ở thành phố Nam Định, cài lại tổ chức
gián điệp, đồng thời đưa 1 số linh mục người Pháp về Hà Nội. Chúng chỉ
đóng ở đây 2 ngày, 2 đêm rồi bí mật rút lui.
Thái Bình tạm thời là vùng tự do, chưa bị chiếm đóng nên có nhiều
nhân lực, vật lực cung cấp cho tiền tuyến và chuẩn bị kháng chiến tại chỗ khi
chiến tranh lan tới. Nhưng trước tình hình thực dân Pháp tăng cường càn quét
nhằm mở rộng vùng chiếm đóng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, mở rộng vùng
ven đường quốc lộ 5. Liên khu ủy khu 3 nhận định: thế nào địch cũng đánh
Thái Bình và chỉ thị cho tỉnh phải tăng cường công tác chuẩn bị sẵn sàng
chiến đấu, lập các phương án tác chiến, chú trọng phát triển sản xuất…
Để tiến hành chiến tranh nhân dân phải tiến hành vũ trang cho nhân dân,
phát động phong trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân
tham gia tác chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào
để bổ sung và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài” [76, tr.314].
“ Toàn dân và dân quân du kích bổ sung cho quân đội chính quy. Dân
quân nhiều làng, nhiều tổng hợp lại cùng đánh có thể thành đội du kích địa
phương; đội du kích địa phương tiến bộ, họp lại cùng đánh, có thể thành quân
chính quy. Trong cuộc kháng chiến lâu dài của ta, từ thường dân đến quân
chính quy, có một quá trình phát triển luôn luôn không dứt. Ta xem đó đủ
biết, nhân dân là nguồn nhân lực của bộ đội và dân quân du kích là nơi tuyển
lựa đội viên, rèn luyện chiến sĩ. Dân quân mạnh thì bộ đội khỏe, Dân quân du
kích và quân đội chính quy cùng khỏe thì nhất định thắng” [41,tr.315 và 316].
24
“ Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực
lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu
được thắng lợi” [75,tr.173].
Căn cứ vào tình hình thực tế, ngày 21-2-1947 Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh Thái Bình đã họp và nhất trí tách Ủy ban quân sự thuộc Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh để thành lập Tỉnh đội dân quân.
Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên “Bộ Tổng chỉ huy quân
đội quốc gia Việt Nam” thành “ Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân
quân tự vệ Việt Nam”; đồng thời quyết định thành lập các Ban chỉ huy tỉnh
đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc ủy ban hành chính các cấp.
Ngày 20-4-1947 Tỉnh đội dân quân Thái Bình chính thức ra mắt tại khu
nhà Séc trong sân vận động phủ Sóc – Kiến Xương, đồng chí Vũ Đan Tùng
giữ chức Tỉnh đội trưởng. Sau khi thành lập Tỉnh đội dân quân, các huyện
đội, xã đội dân quân trong toàn tỉnh đều được thành lập và đi vào hoạt động.
Sự ra đời của Tỉnh đội dân quân, các huyện đội, xã đội dân quân là cột mốc
đánh giá sự phát triển của lực lượng vũ trang trong tỉnh. Sự kiện này cũng
khẳng định công cuộc chuẩn bị cho kháng chiến về mặt quân sự của Đảng bộ,
quân dân Thái Bình đã có bước phát triển mới.
Giữa năm 1947, Ban chỉ huy mặt trận Thái Bình được thành lập gồm:
đại biểu Vệ quốc quân (tiểu đoàn 53), đại biểu cảnh vệ Tỉnh đội ; đại biểu dân
quân du kích.
Ở các huyện, lực lượng vũ trang lúc này có từ 1 trung đội đến 1 đại đội.
Khi bổ sung quân số cho tỉnh, huyện lại lựa chọn một số dân quân tự vệ các
xã thành lập đơn vị du kích tập trung của các huyện. Từ chỗ do Mặt trận Việt
Minh tổ chức lãnh đạo chỉ huy, từ tháng 3-1947 lực lượng bán vũ trang của
Thái Bình và các địa phương trên toàn quốc thống nhất gọi là dân quân và du
kích do cấp ủy chính quyền các xã trực tiếp lãnh đạo chỉ huy. Đây là các mốc
25
lịch sử đánh dấu ba thứ quân của quân đội ta chính thức hình thành.
Về tổ chức dân quân gồm nam giới và nữ giới từ 18 đến 45 tuổi, chia
thành các trung đội, tiểu đội do xã đội, thôn đội trực tiếp chỉ huy, làm nhiệm
vụ canh gác giữ làng. Riêng du kích được tổ chức chặt chẽ hơn, gồm những
người tích cực nhất trong dân quân, cũng như ở các đoàn thể, không phân biệt
già trẻ, nam nữ phiên chế thành các tiểu đội, trung đội nam du kích, nữ du
kích, lão du kích và thiếu nhi du kích. Điều kiện trở thành du kích phải qua sự
giới thiệu của đoàn thể hoặc tập thể du kích nhận xét.
Dân quân du kích tổ chức theo hệ thống thôn, xã. Thôn có du kích và
dân quân do thôn đội chỉ huy. Xã đội chỉ huy chung và trực tiếp điều động
dân quân du kích ở các thôn. Riêng xã có lực lượng du kích tập trung.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, ngày
25-1-1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh 120-SL thành lập Liên khu 3
trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2, Chiến khu 3 và Chiến khu 11, gồm các tỉnh,
thành phố: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội,
Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Hòa Bình. Từ giai
đoạn này,công tác quân sự tỉnh Thái Bình đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Liên khu ủy – Bộ Tư lệnh Liên khu 3.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương phát triển lực lượng vũ trang cơ
sở, đến tháng 8-1948, số dân quân trong toàn tỉnh phát triển lên tới 115.000
người, du kích có trên 15.000 người. Đến tháng 8-1949, số lượng dân quân du
kích toàn tỉnh có 160.191 người trong đó có 34.000 du kích. Mỗi xã trung
bình có 150 du kích như Cổ Tuyết (Quỳnh Côi), Thần Huống (Thái Ninh).
Tuy lực lượng đông, nhưng vũ khí trang bị của dân quân du kích còn rất
thiếu thốn. Hầu hết mới chỉ có mìn, lựu đạn, gươm đao, mã tấu. Để đảm bảo
vũ khí trang bị, tỉnh ủy chủ trương thành lập công binh xưởng của Tỉnh và
thành lập các tổ sửa chữa vũ khí của mỗi huyện. Chủ trương đúng đắn trên đã
từng bước đáp ứng được một phần nhu cầu trang bị cho dân quân du kích.
26
Nhân dân các xã đều tổ chức Hội bảo trợ dân quân và phát động phong trào
ủng hộ dân quân du kích mua sắm vũ khí. Nhờ đó nhiều xã đã mua thêm được
hàng trăm mìn, lựu đạn như An Định (Thụy Anh), Cát Hộ, Thượng Phương
(Đông Quan). Có nơi nhân dân đặt ra mức thi đua, nhà có trâu ủng hộ 2 mìn,
có bò ủng hộ 2 lựu đạn v.v…Những đám cưới đời sống mới cũng thách cưới
mìn, lựu đạn thay lễ vật
Trước kia phụ nữ lấy chồng
Thách cốm cùng hồng tiền gạo liên miên
Bây giờ phụ nữ kết duyên
Bỏ lối thách tiền thay thế mìn gang
Để cho du kích trong làng
Có thêm vũ khí đánh tan quân thù.
Được nhân dân hết lòng giúp đỡ, dân quân du kích từng bước được
nâng cao trình độ chính trị, quân sự. Tuy nhiên trong quá trình phát triển lực
lượng vũ trang từ tỉnh đến huyện xã cũng bộc lộ một số khuyết điểm: Giai
đoạn đầu (1947-1948) lực lượng dân quân du kích phát triển ồ ạt, dẫn đên tình
trạng đông về số lượng (đầu năm 1948 mỗi huyện đã có một đại đội du kích
tập trung), nhưng chất lượng chưa đảm bảo, trang bị vũ khí thiếu thốn; việc
cung cấp cho lực lượng vũ trang còn khó khăn, công tác huấn luyện còn nặng
hình thức. Đến giữa năm 1949, lực lượng dân quân, du kích trong toàn tỉnh
không những chỉ tăng về số lượng, chất lượng, mà còn rất đa dạng gồm du
kích tập trung ở tỉnh và huyện; nam du kích; nữ du kích; lão du kích; dân
quân; du kích bí mật..v.v.
Ngoài ra nhiều xã còn có Hội mẹ nuôi du kích để động viên và giúp đỡ
dân quân du kích .
Cùng với việc xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng dân quân
du kích, việc xây dựng làng kháng chiến ở Thái Bình được đặc biệt trú trọng.
Chấp hành nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy: “Phát triển chiến tranh
27
du kích, phát động toàn dân xây dựng thôn trang chiến liên hoàn, chuẩn bị
phối hợp giữa chủ lực và địa phương, giữa nội tuyến và ngoại tuyến” [13;84],
ngay từ đầu năm 1947, công tác xây dựng làng kháng chiến đã được tiến
hành. Thời gian này mới chỉ tập trung vào rào những làng ven sông lớn, ven
biển, nơi được coi là trọng điểm của các địa phương như: Minh Tân (Kiến
Xương), Quang Thẩm, Mỹ Lộc (Thư Trì), Hồng Châu, Dũng Tiến (Thụy
Anh), Thần Huống (Thái Ninh), Phong Châu, Nguyên Xá (Tiên Hưng)….
Việc xây dựng làng kháng chiến được các ủy viên quân sự từ tỉnh,
huyện, xã trực tiếp chỉ đạo. Làng kháng chiến ban đầu cấu trúc còn đơn giản.
Bên ngoài trồng tre, trong là lũy đất rồi đến hào giao thông, bên trong là công
sự chiến đấu. Nhân dân trong làng ra vào bằng các cổng (có cổng chính và
cổng phụ), cổng các làng được làm bằng tre để nguyên thân ghép lại thành hai
lớp, giữa ghép đầy rào gai, đóng mở bằng cách chống lên, hạ xuống.
Đầu 1948, địch tăng cường đánh phá các làng xã ven sông lớn, ven
biển, phong trào xây dựng làng kháng chiến càng diễn ra sôi nổi. Nhân dân lợi
dụng địa hình sẵn có: ụ đất, mồ mả, sông ngòi, ao hồ, lũy tre, đường xá vào
việc xây dựng làng chiến đấu. Trong các lũy đất có lỗ châu mai, trong làng có
nhiều ổ tác chiến bố trí hai bên vệ đường để khi tiến hay lui vẫn có thể đánh
địch. Hầm hố cá nhân tránh phi pháo được đào khắp trong làng. Nơi đất trũng
cững có các hố cá nhân nửa chìm, nửa nổi. Nhiều làng đã đào được hầm bí
mật để bộ đội dân quân du kích ở lại tác chiến. Có làng được rào thành nhiều
tuyến có giao thông hào liên hoàn hỗ trợ cho nhau khi đánh địch, các cổng
làng đều được củng cố lại, có dân quân du kích canh gác ngày đêm, kiểm tra
giấy tờ, người lạ mặt, nhất là những làng có đơn vị bộ đội hay cơ quan đóng.
Tính riêng trong tháng 11-1948, tỉnh Thái Bình đã xây dựng được 105 làng
kháng chiến, trong đó có 10 làng kháng chiến kiểu mẫu.
Sang năm 1949, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng làng kháng chiến của
Kiến An, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và các tỉnh miền Bắc mới bị địch
28
chiếm, quân dân Thái Bình lại sôi nổi phong trào tu sửa và xây dựng làng
kháng chiến. Sau khi phân tích tình hình địch, tình hình địa bàn và tầm quan
trọng của từng địa phương, tỉnh đã quyết định phân làng kháng chiến trong
toàn tỉnh ra làm nhiều khu vực: khu vực ven biển có năm khu, khu vực ven
sông lớn có tám khu, dọc đường 10 có chín khu. Mỗi khu có nội dung xây
dựng và phương pháp tác chiến phù hơp. Đến tháng 6-1949 toàn tỉnh đã có
425 làng kháng chiến (chiếm 51,2%). Ngoài những làng kháng chiến kiểu
mẫu ở các huyện xã, một số nơi còn xây dựng khu “quyết tử” như ở An Cố
(Thụy Anh), Hội An (Vũ Tiên).
Làng kháng chiến ra đời thuận lợi cho việc tập luyện của dân quân du
kích, thuận lợi cho việc đánh trả địch đổ bộ cướp phá, nhân dân có thể sơ tán
người, của và chuẩn bị tác chiến một cách chủ động, địch di chuyển lực lượng
khó khăn hơn.
Tính từ năm 1946 đến hết năm 1949, Thái Bình đã tranh thủ thuận lợi là
tỉnh tự do duy nhất của khu vực Tả ngạn sông Hồng để xây dựng lực lượng vũ
trang, căn cứ du kích, phát triển kinh tế để cung cấp nhân lực, vật lực cho tiền
tuyến và chuẩn bị kháng chiến tại chỗ khi chiến tranh lan tới.
1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng
tự do, cùng quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng
phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp
Là tỉnh tự do cuối cùng của khu vực Tả ngạn sông Hồng, đảng bộ quân
dân Thái Bình có trách nhiệm lớn trong việc đón tiếp các cơ quan, ban
nghành, đoàn thể của các tỉnh, huyện đã bị địch chiếm đóng, rút về đứng chân
trên địa bàn và giúp đỡ đồng bào tản cư. Năm 1947, tỉnh Thái Bình đã giúp
đỡ 7 vạn đồng bào từ Hải-Kiến, Hải Dương, Hưng Yên tản cư về Thái Bình
ổn định cuộc sống.
Tuy chưa mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Bình nhưng từ đầu năm
1947 đến đầu năm 1950, thực dân Pháp đã cho quân đánh vào nội địa Thái
29
Bình 159 lần, máy bay của chúng đã ném xuống các địa bàn trong tỉnh 877
quả bom, 99 lần pháo kích từ tàu chiến hoặc từ các tỉnh xung quanh vào Thái
Bình [18,tr.121].
Các trận tập kích, bắn phá của địch trong thời gian này đã gây tổn thất
lớn về người và của cho nhân dân trong tỉnh làm 778 người chết, 525 người bị
thương, đốt cháy 5.454 nóc nhà, bắt và bắn chết 292 con trâu, bò, bắn đắm 16
thuyền, bắt 123 người và cướp 12.410 thùng thóc[18,tr.122].
Sau sự kiện địch tập kích vào thị xã, ngày 14-4-1947 các cơ quan và
nhân dân đã nhanh chóng sơ tán về các vùng nông thôn. Cơ quan quân sự của
tỉnh kịp thời tổ chức, nắm địch từ xa, xem xét việc bố phòng ở những nơi
xung yếu, đồng thời đẩy mạnh công tác an ninh tiễu trừ nội phản. Đầu năm
1947, bộ đội và công an tỉnh đã bắt 40 tên phản động thuộc tổ chức “ xã hội
công giáo Hưng Thái” khi chúng đang họp ở Phú Ân –Kiến Xương. Từ cuối
năm 1948 đến giữa năm 1949, lực lượng vũ trang đẩy mạnh hơn các hoạt
động truy quét những tổ chức phản động, giữ gìn an ninh chính trị. Ngày 20 -
11-1948, ta bắt 37 tên trong tổ chức “ Mặt trận quốc gia Liên Việt” tại Văn
Hạnh- Lê Lợi –huyện Kiến Xương. Ngày 29-11-1948 ta bắt 12 tên còn lại của
tổ chức này. Tháng 3-1949, ta phát hiện và triệt phá 3 trạm thu tin của bọn
phản động, núp dưới danh nghĩa là chủ hiệu ảnh, giáo viên bình dân học vụ ở
Bến Hiệp, phố huyện Quỳnh Côi, ngã tư Môi – Phụ Dực.
Do các tổ chức đảng trong lực lượng quân sự ngày càng được củng cố,
tăng cường, nên từ đầu năm 1948 trở đi, lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh đã
chuyến biến mạnh mẽ cả về tư tưởng và hành động. Trong hai năm (1948-
1949) quân dân Thái Bình đã đánh địch 132 trận, diệt 118 tên, làm bị thương
trên 300 tên, bắn cháy 8 tàu chiến, ca nô. Những trận đánh trên đã động viên cổ
vũ, khích lệ mạnh mẽ tinh thần và quyết tâm chiến đấu của quân dân trong tỉnh.
Tháng 3-1949, Đại đội Lê Lợi (chủ lực của tỉnh) phối hợp với bộ đội
trung đoàn 42 bắn cháy 2 tàu chiến và 1 ca nô của địch ở An Tứ (Tiền Hải).
30
Ngày 26-12-1949, du kích xã Đào Tạo (Phụ Dực) phối hợp với bộ đội Kiến
An đánh đoàn ca nô vận tải của địch trên sông, bắn cháy 2 chiếc trong số 7 ca
nô của chúng. Bọn địch trên các ca nô còn lại đổ bộ lên bờ, quân ta chiến đấu
quyết liệt. Không tiêu diệt nổi lực lượng của ta, địch rút xuống ca nô và điều
thêm lự lượng đến giải vây. Phán đoán được địch sẽ tiếp tục quay lại, chiến sĩ
ta đã gài mìn ở những địa điểm địch sẽ đổ quân. Đúng như dự đoán, vào lúc
14 giờ chiều cùng ngày, bọn chúng tiếp tục đổ bộ lên bờ và sa vào bãi mìn
của quân ta, 30 tên địch bị thương vong…
Trong các trận đánh trả địch bảo vệ địa bàn, các đảng viên trong bộ đội
và dân quân du kích luôn là những người đứng đầu đơn vị dũng cảm chiến
đấu tiêu diệt địch, động viên cổ vũ đồng đội chiến đấu góp phần vào thắng lợi
của các trận đánh.
Do yêu cầu của công tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ, từ cuối năm 1948 công tác xây dựng Đảng trong các
đơn vị bộ đội tỉnh huyện và du kích tập trung được đẩy mạnh. Đến tháng 9-
1949, ở các đơn vị bộ đội tỉnh, tỷ lệ đảng viên đã chiếm 15%. Số đảng viên
trong lực lượng du kích có 9.274 đồng chí trong tổng số 30.400 du kích toàn
tỉnh [76,tr.25].
Cùng với công tác xây dựng Đảng, từ ngày 19-2-1949 đến ngày 19-
5-1949 Tỉnh ủy Thái Bình phát động phong trào thi đua “ Ba tháng chuẩn
bị tổng phản công” với nội dung nhằm vào 2 nhiệm vụ trọng tâm là quân sự
và kinh tế. Chỉ trong vòng 3 tháng (tháng 2 đến tháng 5-1949) số dân quân
du kích trong tỉnh đã tăng 28,6% so với trước ngày 19-2-1949. Tỉnh đã tổ
chức huấn luyện cho 121.383 lượt dân quân du kích. Số thanh niên gia
nhập lực lượng vũ trang trong vòng 3 tháng chiếm 13,2 % tổng số người
trong độ tuổi từ 18 đến 45 (kể cả nam, nữ). Toàn tỉnh lập thêm 63 làng
kháng chiến, đưa số làng kháng chiến trong tỉnh đến ngày 19-5-1949 là 265
làng. Toàn tỉnh đào thêm 385.457 hố cá nhân, 18.320 hầm bí mật, 739.457
31
mét giao thông hào [20,tr.121].
Những thành tích mà quân và dân trong tỉnh đạt được trong dợt thi đua
“Ba tháng chuẩn bị tổng phản công” là bước chuẩn bị hết sức quan trọng giúp
Thái Bình bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Đến giữa năm 1949, địch đã đánh chiếm hầu hết các tỉnh Nam Định,
Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Hải Phòng. Chúng thường xuyên
dùng ca nô, tàu chiến chạy trên sông Hồng, sông Luộc, dùng lực lượng bộ
binh đổ bộ lên các làng ven sông, ven biển cướp của giết người, thăm do lực
lượng của ta. Trước tình hình trên, theo chỉ đạo của Liên khu ủy tháng 7-1949
tỉnh ủy Thái Bình tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ.
Đại hội đánh giá tình hình cấp bách trước mắt, quyết định phải khẩn
trương tích cực chuẩn bị cho kháng chiến, tiếp tục rào làng thành khu chiến
đấu liên hoàn để có thể hỗ trợ nhau khi xảy ra chiến đấu, thực hiện cho được
phương châm “Mỗi làng là một pháo đài”; nâng cao chất lượng bộ đội địa
phương và dân quân du kích; thường xuyên diễn tập chiến đấu và báo động
phòng không để kiểm tra các phương án đánh địch .
Đại hội chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
đảng viên, đưa đảng viên vào bộ đội và dân quân du kích, Thường vụ Tỉnh ủy
phải trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang tỉnh.
Thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, toàn tỉnh sôi nổi trong
phong trào xây dựng “Khu chiến đấu liên hoàn”, “Thôn trang chiến” tạo nên
thế trận, tạo cơ sở chiến đấu và chiến thắng cho chiến tranh du kích ở cơ sở.
Bộ đội địa phương và dân quân du kích hăng hái luyện tập ngày đêm.
Từ tháng 6 đến tháng 9-1949, lực lượng vũ trang tỉnh Thái Bình hăng
hái hưởng ứng đợt thi đua “Luyện quân lập công” do Ủy ban kháng chiến
hành chính Liên khu phát động, tập trung vào những nội dung chính: củng cố
và phát triển lực lượng dân quân du kích, nâng cao chất lượng huấn luyện,
củng cố và phát triển làng kháng chiến, tổ chức mọi người dân đều trở thành
32
người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương.
Được Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Tỉnh đội chỉ đạo,
lại được các đoàn thể hết sức cổ vũ động viên giúp đỡ, công tác huấn luyện
dân quân du kích lực lượng chiến đấu trực tiếp bảo vệ làng xã ơ cơ sở, cũng là
lực lượng chiến đấu tại chỗ, rộng khắp của chiến tranh du kích, chiến tranh
nhân dân ở cơ sở được đẩy mạnh. Tính từ tháng 6 đến tháng 9-1949, dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh đội dân quân, toàn tỉnh đã được 7000 lớp huấn
luyện cho nam nữ dân quân du kích các huyện và các thôn xã với trên 50.000
lượt nguời tham dự. Đặc biệt cuối tháng 9-1949, Tỉnh đội dân quân đã tổ chức
huấn luyện cho 1.400 cán bộ chỉ huy các cấp trong toàn tỉnh thời gian 15
ngày. Nội dung huấn luyện gồm: cách sử dụng những vũ khí được trang bị,
cách chiến đấu trong làng, công tác địch vận và công tác tuyên truyền. Ngoài
các lớp huấn luyện tập trung, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh, những lúc nhàn rỗi sau mùa thu hoạch, tất cả các
buổi chiều từ 5 giờ đến 7 giờ, nam nữ thanh niên từ 18 đến 45 tuổi đều tham
gia luyện tập quân sự. Tổng kết đợt huấn luyện, tính trung bình mỗi cán bộ từ
tiểu đội đến trung đội ít nhất đã qua 3 lớp huấn luyện từ 5 đến 15 ngày, thời
gian huấn luyện năm 1949 so với năm 1948 đã tăng gấp 3 lần. Để phối hợp
tác chiến giữa các lực lượng dân quân du kích trong tỉnh và kiểm tra công tác
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của toàn dân, trong giai đoạn này, toàn tỉnh tổ
chức 3 cuộc tập dượt phòng không, 5 cuộc diễn tập chiến đấu. Sau các đợt
huấn luyện các đội viên dân quân du kích đã tích cực tham gia công tác chuẩn
bị cho kháng chiến ở địa phương như: đào giao thông hào, hố cá nhân, hầm bí
mật, đắp ụ đất, con trạch trên đê, trên đường để cản bước tiến của địch khi có
tác chiến, củng cố làng kháng chiến với tổng số 344.763 ngày công, tương
đương 8.619.075 đồng[20,tr.142].
Qua các đợt huấn luyện, tinh thần, kỹ năng chiến đấu của cán bộ, đảng
viên, dân quân du kích trong tỉnh được nâng lên rõ rệt. Theo chỉ đạo của Tỉnh
33
và các huyện, nhiều cá nhân và đơn vị được cử sang các tỉnh có chiến sự để
làm quen với tiếng sung, tích lũy kinh nghiệm tác chiến và phối hợp chiến
đấu. Chỉ tính từ tháng 6 đến tháng 9-1949, Tỉnh đội dân quân Thái Bình đã 8
lần đưa 7 đại đội sang các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An
tham gia chiến đấu. Riêng đại đội Lê Lợi bộ đội địa phương tỉnh đã sang
chiến đấu ở mặt trận đường 5 hơn một tháng.
Do bị thất bại ở Việt Bắc, Tây Bắc, những tháng cuối năm 1949 địch tăng
cường mở rộng phạm vi chiếm đóng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày 16-10-1949,
chúng mở chiến dịch “ Ăng-tơ-ra-xít” đánh chiếm Bùi Chu, Phát Diệm, một số
vùng thuộc Thanh Hóa, Nam Định. Ngày 22-12-1949, chúng mở chiến dịch “Đi-
a-blô” đánh chiếm hầu hết các vùng tự do còn lại của hai tỉnh Hải Dương, Hưng
Yên. Như vậy, đến thời điểm này, Thái Bình đã bị bao vây 4 mặt. Liên khu ủy 3
nhận định “cuộc tấn công vào nội địa Thái Bình của địch bước cuối cùng trong
âm mưu chiếm đóng nốt Tả Ngạn chỉ còn là vấn đề thời gian”.
Trước tình hình cấp bách trên, những ngày cuối tháng 12-1949 Ban
chấp hành tỉnh Đảng bộ triệu tập Hội nghị mở rộng tại thôn Cẩm Phương-
huyện Đông Quan. Về dự hội nghị có đầy đủ các đồng chí trong Ban chấp
hành, đại biểu đại diện các đoàn thể, các cơ quan, ngành giới.
Hội nghị tập trung bàn và thông qua kế hoạch bố phòng khi bị địch tấn
công; công tác bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, khi chiến sự xảy ra của
Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và Tỉnh đội dân quân; xác định những
vùng xung yếu trong tỉnh, đồng thời cử các Tỉnh ủy viên xuống chỉ đạo trực
tiếp công tác bố phòng; lấy quốc lộ số 10 làm đường ranh giới, tạm chia tỉnh
thành 2 miền Nam và Bắc, mỗi miền thành lập một ban chỉ đạo kháng chiến
đề phòng khi có chiến sự, giao thông bị tắc nghẽn.
Về sử dụng lực lượng, hội nghị nhất trí đẩy mạnh phối hợp tác chiến
giữa lực lượng bộ đội chủ lực của Liên khu (Trung đoàn 42) với bộ đội địa
phương và dân quân du kích của tỉnh. Ở huyện nào chưa có chiến sự, bộ đội
34
huyện phải chia thành các tổ 3 người đưa về các xã làm nòng cốt cho hoạt
động chiến đấu của dân quân du kích và nhân dân. Bộ đội chủ lực Liên khu và
bộ đội địa phương tỉnh được bố trí trên trục đường giao quan trọng và những
nơi xung yếu sẵn sàng nổ súng ngay khi có địch. Các cơ quan của Tỉnh ủy
chuyển vào hoạt bí mật, cất giấu tài liệu, thu gọn cơ quan. Đồng thời Tỉnh ủy
chỉ thị cho các Huyện ủy, các chi bộ lập bộ phận bí mật để có thể hoạt động
hợp pháp khi địch đánh chiếm.
Sau hội nghị, cấp ủy Liên chi quân sự thuộc Tỉnh đội đã tổ chức ngay
cuộc họp, kịp thời nêu ra những yêu cầu cấp thiết về định hướng lãnh đạo tư
tưởng cho bộ đội; về chủ trương hoạt động quân sự; kế hoạch tác chiến khi
tình hình huống xảy ra. Cấp ủy Liên chi Tỉnh đội chỉ đạo các chi bộ quân sự
huyện đội dân quân đẩy mạnh công tác động viên tư tưởng bộ đội, dân quân
du kích, phát huy tính tiên phong của từng đảng viên trong tình huống địch
đánh đến địa phương và chủ động phối kết hợp thật tốt các lực lượng tiêu diệt
sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng. Bên cạnh đó, cấp ủy Liên
chi Tỉnh đội cũng chỉ ra những điểm yếu cần khắc phục ngay, đó là:
“ Tuy lực lượng vũ trang đang trên đà trưởng thành nhưng công tác
huấn luyện còn nặng về hình thức quy mô theo phương thức chính quy. Nhiều
nơi huấn luyện dân quân du kích đã tách rời phương châm du kích chiến và
địa hình, địa vật thực tế của địa phương. Cũng vì vậy mà chiều hướng của bộ
đội địa phương và dân quân du kích thích chiến đấu tập trung hơn là hoạt
động phân tán, xây dựng cơ sở.
Công tác giáo dục chính trị với việc xây dựng lực lượng vũ trang, bán
vũ trang cũng nặng tính chất thời bình, chưa chuẩn bị đầy đủ cho anh em có
một tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao. Giáo dục quan hệ lực lượng vũ trang,
bán vũ trang chưa được thấu đáo, nên có hiện tượng bộ đội địa phương coi
thường dân quân du kích, ít chú ý dìu dắt giúp đỡ hoặc chiến đấu phối hợp.
Công tác tổ chức màng lưới giao thông quân báo nắm địch còn yếu,
35
nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt đê tiêu diệt địch.
Trong lúc địch chuẩn bị tấn công Thái Bình, theo yêu cầu của trên, một
số đơn vị của tỉnh đã được tôi luyện thử thách trong chiến đấu, lại bổ sung
phần lớn cho chủ lực và tuyển du kích, dân quân địa phương lên thay; nên lực
lượng vũ trang của tỉnh đến cuối năm 1949, khả năng kỹ- chiến thuật cũng
như kinh nghiệm chiến đấu nói chung là yếu…”[ 9,tr.80].
Khắc phục những hạn chế trên, ngay trong tháng 1-1950, các cấp ủy
đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và dân quân du kích tập trung
cao độ vào công tác huấn luyện quân sự, giáo dục tư tưởng, sẵn sàng chiến
đấu với kẻ thù.
Tiểu kết chƣơng 1
Thái Bình là nơi có địa hình bằng phẳng, bốn bề sông biển bao bọc.
Trong tỉnh có nhiều đường giao thông thủy bộ quan trọng, làng mạc tương
đối tập trung, có nhiều lũy tre kiên cố.
Tuyệt đại đa số nhân dân Thái Bình đời sống gắn liền với đồng ruộng
lại bị giai cấp thống trị áp bức nặng nề nên có tinh thần căm thù địch sâu sắc,
tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch hồ Chí Minh. Cơ sở
Đảng ở Thái Bình đã có ngay từ năm 1930. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thử
thách đã tôi luyện cho nhân dân Thái Bình có trình độ giác ngộ, có tinh thần
anh dũng, chịu đựng gian khổ, chiến thắng quân địch.
Thái Bình là vựa lúa lớn của đồng bằng sông Hồng, dân số đông là kho
người kho của, nên khi địch quay về đánh chiếm đồng bằng, Thái Bình đã trở
thành vị trí quan trọng trong việc thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch. Đảng bộ tỉnh Thái
Bình thực hiện chỉ thị của Trung ương đã sớm tổ chức phát động nhân dân
trong tỉnh tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện.Thái Bình trở thành nơi
giành giật quyết liệt giữa ta và địch, vừa là chiến trường đánh địch, vừa là nơi
36
khai thác sức người, sức của phục vụ kháng chiến.
CHƢƠNG 2
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪNG
BƢỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƢU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT, KHỦNG BỐ,
BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG (2/1950 –7/1954)
2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi
âm mƣu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951)
2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau
khi Thực dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950)
Là hậu phương của Liên khu Ba, Thái Bình có vị trí chiến lược quan
trọng về các mặt: địa lý, quân sự, kinh tế và xã hội. Nằm trong khu tam giác
Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định nên Thái Bình là một tỉnh trong chiến trường
chính Bắc bộ. Đánh chiếm Thái Bình, thực dân Pháp nhằm mục đích: giành
giật kho người, kho của với ta, củng cố sự an toàn phía sau của chúng, tạo
thuận lợi trong đối phó với cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên chiến
trường chính Bắc Bộ.
Thực hiện âm mưu này, ngày 16-10-1949 địch mở chiến dịch
Antoracite (Ăng-tơ-ra-xít-tơ) đánh chiếm Phát Diệm và Nam Định. Ngày 22-
12-1949, chúng mở chiến dịch Diabolo (Đi-a-bô-lô) đánh chiếm những vùng
tự do của hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 21-1-1950 sau khi đánh
chiếm Hưng Yên, Hải Dương, kiểm soát dọc sông Luộc, địch chiếm hữu ngạn
sông Hồng, từ Vũ Điện xuống Lý Nhân (Hà Nam) ép Thái Bình vào tình thế
bị bao vây bốn mặt.
Trước tình hình trên, ngày 3-2-1950, Ban Thường vụ Liên khu ủy III
ra chỉ thị “về việc phá tan âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch”. Chỉ thị
nêu rõ: Sau khi củng cố chắc mặt trận Hải Dương, Hưng Yên, địch có thể
đánh rộng sang Thái Bình và phía hữu ngạn sông Hồng nhằm càn quét, phá
37
cơ sở của ta”. [60,tr 190].Liên khu ủy yêu cầu các địa phương phải “tổng
động viên nhân lực, vật lực, tài lực phụng sự tiền tuyến”, “chống tư tưởng lạc
quan quá trớn và bi quan hoàng hốt”, “chuẩn bị kế hoạch tự động và tự túc
mọi mặt khi đứt liên lạc”, “nắm chắc và phát triển du kích xã, chống càn quét,
phát triển mạnh mẽ kháng chiến liên hoàn”, “gấp rút xây dựng thêm chủ lực”,
“chống âm mưu giặc cướp phá…”[60,tr 190]. Tuy nhiên, việc chống âm mưu
chiếm đóng đồng bằng của địch vẫn được coi là một nhiệm vụ nằm trong
công tác chuẩn bị tổng phản công.
Để bảo vệ vùng tự do cuối cùng của khu Tả Ngạn, Liên khu ủy đã điều
động Trung đoàn 64 sang Thái Bình “với nhiệm vụ chặn gãy từng mũi tấn
công nhỏ của địch, chống càn quét, dìu dắt và phát triển lực lượng vũ trang
địa phương”[60, tr.190]. Nhưng việc điều động này thực hiện chậm. Đến khi
địch đánh Thái Bình thì lực lượng chủ lực chiến đấu trên địa bàn tỉnh chỉ có
các Tiểu đoàn 505 và 124 của Trung đoàn 42 và bốn đại đội địa phương tỉnh
mới được xây dựng, vũ khí thiếu thốn, địa lôi, mìn để lâu không dùng nên
hỏng nhiều[60,tr 191].
Cuối tháng 12-1949, Tỉnh ủy Thái Bình họp mở rộng thảo luận và thông
qua một số biện pháp nhằm chủ động đối phó khi địch tấn công. Hội nghị chủ
trương lập ở miền Nam, Bắc đường 10 mỗi khu vức có một ban chỉ đạo kháng
chiến để đề phòng đứt lien lạc khi chiến sự xảy ra; phối hợp lực lượng của
Trung đoàn 42 và các đơn vị bộ đội địa phương dân quân du kích tỉnh, huyện,
án ngữ các đường giao thông quan trọng, những nơi địch có thể đổ bộ, chặn
đường k cho chúng tiến sâu vào nội địa. Các cơ quan tỉnh ủy phải chuyển
hướng hoạt động bí mật; các huyện ủy, chi ủy lập bộ phận bí mật để ở lại hoạt
động khi địch chiếm. Hội nghị cũng đã phê phán những biểu hiện tư tưởng chủ
qua cho rằng “Thái Bình phi chiến địa”, mơ hồ trong đánh giá địch…
Việc chuẩn bị đối phó với địch được quán triệt tới các cấp, ngành, nhưng
không khí “chuẩn bị tổng phản công” đang rất sôi nổi, nhận thức của một số
38
cán bộ, đảng viên và nhân dân còn lệch lạc. Nhiều ý kiến cho rằng “đã bốn năm
nay địch không dám đánh chiếm Thái Bình huống chi là nay, tương quan lực
lượng của ta đang chuyển mạnh sang tổng phản công, địch đang dốc lực lượng
để đối phó”[60, tr.191] Lúc này Thái Bình là hậu phương của Tả Ngạn. Các
tỉnh đội, cơ quan Dân, Chính, Đảng của năm tỉnh đều tập trung tại đây, sinh
hoạt rất nhộn nhịp càng làm cho nhân dân chủ quan. Việc chuẩn bị tác chiến ở
một số nơi còn sơ sài, chủ quan, mất cảnh giác, một phần cũng do ta còn ấu trĩ
(làm bè ngăn tàu địch trên sông Hồng, sông Luộc; “vót chông mà cắm đầy
đồng, đề phòng quân Pháp tấn công, nhảy dù”). Liên khu ủy III nhận xét:
“Bệnh chủ quan cho là địch chưa đủ quân chiếm đóng đất Thái Bình đã
dẫn tới việc chuẩn bị đề phòng thiếu sót nên đối phó bị động và vấp thêm
nhiều khó khăn”
Ngày 8.2.1950 chỉ hai ngày sau khi đánh chiếm Vĩnh Bảo,Thực dân
Pháp huy động trên 5000 quân tinh nhuệ hầu hết là lính Âu Phi thiện chiến do
tên Đại tá Găng Đô trực tiếp chỉ huy, xuất phát từ Nam Định, Hà Nam, Hưng
Yên, Hải Dương, Kiến An, đã ồ ạt tấn công Thái Bình. Với sự hỗ trợ của 2
tàu chiến, 4 ca nô, 18 xe lội nước cùng với pháo binh và không quân, quân
Pháp chia thành nhiều mũi nhanh chóng thọc sâu và chia cắt Thái Bình thành
hai phần Nam- Bắc đường 10.
Từ Hữu Ngạn sông Hồng hơn 1000 tên địch do một thiếu tá chỉ huy
vượt sông Hồng đổ bộ vào Tân Đệ, Mỹ lộc, Gia Lộc (Thư Trì). Từ đó địch
chia làm ba mũi theo đường 10.220,223 đánh chiếm thị xã Thái Bình. Một
toán quân của chúng tiếp tục vượt sông Trà Lý đánh chiếm nhà thờ Cát Đàm,
ngã tư An Lễ.
Từ Hải Dương, Hưng Yên, địch theo ba đường tiến đánh Thái Bình.
Mũi thứ nhất, khoảng 1.500 tên từ thị xã Hưng Yên vượt sông Luộc đánh vào
Hưng Nhân, Duyên Hà nhằm chặn đường tiếp viện của ta từ Hữu Ngạn sang.
Mũi thứ hai, khoảng 1.000 tên từ Hào Khê (Hải Dương) vượt sông Luộc sang
39
bến Hiệp, theo đường 217, tiến đánh huyện lỵ Quỳnh Côi, rồi tiến ra đường
10 chiếm giữ ngã ba Đọ. Mũi thứ ba, với lực lượng hơn 1.000 tên, từ Ninh
Giang vượt sông Luộc, tiến vào chiếm huyện lỵ Phụ Dực, sau đó tiến ra
đường 10, phối hợp với một cánh quân từ Vĩnh Bảo (Kiến An) sang đánh
chiếm cầu Nghìn. Từ đó, chúng theo đường 10 về hội quân ở ngã ba Đọ rồi
đánh rộng ra các khu vực xung quanh. Các mũi tiến công của địch đều bị bộ
đội các huyện và du kích các xã chặn đánh, gây cho chúng những tổn thất.
Ở phía biển và các cửa sông Hóa, sông Trà Lý, tàu chiến, ca nô địch
tuần tiễu, bao vây uy hiếp lực lượng vũ trang ta.
Bằng nhiều mũi tấn công ồ ạt, chiều ngày 8-2-1950, quân Pháp đã
chiếm được thị xã Thái Bình, đóng các vị trí then chốt trên đường 10 và các
huyện miền bắc như Đọ (Đông Quan), Dục Linh (Phụ Dực), bến Hiệp (Quỳnh
Côi), Hà Xá, Đoan Bản, Do Đạo (Hưng Nhân), Thượng Hộ (Thư Trì)…
Ngày 10-2-1950, địch từ thị xã Thái Bình đánh ra ngã tư An Lễ. Đại
đội Trần Quốc Tuấn (bộ đội chủ lực tỉnh) phục kích tại cầu Sa Cát diệt hơn 30
tên. Khi tiến đến giữa quãng đường Trực Nội và Đống Năm, quân địch lại bị
Tiểu đoàn 124 (thuộc trung đoàn 42) phục kích diệt hơn 20 tên. Mũi tấn công
theo sông Trà Lý tới Đông Lan của địch cũng bị trúng mìn, 7 tên chết tại chỗ.
Khi chúng xông vào xóm, chúng bị du kích ném lựu đạn diệt 5 tên.
Sau hai ngày địch tiến công, ngày 10-2-1950, Thường vụ Tỉnh ủy Thái
Bình triệu tập hội nghị bất thường với Ban chỉ huy mặt trận 5, đại diện các
ngành, các giới, các huyện để bàn biện pháp lãnh đạo nhân dân đánh giặc. Hội
nghị nhận định địch đánh Thái Bình để mở rộng vùng chiếm đóng, vơ vét
nhân lực, vật lực, phá cơ sở kháng chiến.
Về lực lượng chiến đấu, Hội nghị bàn việc chuẩn bị đón Trung đoàn 64
vào Thái Bình tác chiến. Trung đoàn 42 bố trí Tiểu đoàn 505 xuống miền nam
Thái Bình; Tiểu đoàn 124 đóng ở miền bắc tỉnh, chủ động tổ chức các trận
đánh các mũi tiến công của địch. Các đơn vị bộ đội huyện và du kích xã bám
40
làng chiến đấu, phát triển lối đánh du kích, tiêu hao sinh lực của địch. Bốn đại
đội của tỉnh vừa đánh địch, vừa phát triển chiến tranh du kích ở địa phương,
giứ vững liên lạc với Liên khu và Trung ương. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh
công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, tổ chức các đội vũ trang tuyên
truyền sâu vào vùng công giáo để vận động gây cơ sở chính trị; tổ chức mạng
lưới phòng gian, ngăn chặn các hoạt động của bọn phản động, phát triển công
tác địch vận, đơn giản cơ quan, bổ sung người cho đơn vị chiến đấu, phân tán
kho tàng, cất giấu của cải.
Hội nghị Tỉnh ủy bất thường (10-2-1950) có ý nghĩa quan trọng. Hội
nghị không những đã đề ra phương châm chỉ đạo tác chiến mà còn đề ra
những chủ trương hành động sát với tình hình thực tế. Lòng tin của Đảng,
nhân dân và lực lượng vũ trang được củng cố, cơ sở được giữ vững, tạo điều
kiện thuận lợi cho địa phương bước vào kháng chiến.
Để giảm bớt khó khăn cho Thái Bình, giữa tháng 2-1950, Mặt trận 5
cũng chỉ thị cho các tỉnh Tả Ngạn và các đơn vị bộ đội chủ lực Liên khu tổ
chức hoạt động phối hợp với chiến trường Thái Bình.
Sau khi ổn định vị trí đứng chân, làm chủ các tuyến giao thông quan
trọng, từ ngày 16-2-1950, địch tập trung lực lượng đánh chiếm các huyện phía
bắc đường 10. Mặc dù trước lực lượng quân địch áp đảo, lại được pháo binh,
máy bay yểm trợ, song dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quân và dân
các huyện phía bắc đường 10 đã đánh 64 trận ở hầu hết các mũi tiến công của
địch, trong đó 4 trận chống càn của quân dân Phú La, Hậu Trung, Nguyên Xá,
Khánh Lai diễn ra rất quyết liệt.
Tại Phú La (Tiên Hưng) từ 7 giờ sáng đến 13 giờ chiều ngày 11-2-
1950, Đại đội Quang Trung phối hợp với trung đội bộ đội Quỳnh Côi cùng
với du kích địa phương dựa vào làng chiến đấu chặn đánh quyết liệt nhiều đợt
tấn công của một tiểu đoàn địch, diệt và làm bị thương hàng chục tên. Đến 14
giờ cùng ngày, máy bay địch tới ném bom, bắn phá gần 30 phút, ta rút lui để
41
bảo toàn lực lượng.
Tại Hậu Trung ngày 14-2-1950, một trung đội bộ đội huyện cùng hai
trung đội du kích xã, trang bị hầu hết là mìn, dao găm, lựu đạn, mã tấu đã kiên
cường đánh trả cuộc tấn công bất ngờ của địch trong 6 giờ liền, tiêu diệt hơn
chục tên. Mãi đến trưa địch mới vào được làng.
Tại Nguyên Xá ngày 17-2-1950, du kích làng đã sử dụng lựu đạn, mìn,
đao, kiếm… chống lại cuộc tấn công của 400 tên địch có hỏa lực mạnh. Sau
sáu lần tấn công, lần sau quyết liệt hơn lần trước, địch vẫn không vào được
làng và phải rút lui, một số tên chết và bị thương.
Ở Khánh Lai (Tiên Hưng) ngày 18-2-1950, một bộ phận của Đại đội
Đề Thám, Đại đội 24 (tiểu đoàn 505, Trung đoàn 42) cùng du kích địa
phương bố trí lực lượng chống lại cuộc tấn công của trên 100 tên địch. Cuộc
chiến đấu đã diễn ra quyết liệt từ sáng đến trưa, quân địch phải bỏ dở cuộc
càn quét, mang theo hơn chục tên chết và bị thương.
Do sự chống trả của quân và dân ta, mãi đến ngày 28-2-1950 địch mới
cơ bản đánh chiếm xong các huyện miền bắc Thái Bình. Chúng chiếm được
các đường giao thông quan trọng, đóng các vị trí then chốt ở thị xã, dọc
đường 10, đường 39, đê sông Hồng, sông Luộc; vũ trang cho bọn phản động
trong thiên chúa giáo, dựng đồn, lập tề chống lại kháng chiến.
Trong cuộc chiến đấu chống địch đánh chiếm, quân và dân các huyện
phía bắc đường 10 đã kiên cường đánh trả địch. Tuy nhiên, ta không bẻ gẫy
được các mũi tấn công của địch, nhiều nơi không giữ được làng. Những nơi địch
đánh phá, cơ sở kháng chiến bị vỡ, cán bộ, đảng viên, du kích bị bật đất. Một số
nơi, nhân dân sợ địch khủng bố, không dám cho bộ đội, du kích vào làng.
Sau 21 ngày tiến công đánh chiếm 4 huyện phía bắc tỉnh Thái Bình, địch
thường xuyên duy trì một lực lượng gần 5.000 quân, lập thành một hệ thống
gồm 39 đồn bốt ở các địa bàn trọng yếu như: thị xã, thị trấn, các huyện lỵ phía
bắc tỉnh và trục đường giao thông. Tiếp đến ngày 29-2-1950, chúng lại điều
42
thêm 2.000 quân từ Hải Dương, Hưng Yên sang nhằm mục đích tăng cường
lực lượng để chuẩn bị tấn công đánh chiếm các huyện phía nam tỉnh Thái Bình,
bao gồm: Thái Ninh, Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Tiên và Thụy Anh.
Sáng ngày 3-3-1950, địch tập trung 2.500 quân cơ động, từ trục đường
10, địch chia làm ba mũi đánh xuống các huyện phía nam, phối hợp với cánh
quân từ các cửa sông Diêm, sông Hóa, sông Hồng đánh lên.
Mũi thứ nhất, 1.000 tên xuất phát từ thị xã theo đường 39 đánh xuống
huyện Kiến Xương và Tiền Hải. Đi đến đâu chúng cũng vũ trang cho bọn
phản động trong các nhà thờ nổi dậy chống lại kháng chiến. Lực lượng bộ đội
huyện và du kích địa phương chặn đánh chúng quyết liệt ở Thường Kiệt, Tán
Thuật (ngày 3-3-1950); An Ninh, Diên Trì, Hưng Đạo (ngày 4-3-1950). Do
phần lớn mìn và lựu đạn không nổ nên địch ít bị thương vong, trái lại ta hy
sinh hàng chục chiến sĩ.
Mũi tiến công thứ 2 gần 800 tên cùng xuất phát từ thị xã Thái Bình theo
đường 217 và đê sông Trà Lý tiến đánh cầu Gọ, cầu Cất, đò Tìm, cầu Cau
(Thái Ninh), Bằng Trạch, cống Dục Dương (Kiến Xương); vũ trang cho bọn
phản động ở nhà thờ Nam Lâu, Mai Chử, Dương Cước (Kiến Xương) nổi dậy
chống kháng chiến.
Mũi thứ ba, khoảng 700 tên từ ngã ba Đọ trên đường 10 tiến đánh xã
Đồng Tiến (Phụ Dực), vũ trang cho bọn phản động ở nhà thờ Bất Nạo, rồi tiến
xuống Diêm Điền. Đồng thời một cánh quân khác của địch với hơn 100 tên từ
Dục Linh (Phụ Dực) qua Ninh Cù xuống vũ trang cho bọn phản động nhà thờ
Vân Đồn, Thượng Phúc (Thụy Anh). Ngày 4-3-1950, cánh quân này bị Đại đội
Lê Lợi ( bộ đội tỉnh) và du kích xã chặn đánh ở Lạng Thượng diệt gần 30 tên.
Những ngày sau đó, từ các vị trí đóng quân, địch liên tục mở các cuộc
hành quân đánh phá các làng chiến đấu của ta. Đi tới đâu chúng cũng bị dân
quân các huyện phía nam đường 10 chống trả. Trong cuộc chiến đấu chống
địch đánh chiếm, quân và dân các huyện phía nam của tỉnh đã đánh 78 trận,
43
chủ yếu là những trận đánh nhỏ bằng mìn, quấy rối nơi địch đóng quân, gọi
loa địch vận… Nổi bật nhất là trận chống càn oanh liệt của quân và dân thôn
An Định, xã Tràng An (Thụy Anh). Tại đây, một trung đội bộ đội huyện phối
hợp với các lực lượng dân quân du kích đã anh dũng cùng nhân dân chiến đấu
chống lại cuộc tấn công của 600 tên địch có pháo yểm trợ. Cuộc chiến đấu
diễn ra ác liệt, kéo dài từ sáng sớm đến 16 giờ chiều ngày 6-3-1950. Khi hết
đạn, các chiến sĩ ta đã dùng dao găm, mã tấu, đòn gánh kiên cường đánh địch.
Trong chiến đấu đã nổi lên nhiều tấm gương quả cảm. Kết thúc trận đánh, 135
chiến sĩ và người dân trong thôn hy sinh, hàng trăm nóc nhà bị đốt trụi, nhưng
cũng tiêu diệt được hơn 100 tên địch.
Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân dân các huyện miền nam Tỉnh,
lực lượng vũ trang các huyện miền bắc cùng tiểu đoàn 124 (Trung đoàn 42)
đã tổ chức đánh địch ở những nơi chúng sơ hở, gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Ngày 7-3-1950, quân Pháp kết thúc cuộc hành quân đánh chiếm các
huyện miền nam Thái Bình. Ngày 10-3-1950, địch chấm dứt cuộc hành quân
Tônnô. Lực lượng chủ lực của chúng rút về Hà Nội, giao việc bình định lại
cho quân địa phương đảm nhiệm.
Trong cuộc chiến đấu chống địch đánh chiếm phía nam đường 10, do
địch có lực lượng áp đảo, sử dụng những biện pháp dã man, tàn bạo, bọn phản
động trong thiên chúa giáo lại nổi dậy tiếp tay cho thực dân Pháp điên cuồng
chống phá kháng chiến, nên quân và dân các huyện gặp rất nhiều khó khăn,
tình hình tư tưởng do đó cũng diễn biến phức tạp. Có nơi du kích không bám
làng, chỉ gài mìn rồi rút; có nơi lại ỷ vào lũy cao, hào sâu để cố thủ dẫn đến
tổn thất nặng. Một số nơi nhân dân hoang mang, bỏ sản xuất, thanh niên chỉ lo
chạy càn, lánh giặc. Thậm chí một số nơi không cho du kích đánh mìn ở làng,
ép du kích chon sung hoặc treo cờ trắng khi địch tấn công. Về phương diện
lãnh đạo, chỉ huy, việc hiệp đồng chiến đấu cục bộ và trên toàn địa bàn chưa
ăn khớp; một số yếu kém trong tổ chức chưa được khắc phục, thông tin liên
44
lạc không kịp thời… nên hạn chế hiệu suất đánh địch và chống địch.
Sau khi tiến công chiếm đóng các huyện ở phía bắc và phía nam đường
10, địch thường xuyên duy trì ở Thái Bình một lực lượng gần 5.000 tên, chủ
yếu là quân địa phương. Chúng lập một hệ thống gồm 39 đồn bốt đóng ở tất
cả các địa bàn trọng yếu như thị xã, thị trấn, huyện lỵ, trên các trục đường
giao thông quan trọng và các cửa biển… để kìm kẹp nhân dân, vơ vét của cải,
nhân lực phục vụ chiến tranh. Đặc biệt, chúng còn dựng nhiều đồn vệ sĩ, sử
dụng bọn phản động trong Thiên chúa giáo truy tìm, bắt giết cán bộ, chống lại
kháng chiến.
Thực hiện chủ trương của Liên khu, Trung đoàn 64 (chủ lực Liên khu
III) từ Hữu Ngạn vượt sông Hồng tiến vào Thái Bình phối hợp cùng lực lượng
vũ trang và nhân dân trong tỉnh đánh địch. Do bị địch ngăn chặn ráo riết nên
đến ngày 17-3-1950 những đơn vị đầu tiên của Trung đoàn mới đặt chân lên
đất Hưng Nhân tỉnh Thái Bình. Trung đoàn 64 trở lại đã gây niềm phấn khởi
trong quân và dân Thái Bình. Các chi bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở
những xã bị bật ra ngoài, nghe tin Trung đoàn vào cũng trở về bám địa
phương hoạt động.
Khi đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 64 sang hết đất Thái Bình, ngay
đêm 19-3-1950, Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Mặt trận 5, Ban chỉ huy Trung đoàn 64
và trung đoàn 42 đã họp liên tịch tại một địa điểm thuộc huyện Duyên Hà,
bàn các chủ trương, biện pháp đánh địch. Hội nghị quyết định phân tán các
đơn vị để làm nhiệm vụ xây dựng lại các cơ sở kháng chiến trong vùng địch
hậu; phát động chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích; từng bước làm thất
bại kế hoạch bình địch của địch. Theo phương hướng đó, Trung đoàn 64 phân
công tiểu đoàn 23 ở phía bắc có nhiệm vụ phối hợp với địa phương chặn đánh
những cánh quân nhỏ đi càn quét, cướp phá. Tiểu đoàn 605 ở phía nam đường
10 vũ trang tuyên truyền vào vùng công giáo, xây dựng dân quân, du kích,
gây cơ sở, giúp địa phương phát triển chiến tranh nhân dân. Tiểu đoàn 182
45
pháo binh và Trung đoàn bộ chủ yếu hoạt động trên địa bàn Duyên Hà, hỗ trợ
cho quân du kích địa phương củng cố xây dựng và rào làng kháng chiến.
Trung đoàn 42 tập trung về Quỳnh Côi, Duyên Hà, nhanh chóng củng cố rồi
chuyển sang hoạt động ở Hưng Yên, Hải Dương. Các đơn vị bộ đội tỉnh cũng
được giao nhiệm vụ cụ thể: Đại đội Đề Thám đảm nhiệm Hưng Nhân, Duyên
Hà; Đại đội Trần Quốc Tuấn bám thị xã; Đại đội Lê Lợi xuống Đông Quan;
Đại đội Quang Trung về Phụ Dực cùng với lực lượng vũ trang huyện chống
càn, chống địch bắt lính, bắt phu, xây dựng cơ sở kháng chiến, tạo địa bàn
đứng chân để phát triển lực lượng.
Trung đoàn 64 cùng với lực lượng vũ trang Thái Bình đã nhanh chóng
triển khai lực lượng chống địch. Ngày 24-3-1950, tiểu đoàn 23 phục kích địch
ở thôn Tài Giá (Quỳnh Côi) diệt và làm bị thương 63 tên. Tiểu đoàn 605 vừa
triển khai xuống nam đường 10 đã đánh thắng trận càn của địch ở Thuyền
Quan (Thái Ninh) diệt hơn 40 tên. Phối hợp với hoạt động của bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương cùng dân quân du kích ở các xã, thôn thuộc các huyện
Kiến Xương, Vũ Tiên, Thư Trì, Đông Quan, Quỳnh Côi đã tổ chức hàng chục
trận chống càn, phục kích, tập kích tiêu diệt địch, loại khỏi vòng chiến đấu
hàng trăm tên địch.
Khi tiểu đoàn 605 về hoạt động, các cuộc càn quét nhỏ của địch ở phía
nam đường 10 giảm xuống. Tinh thần nhân dân được củng cố. Nhiều thôn xã
thuộc các huyện Kiến Xương, Thái Ninh, Thụy Anh du kích lại tiếp tục tổ
chức tuần tra, canh gác; nhân dân lại rào làng, sẵn sàng chiến đấu.
Sau gần hai tháng đánh phá, càn quét, quân Pháp không thực hiện được
ý đồ nhanh chóng đè bẹp sức đề kháng của quân và dân ta ở Thái Bình. Tiếng
mìn, tiếng súng vẫn nổ ở nhiều nơi. Hoạt động của Trung đoàn 64 đã góp
phần quan trọng vào việc đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh của tỉnh
Thái Bình.
Phát hiện chủ lực Liên khu III vào Thái Bình, ngày 30 và 31-3-1950
46
địch điều thêm bốn tiểu đoàn thuộc hai binh đoàn Bôphơrê và Commuynan
cùng một tiểu đoàn ngụy vào Thái Bình, đưa tổng số quân của chúng ở Thái
Bình lên 4.600 tên, ý đồ của địch nhằm tìm diệt các Trung đoàn 64 và 42 chủ
lực Liên khu. Hành động mới của địch nằm ngoài dự đoán của Liên khu ủy.
Sau khi địch kết thúc cuộc hành quân Tônnô (ngày 10-3-1950), Liên khu ủy
III nhận định: địch sẽ đánh chiếm nốt Hữu Ngạn để hoàn thành âm mưu
chiếm đóng đồng bằng; địa điểm địch tấn công đầu tiên sẽ là Phủ Lý. Từ nhận
định trên, Liên khu ủy chủ trương điều động hai trung đoàn chủ lực của Liên
khu đến Phủ Lý để chặn địch. Trong khi Liên khu III tập trung vào hướng Phủ
Lý, các hoạt động phối hợp với Thái Bình chưa được đề cao đúng mức thì từ
ngày 2 đến ngày 6-4-1950, địch tập trung lực lượng, bao vây, truy tìm hòng
tiêu diệt chủ lực của ta ở các huyện phía bắc đường 10, trọng tâm nhằm vào
khu vực Quỳnh Côi, Duyên Hà, Tiên Hưng, Hưng Nhân.
Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Trung đoàn 64, 42, Ban chỉ huy Mặt
trận 5 đang đứng chân trên địa bàn đã họp nhiều lần bàn kế hoạch đối phó.
Các cuộc họp đều nhận định rằng: lực lượng địch mạnh, số lượng lại áp đảo
nên ta không thể tập kích các vị trí để phá cuộc tấn công của chúng, ta cũng
không phân tán vì Trung đoàn 64 chưa gây được cơ sở, Trung đoàn 42 đang
tập trung củng cố để sang hoạt động ở Hưng Yên và Hải Dương theo kế
hoạch từ trước của Liên khu. Do đó, hội nghị quyết định khi địch tấn công ở
khu vực đứng chân của tiểu đoàn nào thì tiểu đoàn đó độc lập tác chiến,
nhưng phải báo cáo về Ban chỉ huy chung. Nguyên tắc “bảo tồn lực lượng
nhưng phải giữ ảnh hưởng chính trị, danh nghĩa của chủ lực, phải tiêu hao
địch”[81] được quán triệt xuống các đơn vị của trung đoàn 64. Theo phương
hướng đó, các đơn vị chủ lực đứng chân ở phía bắc cùng lực lượng vũ trang
địa phương hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu ngoan cường, vừa chống địch vừa
luồn càn bảo toàn lực lượng. Kết thúc cuộc càn quét, địch không thực hiện
47
được ý đồ tiêu diệt chủ lực ta, mà còn bị tiêu diệt hơn 100 tên.
Phối hợp với quân dân các huyện phía bắc, tiểu đoàn 605 đẩy mạnh hoạt
độngcùng dân quân du kích địa phương tổ chức nhiều trận đánh ở phía nam
đường 10. Trong tuần đầu của tháng 4-1950, quân dân các huyện Thụy Anh,
Kiến Xương, Vũ Tiên, Thư Trì đã tổ chức hơn 10 trận phục kích, tập kích,
chống càn, quấy rối và diệt tề. Địch phải điều 600 quân từ Hưng Nhân xuống,
600 tên từ Nam Định sang để tăng cường các vị trí của chúng ở Kiến Xương.
Thực hiện kế hoạch bao vây lớn không đạt được kết quả, từ ngày 7-4-
1950, quân Pháp chuyển sang thực hiện bao vây khu vực nhỏ, trong phạm vi
vài thôn, xã liên tục truy kích các đơn vị của Trung đoàn 42 và 64, tiếp tục ý
đồ tìm diệt chủ lực ta. Hành động mới này của địch đã gây cho quân dân ta
nhiều khó khăn. Ngày 12-4-1950, Ban chỉ huy Mặt trận 5 quyết định: Trung
đoàn 64 phân tán thành từng đại đội để đánh địch. Từ ngày 14-4-1950, chủ
trương phân tán đã nhanh chóng được thực hiện ở các tiểu đoàn đang hoạt
động ở cả phía bắc và phía nam đường 10. Trong khi Trung đoàn 64 phân tán
đánh địch thì tiểu đoàn 124 cùng Trung đoàn 42 và Ban chỉ huy Mặt trận 5 về
đóng tai Cổ Tiết, Xuân La, Lương Mỹ (Quỳnh Côi) để chuẩn bị vượt sông
sang Hải Dương, Hưng Yên. Do phán đoán địch không đúng, không có kế
hoạch phòng bị nên 5 giờ sáng ngày 22-4-1950, địch bất ngờ vây đánh làng
Cổ Tiết. Đơn vị hy sinh 20 chiến sĩ, 10 đồng chí bị bắt, một số bị thương; mất
một súng cối 60 ly, hai đại liên, ba trung liên và 19 súng trường.
Chủ trương kịp thời phân tán bộ đội chủ lực là phù hợp với tình hình so
sánh địch ta, làm thất bại âm mưu tìm diệt chủ lực ta của địch. Sau khi phân
tán, bộ đội vẫn dìu dắt quân dân du kích và phục vụ cho việc gây lại cơ sở
chính trị ở những nơi bị tan rã. Nhưng do chưa khẩn trương thực hiện nên tiểu
đoàn 124 bị địch tiến công bất ngờ, gây tổn thất đáng kể. Việc chỉ đạo bộ đội
hoạt động độc lập lúc đầu cũng chưa có nội dung cụ thể nên có tình trạng bộ
đội không đánh địch mà chủ yếu tìm cách luồn tránh, gây ảnh hưởng không
48
tốt đến tư tưởng và tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Đầu tháng 5-1950, Trung đoàn 64 rút khỏi Thái Bình. Cuộc chiến đấu
của quân dân trong tỉnh chuyển sang thời kỳ đấu tranh gian khổ giành giật
quyết liệt với kẻ thù.
Khác với các cuộc hành quân Antơraxít (ở Ninh Bình) và cuộc hành
quân Điabôlô (ở Hải Dương và Hưng Yên) cuộc hành quân Tônnô đánh
chiếm Thái Bình của địch phải kéo dài và bị nhiều thiệt hại. Tuy chiếm được
những địa bàn xung yếu nhưng chúng không sao triệt phá hết các làng chiến
đấu, các căn cứ du kích của ta. Mặc dù huy động một lực lượng lớn binh lính,
thực hiện những cách đánh phá thâm độc, nguy hiểm, địch vẫn bất lực trong
việc tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nhân dân Thái Bình, không tiêu diệt
được cơ quan lãnh đạo ở địa phương. Chiếm được đất nhưng địch không
chiếm được dân, không kìm kẹp được nhân dân ủng hộ kháng chiến.
2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng
kháng chiến, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình
định của địch (6/1950- 12/1951)
Đến cuối tháng 5 năm 1950, kế hoạch tiến công đánh chiếm Thái Bình
của quân Pháp được coi như hoàn tất. Lực lượng cơ động của chúng được rút
dần để tiến hành các cuộc hành binh ở nơi khác: lực lượng chiếm đóng tại chỗ
phần lớn là quân ngụy.
Qua bốn tháng liên tục đối phó với các âm mưu thủ đoạn của địch, tinh
thần và kinh nghiệm chiến đấu của quân dân trong tỉnh đã dầy dạn hơn. Số
đông cán bộ đảng viên vẫn bám đất, bám dân để hoạt động, cơ sở tuy đảo lộn
nhưng ít bị tan vỡ. Song tư tưởng cầu an phát triển mạnh. Số đảng viên lưu
vong vẫn còn nhiều. Cơ sở ở vùng công giáo, ven đường giao thông và trong
thị xã còn rất mỏng manh. Từ tỉnh xuống cơ sở các cấp ủy đều thiếu cán bộ.
Ban chấp hành tỉnh ủy trước ngày địch đánh chiếm Thái Bình ( 8.2.1950) có
49
18 đồng chí, nhưng đến tháng 6-1950 chỉ còn 10 đồng chí.
Trước tình hình hình trên, được sự chỉ đạo trực tiếp của Liên khu ủy III,
ngày 2-6-1950 Ban chấp hành Tỉnh ủy đã họp hội nghị mở rộng, kiểm điểm
công tác lãnh đạo trong 4 tháng qua và ra nghị quyết lãnh đạo thời gian tới.
Những nhiệm vụ được nghị quyết đề cập tới là: “Chống càn quét giữ vững cơ
sở. Triệt phá tổ chức ngụy quyền võ trang hay võ trang bí mật, phá tuyển mộ
ngụy quân. Tích cực phòng gian. Phát triển du kích chiến tranh mạnh mẽ. Xây
dựng bộ đội địa phương phát triển lực lượng dự bị cho trung đoàn 42 và cung
cấp hậu bị quân cho Liên khu. Đả phá tư tưởng cầu an ỷ lại. Công tác địch
vận phải tăng cường”[20, tr.174].
Tỉnh ủy đề ra phương châm: “Lấy xã làm căn bản, đánh du kích là
chính, bộ đội huyện phân tán về dìu dắt du kích xã, bộ đội tỉnh và Liên khu
phân tán làm nhiệm vụ đại đội độc lập, tất cả mọi lực lượng đều có nhiệm vụ
xây dựng khu du kích liên hoàn và chuẩn bị chiến trường nhằm bảo tồn lực
lượng chiến đấu lâu dài”[20, tr.174].
Ban chấp hành Tỉnh ủy đề ra khẩu hiệu: “ Bám đất, bám dân, tiến sâu
vào lòng địch”.[20, tr.175]
Để tránh địch truy quét, cơ quan của mặt trận 5 và các tỉnh bạn tạm thời
rút ra khỏi Thái Bình. Bộ tư lệnh Liên khu quyết định điều trung đoàn 42 về
Hải Dương; Trung đoàn 64 chỉ để lại Thái Bình tiểu đoàn 605 tiếp tục hoạt
động; đồng thời Liên khu cũng chỉ thị thành lập Ban chỉ huy mặt trận Thái
Bình, thành phần gồm có Tỉnh đội và Ban chỉ huy tiểu đoàn 605.
Tháng 6 năm 1950, Trung ương quyết định mở chiến dịch Biên giới.
Tháng 8 năm 1950 bộ tư lệnh Liên khu III quyết định mở đợt hoạt động mạnh
trong toàn Liên khu để phối hợp với chiến dịch Biên giới và phối hợp với hoạt
động của Đại đoàn 304 đánh địch ở Ninh Bình. Bộ tư lệnh Liên khu tăng
cường cho Thái Bình tiểu đoàn 722 (thuộc trung đoàn 64) để đẩy mạnh phong
50
trào du kích chiến tranh của Tỉnh.
Thực hiện chủ trương, phương châm, phương hướng do hội nghị tỉnh ủy
tháng 6 năm 1950 đề ra đồng thời hưởng ứng đợt hoạt động mạnh của Liên
khu III, nhằm phối hợp với chiến dịch Biên giới: trong tháng 7 và tháng 8
năm 1950, quân và dân Thái Bình đã tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động. Mở
đầu là trận đánh đồn Thanh Hương (Thư Trì) ngày 7-6-1950. Sau hơn 30 phút
chiến đấu, bộ đội huyện Thư Trì kết hợp với du kích Cự Lâm đã tiêu diệt
được hơn một chục tên địch, thu một số vũ khí. Khi bọn địch ở các vị trí xung
quanh đến ứng cứu cho đồng bọn ở Thanh Hương thì quân ta đã rút lui an
toàn. Tuy không diệt được đồn Thanh Hương, nhưng đây là trận đánh mở
đầu, do bộ đội huyện phối hợp với du kích xã, bằng vũ khí thô sơ dám đánh
địch giữa ban ngày.
Tiếp sau đó, trong ba tháng 6,7 và 8, bộ đội của tỉnh và dân quân du
kích các huyện: Thái Ninh, Phụ Dực, Duyên Hà, Quỳnh Côi, Tiên Hưng, Thư
Trì, Vũ Tiên, Hưng Nhân, Tiền Hải, Đông Quan đã chủ động đánh địch,
chống càn, huy động được đông đảo nhân dân tham gia, vừa phục vụ chiến
đấu, vừa trực tiếp chiến đấu, với mọi thứ vũ khí trong tay cùng bộ đội, du kích
đánh giặc. Tiêu biểu như trận đánh của dân quân du kích Thần Đầu, Thần
Huống (Thái Ninh) vào thượng tuần tháng 6-1950, đã đánh trả hai đại đội
địch vào xã, chị em phụ nữ các em thiếu nhi và các cụ phụ lão vừa làm liên
lạc, vừa làm công tác địch vận, vừa tiếp tế cho dân quân, du kích đánh địch.
Nhiều lần địch liều mạng xông vào trận địa của ta, chúng đều bị đánh bật trở
lại. Từ sáng đến tối địch vẫn không vào được làng, sau nhiều lần bị tổn thất
nặng nề, địch phải rút quân.
Cho đến ngày nay, nhân dân tỉnh Thái Bình vẫn truyền miệng bài vè ca
ngợi tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân dân du kích và nhân dân Thần
Đầu, Thần Huống.
“Thần Đầu, Thần Huống
51
Dựng thôn trang chiến
Mấy lần Tây đến
Mấy lần bỏ xác Tây đi
Tây đi du kích cười khì
Điếu cày lại rít thổi phì khói thơm”.
Từ tháng 6 đến tháng 8- 1950, dân quân du kích Thái Bình cùng bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương liên tục đánh địch bằng nhiều hình thức từ nhỏ tới
vừa, từ diệt tề, quấy rối, vây hãm, chống càn, diệt đồn, đến phục kích… đã
gây thiệt hại đáng kể cho quân địch.
Trước sự phát triển ấy, từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 9 năm 1950. Ban
thường vụ Tỉnh ủy họp và nhận định:
“ Địch tạm thời giành được thắng lợi ban đầu, nhưng chúng đang có
những khó khăn mâu thuẫn, bộc lộ những mặt yếu và bị động. Ta có những
khó khăn trước mắt, nhưng mọi hoạt động đều có tiến bộ và trên đà trưởng
thành , địch sẽ ra sức bình định các khu tạm chiếm mà hình thức phổ biến
nhất là càn quét…”[16,tr.110].
Hội nghị kết luận:... “Ở Thái Bình muốn đẩy mạnh du kích chiến tranh
để phát triển nhân dân chiến tranh lên cao, thì việc sửa đổi cách tổ chức lãnh
đạo của các cấp là quan trọng”; điều cần thiết trong sửa đổi là: “ Phải tăng
cường sự lãnh đạo quân sự”. Kết luận này được rút ra trên cơ sở hội nghị đã
nghiêm khắc tự phê bình những khuyết điểm trong thời gian qua là: “ Coi nhẹ
công tác quân sự, nặng về tác chiến, nhẹ về xây dựng…” và “ Hiện nay sự phân
công nói chung của các cấp ủy viên vào ngành quân sự chưa cử những đồng
chí có năng lực để đảm nhiệm công việc…”[16,tr.111]. Hội nghị thường vụ mở
rộng 9-1950 đã giải quyết được những vấn đề và thúc đẩy việc xây dựng lưc
lượng để chuẩn bị cùng toàn quốc chuyển mạnh sang tổng phản công.
Để phối hợp với chiến trường chính trong chiến dịch Biên giới các cơ
quan Dân, Chính, Đảng, các lực lượng vũ trang Tỉnh, Huyện, Xã đều hoạt
52
động sôi nổi. Nhiều khu vực địch hội quân chuẩn bị đi càn quét đều bị bộ đội
địa phương và dân quân du kích tập kích. Nhiều huyện trước đó bộ đội và dân
quân hoạt động yếu nay đã chuyển mình mạnh mẽ, liên tục đánh địch như
Thái Ninh, Thụy Anh, Kiến Xương.
Bên cạnh lãnh đạo xây dựng lực lưỡng vũ trang, cấp ủy các địa phương
trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo tác chiến chống địch càn quét như ở xã Đồng Tiến
(Phụ Dực) . Ngày 20-12-1950 địch huy động 500 tên quân đến bao vây xã
Đồng Tiến. Chi ủy chi bộ đã lãnh đạo tổ chức dân quân du kích và nhân dân
dùng chông, mìn, lựu đạn, gươm, giáo, mã tấu đánh địch trong làng, ngoài
đồng lúa, liên tiếp đánh bại 4 đợt tiến công của địch. Địch không những
không vào được làng mà còn tổn thất nặng nề, bị tiêu diệt tại chỗ 27 tên, hàng
chục tên khác bị thương. Sau trận này địch không dám sục sạo như trước. Khu
du kích Đồng Tiến được mở rộng.
Ở Duyên Hà, bộ đội huyện phối hợp với một đơn vị thuộc trung đoàn
64 diệt đồn Tịnh Xuyên bằng nội công, ngoại kích tiêu diệt 2 trung đội địch,
tịch thu toàn bộ vũ khí, mở khu căn cứ du kích ra tận ven sông Hồng. Ở Đông
Quan, đại đội 4 diệt đồn cầu Gọ và ngã tư An Lễ bằng địch vận. Ở Thư Trì,
dân quân du kích và bộ đội huyện ngụy trang mật tập diệt vị trí Thanh Hương
bắt 1 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Những chiến thắng trên, đã có tác
dụng động viên cổ vũ, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh nhân dân
Thái Bình lên cao. Đặc biệt phong trào “ Nữ du kích Hoàng Ngân” ở Thái
Bình cũng diễn ra sôi nổi. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, chị em còn đảm nhận
các công tác cứu thương, tải thương, tiếp tế, địch vận, giao thông, quân báo.
Nhiều chị em hoàn thành tốt nhiệm vụ theo dõi địch, chắp nối liên lạc, len lỏi
giữa vòng vây quân địch, qua những chặng đường địch kiểm soát chặt chẽ
giúp cấp ủy và chỉ huy các cấp nắm tình hình, cán bộ, đảng viên từ đó phục
hồi, duy trì các hoạt động kháng chiến ở cơ sở. Điển hình là nữ đảng viên du
kích xã Tán Thuật huyện Kiến Xương Nguyễn Thị Chiên trung đội trưởng.
53
Một lần dẫn cán bộ đi họp bất ngờ gặp địch, chị đã mưu trí đánh lạc hướng,
thu hút địch về phía mình, chịu cho địch bắt để cứu thoát cán bộ của Đảng.
Đặc biệt ngày 26.1.1952, đã dũng cảm xông lên cùng dân quân du kích và bộ
đội địa phương đuổi giặc bắt sống 10 tên. Tên quan hai Mơduya đồn Đông
Hướng bị bắt phải nộp sung đầu hàng[60, tr.92]. Ngoài Nguyễn Thị Chiên
Thái Bình còn nhiều nữ du kích dũng cảm như các chị Hà Thị Thuần, Hà Thị
Trù, Phạm Thị Nhành, Hà Thị Vấn đã được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua
của tỉnh[62, tr.95].
Từ đầu năm 1951 phong trào du kích chiến tranh ở Thái Bình phát triển
ngày càng mạnh mẽ. Huyện nào trong tỉnh đều có nhiều làng kháng chiến và
khu du kích.
Để đối phó với phong trào du kích và làng kháng chiến ngày càng lớn
mạnh của ta, địch tập trung quân liên tiếp càn quét với mục đích triệt phá
những khu căn cứ du kích của ta. Trước tình hình trên Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã kịp thời ra chỉ thị cho các địa phương, các ngành mở đợt hoạt động
mạnh để phối hợp với chiến trường chính trong tháng 3-1951.
Thực hiện chỉ thị trên, các địa phương trong tỉnh đã lập nhiều thành tích
trong các trận chống càn ở Ngã tư Và (Quỳnh Côi) ngày 24-3 địch chết 40
tên, trận Lương Nhân (Hưng Hà) ngày 26-3 địch chết 30 tên, trận Văn Hành
(Thái Ninh) ngày 7-4 diệt 110 tên. Đặc biệt là trận phục kích tai cống Kem
(Kiến Xương) tháng 4-1951 trong trận này bộ đội địa phương huyện đã bắt
sống tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Trần Hưng Đạo của quân ngụy cùng 2 tên
đại đội trưởng và 10 vệ sĩ. Những thành tích trên đã góp phần rèn luyện và
giúp cho bộ đội địa phương cùng dân quân du kích học được nhiều kinh
nghiệm đánh đồn , tạo điều kiện để phối hợp với chiến trường chính.
Cuối tháng 4 đầu tháng 5- 1951, Đảng bộ Thái Bình đã tổ chức học tập
quán triệt nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2. Theo chỉ thị của
Trung ương, Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tại khu du kích Thần
54
Huống để chào mừng Đảng ra hoạt động công khai. Các huyện trong tỉnh đều
họp ban thường vụ huyện ủy mở rộng, phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy và
nghiên cứu lựa chọn đưa một số đảng viên ra hoạt động công khai. Việc đưa
Đảng viên ra hoạt động công khai đã làm cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh
tăng thêm niềm tin tưởng phấn khởi đối với sự lãnh đạo của Đảng. Mối liên
hệ giữa Đảng và quần chúng ngày càng thêm chặt chẽ, gắn bó.
Sau những trận càn quét lớn của địch vào bốn huyện Đông Quan, Phụ
Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh, ngày 15-5-1951, Ban thường vụ Tỉnh ủy họp bàn
kế hoạch đề phòng địch đánh khu căn cứ Tiên – Duyên – Hưng ( Tiên Hưng,
Duyên Hà, Hưng Nhân). Hội nghị nêu rõ những thiếu sót trong chỉ đạo trận
chống càn Mê đuy-dơ và nhận định : “Hiện nay trên chiến trường chính chưa
mở chiến dịch, số quân của địch chưa bị rút lên đó để đối phó với ta nên có
thể trở lại khủng bố, tàn phá cơ sở ta hơn nữa, nhất là vùng Tiên-Duyên-
Hưng… nơi mà cơ quan, bộ đội ở tập trung khá đông và cũng là nơi đang xây
dựng làng kháng chiến để ngăn cản bước tiến của địch” [14,tr245]. Hội nghị
cũng chỉ rõ những điểm cấp ủy các cấp và dân quân du kích cần chú trọng
địch đánh tới là : “Bảo vệ cán bộ, giữ vững cơ sở, giữ vững tinh thần nhân
dân, phát triển mọi hành động du kích dù là địch càn quét lớn, giữ vững
đường giây giao thông”[14,tr245], đồng thời đề ra kế hoạch thực hiện. Nghị
quyết nêu rõ:
“ Phải bám sát tình hình địch. Khi thấy địch tập trung quân có triệu
chứng càn quét lớn, các đồng chí huyện ủy viên và cán bộ được phân công về
phụ trách địa phương nào phải họp ngay với cấp ủy địa phương đó để định kế
hoạch… sau khi địch càn quét phải kịp thời họp để giữ vững tinh thần nhân
dân củng cố phong trào. Đặc biệt phải phát triển rộng rãi những hoạt động tác
chiến du kích trong khi địch càn quét mặc dầu là càn quét lớn nhưng khi địch
tới đâu cũng làm cho địch gặp phải sức kháng chiến của ta” [14,tr.245].
Thực hiện nghị quyết của ban thường vụ Tỉnh ủy, cấp ủy các địa
55
phương trong tỉnh đã tích cực chuẩn bị đề phòng, xây dựng kế hoạch chống
càn cho bộ đội và dân quân du kích. Từ 30-5 đến 16-6 dân quân du kích cùng
bộ đội huyện đã tiêu diệt năm vị trí địch ở Quỳnh Côi, Phụ Dực, Tiền Hải ,
bức rút 4 vị trí ở các huyện Tiên Hưng, Quỳnh Côi, Thụy Anh (Đồng Phó,
Giao Thiên, Trà Hồi, An Lệnh). Đặc biệt bộ đội và du kích đã liên tiếp chống
càn, phục kích, tập kích, bao vây vị trí địch tiêu diệt 244 tên bắt sống 74 tên,
thu 4 trung liên cùng nhiều súng trường đạn dược và quân trang quân dụng.
Nhưng do chúng ta còn chủ quan trong việc nhận định, đánh giá quy
luật càn quét đánh phá của địch sau mỗi trận càn quét thường không kịp thời
rút kinh nghiệm, bổ khuyết cho công tác lãnh đạo nên kết quả công tác chống
địch càn quét không cao. Phong trào xây dựng làng chiến đấu tuy rầm rộ
nhưng còn nặng về hình thức chỉ chú trọng xây dựng lũy cao, hào sâu mà
chưa qua tâm đến nội dung chính trị cũng như kỹ thuật chiến đấu cho dân
quân du kích. Trong công tác xây dựng dân quân du kích nhìn chung còn
nặng về xây dựng lực lượng tập trung của xã (du kích), coi nhẹ việc phát triển
du kích xuống thôn xóm.
2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp
phần cùng quân dân cả nƣớc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
(11/1951–7/1954).
Từ cuối năm 1951, Đảng bộ, quân dân Thái Bình hăng hái hưởng ứng
đợt thi đua do Liên khu 3 phát động “ Phối hợp với chiến trường chính Hòa
Bình thi đua tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố
phong trào cơ sở, tranh thủ nhân dân”.
Sau một thời gian đối phó với các cuộc tấn công của ta ở Trung du,
đường số 18 và Hà - Nam - Ninh, thực dân Pháp tập trung lực lượng, đánh
phá hết sức ác liệt các cơ sở kháng chiến của ta trong vùng chúng tạm chiếm
đóng, cướp đoạt tài sản, giành giật nhân lực, vật lực với ta , gây cho ta nhiều
khó khăn mới. Nhiều vùng bị chiếm đóng trở lại. Hàng ngàn vị trí, tháp canh
của địch được dựng khắp nơi. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong vùng
56
địch tạm chiếm gặp rất nhiều khó khăn.
Cuối tháng 10-1951, Đại tướng Đờ Lát Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân
viễn chinh Pháp cho rằng đã đến lúc giành lại quyền chủ động chiến lược
bằng cuộc tấn công trên địa bàn do Pháp lựa chọn ở ngoài vùng châu thổ sông
Hồng để đánh quỵ chủ lực đối phương, xoay chuyển cục diện chiến tranh có
lợi cho Pháp đồng thời cũng nhằm xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần đội quân
viễn chinh tranh thủ viện trợ của Mĩ. Tỉnh Hòa Bình được Bộ chỉ huy quân
đội Pháp ở Đông Dương lựa chọn là mục đích tấn công nhằm đạt được những
mục đích ấy.
Ngày 9-11-1951, Đờ Lát sử dụng một lực lượng cơ động chiến lược
mạnh (gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết
giáp, 2 đại đội xe tăng và nhiều tàu thuyền) mở cuộc hành quân mang tên
Tuylíp, đánh chiếm chợ Bến nhằm cắt con đường giao thông liên lạc của bộ
đội ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng vào khu 4. Ngày 14-11, chúng mở cuộc
hành quân Lôtuýt đánh chiếm Hòa Bình. Đến ngày 15-11, chúng đã hoàn
thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hòa Bình - Đường
số 6 - Sông Đà - Ba Vì.
Về phía ta, bước vào thu - đông năm 1951, Bộ Tổng tham mưu đã vạch
kế hoạch sẵn sàng đối phó với các tiến công của địch ra vùng tự do của ta ở
Bắc Bộ. Ngay sau khi được tin địch đánh ra Hòa Bình, Tổng quân ủy kiến
nghị với Bộ Chính trị: “Mở chiến dịch Hòa Bình, chuyển kế hoạch hoạt động
thu đông sang tiến công địch nơi chúng chiếm đóng…Hòa Bình sẽ là hướng
chính, các nơi khác phối hợp nhằm tiêu diệt sinh lực địch ở chiến trường Hòa
Bình, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích…” [60, tr. 297].
Ngày 18-11, Tổng quân ủy hạ quyết tâm tiêu diệt địch ở mặt trận Hòa
Bình và lợi dụng lúc chúng sơ hở đánh sâu vào vào địch hậu, đẩy mạnh chiến
tranh du kích, phá âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt
57
đánh người Việt”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chính trị hoàn toàn nhất trí với chủ trương
và quyết tâm của tổng quân ủy. Ngày 24-11, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch”, chỉ thị
khẳng định: “Đây là cơ hội tốt để ta diệt địch, cho chiến tranh du kích Tả Hữu
Ngạn sông Hồng phát triển, cơ hội tốt để khôi phục, củng cố, mở rộng căn
cứ” [60, tr. 298].
Hạ tuần tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ bộ
đội chủ lực, dân quân du kích. Người khẳng định: “Trước kia ta phải lừa địch
ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội tốt cho ta….Bộ đội chủ
lực đánh, bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải
phối hợp chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực của địch, để đánh tan kế hoạch Thu-
Đông của chúng” [59, tr. 298].
Bộ Chính trị và Tổng quân ủy hạ quyết tâm đẩy mạnh đánh địch ở mặt
trận chính diện (khu vực Hòa Bình) và mặt trận sau lưng địch. Thực hiện
quyết tâm của Bộ Chính trị và Tổng quân ủy ngày 27-11-1951, Ban chỉ đạo
Mặt trận đồng bằng họp xác định kế hoạch phối hợp tác chiến với mặt trận
chính diện. Ban chỉ đạo quyết định tập trung lực lượng đánh mạnh vào vùng
sau lưng địch nhân lúc các đơn vị cơ động của thực dân Pháp đang kéo ra
chiếm giữ Hòa Bình, nhằm phá vỡ hệ thống chiếm đóng của chúng, tranh thủ
nhân dân, phục hồi cơ sở, mở rộng và củng cố các khu du kích, các căn cứ du
kích, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đẩy mạnh công tác
địch vận làm tan rã khối ngụy quân, giành lại kho nhân tài, vật lực ở đồng
bằng. Đối với vùng Tả Ngạn, Đại đoàn 320 sẽ vượt sông Hồng sang Thái
Bình phối hợp với Trung đoàn 42 cùng bộ đội địa phương và dân quân du
kích tác chiến, mở rộng các khu du kích, uy hiếp quốc lộ 5 và đường sắt Hải
Phòng - Hà Nội.
Thực hiện sự chỉ đạo trên, Tỉnh ủy Thái Bình chủ trương: “Đẩy mạnh
58
đấu tranh võ trang để phá âm mưu bình định Tiên - Duyên – Hưng của địch,
phục hồi cơ sở mọi mặt” [60, tr. 312]. Hướng hoạt động lúc đầu trọng tâm là
Thái Ninh, Đông Quan nhưng sau đó Mặt trận 5 đã chỉ đạo chuyển sang Phụ
Dực, Thụy Anh để hợp đồng tác chiến với Tiên Lãng, Vĩnh Bảo phá âm mưu
thành lập khu quân sự Vĩnh-Ninh (Vĩnh Bảo – Ninh Giang) tạo nên tuyến
phòng thủ sông Hóa của địch.
Cuối tháng 12 năm 1951 một Tiểu đoàn của Trung đoàn 42 được Mặt
trận 5 tăng cường cho Thái Bình cùng Tiểu đoàn 38 tiến vào huyện Phụ Dực,
Thụy Anh.
Ngày 1-1-1952, một đơn vị của Trung đoàn 42 diệt đồn vệ sĩ Đồng
Bằng. Ngày 2-1- 1952, bộ đội huyện Phụ Dực ( Đại đội 218) cùng du kích các
xã tiêu diệt, bức hàng, bức rút một loạt đồn vệ sĩ: Đào Động, Đại Điền, Vọng
Lỗ, Thanh Mai, Lý Xá, An Hải, Tô Đê. Ngày 9-2 một đơn vị của Trung đoàn
42 cùng bộ đội huyện Phụ Dực phục kích đánh địch tại Dục Linh, An Lộng
diệt và làm bị thương gần 100 tên địch, thu 3 trung liên, 5 tiểu liên, 37 súng
trường, …Sau những thắng lợi này, khu du kích Phụ Dực đã được mở rộng
thêm gồm: Tô Công, Tô Xuyên, Tô Hải, Tân Tiến.
Tại Thụy Anh, đêm 1-1-1951 bộ đội huyện phối hợp với du kích bao
vây các đồn An Tiêm, Đông Hồ, Duyên Trữ. Ngày 2-1-1951 ta tiêu diệt đồn
An Tiêm, các đồn Đông Hồ, Duyên Trữ xin ra hàng, ta thu hơn 20 súng
trường và nhiều đạn được. Được sự hỗ trợ của bộ đội tỉnh, ngày 9-1-1951 bộ
đội và dân quân du kích Thụy Anh phục kích đại đội Commăngđô của địch
đang chuyển quân từ Ninh Giang về Xá Thị, diệt 15 tên, bắt sống tên chỉ huy
Pháp. Để kỉ niệm chiến thắng, Đại đội bộ đội huyện Thụy Anh được Bộ tư
lệnh Liên khu và Tỉnh đội cho phép được mang tên từ đại đội thành đại đội
91. Phát huy chiến thắng, Đại đội 91 phối hợp với Tiểu đoàn 38 liên tục tấn
công địch, tiêu diệt bốt Đoài, Cao Ninh, giải thoát cho hơn 100 đồng bào bị
59
bắt giam ở đây, đánh đồn tổng dũng Hạc Ngang bức rút các vị trí: Thượng
Phúc, Cúc Mai, Cam Động, phá một loạt tề vũ trang: Hồng Hưng, Nghĩa
Hưng, Đại An, Trường Sơn…
Theo sự chỉ đạo của tỉnh, huyện Đông Quan cũng chủ động phối hợp
với Thụy Anh. Bộ đội huyện và du kích Đông Quan đã bao vây diệt đồn Bảo
chính đoàn Đông Khê (quận lỵ Đông Quan) vũ trang tuyên truyền, bức rút các
đồn hương dũng vệ sĩ: Liên Phương, An Bình, Bắc Lạng.
Ở Tiên - Duyên - Hưng, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân du
kích các làng thuộc các xã Kim Châu, Tiến Thuật, Hồng Việt (Tiên Hưng),
Hồng Lĩnh, Chí Minh (Duyên Hà) và các làng Then, Mẹo (Hưng Nhân) làm
tan rã nhiều ban tề do địch mới lập tháng 10-1951.
Chỉ trong 10 ngày hoạt động đầu tháng 1-1952, quân dân Thái Bình đã
tiêu diệt và bức rút 40 đồn địch, chủ yếu là các đồn hương dũng, tổng dũng,
vệ sĩ. Kết quả này đã góp phần cùng quân dân huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo
(Hải Phòng) phá vỡ một mảng lớn tuyến phòng thủ sông Hóa thuộc Khu quân
sự (Secteur) Vĩnh Ninh của địch. Tinh thần quần chúng lên cao, tư tưởng bi
quan, sợ càn quét lớn được khắc phục. Quân và dân trong tỉnh phấn khởi
chuẩn bị mọi mặt để đón bộ đội chủ lực vào Thái Bình.
Để chuẩn bị đón Đại đoàn 320 về Thái Bình phối hợp với quân và dân
trong tỉnh chiến đấu, trung tuần tháng 12-1951, Tỉnh ủy Thái Bình đã họp hội
nghị, với sự tham gia của các đồng chí trong Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến
hành chính, tỉnh đội, bàn kế hoạch chuẩn bị chiến trường đón bộ đội chủ lực.
Đồng chí Nguyễn Xuân Quang quyền Bí thư Tỉnh ủy đã trình bày nội dung
các công việc cụ thể như: Khẩn trương thông báo cho các cấp (huyện, xã)
chuẩn bị đón bộ đội chủ lực vào hoạt động ở địa phương; tổ chức thống nhất
ban theo dõi tình hình địch, chuẩn bị nhân mối, lập binh yếu địa chí địa bàn
hoạt động. Phân tán thuế nông nghiệp về cất giấu tại các gia đình. Dự trữ,
chuẩn bị lương thực cho bộ đội. Huy động nhân dân ở những vùng căn cứ du
60
kích ven sông chuẩn bị 300 đến 400 chiếc thuyền nan, các nơi khác chuẩn bị
200 đến 250 chiếc để sẵn sàng phục vụ bộ đội vượt sông. Hội mẹ chiến sĩ và
Hội phụ nữ thành lập tổ “Hỏa thực” lo việc cơm nước. Chuẩn bị lực lượng
thanh niên bổ sung cho bộ đội khi cần. Điều chỉnh lại lực lượng bộ đội, đổi
phiên hiệu Tiểu đoàn 38 thành 66, chuyển hướng hoạt động từ Phụ Dực, Thụy
Anh về Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải, mỗi huyện thành lập một trung đội
dự trữ. Dân quân du kích cac thôn xã tích cực hoạt động phối hợp với các
hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực.
Thực hiện kế hoạch chuẩn bị chiến trường, Tỉnh đội đã điều Tiểu đoàn
66 đang hoạt động ở Phụ Dực, Thụy Anh cấp tốc về Vũ Tiên, Tiền Hải. Đêm
ngày 24 rạng ngày 25-1-1952, Tiểu đoàn 66 bao vây buộc quân địch ở các
đồn vệ sĩ Trung Đồng, Đông Thành ra hàng. Tiếp đó ta lại bức hàng, bức rút
thêm một lọat vị trí như Thanh Châu, Bạch Long, Lương Điền, Cam Lai, Chí
Trung, Lạc Thiện (Tiền Hải), Bắc Trạch (Kiến Xương). Trong những ngày
cuối tháng 1-1952, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích bức
rút 9 vị trí của lực lượng vệ sĩ thiên chúa giáo phản động giải phóng phần lớn
huyện Tiền Hải.
Được sự hỗ trợ của nhân dân, ngày 17-1-1952, cánh quân thứ nhất của
Đại đoàn 320 đã vựơt sông Hồng sang Quang Thẩm (Vũ Tiên). Một tuần sau
ngày 25-1-1952 bộ phận còn lại (cánh quân thứ hai) của Đại đoàn 320 cũng
vượt sông an toàn. Bộ tư lệnh Đại đoàn đứng chân tại làng Kiến Xá huyện
Thư Trì. Đây là lần đầu tiên, một lực lượng lớn chủ lực ta luồn sâu vào vùng
địch tạm chiếm, phối hợp với chủ lực của tỉnh và bộ đội địa phương, dân quân
du kích thực hiện trong ngoài cùng đánh, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiến
tới đánh bại quân địch ở Hòa Bình, giữ vững quyền chủ động chiến lược.
Ngay sau khi cánh quân thứ hai của Đại đoàn vượt sông, một cuộc họp
quan trọng giữa đại diện Ban Cán sự Tả Ngạn, Bộ tư lệnh Đại đoàn 320, Bộ
chỉ huy Mặt trận 5, Tỉnh ủy Thái Bình đã triệu tập tại thôn Kinh Nhuế (Phía
61
bắc huyện Kiến Xương). Cuộc họp đã được quán triệt Nghị quyết của Liên
khu ủy III về việc thành lập Đảng ủy mặt trận Tả Ngạn sông Hồng. Trong
cuộc họp này Đảng ủy nhận định: “Ở phía nam đường 10, cơ sở một vài nơi
còn yếu nhưng một số vùng như Kiến Xương, Vũ Tiên, phong trào du kích
chiến tranh đang phát triển mạnh mẽ…Phía nam đường 10 là nơi địch đóng
nhiều vị trí, các vị trí phản động đóng tại các nhà thờ Thiên chúa giáo có
nhiều sơ sở” [60, tr. 302]. Đảng ủy Mặt trận quyết định thực hiện phương
châm tác chiến đề ra là “Bộ đội chủ lực tạo mọi điều kiện để đánh điểm diệt
viện; kết hợp uy hiếp bằng quân sự với vận động chính trị rộng rãi. Bộ đội địa
phương và dân quân du kích phải phối hợp với chủ lực…đẩy mạnh bao vây
uy hiếp, tước vũ khí hương tổng dũng và bọn phản động đội lốt Thiên chúa
giáo; vũ trang tuyên truyền vào vùng địch tạm chiếm diệt tề phản động, bắt do
thám, tranh thủ nhân dân, phục hồi, củng cố cơ sở, triệt để phá hoại giao
thông…” [60, tr. 303].
Căn cứ vào chủ trương của Đảng ủy Mặt trận, Tỉnh ủy Thái Bình chỉ
đạo các địa phương khẩn trương phối hợp chiến đấu với Đại đoàn 320. Hướng
hoạt động tác chiến ban đầu được xác định chủ yếu là miền bắc Thái Bình,
nơi có khu căn cứ du kích Tiên - Duyên - Hưng - Quỳnh Côi rộng lớn đang bị
địch chiếm đóng. Tuy nhiên, do bị binh đoàn cơ động số 4 (GM4) của địch ra
sức ngăn chặn, nên đại bộ phận lực lượng của Đại đoàn 320 không thể sang
Hưng Nhân mà phải vượt sông vào miền nam Thái Bình. Vì vậy, hướng tác
chiến ban đầu được chuyển xuống địa bàn phía nam tỉnh. Địa bàn cụ thể được
xác định là hệ thống chiếm đóng của địch ở Kiến Xương và Tiền Hải.
Mở đầu đợt hoạt động, ngày 26-1-1952, Tiểu đoàn Đống Đa, thuộc Trung
đoàn 48, Đại đoàn 320 phối hợp cùng du kích phục kích trên đường 39, đánh tan
một trung đội Âu - Phi khi chúng đang trên đường từ Đông Hướng tới Thanh Nê
(Kiến Xương). Trung đội nữ du kích và nhân dân xã Tán Thuật (Kiến Xương) đã
cùng bộ đội xông ra đánh giáp lá cà với địch. Nữ du kích Nguyễn Thị Chiên tay
62
không bắt sống tên trung úy chỉ huy Maduya. Trận mở màn thắng lợi đã gây
tiếng vang lớn, thanh thế của bộ đội chủ lực lan rộng. Tinh thần binh lính trong
các đồn bốt ngụy và vệ sĩ công giáo hoang mang, lo sợ.
Để mở rộng khu du kích nam sông Trà Lý, cơ quan tỉnh đội và một bộ
phận lực lượng của Đại đoàn 320 quyết định tiến công Chi khu quân sự La
Cao (còn gọi là Đông Hướng), nơi đặt đầu mối chỉ huy 19 đồn bốt, trong đó
có cả vị trí do quân Âu Phi chiếm đóng và đồn bốt của bọn vệ sĩ công giáo hai
huyện Kiến Xương, Tiền Hải. Đồn La Cao do một đại đội đóng giữ, có
boongke hầm ngầm kiên cố nối thông giữa các lô cốt hoặc rút theo cửa bí mật
sang đồn khác khi nguy khốn, là một vị trí trung tâm của Chi khu quân sự,
nếu bị tiêu diệt sẽ có tác động quyết định đến số phận của các đồn bốt khác.
Sau gần một tháng bị quân dân địa phương bao vây, địch phải dùng
máy bay chở đồ tiếp tế cho La Cao. Sáng ngày 31-1-1952, Tiểu đoàn Đống
Đa và Tiểu đoàn pháo binh 834 có dân quân du kích phối hợp nổ súng tiến
công La Cao. Sau nửa giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt và bắt sống hai trung
đội địch. Số còn lại rút xuống hầm ngầm cố thủ và tìm cách rút chạy sang đồn
Trà Lý (Tiền Hải). Song chúng bị rơi vào trận địa phục kích của ta. Tên đồn
trưỏng Vôret khét tiếng gian ác và một số tên khác bị bắt sống. La Cao được
giải phóng. Ngay sau đó, các đồn phụ cận như Vũ Lăng, Giáo Nghĩa (Kiến
Xương) đầu hàng. Đến lượt binh lính đồn Trà Lý phải rút chạy.
Phát huy chiến thắng La Cao, bộ đội và du kích liên tiếp tổ chức đánh
vận động phục kích, nội ứng, công kích diệt đồn bốt địch. Tiểu đoàn 66 bộ
đội địa phương tỉnh nhân thời cơ quân địch rệu rã, hoang mang, dùng chiến
thuật bao vây, bức hàng 9 vị trí vệ sĩ công giáo, giải phóng huyện Tiền Hải,
trong đó có Đông Thành, một vùng Thiên chúa giáo tập trung. Từ Tiền Hải,
Tiểu đoàn 66 lại vận động đến phía nam huyện Vũ Tiên, Kiến Xương phối
hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt, bức hàng 12 vị trí lớn
nhỏ, giải phóng gần hết huyện Kiến Xương và khu vực phía nam huyện Vũ
63
Tiên. Đặc biệt đối với vị trí Liên hiệp Pháp ở Hội Khê (Vũ Tiên) và vị trí vệ sĩ
công giáo Cao Mại (Kiến Xương), ta kết hợp giáo dục, thuyết phục kết hợp
với việc dùng áp lực quân sự đấu tranh buộc địch phải nộp vũ khí đầu hàng.
Trước sức uy hiếp mạnh mẽ của bộ đội và dân quân du kích, một loạt
10 đồn bốt do tổng dũng, vệ sĩ đóng giữ thuộc hai huyện Kiến Xương, Vũ
Tiên đã phải ra hàng hoặc rút chạy.
Cho đến đầu tháng 2 -1952, tại nam Thái Bình, các đơn vị của Đại đoàn
320 cùng dân quân du kích, bộ đội địa phương đã giải phóng một vùng rộng
lớn gồm các huyện Kiến Xương, Tiền Hải và phía nam huyện Vũ Tiên. Vừa
tác chiến, bao vây bức hàng các vị trí địch, các lực lượng chủ lực và địa
phương vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân vùng mới
giải phóng, nhất là vùng tập trung đông đảo đồng bào theo đạo Thiên chúa,
hướng bà con tham gia các hoạt động kháng chiến, hỗ trợ cho bộ đội đánh
địch có hiệu quả.
Trong lúc các đơn vị thuộc Trung đoàn 48 phối hợp với Tiểu đoàn 66
(sau đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 705) hoạt động ở khu vực phía nam sông Trà
Lý thì các đơn vị khác của Đại đoàn 320 đã tranh thủ vượt sông Trà Lý đánh
địch ở các huyện Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan.
Tại Thái Ninh ngày 8-12-1952, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 320 tổ chức
tiến công Tiểu khu chợ Cổng (Thái Ninh), diệt và bắt sống 130 tên địch, thu
nhiều vũ khí, trong đó có cả khẩu đại bác 105 ly. Thừa thắng, ngày hôm sau,
đơn vị tiến công vị trí Thanh Đầu. Hoảng sợ trước sức tấn công mạnh mẽ,
quyết liệt của quân ta, một loạt các đồn nhỏ lân cận như Xuân Hòa, Danh
Giáo, Đồng Chanh, Xuân Hải, Cống Cất, Đồng Tỉnh, Sơn Thọ, Các Động,
Bích Du đã nhanh chống đầu hàng khi ta vừa nổ súng. Riêng đối với vị trí
Nghĩa Phong, do một đại đội Liên hiệp Pháp chiếm giữ, Đại đội Lê Lợi, phối
hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện Đông Quan đã tổ chức
tấn công địch liên tục trong một giờ đồng hồ mới chiếm được, diệt và bắt 131
tên. Cho đến giữa tháng 2- 1952, cả huyện Thái Ninh địch chỉ còn hai vị trí là
64
Cầu Sắt và Chùa Khô.
Tại huyện Thụy Anh, trong các ngày 9 và 10-2-1952, Trung đoàn 52 tổ
chức bao vây các vị trí Trà Linh, Diêm Điền, Đông Hòa, Bình Lạng khiến
quân địch ở đây bị cô lập, phải dùng máy bay tiếp tế.
Bị đánh quyết liệt ở Hòa Bình, sông Đà, Ba Vì, đường số 6 và ở Trung
du, lại bị tổn thất nặng nề ở đồng bằng, quân Pháp lâm và tình thế “tiến thoái
lưỡng man” trên mặt trận Hòa Bình. Để đối phó với Đại đoàn 320 và đại đoàn
304 đang hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, đối
phó với hoạt động mạnh mẽ của quân dân Thái Bình cùng quân dân các tỉnh
Tả Ngạn sông Hồng, bộ chỉ huy Pháp buộc phải điều động binh đoàn cơ động
số 4 và số 7, mở cuộc hành binh Crasanh (Mưa Phùn) đánh vào các khu căn
cứ du kích phía nam huyện Đông Quan, sau đó tiến sang các huyện Thụy
Anh, Phụ Dực… nhằm ngăn chặn chủ lực ta phát triển hoạt động lên phía bắc
đường 10 (bắc Thái Bình). Tuy nhiên cuộc hành quân Crasanh của địch đã
không thu được kết quả, trái lại binh đoàn GM4 và GM7 còn bị tổn thất nặng
nề . Hàng trăm lính Âu - Phi bị chết, bị thương và bị bắt. Các Tiểu đoàn Tiên
Yên (d884), Kiên Trung (d337), Thanh Lũng (d868) thuộc Đại đoàn 320 đã
phối hợp với du kích, bộ đội địa phương vừa đánh quân cơ động của địch, vừa
bao vây bức hàng, bức rút một loạt các vị trí địch ở Thái Ninh, Thụy Anh,
Phụ Dực, Duyên Hà.
Phối hợp với mặt trận phía nam tỉnh, mặc dù chưa có sự hỗ trợ trực tiếp
của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các huyện phía bắc cũng tổ
chức bao vây, bức rút, bức hàng một số vị trí như Tạ Xá (Tiên Hưng), Nguyệt
Lãng (Thư Trì), Cần Phán (Quỳnh Côi)…
Trên đà thắng lợi, Ban chỉ đạo Mặt trận Tả Ngạn quyết định chuyển
phần lớn lực lượng chủ lực lên hoạt động ở phía bắc đường 10, khôi phục lại
khu căn cứ du kích Tiên - Duyên - Hưng. Tiểu đoàn Tiên Yên đã phối hợp với
bộ đội địa phương và nhân dân du kích các huyện bao vây, bức hàng một loạt
65
đồn như Dốc Văn, Buộm, Phú Vật, Mỹ Đình (Hưng Nhân), Cúc Đình (Duyên
Hà). Đặc biệt quân dân ta còn quyết định đánh bốt Đào Thành để mở cống lấy
nước tưới cho 3000 ha ruộng lúa của ba huyện Tiên - Duyên - Hưng đang khô
hạn. Để đảm bảo bí mật, bất ngờ, Bộ tư lệnh Đại đoàn 320 quyết định giao
nhiệm vụ đánh vị trí Đào Thành cho Tiểu đoàn Đồng Mít (d 706) thuộc Trung
đoàn 64 đang hoạt động ở Hà Nam. Đêm mùng 9-2-1952, Tiểu đoàn 706 đã
vượt sông Hồng sang địa phận Hưng Nhân(Thái Bình), nổ súng tấn công địch
với khẩu hiệu “Quyết lấy nước về cho đồng bào”. Trận đánh diễn ra quyết liệt
đến rạng sáng 10-2 vẫn chưa kết thúc. Tiểu đoàn 884 thuộc trung đoàn 64 tổ
chức một trận phục kích tại Hà Nguyên trên dường 39, tiêu diệt gọn Đại đội 3
thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 của địch (5e REI) đến cứu viện cho
vị trí Đào Thanh. Thấy đồng bọn bị tiêu diệt, ngay chiều hôm đó, số quân
địch cố thủ ở Đào Thành buộc phải tháo chạy theo đường sông. Cống Đào
Thành đưa nước từ sông Luộc tới các cánh đồng rộng lớn thuộc ba huyện
Tiên - Duyên - Hưng được mở, cứu sống 3000 ha lúa chiêm đang cằn héo.
Lúc mở cống, có người dân đã mang chai hứng dòng nước chảy đầu tiên đem
về đặt lên bàn thờ gọi là “Chai nước cụ Hồ”. Khuếch trương thanh thế Đào
Thành, bộ đội, du kích các huyện Hưng Nhân, Duyên Hà, Quỳnh Côi tiếp tục
chiến đấu diệt thêm năm vị trí địch khiến cho vùng giải phóng và căn cứ du
kích ở Thái Bình ngày càng mở rộng.
Qua hơn một tháng phối hợp với Đại đoàn 320, quân và dân Thái Bình
đã tiêu diệt, tiêu hao, mở vùng giải phóng, làm tròn nhiệm vụ tác chiến góp
phần giam chân địch ở mặt trận địch hậu đồng bằng, tạo điều kiện cho mặt
trận Hòa Bình giành thắng lợi, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn chiếm
đóng Hòa Bình của thực dân Pháp. Hai huyện Kiến Xương, Tiền Hải được
giải phóng. Ba phần tư huyện Thái Ninh và một nửa huyện Thụy Anh cũng
trở về tay chính quyền kháng chiến. Quân và dân ta đã diệt, làm bị thương và
bắt sống 3000 tên địch, khôi phục, củng cố hàng loạt khu du kích, căn cứ du
66
kích tại các huyện Tiên Hưng, Duyên Hà, Hưng Nhân, Quỳnh Côi, Phụ Dực,
Vũ Tiên. Có thể nói hệ thống chính quyền cơ sở ngụy quyền địch ở Thái Bình
đã bị phá rã về cơ bản. Kết quả càn quét, bình định của địch trong suốt những
năm 1950, 1951 trên địa bàn Thái Bình đã bị phá tan chỉ trong thời gian ngắn.
Ta biến vùng địch chiếm ở Thái Bình thành hậu phương và tiền phương của
ta, giành lại quyền làm chủ cho nhân dân. Lực lượng vệ sĩ công giáo, vốn là
nòng cốt bảo vệ các khu tập trung giáo dân và là chỗ dựa đắc lực của thực dân
Pháp ở Thái Bình đa bị giáng một đòn chí tử. Các đội vũ trang tuyên truyền
của ta, theo chân bộ đội chủ lực, đã thâm nhập vào những khu vực công giáo
toàn tòng để tuyên truyền, giác ngộ, động viên giáo dân tham gia kháng chiến.
Phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, từ tháng 1 đến tháng 4-1952, quân
dân Thái Bình cùng bộ đội chủ lực Liên khu 3 đã tiêu diệt, bức hàng, bức rút
75 đồn bốt, cứ điểm của địch (trong đó có 44 vị trí vệ sĩ thiên chúa giáo); bắt
giáo dục và phóng thích tại chỗ gần 2000 vệ sĩ, làm tan rã các lực lượng phản
động, chỗ dựa của quân đội Pháp tại Thái Bình.
Quân dân Thái Bình đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch;
thu nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh của chúng, phá và làm mất hiệu lực
80% tổng số ban tề của địch ở Thái Bình. Bộ máy ngụy quyền các cấp hầu
như rệu rã; giải thoát trên 10 000 thanh niên bị giặc bắt quân dân trong tỉnh
đã. Mở được một vùng giải phóng rộng lớn bao gồm hầu hết các huyện Tiền
Hải, Thái Ninh, Kiến Xương, Thụy Anh. Khu căn cứ du kích đã nối liền giữa
Nam Thư Trì với Nam Vũ Tiên qua Nam Kiến Xương đến Tiền Hải. Khu căn
cứ Bắc Kiến Xương nối liền với khu Bắc Vũ Tiên. Các khu căn cứ du kích
Tiên-Duyên-Hưng, Đông Quỳnh Côi nối với khu du kích Thụy Anh. Các khu
du kích của tỉnh Thái Bình lúc này đã nối liền với các khu du kích của tỉnh
bạn: Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Hà Nam, Nam Định… thành một khu
du kích liên tỉnh rộng lớn của Liên khu 3.
Đây là thắng lợi to lớn của Thái Bình kể từ ngày địch tiến công chiếm
67
đóng (8-2-1950) đã diệt được nhiều sinh lực địch nhất, mở được khu du kích
với diện tích rộng nhất, huy động được đông đảo lực lượng phối hợp chiến
đấu, phục vụ chiến đấu. Đây không những thắng lợi về quân sự, chính trị mà
còn thắng lợi cả về kinh tế. Thắng lợi này đã làm thay đổi tương quan lực
lượng giữa ta và địch tại Thái Bình, tạo ra bước ngoặt quan trọng để đưa cuộc
kháng chiến của tỉnh ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Căn cứ vào kinh nghiệm các trận chống càn trước, ngày 22-3-1952, Ban
Cán sự Tả Ngạn nhận định địch sẽ tập trung lực lượng để càn quét lớn vùng
căn cứ mới mở của ta. Nhiệm vụ cấp bách truớc mắt của quân dân các tỉnh Tả
Ngạn sông Hồng lúc này là: Củng cố các căn cứ, tăng cường các lực lượng vũ
trang chủ lực, địa phương, dân quân du kích.Chuẩn bị sẵn sàng chống các cuộc
càn quét lớn. Tỉnh Thái Bình đã quán triệt, thực hiện chỉ thị của Trung ương và
nhiệm vụ của Ban Cán sự Mặt trận Tả Ngạn giao cho một cách tự giác, tích cực
và hoàn toànchủ động. Ngay khi địch chưa rút Hòa Bình, Tỉnh ủy đã cùng
Đảng ủy Đại đoàn 320 tổ chức quán triệt tình hình nhiệm vụ, học tập kinh
nghiệm chống càn cho chủ lực , bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Đúng như dự đoán của ta, sau khi càn quét Hà Nam, Nam Định, ngày
23-3-1952, thực dân Pháp điều 5 binh đoàn cơ động (GM1, GM2, GM3, GM4
và GM7) cùng nhiều lực lượng, vũ khí phương tiện mở cuộc hành binh Méc-
quya (Thủy Ngân), do đích thân tướng Sa-lăng Tổng chỉ huy quân viễn chinh
Pháp ở Đông Dương chỉ huy cuộc càn quét, đánh phá Thái Bình. Mục đích
của cuộc hành binh nhằm: tiêu diệt hoặc ít nhất cũng đẩy được Đại đoàn 320
ra khỏi Thái Bình; củng cố hệ thống chiếm đóng, chia cắt và đánh phá vùng
du kích Nam đường 10 để bảo vệ thị xã; bắt thanh niên đi lính, cướp phá kinh
tế, phá cơ sở chính trị. Địa bàn địch tập trung đánh phá là Thụy Anh, Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải với diện tích 700km2.
Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1952, sau khi mũi tiến công của địch tạo
thành một vòng vây lớn địch, chúng cho quân bao vây đánh chiếm từng
68
làng.Trong 10 ngày chống càn Thủy Ngân, quân dân Thái Bình bộ đội hai
trung đoàn 48, 52 (Đại đoàn 320), đã đánh trên 200 trận, loại khỏi vòng chiến
đấu 2500 tên, đánh bại trận càn Thủy Ngân của địch
Sự trưởng thành nhanh chóng và những thành tích to lớn của Đảng bộ,
quân dân Thái Bình trong giai đoạn từ 1950 đến năm 1952 đặc biệt là những
thành tích nổi bật trong năm 1952 đã được Hội nghị thi đua toàn quân ngày
12-4-1952 đánh giá cao. Quân dân Thái Bình được Hồ Chủ tịch tặng cờ
“Quân dân một lòng tiêu diệt địch”. Nguyên Xá-làng kháng chiến của huyện
Tiên Hưng thực hiện tốt chủ trương “Ba không” (không lập tề, không làm tay
sai cho giặc, không đi lính ngụy) và “ba được” (đánh được giặc, giữ được
làng, tăng gia sản xuất được) được Hồ Chủ tịch tặng cờ “Nguyên Xá làng
kháng chiến kiểu mẫu”. Toàn tỉnh có 13 chiến sĩ thi đua được bầu chọn đi dự
“ Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc” lần thứ nhất tổ
chức tại Việt Bắc từ 30.4 đến 6.5 năm 1952. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn
Thị Chiên chi ủy viên, trung đội trưởng du kích xã Tán Thuật (Kiến Xương)
vinh dự được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân, là một trong số bốn Anh hùng quân đội đầu tiên, là nữ anh hung
đầu tiên của cả nước.
Đầu năm 1953, trước sự tiến công vây hãm của quân dân trong tỉnh,
quân địch phải rút bỏ một loạt các vị trí: An Tập (Tiên Hưng); Cầu Nại (Hưng
Nhân); Đồng Châu, Tân Mỹ (Quỳnh Côi). Nhiều vị trí khác bị vây hãm,
chúng phải xin tiếp viện bằng máy bay.
Để cứu nguy cho tình thế khốn quẫn đó, trung tuần tháng 1-1953, quân
Pháp lại điều các binh đoàn cơ động GM3, GM4, GM5 và 4 tiểu đoàn pháo
liên tiếp mở hai cuộc hành binh Ác toa và Crapo trong 20 ngày, bắt đầu từ
ngày 16-1-1953 đánh Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực Vũ Tiên và Kiến
Xương nhằm giải vây và tiếp tế cho các đồn bốt đóng trên trục đường 10, 39,
217, xua giãn lực lượng ta. Trong cuôc càn này chúng đã bắt trên 2000 thanh
69
niên, đốt trên 600 nóc nhà, cướp phá hàng chục tấn thóc lúa.
Do đã có kinh nghiệm chống các trận càn lớn trước đây, nên khi địch
đến đâu cũng bị các lực lượng vũ trang và nhân dân dũng cảm đánh trả. Kết
thúc cuộc hành binh này, địch bị chết, bị thương và bị bắt gần 1000 tên.
Với ta, do thủ đoạn của địch thay đổi nên lúc đầu cả 3 thứ quân đều
lung túng. Nhưng sau khi phát hiện được chỗ yếu của địch, không có hỏa lực
mạnh chi viện sẽ không dám tiến quân, đặc biệt không dám dàn mỏng lực
lượng, bộ đội dân quân du kích tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở
của địch. Trong khi chúng đang càn quét, ngày 18-1-1953 Tiểu đoàn Đống Đa
(Trung đoàn 48) đánh chi khu quân sự Quỳnh Côi, một đại đội địch ra hàng.
Mấy ngày sau, Tiểu đoàn 705 (bộ đội tỉnh) về dân quân du kích lại đánh vào
quận lỵ Quỳnh Côi, và đồn Bạch Linh, binh lính địch hoảng sợ bỏ đồn rút
chạy. Khi các binh đoàn quân cơ động rút đi, các đồn địch lại tiếp tục bị ta
vây hãm.
Đến cuối tháng 6-1953 địch phải rút một loạt đồn bốt: Bình Lạng, Nha
Xuyên, Cầu Sắt (Thái Ninh); Trà Linh (Thụy Anh); Go (Đông Quan): Cầu Sa
( Quỳnh Côi); Tuy Lai, Tịnh Xuyên, Nội Trung (Duyên Hà)…. Địch chỉ còn
giữ được các vị trí quanh thị xã, dọc đường 10 và một số đồn bốt đóng ở các
nhà thờ do bọn phản động khống chế được dân. Hoạt động quân sự của địch
lúc này chủ yếu dùng phi pháo để giải vây, tổ chức nhiều cuộc càn quét, tập
kích, biệt kích để bắt lính và phá cơ sở, cướp thóc lúa của nhân dân, duy trì trị
an ở vùng tạm chiếm.
Đến cuối năm 1953, Tỉnh Thái Bình đã có một vùng tự do rộng lớn
chiếm 4 phần 5 đất đai toàn tỉnh. Khu căn cứ du kích và các khu du kích liên
xã, liên huyện, liên tỉnh nối tiếp nhau. Phía bắc có Hưng Nhân, Duyên Hà,
Tiên Hưng, Quỳnh Côi và một phần Phụ Dực. Phía đông nam có Thụy Anh,
Thái Ninh, Tiền Hải và phần lớn hai huyện Vũ Tiên, Kiến Xương… Nhờ đó
cán bộ, bộ đội có điều kiện củng cố tổ chức, chỉnh huấn, chỉnh quân để nâng
70
cao trình độ tác chiến, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Đến đầu tháng 12-1953, bộ đội tỉnh đã có một tiểu đoàn và 3 đại đội
độc lập, mỗi huyện có 1 đại đội và 1 trung đội dự bị bổ sung. Tổng số bộ đội
tỉnh, huyện có 3.184 người, trong đó có 726 đảng viên. Du kích tập trung, mỗi
xã có từ 1 trung đội đến 1 đại đội. Tổng số du kích toàn tỉnh có 15394 người.
Chấp hành chỉ thị của Tổng Quân ủy, Khu ủy Tả Ngạn về hoạt động
Đông – Xuân 1953-1954; và chỉ thị khẩn về chống phá càn của đồng chí Bí
thư Khu ủy, ngày 17-11-1953, Tỉnh ủy Thái Bình họp ra nghị quyết với nội
dung trọng tâm là “ …Toàn bộ công tác của ta là ở địch hậu, nhiệm vụ đấu
tranh lúc nào cũng là chủ yếu”[16, 393]. Nghị quyết nhấn mạnh “ Phát huy
tinh thần công kích địch thật mạnh mẽ, đánh mạnh để thu hút lực lượng địch
làm nhẹ cho chiến trường khác”[16, 393]. Về nhiệm vụ tác chiến: “Đánh địch
ở vùng du kích, căn cứ du kích là chính, đồng thời mạnh bạo tập kích phá
hoại kho tang, cơ quan đầu não, trường đào tạo sĩ quan của địch, diệt bọn đại
gian ác trong vùng tạm chiếm”[16, 393]. Tỉnh ủy phổ biến tình hình địch,
nhiệm vụ chống càn cho các huyện phía Nam và giao cho Tỉnh đội có trách
nhiệm kiểm tra đôn đốc, điều động lực lượng.
Sau hội nghị, Tỉnh đội điều Tiểu đoàn 53 xuống hai huyện Kiến Xương,
Tiền Hải tăng cường cho địa phương chống phá càn. Các cơ quan, ngành giới
cử cán bộ xuống cơ sở hướng dẫn nhân dân phân tán kho tàng, cất dấu của cải,
gặt nhanh lúa mùa; gặt đến đâu, cất giấu ngay đến đấy; đào thêm công sự tránh
phi pháo; chuẩn bị thuyền, bè, bến bãi bảo đảm vận chuyển khi cần thiết.
Thấy không thể xua dãn lực lượng ta và giải vây bằng phi pháo, cuối
năm 1953 quân Pháp tập trung binh hỏa lực mở hai cuộc càn lớn vào các khu
du kích của tỉnh nhằm giải vây cho các đồn; tăng cường bảo vệ thị xã ; bảo vệ
giao thông; phá căn cứ du kích, khu du kích đồng thời cướp thóc lúa, bắt lính.
Ngày 27-11-1953, địch mở cuộc hành quân Buýp- phlơ, với lực lượng
gồm 3 binh đoàn cơ động, có cả xe tăng pháo binh, máy bay, tàu chiến hỗ trợ
71
chia ra thành nhiều mũi đánh vào hai huyện Kiến Xương, Tiến Hải.
Do có sự chuẩn bị chu đáo, tiểu đoàn 53 sát cánh cùng quân dân 2
huyện chủ động chiến đấu. Khi quân địch tiến xuống Kiến Xương, một xe cơ
giới bị trúng mìn nổ tung. Hàng chục tên bị thụt hố chông. Buổi tối, khi địch
trú quân tại Phố Nê ( Kiến Xương) lại bị du kích Tán Thuật tập kích, diệt và
làm bị thương một số tên. Tại huyện Tiền Hải, quân dân địa phương đã loại
khỏi vòng chiến đấu 225 tên, phá hủy hai xe tăng, đánh hỏng nặng 6 xe cơ
giới. Đây là chiến thắng phá càn lớn nhất của quân dân Tiền Hải tính đến đầu
năm 1954.
Trong khi địch đang càn quét các huyện phía Nam, được tin cơ sở của
ta từ thị xã báo ra, sở chỉ huy cuộc hành binh của địch có nhiều sơ hở. Sau khi
tiến hành trinh sát, một đại đội của Trung đoàn 50 táo bạo tập kích sở chỉ huy
địch ngay trong đêm 4-12-1953. Trận đánh diễn ra trong 10 phút, trên 100 tên
địch bị bắt và bị giết, 28 xe cơ giới bị phá hủy.
Đây là trận tập kích đầu tiên vào sở chỉ huy của dịch ở Thái Bình, là kết
quả của tư tưởng chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở vùng địch hậu của Trung
ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh. Trước thất bại đau đớn này, thực dân Pháp
phải bỏ dở cuộc hành binh mà chúng dự định tiến hành vào ngày 5-12-1953.
Ngày 12-12-1953, quân Pháp điều 6 binh đoàn cơ động và một số lực
lượng khác cùng nhiều vũ khí phương tiện mở cuộc hành quân Giéc- phô, kéo
dài hơn 1 tháng, đánh vào địa bàn tỉnh Thái Bình.
Những ngày chiến đấu chống 2 trận càn Buýt-phlơ và Giéc-phô, lực
lượng ta không còn bị động đối phó với địch như trước. Mặc dù địch tập trung
quân số đông hơn cả cuộc hành quân Méc-quya; nhưng dân quân du kích đã
đủ sức độc lập bám làng chống càn để bộ đội chủ động tìm địch mà đánh. Thế
trận ấy làm cho địch khi càn đến nơi nào, đến làng xóm nào cũng đều khiếp
sợ. Ngay khi quân địch dừng chân, trú quân ban đêm thậm chí cả ban ngày
trong và ngoài vòng càn cũng đều bị quân dân ta bất ngờ tiến công và bị
72
thương vong nhiều.
Trong đợt phá càn này, xuất hiện nhiều đơn vị, địa phương chiến đấu
dũng cảm kiên cừơng. Dân quân du kích xã Vân Trường (Kiến Xương) trong
5 ngày đánh địch 27 trận. Dân quân du kích xã An Đồng (Duyên Hà) đánh
địch suốt 9 ngày liền càng đánh càng thêm hăng hái. Dân quân du kích các
làng Tiểu Hoàng, Thư Điền, An Khang (Tiền Hải) đánh địch 37 trận trong
suốt cuộc càn của địch, diệt và làm bị thương 124 tên. Quân dân thôn Kinh
Nhuế (Kiến Xương) chống lại 2 tiểu đoàn địch liên tục trong hai ngày, địch
không vào được làng. Khi chúng rút, du kích truy đuổi, giải thoát được một số
thanh nên bị chúng bắt.
Bộ đội huyện và du kích các xã với vũ khí bộ binh kết hợp với chông
mìn, cạm bẫy dày đặc và thế trận làng xã chiến đấu liên hoàn là lực lượng
chống phá càn có hiệu quả nhất trong đợt chống phá càn quét này. Quân dân
Duyên Hà đánh địch từ ngày 18-12-1953 đến ngày 10-2-1954 diệt 262 tên,
làm bị thương 153 tên, phá hủy 2 xe tăng, 2 ô tô vận tải. Riêng ở Duyên Hà
địch vấp nổ 64 quả mìn và địa lôi, thụt 108 hố chông. Huyện Kiến Xương chỉ
trong hai trận càn, quân địch đã bị thụt 526 hố chông.
Tổng cộng trong cuộc chiến đấu chống hai trận càn quét này , quân dân
Thái Bình đã tiêu diệt, làm bị thương, bắt sống, làm tan rã gần 5000 tên địch,
phá hủy và thu được nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Sau những
trận càn quét này, địch buộc phải rút thêm 9 đồn bốt để tránh bị vây hãm.
Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy và Khu ủy Tả Ngạn, từ tháng 2-1954,
quân dân địa phương tiếp tục vây ép các đồn bốt còn lại với mức độ cao hơn;
vừa gọi loa địch vận; vừa đốt rào gỡ mìn, đào giao thông hào, đào hố vào sát
đồn bốt bắt lính gác, khống chế địch, chặn giao thông tiếp tế, bắn máy bay,
thả dù… làm cho địch càng thêm khốn quẫn.
Trước tình hình ấy, địch phải liên tục mở các cuộc hành quân càn quét
73
hòng xua dãn bộ đội chủ lực để bảo vệ thị xã và tuyến đường 10; nhưng đến
đâu, quân cơ động địch cũng bị du kích, bộ đội ta chặn đánh. Trong 3 ngày
chống càn quân dân huyện Thư Trì diệt 96 tên, làm bị thương 161 tên.
Mở các trận càn vào Thái Bình, ngoài mục đích phá các làng kháng
chiến, tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, địch còn tìm mọi cách dồn dân vào các
khu tập trung hòng khiến cho bộ đội, du kích mất chỗ dựa. trong các khu tập
trung dân, nổi tiếng nhất là khu Thân Thượng (Kiến Xương). Nơi có tới 4000 dân bị địch bắt dẫn về. Khu này rộng trên 3km2 , bao trùm cả thôn Đông,
thôn Quán, giữa có nhà thờ lớn mà bọn phản động đã biến thành một đồn lớn.
Lực lượng địch ở đây có 157 tên và nhiều tên phản động ở nơi khác chạy về,
vì vậy chúng bảo vệ rất nghiêm ngặt, tổ chức phòng thủ kiên cố.
Quyết tâm tiêu diệt vị trí này, Tỉnh đội giao cho cấp ủy, chỉ huy tiểu
đoàn 53 lên phương án tiến công . Được sự hỗ trợ của dân quân du kích, Tiểu
đoàn bí mật trinh sát, nghiên cứu, nắm tình hình. Ngày 10-2-1954, tiểu đoàn
53 do đồng chí Trương Thuận, phó Bí thư chi bộ, quyền tiểu đoàn trưởng chỉ
huy, có sự phối hợp của bộ đội và du kích các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên,
Tiền Hải đã hóa trang kỳ tập đồn địch. Chưa đầy 30 phút chiến đấu, ta đã làm
chủ trận địa, tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống trên 100 tên địch, thu nhiều
vũ khí, quân trang, quân dụng.
Trận thắng Thân Thượng nhanh chóng được Bộ tư lệnh khu Tả Ngạn
thông báo cho các tỉnh, các đơn vị trong toàn khu nghiên cứu học tập để rút
kinh nghiệm, đánh những đồn bốt tương tự.
Chiến thắng Thân Thượng là một đòn chí mạng đánh vào âm mưu dồn
làng tập trung dân của địch ở Thái Bình, giải phóng 4000 đồng bào, đập tan
được tổ chức địa phương quân do bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo
dựng lên ở đây từ hơn 3 năm trước. Chiến thắng Thân Thượng làm cho đồng
bào giáo dân tận mắt thấy rõ những việc làm tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ,
đồng bào càng cảm phục tinh thần kỷ luật, lòng thương dân của bộ đội, đánh
74
giặc nhưng hết sức bảo vệ dân, bảo vệ tôn giáo, tín ngưỡng.
Mất Thân Thượng, quân Pháp ở Thái Bình không đủ sức để tái lập lại;
vì lúc này trước sự lớn mạnh của quân và dân ta vấn đề quan trọng hơn mang
tính sống còn đối với chúng là phải bảo vệ đường giao thông và thị xã. Mối đe
dọa Cầu Nguyễn và đường 10 là làng chiến đấu Nguyên Xá (Tiên Hưng).
Làng Nguyên Xá cách thị xã Thái Bình 12km, cách đường 10 khoảng 500m,
xung quanh làng có ngòi nước bao bọc, phía trong ngòi có lũy tre gai ken dầy,
kín đáo. Dựa vào địa hình nhâ dân và dân quân du kích đã xây dựng 13km
giao thông hào, 7.300 hầm các loại, 23000 hố chiến đấu cá nhân. Cả xã có 4
cổng ra vào theo một đường độc đạo. Muốn khai thông đường quốc lộ 10 địch
buộc phải phá cho được làng kháng chiến này. Vì vậy chúng đã sử dụng Binh
đoàn cơ động số 8, tập trung càn quét và đánh phá làng kháng chiến Nguyên
Xá từ ngày 20 đến ngày 25-2-1954.
Một lần nữa quân dân Nguyên Xá đã thể hiện tinh thần anh dũng, kiên
cường đánh thắng quân địch đông hơn mình gấp bội. Dựa vào dân, 80 du kích
Nguyên Xá, trong đó có 24 đảng viên với vũ khí gồm 1 trung liên, 1 tiểu liên,
40 súng trường, cùng chông mìn, cạm bẫy, đã kiên cường đánh trả các đợt
tiến công của hàng ngàn tên địch.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ và Ban chỉ huy xã đội, du kích Nguyên Xá
đánh địch suốt 5 ngày liền, tiêu diệt và làm bị thương 88 tên trong đó có một
quan ba Pháp, 26 tên thụt hầm chông, 33 tên bị trúng mìn. Địch không vào
được làng.
Thắng lợi của quân dân Nguyên Xá chứng tỏ sự trưởng thành nhanh
chóng của lực lượng dân quân du kích địa phương; đồng thới đánh dấu thời
kỳ suy yếu và bất lực của những binh đoàn cơ động Pháp.
Có thể nói tháng 2-1954 là một tháng hoạt động mạnh, chiến đấu đạt
hiệu quả cao của bộ đội tỉnh, huyện và dân quân du kích Thái Bình trong
75
chống càn và đánh phá giao thông địch. Lực lượng vũ trang toàn tỉnh đã đánh
114 trận, diệt, bắt sống và làm bị thương gần 1000 tên địch; thu và phá hủy
nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng.
Thực hiện nghị quyết “ Đẩy mạnh nhiệm vụ phối hợp với chiến trường
chính” của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tỉnh đội, huyện, thị đội và các địa
phương trong tỉnh đều sớm đề ra kế hoạch tác chiến và kế hoạch phục vụ
chiến trường của địa phương mình và đơn vị mình.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường chính, bộ đội và du kích các huyện Đông Quan,
Phụ Dực, Thái Ninh, Quỳnh Côi đồng loạt tấn công bao vây các vị trí địch.
đánh phá giao thông . Một loạt các vị trí địch ở Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đường
10, đường 39… sông Luộc, sông Hóa, bị vây hãm, đặt mìn…
Bên cạnh nhiệm vụ tác chiến, các huyện, xã đều củng cố tăng cường lực
lượng vũ trang và dân công hỏa tuyến. Các đại đội bộ đội huyện 217 và 218
của Quỳnh Côi, Phụ Dực, sau khi bổ sung cho bộ đội chủ lực của khu và bộ
đội tỉnh, được tuyển thêm quân số, mỗi đại đội có 4 trung đội. Vũ khí, trang bị
cũng được tăng cường.
Các đoàn dân công hỏa tuyến của các xã được thành lập dưới sự lãnh
đạo chỉ đạo của cấp ủy địa phương có đảng viên làm nòng cốt, sẵn sàng nhận
lệnh đi phục vụ chiến trường. Các địa phương đều coi công tác chuẩn bị chiến
trường và phối hợp với chiến trừơng chính là nhiệm vụ trọng tâm.
Ngày 28-3-1954, một đơn vị của Trung đoàn 64 (chủ lực khu) hỗ trợ bộ
đội huyện và du kích địa phương bao vây bức hàng vị trí Mụa Đông (Duyên
Hà). Bộ đội tỉnh hỗ trợ bộ đội huyện Vũ Tiên diệt vị trí quận lỵ Vũ Tiên…
Ngày 14-4-1954, Ban thường vụ Tỉnh ủy họp ra Nghị quyết “ Động
viên toàn Đảng, toàn dân trong tỉnh thi đua hoàn thành nhiệm vụ chi viện
chiến trường , tích cực hoạt động phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ”.
Thực hiện chủ trương trên, quân dân trong tỉnh tích cực nhằm vào
76
những chỗ sơ hở của địch mà đánh.
Trung tuần tháng 4-1954, Tiểu đoàn 53 tuy đã có lệnh bổ sung cho khu
Tả Ngạn, nhưng vẫn hiệp đồng với 1 trung đội của trung đoàn 64 phục kích
đánh 1 tiểu đoàn ngụy đi càn trên đường 218 thuộc địa bàn huyện Phụ Dực,
tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống gần 100 tên địch. Trước sự tấn công và
vây ép của ta, địch buộc phải rút khỏi Trực Định, Quan Đình, Bất Nạo (Thụy
Anh). Quân và dân huyện Thụy Anh diệt đồn Kha Lý, Vân Am… Địch hoảng
sợ rút chạy, hệ thống phòng thủ sông Hóa của chúng bắt đầu tan vỡ.
Chỉ tính riêng trong tháng 4-1954, tháng phối hợp với Điện Biên Phủ,
quân dân Thái Bình đã đánh 197 trận, diệt và làm bị thương gần 1000 tên
địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới.
Cùng với việc đẩy mạnh đánh địch, Thái Bình còn bổ sung cho khu Tả
Ngạn tiểu đoàn 53 bộ đội tỉnh và nhanh chóng xây dựng tiểu đoàn mới lấy
phiên hiệu là tiểu đoàn 54. Cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 54 đều là những cán bộ
chiến sĩ bộ đội địa phương và du kích các huyện xã đã dày dạn kinh nghiệm
chiến đấu.
Từ tháng 2 đến tháng 5- 1954, thanh niên trong tỉnh hăng hái tòng quân,
bổ sung kịp thời cho bộ đội chủ lực gần 3000 người. Nhiều đảng viên trong
lực lượng dân quân du kích xung phong nhập ngũ. Dân công Thái Bình ngày
nào cũng có hàng nghìn người gánh gạo, vượt sông Hồng, sông Đáy đi phục
vụ chiến dịch.
Càng nguy khốn ở chiến trường chính Điện Biên Phủ địch càng tăng
cường bắt lính ở đồng bằng. Tại Thái Bình chúng bắt cả nữ thanh niên Thiên
chúa giáo vào lính. Chống lại âm mưu này của địch, tháng 4-1954 toàn tỉnh tổ
chức 116 hội nghị “Thanh niên chống địch bắt lính” với 16.000 thanh niên
tham dự. Thư của Hồ Chủ Tịch “Gửi thanh niên trong vùng tạm chiếm” là tài
liệu học tập hướng dẫn cho thanh niên đoàn kết chống bắt lính.
Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bị quân ta tiêu diệt.
77
Tin chiến thắng truyền về làm nức lòng Đảng bộ, quân và dân Thái Bình.
Càng phấn khởi quân dân trong tỉnh càng tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động và
ra sức tiến công, vây hãm các đồn bốt địch. Thấy không thể đứng vững được,
trong tháng 5-1954, một loạt đồn địch trong tỉnh đã theo nhau rút chạy.
Không những đẩy mạnh mọi hoạt động trong tỉnh, một số đơn vị bộ đội
tỉnh, huyện, du kích xã nơi không còn giặc đã xung phong sang các tỉnh bạn
phối hợp tác chiến. Tiểu đoàn 54 phối hợp với bộ đội Khu Tả Ngạn phục kích
đánh tàu địch vận chuyển trên sông Luộc; tập kích một tiểu đoàn của địch
đóng ở Đông Tạ (Vĩnh Bảo- Kiến An). Đại đội 5 (Tiền Hải) và du kích một số
xã trong hai tháng 4 và 5 đã sang mặt trận đường 5 cùng bộ đội chủ lực thu,
tiêu diệt 3 đồn địch ở địa phận Hưng Yên.
Chào mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo sát sao của
các cấp ủy địa phương, của cấp ủy các chi bộ thuộc bộ đội tỉnh, huyện, quân
dân Thái Bình trong tháng 5-1954 đánh 238 trận, diệt và làm bị thương, bắt
sống hàng ngàn tên, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Trước tình hình thuận lợi, từ ngày 26 đến ngày 28-5-1954, hội nghị Tỉnh
ủy họp mở rộng quyết định một số nhiệm vụ quân sự trong thời gian tới là:
“ Bao vây từng vị trí có khác nhau, nhưng đều phải phục vụ cho việc
thu hoạch mùa màng của nhân dân, vì vậy dù thắt chặt hay nới rộng phải chú
ý mấy điểm sau: bao vây phải tranh thủ sự đồng tình của nhân dân; Bàn bạc
với dân tìm mọi cách thu hoạch, như tổ chức gặt đêm; nơi gặp khó khăn quá
có thể áp dụng đấu tranh chính trị hợp pháp để gặt lúa; đánh mìn, phá hoại
giao thông trên tất cả các tuyến đường có địch thường qua lại.
Tích cực chống càn nhỏ, chống địch phục kích, tập kích.”[14, 378]
Hội nghị thông qua 5 phương châm tác chiến của các lực lượng vũ trang
là: “giành thế chủ động đánh địch, nhưng phải chú trọng phá những cuộc càn
quét to, nhỏ tiêu diệt được nhiều sinh lực địch; đánh nhỏ ăn chắc, đánh ngoài
công sự là chính; đánh đêm là chính, nhưng phải khắc phục khó khăn đánh cả
78
ban ngày, những vùng tạm chiến có điều kiện chuyển lên đấu tranh vũ trang,
phải chuyển kịp thời; hoạt động quân sự phải kết hợp đấu tranh chính trị, đấu
tranh kinh tế trong vùng tạm chiếm; tác chiến là chủ yếu, đồng thời phải tranh
thủ xây dựng lực lượng”[14, tr378].
Tháng 6-1954, nhiều đồn bốt địch bị bao vây chặt. Dân quân du kích ở
các địa phương có đường 10, đường 39 chạy qua đã cắt phá đường, đắp ụ,
ngăn chặn địch rút chạy. Dân quân du kích xã Tô Công (Phụ Dực) huy động
hàng nghìn cây tre, cây xoan cắm kè ngăn sông Hóa, chặn đường tiếp tế của
tàu chiến và ca nô địch.
Bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang tỉnh tìm mọi sơ hở của địch để
đánh. Ngày 7-6-1954, tiểu đoàn 652 thuộc Trung đoàn 50 cùng Đại đội 218
(Phụ Dực) phục kích đánh địch trên đường 218, diệt 30 tên, bắt sống 13 lính
Âu Phi. Trung tuần tháng 6-1954, một tiểu đoàn của Trung đoàn 64 có bộ đội
du kích huyện Tiên Hưng phối hợp tiêu diệt đồn Đình Thượng. Ngày 23-6-
1954 bộ đội trung đoàn 64 có bộ đội du kích huyện Đông Quan phối hợp diệt
đồn An Lễ bằng nội ứng. Ngày 27-6-1954, Đại đội 125 của tỉnh diệt đồn La
Uyên (Thư Trì).
Hoạt động mạnh của ta khiến cho địch không thể chống đỡ nổi. Nhiều
nơi chúng hoảng hốt rút chạy. Hạ tuần tháng 6-1954, thị xã Thái Bình thực sự
náo động, nhiều gia đình công chức, các nhà buôn tới tấp chuyển gia đình đi
Nam Định, Hà Nội. Đồng bào lao động, buôn bán nhỏ kéo nhau ra vùng tự do.
Trong khi ấy lực lượng ta tích cực hoạt động binh vận. Phong trào bỏ ngũ, rã
ngũ trong binh lính địch diễn ra ngày càng mạnh mẽ, liên tục. Tại Tân Đệ, một
đại đội ngụy rã ngũ gần hết. Ở Thư Trì, có xã một ngày đón 70 hàng binh.
Cuối tháng 6-1954, Tỉnh Thái Bình nhận được điện thông báo của bộ
Tổng Tư lệnh: Địch sẽ rút khỏi Thái Bình và cả Nam đồng bằng Bắc bộ.
Ngay lập tức Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính, Tỉnh đội và Ban chỉ
79
huy Trung đoàn 64 khẩn trương điều động lực lượng bố trí đánh địch.
Sáng ngày 30-6-1954, quân địch ở Cầu Nguyễn, Phong Lôi, Đông Các
rút chạy về thị xã. Đến 11 giờ, quân địch về tới ngã tư Gia Lễ. Lực lượng của
ta bố trí ở khu vực này có trung đoàn 64, Đại đội 2 ( Đông Quan) và đại đội 5
( Tiền Hải) bất ngờ nổ súng đánh địch, tiêu diệt và làm tan rã 1 tiểu đoàn địch,
thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện. Đến 17 giờ ngày 30-6-1954, tàn
quân địch rút vào thị xã sợ ta truy kích, chúng giật mìn phá sập cầu Bo. Đến
22 giờ 30 phút, cùng một lúc toàn bộ quân Pháp ở thị xã rút theo ba đường:
đường thủy từ cầu Bo theo sông Trà Lý ra cửa Thượng Lỗ bằng ca nô và tàu
thủy. Đường bộ từ thị xã theo đường 10 ra Tân Đệ sang Nam Định và từ thị
xã theo đường 223 qua Cọi Khê ra Thái Hạc đến sông Hồng. Ở đâu địch cũng
đều bị bộ đội và du kích ta chặn đánh.
Rạng sáng ngày 1-7-1954 cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc dinh Tỉnh
trưởng ngụy quyền. Đến 9 giờ sáng cùng ngày , các đơn vị bộ đội tỉnh, bộ đội
các huyện Kiến Xương, Đông Quan và bộ đội Trung đoàn 64 tiến vào tiếp
quản thị xã Thái Bình. Lúc này trên địa phận tỉnh Thái Bình vẫn còn 10 đồn
địch đóng ở Phụ Dực, Thụy Anh (nằm trong hệ thống séc tơ Vĩnh Ninh). Tại
đây chúng đã bị bao vây, tinh thần binh lính hoang mang cực độ. Đêm 20-7-
1954 trước giờ ngừng bắn, một đại đội ngụy ở Dục Linh đã ra hàng tại An
Bài, chính quyền địa phương tiếp đón, tạo điều kiện thuận lợi cho họ về quê
hương. Số đồn còn lại đến cuối tháng 8-1954 địch mới rút hết.
Từ đây Tỉnh thái Bình sạch bóng quân xâm lược, Đảng bộ, quân và dân
80
Thái Bình phấn khởi bước sang thời kỳ mới.
Tiểu kết chƣơng 2
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi.
Trong niềm vui chung của cả nước, Đảng bộ và quân, dân Thái Bình tự hào
đã có đóng góp rất xứng đáng vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Là tỉnh tự do duy nhất cuối cùng của Tả Ngạn sông Hồng, suốt trong
giai đoạn từ năm 1946 đến hết tháng 1-1950, tỉnh Thái Bình thực sự là chỗ
dựa vững chắc tin cậy của Liên Khu 3 và các tỉnh lân cận Nam Định, Hà
Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An. Dưới sự lãnh đạo có hiệu quả, sâu sát
của các cấp ủy đảng, quân dân trong tỉnh vừa nhanh chóng xây dựng tiềm lực
cho cuộc kháng chiến, phát triển kinh tế, phát triển xây dưng lực lượng vũ
trang, xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng…Lực lượng dân quân du
kích phát triển nhanh chóng đặc biệt từ có Sắc lệnh của Chính phủ về thành
lập Tỉnh đội dân quân.
Ngày 8-2-1950, thực dân Pháp cho quân đánh chiếm Thái Bình, từ đây
quân dân Thái Bình phải trực tiếp đương đầu với một kiểu chiến tranh tổng
lực. Đảng bộ quân và dân trong tỉnh với sự hỗ trợ của các đơn vị chủ lực Liên
khu 3, Khu Tả Ngạn và các địa phương đã kiên trì chiến đấu, giành giật với
địch. Cuộc chiến tranh diễn ra càng khốc liệt thì phong trào kháng chiến ở địa
phương càng phát triển mạnh. Bộ đội chủ lực kết hợp chặt chẽ với bộ đội địa
phương, dân quân du kích cùng toàn dân tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân
chống kẻ thù xâm lược.
Trong quá trình tổ chức lãnh đạo cuộc chiến tranh du kích trong thế trận
chiến tranh nhân dân trên địa bàn, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng địa
phương luôn được phát huy có ý nghĩa quyết định. Mối liên hệ giữa Liên khu
ủy , Tỉnh ủy và cấp ủy các địa phương, đơn vị luôn được đề cao, tạo nên sự
thống nhất trong chỉ đạo điểu hành phong trào chiến ranh du kích trên địa bàn.
Trong thời kỳ này, hầu hết các nghị quyết của Tỉnh ủy đều đặt công tác quân
81
sự lên hàng đầu; và từng đảng viên thấm nhuần công tác đó. Tỉnh ủy lãnh đạo
đảng bộ và nhân dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, bổ sung cho bộ
đội chủ lực trên 3 sư đoàn; củng cố, phát triển bộ đội địa phương và dân quân
du kích từ những đơn vị nhỏ đến chỗ có gần 2 vạn dân quân du kích, 12 đại
đội bộ đội địa phương huyện và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Tỉnh, với trang
bị kỹ, chiến thuật tương đối mạnh, làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh du kích,
góp phần quyết định vào việc hình thành, phát triển và phát huy hiệu quả của
82
thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn.
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1 Một số nhận xét
3.1.1 Ưu điểm
Thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố.
Trước hết đó là sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối kháng chiến
đúng đắn, sáng tạo qua những chỉ thị quan trọng “ Kháng chiến kiến quốc”, “
Hòa để tiến”, “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “ Toàn dân kháng chiến”
… Đó chính là những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Để phát động chiến tranh nhân dân, Đảng không
chỉ xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, xây dựng quân đội nhân dân mà
còn chú trọng xây dựng các khu căn cứ du kích nhằm huy động và bồi dưỡng
nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến, đảm bảo việc cung cấp sức người, sức
của cho cuộc kháng chiến lâu dài. Đường lối, chủ trương kháng chiến đó đã
được Ban chấp hành đảng bộ Thái Bình quán triệt, vận dụng đúng đắn, phù
hợp với hoàn cảnh địa phương, từng bước tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ của sự nghiệp kháng chiến và đưa sự nghiệp
kháng chiến của địa phương ngày càng phát triển.
Là một Đảng bộ được thành lập sớm. Đảng bộ Thái Bình đã xây dựng
được một đội ngũ đảng viên đông đảo, đoàn kết và được rèn luyện thừ thách
trong đấu tranh cách mạng nên có tinh thần tận tụy hy sinh hết lòng, hết sức
phục vụ nhân dân. Thực hiện đường lối quân sự của Đảng. Đảng bộ đã
thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang, hết sức coi
trọng công tác tư tưởng, chính trị, công tác xây dựng Đảng. Thực hiện chủ
trương “ toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” do Trung ương Đảng
83
đề ra, đảng bộ đã sớm quán triệt và biết vận dụng phương châm đấu tranh ở
vùng tạm chiếm nhằm đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn,
góp phần vào thắng lợi của sự ngiệp kháng chiến. Trong việc chỉ đạo quân sự
Đảng bộ Thái -bình còn biết nắm quy luật, vận dụng thời cơ, linh hoat phối
hợp chặt chẽ với hoạt động của chiến trường, biết nhằm những chỗ sơ hở nhất
của địch để tấn công. Biết kết hợp lãnh đạo thống nhất giữa các ngành để
phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm từng thời kỳ. Nhất là về mặt chỉ đạo toàn
diện. Trên cơ sở mặt trận dân tộc thống nhất ngày được củng cố và không
ngừng phát triển; Tỉnh Đảng bộ Thái-bình đã tổ chức và động viên được cả
một khối nhân dân lao động lương, giáo gồm 95% dân số trong tỉnh, dựa vào
chính sách đoàn kết, lấy nguyên tắc công nông liên minh làm nền tảng lôi kéo
và huy động được các tầng lớp khác tập chung người và của vào đánh đế
quốc, trong đó có cả tầng lớp than hào than sĩ, địa chủ yêu nước… Nhân dân
lao động Thái-bình , dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng từ cụ già em nhỏ,
thợ thuyền, nông dân, trí thức, nhà sư, nhà giáo…tất cả đều đứng dậy kháng
chiến và đóng góp nhân vật lực phục vụ tiền tuyến. Họ đã bỏ đình chùa, mang
áo tế, áo nậu, cờ thần ra may áo cho bộ đội, các tập quán lâu đời như lềnh lệ,
phe giáp đều được hết sức tiết kiệm để dành tiền nuôi quân, các đám cưới xin
chuyển từ hình thức thách ăn uống, thách tiền của sang hình thức thách mìn,
lựu đạn, thách dao găm mã tấu để lấy vũ khí ủng hộ dân quân du kích đánh
giặc. Khi giặc tới, bà già cũng xung phong đi đặt chông mìn, cạm bẫy, các em
nhỏ tình nguyện đi làm giao thông liên lạc trinh sát. Người khỏe đánh giặc
trực tiếp ở tiền tuyến, người yếu làm công tác tiếp tế vận tải, nuôi dưỡng
thương binh ở hậu phương. Hàng triệu người đều đánh giặc, cho nên kẻ địch
tuy hung ác, nhưng bị hãm vào thế bao vây dầy đặc của toàn dân khiến chúng
càng bị nguy khốn.
Đảng bộ Thái Bình còn được Khu ủy Liên khu Ba và sau đó là Khu ủy
Tả ngạn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn. Cuộc
kháng chiến trên địa bàn thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân trong đó chiến
84
tranh du kích, tác chiến du kích có vai trò hết sức quan trọng.
Cuộc kháng chiến ở Thái Bình là một cuộc chiến tranh du kích mang
tính chất toàn dân, toàn dân tham gia chiến tranh, thực hiện mỗi người dân là
một người lính, mỗi xóm làng là một pháo đài. Nhân dân Thái Bình, mà lực
lựơng chủ yếu đông đảo nhất là nông dân sẵn có lòng yêu nước nồng nàn, tinh
thần đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, được Đảng giác ngộ và
tổ chức, đoàn kết và quyết tâm kháng chiến đến cùng vì độc lập tự do với tinh
thần “ thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”[70;tr 62]. Ngay từ khi mở đầu cuộc kháng chiến, già trẻ, gái
trai đều tham gia đánh địch. Đó là cơ sở vững chắc nhất để chống lại kẻ thù
bằng mọi hình thức, từ hình thức phá hoại, bất hợp tác với giặc, chống sự áp
bức bóc lột của giặc đến phá tề, giành quyền làm chủ, tham gai lực lượng vũ
trang, xây dựng làng chiến đấu, cùng bộ đội và dân quân du kích chiến đấu
đánh trả các cuộc càn quét, cướp phá, dồn dân, bắt lính của địch, tiến lên xây
dựng các khu du kích, căn cứ du kích trong lòng địch. Biến hậu phương của
địch thành tiền phương của ta khiến hậu phương của chúng không bao giờ ổn
định, biến hậu phương địch thành hậu phương của ta.
Đánh giặc giữ làng là truyền thống của dân tộc ta, nhân dân đồng bằng
Bắc Bộ nói chung và nhân dân Thái Bình nói riêng. Truyền thống đó được kế
thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng vào nhiệm vụ cụ
thể là xây dựng làng kháng chiến, biến mỗi làng xã thành một pháo đài, mỗi
căn nhà, mỗi thửa ruộng, mỗi khóm tre thành một trận địa chiến đấu, gắn chặt
giữ nước với giữ làng, thực hiện “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. “ Làng là
cơ sở gốc rễ của chiến tranh du kích, là nơi quân dân đánh giặc bảo vệ mình.
Địa hình và cấu trúc làng xóm rất thuận tiện cho tác chiến du kích. Làng là cơ
sở của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện” [40; tr.61,62]. Làng là nơi có
thể huy động mọi người tham gia đánh giặc, đánh giặc bằng mọi vũ khí trong
tay, có thể phát động và duy trì một cuộc chiến tranh du kích lâu dài. Ở Thái
85
Bình, Đảng bộ, quân dân địa phương còn xây dựng nhiều làng chiến đấu liên
hoàn hợp thành một khu du kích hoặc căn cứ du kích. Làng là một thành tố
không thể thiếu trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc,
làng chiến đấu là thành tố không thể thiếu của chiến tranh du kích. Sớm nhận
rõ điều đó Đảng luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng làng kháng chiến để làm chỗ
dựa tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Thực hiện đường lối đó, đảng bộ
Thái bình đã xây dựng 890 thôn thành làng kháng chiến (tổng số toàn tỉnh có
1038 thôn). Có nhiều làng kháng chiến kiểu mẫu đặc biệt như làng Nguyên
Xá ( Tiên Hưng), Tán Thuật, Đình Phùng (Kiến Xương), Thần Huống (Thái
Ninh) đã đánh trả trên một trăm trận càn quét lớn nhỏ của địch.
Chiến tranh du kích chỉ có thể phát động và phát huy hiệu quả trên cơ
sở động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Nhận thức rõ điều đó Đảng bộ Thái
Bình đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt
để phát động toàn dân đánh giặc. Ngay từ khi Thực dân Pháp mở rộng chiếm
đóng đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện sự chỉ đạo của trung ương Đảng, của Liên
khu ủy, Đảng bộ chủ trương phân tán một bộ phận bộ đội tỉnh huyện thành
các đại đội, trung đội, phân đội luồn sâu vào vùng sau lưng địch để phát động
chiến tranh du kích, dìu dắt dân quân du kích, làm nòng cốt cho phong trào
toàn dân đánh giặc ở các thôn xóm. Các đại độ, trung đội, phân đội độc lập,
các đội vũ trang tuyên truyền cùng dân quân du kích và nhân dân các địa
phương đã anh dũng chiến đấu chống lại các cuộc hành quân càn quét của
địch, phân tán, giam chân khiến địch phải căng lực lượng ra khắp nơi để đối
phó, khiến nhiều nơi địch đã chiếm đóng, lập tề nhưng hoạt động tiến công
quân sự của lực lượng vũ trang đã hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá tề, giành
quyền làm chủ. Lực lượng vũ trang, bán vũ trang của Thái Bình tương đối
vững mạnh, được giác ngộ chính trị, có quan điểm quần chúng và có ý thức
bám sát đất, sát dân rõ rệt. Nếu nói về bộ đội địa phương Thái Bình mà chỉ
nhìn vào quân số, vũ khí thì không có gì nổi bật, nhưng điều đáng chú ý là :
86
lực lượng ấy đã được xây dựng trên nề tảng một phong trào du kích chiến sâu
rộng, hầu hết các chiến binh, trước khi vào bộ đội, thường đã tham gia dân
quân du kích chiến đấu bảo vệ làng, được đoàn thể địa phương giáo dục chính
trị nên khi vào bộ đội đã có một trình độ giác ngô chính trị nhất định, một khả
năng quân sự tối thiểu làm cơ sở để dễ dàng tiếp thu sự giáo luyên của bộ đội.
Lực lượng này kinh qua tác chiến và công tác đã mau chóng trưởng thành.
Khi tập chung, khi phân tán đều phát huy được tác dụng tốt, mặc dầu ở trong
một hoàn cảnh đầy khó khăn gian khổ.
Chiến tranh du kích của Thái Bình thắng lợi nhờ sự chi viện và hợp
đồng chiến đầu, sự đóng góp xương máu của bộ đội chủ lực Liên khu ( Đại
đoàn 320, Trung đoàn 42, trung đoàn 50) và của quân dân các tỉnh bạn như
Hải Phòng, Kiến An, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương…Sự phối
hợp này thực sự có hiệu quả to lớn và rất quan trọng, góp phần làm nên chiến
lợi của cuộc kháng chiến.
Xây dựng cơ sở chính trị và chi bộ đảng là nhân tố quan trọng trong
chiến tranh du kích
Ở Thái Bình cơ sở chính trị đã được xây dựng từ quá trình đấu tranh
giành chính quyền trong thời kỳ từ 1930 đến 1945. Sau Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám cơ sở chính trị của Tỉnh càng được củng cố vững chắc hơn, phát
triển mạnh hơn và được quan tâm xây dựng trong suốt quá trình kháng chiến.
“ Cơ sở chính trị là cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng đã được giác ngộ, sẵn
sàng ủng hộ và tham gia hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có
thể hiểu cơ sở chính trị với nhiều mức khác nhau. Những vùng có quần chúng đã
được giác ngộ và ủng hộ cách mạng, hoặc đã xây dựng được tổ chức Đảng, tổ
chức vũ trang tự vệ, đều có thể coi là vùng có cơ sở chính trị. Những vùng này
vẫn thuộc quyền thống trị của địch ; chính quyền, các tổ chức chính trị và vũ
trang của chúng vẫn còn mạnh nhưng chúng không hoàn toàn khống chế được
87
nhân dân, vì quần chúng đã đi theo cách mạng ngày càng nhiều”[53, tr.208].
Ở Thái Bình, trong kháng chiến các làng xóm, thị trấn, thị xã đều có cơ
sở chính trị. Đó là cơ sở để Đảng lãnh đạo kháng chiến trong vùng tạm bị
chiếm, từng bước xây dựng lực lượng dân quân du kích làm nòng cốt trong
chiến đấu chồng địch càn quét, cướp phá, phá tề, trừ gian tiến lên giành quyền
làm chủ khi hoàn cảnh cho phép. Bộ đội du kích trong vùng tạm chiếm vừa
đánh địch vừa gây cơ sở chính trị, vừa đánh địch vừa làm nòng cốt cho quần
chúng nhân dân tiến hành đấu tranh chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa ngay
trong vùng địch tạm chiếm.
Để đưa kháng chiến đến thắng lợi Đảng đã sớm đề ra đường lối kháng
chiến đúng đắn, cách mạng, sáng tạo. Nhưng để biến đường lối đó thành hiện
thực đòi hỏi công tác tổ chức thực tiễn, trong đó chi bộ đảng có vai trò quan
trọng đặc biệt, “ tất cả mọi đường lối ấy đều do chi bộ đảng đảm bảo sự thành
công… Ngay từ đầu trong tình thế gian khổ nguy nan nhất, chi bộ đã thực sự
làm nòng cốt của chiến tranh cách mạng, chống thực dân phản động Pháp.
Chi bộ là cơ sở, là yếu tố căn bản” [40,tr.43].
Chi bộ là những tế bào của Đảng nằm trong quần chúng nhân dân, lãnh
đạo quần chúng tiến hành khãng chiến ở cơ sở, thường xuyên đấu tranh với kẻ
thù một cách toàn diện trong mọi hoàn cảnh. “Không có chi bộ mạnh, kiên
cường và tài giỏi thì không thể có chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ và
rộng khắp” [54,tr.407].
Trong kháng chiến, chi bộ Đảng là nơi biến quyết tâm cách mạng của
Đảng thành quyết tâm cách mạng của quần chúng. Trên cơ sở giáo dục đường
lối cách mạng, các chi bộ đảng thường xuyên chăm lo đến các tổ chức quần
chúng, tạo ra cơ sở chính trị vững chắc. Đó là chỗ dựa để Đảng tiến hành các
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo. Chi bộ Đảng còn là người trực tiếp tổ chức và lãnh
đạo lực lượng dân quân du kích, đưa cán bộ đảng viên vào dân quân du kích,
88
xây dựng lực lưỡng vũ trang rộng khắp, tạo ra phong trào toàn dân đánh giặc.
Ủy ban kháng chiến hành chính xã dưới sự chỉ đạo của chi bộ đảng,
thường xuyên được kiện toàn và trở thành công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc. xây dựng chính quyền cách mạng là điều kiện căn bản
để củng cố, xây dựng các làng kháng chiến, các khu du kích, căn cứ du kích,
đẩy mạnh chiến tranh du kích.
Sự lãnh đạo của chi bộ đảng trong chiến tranh du kích là sự lãnh đạo
toàn diện. Mỗi chi bộ đảng là một bộ tham mưu để xây dựng “ mỗi làng xã
thành một pháo đài”. Chi bộ đảng vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng làng xã
chiến đấu, xây dựng lực lượng về mọi mặt (quân sự, chính trị, kinh tế), vừa
lãnh đạo đấu tranh toàn diện với kẻ thù, nhất là đấu tranh vũ trang, phát triển
du kích, huy động nhân dân đóng góp sức người sức của cho kháng chiến.
Chi bộ đảng cũng là nơi bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới, đưa ra khỏi
Đảng những người biến chất, thoái hóa, những phần tử cầu an, vụ lợi, mất ý
chí chiến đấu, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối và toàn diện của đảng
đối với cuộc kháng chiến. Chi bộ đảng là nhân tố quyết định để tổ chức phát
động, phát huy sức mạnh của phong trào chiến tranh du kích mạnh mẽ và sôi
nổi ở Thái Bình.
3.1.2 Hạn Chế
- Ở Thái-bình, lúc đầu địch ồ ạt đánh chiếm, nhân dân chưa có kinh
nghiệm chiến tranh, một số lớn có tư tưởng hoang mang dao động. Cán bộ ta
một số ở những vùng Kiến-xương, Vũ-tiên, Tiên-Duyên-Hưng quan niệm
bám đất, bám dân chưa đúng. Có nơi bỏ dân, bỏ đất chạy dài, cơ sở mất hết,
không nắm được dân, phong trào đấu tranh chống địch bị xẹp xuống khá
mạnh. Cũng có nơi cán bộ ở lại bám đất, bám dân, nhưng lại cầu an sợ địch,
không dám lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch, kết quả phong trào
không phát triển được, mà còn bị do thám chỉ điểm bắt mất cán bộ.
- Trong cuộc chiến tranh du kích Thái-bình, tư tưởng chỉ đạo có nơi, có
89
lúc, có bộ phận chưa quán triệt rõ ràng vấn đề :” muốn tranh thủ nhân dân
phải bảo vệ nhân dân, tích cực tấn công vào mọi âm mưu vơ người vét của
của địch và lãnh đạo nhân dân đấu tranh đúng mức” nên mắc sai phạm: khi thì
có khuynh hướng nặng về chiến đấu kém chú trọng bảo vệ nhân vật lực của
nhân dân, hoặc thiếu cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn gian ác của
địch. Hoặc cũng có nơi chủ trương thì có, nhưng kế hoạch thự hiện không cụ
thể để địch vơ vét được nhiều người của như những trận chống càn Mesduse,
Mandarine…
- Việc xây dựng lực lượng vũ trang Thái-bình thời kỳ chuẩn bị ta có
dựa trên tính chất quần chúng rộng rãi nên chỉ trong mấy năm lực lượng vũ
trang và bán vũ trang của ta đã tăng lên tới một số lượng trên 17 vạn. Nhưng
vì việc xây dựng lực lượng vũ trang lúc đó ta chưa quán triệt đầy đủ nọi dung
giai cấp nên đã có khuynh hướng chỉ chọn lọc những người khỏe mạnh, lanh
lợi, ăn nói hoạt bát vào lực lượng vũ trang. Thậm chí những người chỉ huy lực
lượng bán vũ trang ở nông thôn phần lớn là con cái phú nông, địa chủ lắm
giữ. Ta lại chưa chú trọng đúng mức đến nội dung chiến đấu, nên lực lượng
vũ trang và bán vũ trang của ta lúc ấy chỉ đạt được với mức độ số lượng, khi
địch đánh tới lúc đầu không đảm bảo chiến đấu, có nơi bị tan vỡ nhanh chóng.
Cũng có thời gian việc xây dựng lực lượng vũ trang Thái-bình có dựa trên cơ
sở đoàn thể. Nhưng đoàn thể chưa quan niệm rõ vấn đề xây dựng lực lượng
vũ trang là nhiệm vụ của mình nên có hiện tượng “ trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược” tranh chấp đoàn viên gây ảnh hưởng xấu, làm cho việc xây dựng lực
lượng vũ trang gặp nhiều trở ngại. Khi có tác chiến thực sự chiến tranh du
kích không phát triển được.
- Chưa thấy hết tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang
phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Chưa quan niệm rõ đấu tranh vũ trang
và xây dựng lực lượng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành đều
phải trực tiếp bắt tay tiến hành. Chưa nhận rõ quân đội là của nhân dân lao
90
động vì vậy mà con em nhân dân lao động có nhiệm vụ tham gia bộ đội để
bảo vệ quyền lợi của mình. Chưa quán triệt cơ sở của việc tong quân xây
dựng lực lượng là ở xã và chưa thấy hết ý nghĩa vận động tòng quân cũng là
một phương pháp tích cực phá âm mưu bắt lính của địch. Do trên cơ sở sai
lầm này đã ảnh hưởng xấu đến các mặt chấp hành chính sách như : Chưa
chiếu cố gia đình bộ đội, chưa triệt để thực hiện chính sách thương binh tử sĩ,
chưa thấu đáo tầm quan trọng chính sách tôn giáo, biện pháp giáo dục tư
tưởng và vận động thanh niên tòng quân chưa có kinh nghiệm.
3.2. Một số bài học kinh nghiệm
3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám
đất, bám dân, bám đánh địch.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chiến tranh cách
mạng, kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đặc biệt là đã sớm biết
tổ chức, phát động kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ, “Chiến
tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn, không dùng toàn lực lượng của
nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được”. “Dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi” [42, tr. 295].
Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mình
là chính, vì thế việc tranh thủ và phát động đông đảo nhân dân đứng lên
kháng chiến là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược to lớn. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân”, Người nói
“phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt
được”[74, tr.295].
Xuất phát từ quan điểm của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân,
ngay từ khi bắt đầu kháng chiến, Đảng bộ Thái Bình đã biết lãnh đạo nhân
dân Thái Bình cùng với nhân dân cả nước, phát huy cao độ lòng căm thù giặc
91
sâu sắc, sớm xây dựng một quyết tâm chiến đấu rất cao. Lòng căm thù, ý chí
quyết tâm và lòng tin của nhân dân Thái Bình càng ngày càng cao do hành
động xâm lược, đàn áp, khủng bố, cướp bóc của thực dân Pháp, từ truyền
thống chống ngoại xâm của dân tộc, từ kinh nghiệm trong thời kì Cách mạng
Tháng Tám và từ đường lối kháng chiến của Đảng. Nhưng buổi đầu kháng
chiến chưa ai có thể nghĩ ra đáp số cho bài toán hóc búa cụ thể ở một tỉnh
không có rừng núi, địa hình bằng phẳng, bốn mặt đều là sông nước trong khi
so sánh lực lượng hai bên là quá chênh lệch, địch có hàng vạn quân Âu Phi cơ
động, cùng hàng vạn quân ngụy được trang bị nhiều vũ khí phương tiện chiến
tranh hiện đại, còn ta không chỉ trong vòng vây của địch mà vũ khí hết sức
thiếu thốn, ban đầu còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Làm thế nào để chống
lại và đánh thắng các cuộc càn quét đánh phá ác liệt cùng các âm mưu thủ
đoạn tàn bạo và thâm hiểm của địch? Từng bước, qua thực tế chiến đấu, cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân Thái Bình đã hiểu một cách thấm thía
rằng, giải pháp cơ bản là phải xây dựng tổ chức, phát động phong trào toàn
dân đánh giặc đúng như lời của Hồ Chí Minh đã dạy từ ban đầu. Đây cũng là
quy luật làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến nói chung, chiến tranh du
kích ở Thái Bình nói riêng, là sức mạnh của mọi sức mạnh. Hơn nữa, đối với
một tỉnh thuần nông như Thái Bình, việc phát huy sức mạnh của nhân dân,
thực chất là phát huy sức mạnh của giai cấp nông dân, mà nếu “khéo tổ chức
khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay chuyển đất, bao nhiêu thực dân và
phong kiến cũng sẽ bị lực lượng ấy đánh tan” [60, tr. 290]. Nhưng hiểu được
sức mạnh của nhân dân đã khó, làm thế nào để phát huy sức mạnh của nhân
dân lại càng khó hơn. Thực tế cuộc chiến tranh du kích ở Thái Bình cho ta
thấy muốn phát huy sức mạnh của dân, trước tiên phải kiên trì bám đất, bám
dân, bám đánh địch. Nếu không bám đất, bám dân, bám đánh địch thì cuộc
kháng chiến nói chung, chiến tranh du kích nói riêng sẽ không thể giành được
thắng lợi. Bởi “Du kích như cá. Dân chúng như nước. Cá không có nước thì
92
cá chết. Du kích không có dân thì du kích chết”[67, tr. 469].
Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu chúng ta đã nhận thức được vấn đề
này. Trước và trong những ngày đầu thực dân Pháp tấn công Thái Bình, do
nhận thức còn chưa đầy đủ thậm chí còn sai lầm trong đánh giá về địch đã dẫn
đến tưởng bám đất, bám dân, bám đánh địch không được coi trọng, biểu hiện
là những khuyết điểm, thiếu sót trong quá trình chuẩn bị mọi mặt cho chiến
đấu. Vì vậy, khi địch tấn công Thái Bình chúng ta không những không chặn
được giặc, bảo vệ được nhân dân mà ngược lại không ít cán bộ, đảng viên lực
lượng vũ trang, chạy dài hoặc có tư tưởng cầu an. Tình trạng này khiến cho
nhân dân hoang mang, dao động mất niềm tin vào lực lượng cách mạng trong
tỉnh. Ở nhiều nơi trong tỉnh, nhân dân không dám che chở cho lực lượng cách
mạng vì sợ địch khủng bố. Xuất phát từ lẽ đó, chiến tranh du kích ở Thái Bình
đã chịu những tổn thất nghiêm trọng.
Từ bài học thực tế của việc mất đất, mất dân dưới sự chỉ đạo kiên quyết
của Trung ương và Liên khu ủy, các cấp lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, lực lượng
vũ trang trong tỉnh đã vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, trở lại tìm mọi cách bám
đất, bám dân để gây dựng lại cơ sở từ đó tổ chức phát động phong trào kháng
chiến, bám đánh địch để giữ làng. Nhờ đó chiến tranh du kích ở Thái Bình
không những nhanh chóng được khôi phục mà còn có những bước phát triển
vững chắc, tiến lên giành và giữ vững thế chủ động đập tan mọi âm mưu, cố
gắng của địch trên địa bàn tỉnh, biến vùng chiếm đóng của địch thành tiền
phương và hậu phương của ta, góp phần tạo điều kiện cho các chiến trường cả
nước giành thắng lợi. Chính vì vậy, du kích không chỉ là “du” (đi) để “kích”
(đánh) mà phải kiên trì bám đất, bám dân, bám địch mà đánh là đánh địch từ cơ
sở làng xã. Đó chính là cuộc chiến tranh nhân dân tại chỗ ở cơ sở. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn tại Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích (7 -
1952): "Phải bám sát lấy dân, rời dân ra là nhất định thất bại. Bám lấy dân là
làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc
93
gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi” [72, tr. 525].
Muốn phát huy sức mạnh của dân, việc huy động phải gắn liền với việc
bồi dưỡng sức dân. Đây là việc làm thường xuyên của cha ông ta trong lịch sử
cũng như của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương, vừa huy
động sức dân vừa bồi dưỡng sức dân luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Ở Thái Bình, những chính sách ruộng đất cùng những cải cách dân chủ
được thực hiện ngay sau Cách mạng Tháng Tám và tích cực thực hiện ngay
trong kháng chiến ở những khu du kích đã làm cho nhân dân hiểu rõ giá trị
thiêng liêng của những quyền lợi mà mình đang có, vì vậy họ càng thêm một
lòng, một dạ gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính
là gốc rễ, là nền tảng vững chắc để chiến tranh du kích Thái Bình làm nên
những kì tích trong kháng chiến chống Pháp. Đúng như lời khẳng định của
Lênin: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa
số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính
quyền của mình… chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự
nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ, cũng như cho con cái họ, có
khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con
người”[75, tr. 378].
Để phát triển, đẩy mạnh chiến tranh du kích, các lực lượng vũ trang ta
phải tích cực bám đánh địch bảo vệ nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân
dân tham gia kháng chiến. Trước chiến dịch Hòa Bình, trong các cuộc tấn
công, càn quét của địch, lực lượng vũ trang trong tỉnh đã không làm tốt được
nhiệm này. Trước sự đánh phá, khủng bố điên cuồng của địch, nhân dân một
số nơi trong tỉnh đã có tư tưởng hoang mang, dao động, mất niềm tin vào lực
lượng vũ trang. Thậm chí có nơi nhân dân còn không dám cho du kích, bộ đội
địa phương vào bám làng để chiến đấu vì sợ địch khủng bố. Đây là nguyên
nhân chính dẫn đến những tổn thất nghiêm trọng của chiến tranh du kích nói
94
chung, lực lượng vũ trang nói riêng ở Thái Bình. Nhưng, khi lực lượng vũ
trang trong tỉnh kiên trì, dũng cảm bám đất, bám dân gây dựng lại cơ sở, tích
cực bám đánh địch hỗ trợ quần chúng nhân dân đấu tranh, thì nhân dân trong
tỉnh không những hăng hái tham gia xây dựng lực lượng vũ trang mà họ còn
phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch bằng nhiều hình thức với mọi vũ
khí trong tay, tạo ra thế trận toàn dân đánh giặc. Những thắng lợi của chiến
tranh du kích ở Thái Bình từ sau Chiến dịch Hòa Bình là một minh chứng cho
điều này. Mối quan hệ giữa quân và dân luôn khăng khít và chặt chẽ như cá
với nước, thúc đẩy nhau phát triển. Vì vậy, muốn huy động được nhân dân
tham gia đánh giặc, lực lượng vũ trang luôn phải quán triệt tư tưởng lấy dân
làm gốc, phải tích cực bám đánh địch để bảo vệ được dân và luôn là lực lượng
nòng cốt để hỗ trợ nhân dân kháng chiến. Bài học này đã được lịch sử chứng
minh luôn là chìa khóa của những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để có thể phát triển phong trào du kích chiến tranh việc vận động đồng
bào trong vùng địch tạm chiếm có vị trí, vai trò rất quan trọng. Ngoài việc
kiên trì bám đất, bám dân thì phải có hình thức linh hoạt, phù hợp với tín
ngưỡng và đặc điểm của từng vùng. Riêng đối với đồng bào công giáo do đặc
điểm về tín ngưỡng nên họ rất dễ bị kẻ địch dụ dỗ, lôi kéo. Vì vậy, ngoài
những hoạt động tuyên truyền, giáo dục thì việc tố cáo tội ác của phản động
đội lốt Thiên chúa giáo cũng là việc làm hết sức cần thiết. Việc chính quyền
cách mạng trong tỉnh tiến hành khai quật thi hài của những người dân bị bọn
phản động Thiên chúa giáo giết hại ở Quỳnh Lang (Quỳnh Côi), Phương Xá
(Đông Quan), Tràng Lũ (Phụ Dực) và mở phiên tòa xử án tử hình đối với Mai
Đức Tín tên phản động đội lốt Thiên chúa giáo có nhiều nợ máu đối với nhân
dân (12-5-1953) đã giúp nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là đồng bào theo đạo
hiểu rõ hơn bộ mặt thật của chúng, tạo điều kiện cho cuộc vận động đồng bào
95
lương giáo có hiệu quả.
Để phát huy được sức mạnh của nhân dân đòi hỏi những người lãnh đạo
phải bám sát dân, phải biết dựa vào dân từ đó mới có thể đưa ra những biện
pháp, chính sách phù hợp đối với từng vùng, từng thời kì lịch sử.
3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ
Bất cứ một cuộc chiến tranh nào cũng đều phải có hậu phương. Trong
kháng chiến chống Pháp, đường lối xây dựng căn cứ địa hậu phương chiến
tranh nhân dân của Đảng đã sớm hình thành, ngày càng hoàn chỉnh với những
chính sách ngày càng cụ thể. Đảng, Bác Hồ không quan niệm hậu phương
theo nghĩa thông thường của chiến tranh quy ước, hiện đại, có chiến tuyến rõ
rệt, mà có sự phát triển mới về lý luận và được chứng minh bằng thực tiễn,
với những điểm sáng tạo, độc đáo, tạo ra ngay trong vùng địch tạm chiếm
đóng thành nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của cuộc kháng chiến, cả về chính
trị, quân sự, kinh tế và văn hóa; nơi huy động nhân vật lực cho kháng chiến và
tạo chỗ dựa về tinh thần cho cuộc kháng chiến ở địch hậu. Có nhiều loại hình
hậu phương tạo ra thế trận xen kẽ một cách triệt để giữa ta và địch, làm cho
hậu phương và tiền tuyến đan xen, luôn luôn biến động, không có ranh giới
ổn định mà thường xuyên chuyển hóa, xoay vần cùng với kẻ địch trong một
quá trình trường kì kháng chiến, tạo nguồn sức mạnh vô tận cho chiến tranh
nhân dân, trong đó mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xã là một pháo
đài, đánh giặc một cách toàn diện và bằng mọi thứ vũ khí có trong tay.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng, Bác Hồ, hậu phương của chiến tranh
du kích ở Thái Bình là hậu phương tại chỗ. Hậu phương này lấy làng xã làm
chỗ dựa. Vì làng chiến đấu chính là gốc rễ của chiến tranh du kích. Đánh giặc
giữ làng đã trở thành truyền thống của người dân Thái Bình. Truyền thống
này đã được kế thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên
phong, hướng nhiệm vụ cụ thể là xây dựng làng kháng chiến, biến mỗi làng
xã thành một pháo đài, gắn chặt việc giữ nước với giữ làng. Cơ sở làng xã là
96
nơi xây dựng nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, nên có thể dựa vào sức
mạnh tại chỗ để kiên trì cuộc chiến đấu lâu dài, dù có bị chia cắt, càn quét
khốc liệt. Xây dựng nhiều làng kháng chiến sẽ là cơ sở để hình thành các khu
du kích hoặc các căn cứ du kích. Vì vậy, có thể ví làng chiến đấu ở Thái Bình
là từng viên gạch, căn cứ du kích là bức tường, là khối tổng hợp các làng
chiến đấu tạo ra sức mạnh và tác dụng to lớn. Tuy nhiên trong quá trình xây
dựng làng chiến đấu, quân dân trong tỉnh đã mắc phải một số sai lầm, đặc biệt
là tư tưởng hình thức, đánh giá quá cao làng chiến đấu dẫn đến những tổn thất
như cuộc chiến đấu của nhân dân làng An Định (Thụy Anh) diễn ra vào ngày
6-3-1950. Vì vậy, việc sử dụng làng chiến đấu cần phải có một sự linh hoạt
dựa vào tương quan lực lượng giữa ta và địch là việc làm cần thiết để phát
huy tối đa hiệu quả của làng kháng chiến.
Bên cạnh đó, do nét đặc sắc của chiến tranh du kích ở đồng bằng nói
chung, Thái Bình nói riêng, hậu phương của ta không chỉ nằm ở vùng giải
phóng mà còn nằm ngay trong vùng địch tạm chiếm, đồng thời hậu phương
cũng là tiền tuyến. Hơn nữa, hậu phương và tiền tuyến không cố định mà có
thể hoán đổi vị trí cho nhau phụ thuộc vào thế và lực giữa ta và địch. Chính vì
vậy muốn xây dựng được hậu phương tại chỗ được vững chắc, việc cốt lõi là
phải dựa vào dân. Thực chất cuộc kháng chiến ở vùng sau lưng địch là cuộc
chiến đấu giành đất, giành dân, bên nào giành được dân bên đó sẽ giành thắng
lợi. Ở đâu có nhân dân ủng hộ ở đó có hậu phương. Cuộc chiến tranh du kích
ở Thái Bình đã cho thấy, từ khi cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang
trong tỉnh kiên trì quay về bám đất, bám dân chúng ta đã xây dựng được thế
trận lòng dân không chỉ ở vùng giải phóng, mà cả ở vùng tạm chiếm. Vì vậy
mà ta đã có một hậu phương vững chắc không chỉ ở vùng giải phóng mà còn
ngay trong vùng địch tạm chiếm. Trong khi đó, thực dân Pháp chiếm được đất
nhưng chúng không chiếm được lòng dân, vì vậy âm mưu “lấy chiến tranh
97
nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch ở Thái Bình
không những bị phá sản, mà ngược lại chúng còn bị hao người, tốn của bởi
cuộc chiến tranh không có giới tuyến rõ ràng của quân và dân Thái Bình.
3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình
thức và mặt trận đấu tranh.
Sức mạnh của chiến tranh du kích không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang
và đấu tranh vũ trang, mà chủ yếu dựa vào lực lượng quần chúng đông đảo.
Đó là lực lượng rộng lớn trong các đoàn thể của mặt trận. Đấu tranh quân sự
phải gắn liền với đấu tranh chính trị và kết hợp với đấu tranh chính trị, hỗ trợ
cho quần chúng nổi dậy phá tề, trừ gian giành và giữ quyền làm chủ kết hợp
tiến công tiêu diệt địch. Đấu tranh chính trị phát huy ưu thế của cuộc chiến
tranh chính nghĩa, tập hợp và đoàn kết quần chúng, xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng, chống lại thủ đoạn chính trị lừa bịp của kẻ thù.
Đấu tranh kinh tế là một nội dung rất quan trọng trong chiến tranh du
kích. Phải đấy mạnh tăng gia sản xuất và tiết kiệm, đồng thời phải bảo vệ sản
xuất, chống địch phá hoại ruộng vườn, hoa màu, không cho địch cướp phá
thóc lúa, bắn giết trâu bò, làm thất bại chính sách “ lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh” của chúng. Có như vậy mới xây dựng được nền kinh tế “ tự cấp, tự
túc”, đảm bảo cuộc chiến đấu tại chỗ, đảm bảo đời sống nhân dân và lực
lượng vũ trang của ta.
Kháng chiến về tư tưởng văn hóa cũng là một măt trận đấu tranh “để
đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.
Phải triệt để tẩy trừ mọi ảnh hưởng nô dịch của văn hóa thực dân đồng thời
phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. vì thế mà cuộc đấu tranh
trên mặt trận văn hóa tư tưởng diễn ra rất quyết liệt.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chiến tranh du kích ở
Thái Bình không chặn được các cuộc tấn công, càn quét lớn của địch là do
trong tác chiến chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các vùng miền trong
98
tỉnh, giữa vùng tạm chiếm và vùng tự do, giữa đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị, kinh tế, địch vận, giữa cuộc chiến đấu của quân dân Thái Bình
với quân dân của các chiến trường cả nước đặc biệt là ở trên chiến trường
chính. Vì vậy, Chiến dịch Hòa Bình tạo ra bước ngoặt đối với chiến tranh du
kích ở Thái Bình không chỉ bởi nó tạo điều kiện cho quân dân trong tỉnh tiêu
diệt địch mà quan trọng hơn nó đã tạo điều kiện để chiến tranh du kích ở Thái
Bình có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận tạo ra sức mạnh tổng hợp
để tiêu diệt địch.
Sau Chiến dịch Hòa Bình, sở dĩ ta luôn giành và giữ vững thế chủ động
là do ta đã có sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu của quân dân trong tỉnh cả ở
vùng giải phóng lẫn vùng tạm chiếm, cả bằng quân sự, chính trị, kinh tế, địch
vận, bằng sự phối hợp chiến đấu giữa quân dân Thái Bình với quân dân các
chiến trường cả nước. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng và ăn khớp như vậy nên
có những trận càn địch sử dụng số quân lớn hơn cả cuộc hành quân ra Hòa
Bình như trận càn Thủy Ngân, trận càn Cá Măng… nhưng chúng không
những không đạt được mục đích mà ngược lại chúng còn bị thiệt hại nặng nề.
Đây cũng chính là đặc điểm nổi bật của cuộc kháng chiến chống Pháp nói
chung, chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng.
Một số nhà chiến lược nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam thường cho
rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Thực tế, Đảng
ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và cũng chưa bao giờ
hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược chiến tranh
cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị, ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy,
kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh địch bằng mọi cách, bằng mọi
thứ vũ khí có trong tay. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển
chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực từ cấp
tiểu đoàn, trung đoàn, đến cấp đại đoàn (sư đoàn), trở thành những “quả đấm
99
thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường.
Đây cũng chính là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới thời đại
Hồ Chí Minh, là ánh sáng soi đường cho chiến trường cả nước nói chung,
chiến tranh du kích ở Thái Bình nói riêng giành thắng lợi.
3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du
kích, từ đó chủ động đề ra các biện pháp chống càn
Trong các kế hoạch của mình, từ Rơve, Đờ lát, Xalăng cho đến Nava
đều coi càn quét là yếu tố quyết định để bình định. Đây vốn là con bài quen
thuộc để địch thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt”. Từ đó có thể thấy rằng, chống càn là một trong
những nhiệm vụ căn bản của chiến tranh du kích. Vì vậy “Càn quét và chống
càn quét là hình thức đấu tranh chủ yếu giữa ta và địch…là quy luật phát triển
của cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch [54, tr.281]. Chỉ có kiên quyết chống
càn mới phá được âm mưu của địch, giữ vững được cuộc đấu tranh sau lưng
địch. “Chống càn cũng là nhiệm vụ trường kì gian khổ [59, tr. 281].
Thực tế chiến tranh du kích ở Thái Bình luôn gắn liền với hiệu quả của
việc chống càn của quân dân trong tỉnh. Lúc đầu do quân dân Thái Bình
không đánh giá hết được âm mưu cũng như mức độ khốc liệt của các cuộc
càn quét lớn của địch nên việc chống càn của quân dân trong tỉnh luôn ở thế
bị động. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 10-1951,
bằng các cuộc càn quét liên tiếp với quy mô lớn, tính chất khốc liệt cao lại
được sự hỗ trợ đắc lực của bọn phản động, tay sai, thực dân Pháp đã gây ra
những thiệt hại to lớn cho chiến tranh du kích ở Thái Bình. Từ sau Chiến dịch
Hòa Bình, hoạt động chống càn của quân dân trong tỉnh mới đem lại hiệu quả,
tất cả các cuộc càn quét lớn nhỏ của địch đều bị bẻ gãy, chiến tranh du kích ở
trong tỉnh vẫn trụ vững bất chấp quy mô và mức độ của các cuộc càn quét
ngày càng ác liệt. Ngoài những điều kiện thuận lợi mà Chiến dịch Hòa Bình
đem lại, ta đạt được những kết quả này là do quân dân Thái BÌnh ngày càng
100
thấy rõ tầm quan trọng của việc chống càn. Từ sự chuyển biến về nhận thức
đã dẫn đến những thay đổi trong hoạt động chống càn. Thay vì bị động như
trước, ta luôn bám sát mọi âm mưu và hành động của địch từ đó chủ động đưa
ra các chủ trương biện pháp đối phó có hiệu quả với ba mức độ càn nhỏ, càn
trung bình và càn quét lớn của địch.
Đối với các cuộc càn quét nhỏ, công việc chính cần làm là tăng cường
công tác bí mật, trừ gian đồng thời đánh chặn các đội biệt kích của địch trước
khi chúng vào tới làng.
Đối với các cuộc càn trung bình, trước hết phải bám sát những vị trí
lớn của địch trong vùng và lân cận để có kế hoạch chuẩn bị. Dân quân du kích
phải tích cực, kiên quyết đánh tiêu hao khiến cho địch gặp nhiều khó khăn.
Bộ đội địa phương tập trung lực lượng vừa giúp đỡ du kích vừa đánh những
cánh quân nhỏ, yếu của địch theo lối đánh phục kích, tập kích, địa lôi, cạm
bẫy và chú trọng giải thoát cho đồng bào bị bắt và trâu bò, thóc lúa bị địch
cướp đi.
Đối với các cuộc càn quét lớn thì tập trung lực lượng du kích, bộ đội địa
phương đánh tiêu hao bằng mìn, cạm bẫy, tìm cách luồn càn, thoát khỏi vòng
vây để đánh vào sau lưng địch. Các nơi khác phối hợp chặt chẽ khi địch rút
quân ứng chiến, địa bàn chiếm đóng của chúng bị sơ hở.
Xuất phát từ những biện pháp và chủ trương như vậy, ta thực hiện nội
ngoại tuyến giáp công, hợp đồng tác chiến trong phạm vi xã, huyện, tỉnh,
trong toàn khu, biết phân tán luồn càn, tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu và
sơ hở bằng phương thức “chia ra để tránh, tụ lại để đánh” với yếu tố bí mật,
bất ngờ, chớp nhoáng. Thực hiện phát động quần chúng, củng cố cơ sở, tổ
chức phòng gian tích cực. Tăng cường cho lực lượng du kích và bộ đội địa
phương về trang bị vũ khí và tổ chức. Xúc tiến xây dựng và củng cố làng
chiến đấu làm nơi đứng chân cho bộ đội chủ lực.
Đối với bộ đội, chuẩn bị các phương án tác chiến, giữ bí mật, giấu kín
101
lực lượng, bám sát tình hình địch đồng thời có kế hoạch cụ thể bảo vệ nhân
dân và tổ chức giải thoát cho dân khi bị địch bắt. Nhân dân có kế hoạch sơ tán
cất giấu tài sản, thóc lúa.
Cán bộ, đảng viên bám sát dân khi họ đi sơ tán để giải thích, tuyên
truyền, giữ vững tinh thần cho nhân dân. Đồng thời từng bước kết hợp chống
càn bằng đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang với đấu tranh chính trị của
nhân dân nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, hạn chế sự khủng bố,
phá hoại của kẻ thù, hạn chế tác hại của các cuộc càn quét. Điểm cốt lõi để
chiến tranh du kích chống được càn là phải huy động toàn dân tham gia chống
càn, cả ba thứ quân cùng phối hợp chiến đấu khi địch càn, đánh địch ở khắp
mọi nơi (trong làng, ngoài đồng) bằng mọi vũ khí có trong tay đặc biệt là
chông, mìn, cạm bẫy, địa lôi khiến địch đi đến đâu cũng bị đánh, bị tiêu hao,
bị quấy rối, bị đánh cả trước mặt, sau lưng, trong vòng vây và ngoài vòng vây,
bị đánh ở bên sườn đội hình, thậm chí bị tiến công trực tiếp vào bộ chỉ huy
cuộc càn như trong trận càn Con Trâu.
3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện
về tổ chức và năng lực lãnh đạo
Từ khi Đảng ra đời, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định
đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng để chủ trương, đường lối
của Đảng được áp dụng một cách linh hoạt vào địa phương, đòi hỏi vai trò
quyết định của Đảng bộ ở địa phương đó, trong đó chi bộ đảng có vai trò đặc
biệt. “Tất cả mọi đường lối ấy đều do chi bộ đảng đảm bảo sự thành
công…Ngay từ đầu, trong tình thế gian khổ nguy nan nhất, chi bộ thực sự đã
làm nòng cốt của chiến tranh cách mạng, chống thực dân Pháp phản động
Pháp. Chi bộ là cơ sở, là yếu tố căn bản” [40,tr. 43].“Không có chi bộ mạnh,
kiên cường và tài giỏi, thì không thể có chiến tranh nhân dân phát triển mạnh
mẽ và rộng khắp” [54, tr. 407].
Lần đầu tiên lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cùng dân tộc tiến hành một
102
cuộc chiến tranh cách mạng, một loạt các vấn đề được đặt ra cho Đảng bộ
Thái Bình. Với một tỉnh địa hình không thuận lợi cho chiến tranh du kích, kẻ
địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, làm thế nào để áp dụng một cách linh hoạt
đường lối kháng chiến của Đảng, Bác Hồ để lãnh đạo toàn thể quân dân thực
hiện một cuộc chiến tranh du kích đánh bại quân thù, giải phóng quê hương.
Đây là những vấn đề mà Đảng bộ Thái Bình chưa có kinh nghiệm. Những
kinh nghiệm trong những ngày tổng khởi nghĩa, trong việc xây dựng và bảo
vệ chính quyền ở những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám chưa đủ để giải
quyết một loạt vấn đề mới mà cuộc chiến tranh du kích ở Thái Bình đặt ra.
Sự thiếu kinh nghiệm này được biểu hiện ngay từ khi địch thực hiện
cuộc tấn công Cái Thùng (Tonnô) đánh chiếm Thái Bình. Không ít đảng viên
trong tỉnh đã bỏ đất, bỏ dân chạy dài, một số ở lại có tư tưởng cầu an, số khác
nằm im không dám hoạt động gây tổn thất rất to lớn cho phong trào kháng
chiến nói chung, chiến tranh du kích nói riêng. Nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng này một phần là do so sánh lực lượng giữa ta và địch, kẻ địch lại sử
dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn bạo thâm độc, nhưng nguyên nhân chủ yếu
đó là do sự thiếu kinh nghiệm, sự bỡ ngỡ của cán bộ đảng viên trong tỉnh khi
Thái Bình chuyển từ vùng tự do thành vùng tạm chiếm.
Tuy nhiên được sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên ủy khu đặc biệt là
bài học xương máu rút ra từ thực tiễn chiến đấu, Đảng bộ Thái Bình đã tìm ra
những đáp số để giải những bài toán khó khăn mà chiến tranh du kích trong
tỉnh đang gặp phải. Đó là các chi bộ đảng ở trong tỉnh phải không ngừng hoàn
thiện về tổ chức và năng lực lãnh đạo. Trong đó, muốn lãnh đạo quân dân
trong tỉnh đánh tan mọi hành động xâm lược của kẻ thù, các chi bộ đảng trong
tỉnh phải có bản lĩnh của một Đảng cầm quyền lãnh đạo chiến tranh. Đó là ý
chí quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, đó là tính chủ động,
nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình và chỉ đạo thực tiễn. Đó là năng lực
tổ chức bám đất, bám dân, từng bước xây dựng thực lực cách mạng với
103
phương châm “rời dân ra là thất bại”. Đảng phải luôn đặt mình trong tình thế
chiến tranh, luôn tập dượt mọi tình huống của chiến tranh, thường xuyên theo
dõi, quan sát, phán đoán mọi âm mưu của địch, dự báo các khả năng có thể
xảy ra trên địa bàn, nhất là các khả năng xấu, từ đó có các phương án xử lý
các tình huống, hết sức tránh trường hợp bị bất ngờ. Sự phối hợp chặt chẽ
giữa các chi bộ đảng trong tỉnh, giữa Đảng bộ tỉnh với Đảng bộ tỉnh bạn và
nhận rõ mối quan hệ giữa địa phương với tình hình toàn quốc là điều hết sức
quan trọng để có những đối sách một cách kịp thời và thích hợp. Phải xây
dựng Đảng với số lượng đảng viên đủ, nhưng chất lượng, có tư tưởng kiên
định, thắng không kiêu, bại không nản, tư tưởng chủ động tiến công địch
trong bất cứ tình huống nào.
Thực tế thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình đã chứng minh
nếu như nhân dân Thái Bình luôn là nền tảng, là sức mạnh của mọi sức mạnh
để chiến tranh du kích trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn tiến lên giành thắng
lợi, thì sự lãnh đạo của Đảng bộ Thái Bình luôn là nhân tố quyết định của mọi
thắng lợi đó. Những giai đoạn khó khăn và thành công của chiến tranh du
kích có mối quan hệ chặt chẽ với sự lãnh đạo của Đảng bộ trong tỉnh. Đây là
104
một bài học mang tính quy luật mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
KẾT LUẬN
Âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt đánh người Việt” luôn được coi là điều kiện tiên quyết để thực dân Pháp
tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vì vậy, việc xâm chiếm và bình
định đồng bằng Bắc Bộ luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong các kế hoạch
của địch.
Thái Bình có vị trí chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ, trong những năm
đẩu kháng chiến chống Pháp, nơi đây là an toàn khu của Liên khu III. Vì vậy,
thực dân Pháp quyết tâm đánh chiếm và bình định bằng được tỉnh Thái Bình.
Nằm ở một vị trí chiến lược như vậy, nhưng cho đến trước tháng 2-
1950, Thái Bình vẫn còn là một tỉnh tự do. Đặc điểm này một mặt tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân Thái Bình từng bước khắc phục những khó khăn
của những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đồng thời ra sức chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc chiến đấu khi địch tấn công Thái Bình. Tuy nhiên, cũng vì là địa
bàn chưa có chiến sự lại nhận được sự chỉ đạo chuẩn bị “tổng phản công” của
Trung ương nên đa số cán bộ, đảng viên và quân dân Thái Bình có tư tưởng
chủ quan không đánh giá hết được âm mưu của địch. Tư tưởng này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình chuẩn bị mọi mặt cho chiến đấu khi địch đánh
chiếm Thái Bình.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 8-2-1950, thực dân Pháp chính thức
mở cuộc tiến công đánh chiếm Thái Bình. Do nhận thức chưa đầy đủ, mắc sai
lầm trong việc đánh giá về địch cùng những khuyết điểm trong quá trình
chuẩn bị đã khiến cho quân dân trong tỉnh bị bất ngờ trước các cuộc tấn công
tàn bạo và thâm hiểm của địch. Vì vậy, dù chiến đấu rất dũng cảm, ngoan
cường nhưng quân dân trong tỉnh không ngăn được cuộc tấn công đánh chiếm
Thái Bình của địch. Chiến tranh du kích ở Thái Bình chịu những tổn thất nặng
nề, nghiêm trọng. Hơn 80% đất đai trong tỉnh trở thành vùng tạm chiếm, đa số
105
cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang trong tỉnh bị bật đất, bật dân, chạy dài,
số còn lại có tư tưởng cầu an hoặc nằm im không dám hoạt động. Nhân dân
hoang mang, dao động trước sự khủng bố điên cuồng của kẻ thù. Chiến tranh
du kích ở trong tỉnh bước vào thời kì gay go, quyết liệt.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, của Liên khu ủy III mà trực tiếp
là của Đảng bộ Thái Bình, cán bộ, đảng viên và các lực lượng vũ trang đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, kiên trì bám đất, bám dân gây dựng lại
phong trào chiến tranh du kích. Nhờ vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một năm
(từ tháng 5-1950 đến tháng 3- 1951), chiến tranh du kích ở trong tỉnh không
chỉ phục hồi mà còn có những bước phát triển. Tuy nhiên, những thành quả
đó cũng chưa đủ sức để ngăn nổi các cuộc càn quét liên tiếp, cường độ cao,
quy mô lớn với tính chất vô cùng tàn bạo và thâm hiểm của địch. Một lần nữa
chiến tranh du kích ở Thái Bình lại chịu những tổn thất nặng nề. Nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này thì chủ yếu là do chiến tranh du kích ở Thái Bình chưa
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các khu vực, các vùng trong tỉnh, chưa có được
hỗ trợ có hiệu quả của các địa phương bạn và chiến trường trên cả nước, đặc
biệt là trên chiến trường chính. Vì vậy, chiến dịch Hòa Bình chính là bước
ngoặt để chiến tranh du kích ở vùng địch hậu nói chung, ở Thái Bình nói
riêng tiến lên phát triển mạnh mẽ.
Phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, được sự hỗ trợ trực tiếp của Đại
đoàn 320 cùng những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế chiến đấu,
chiến tranh du kích ở Thái Bình đã có bước phát triển mạnh mẽ. Quân dân
trong tỉnh không chỉ tấn công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai mà quan trọng
hơn nó đã tạo điều kiện chiến tranh du kích ở Thái Bình giành được thế chủ
động. Vì vậy, từ sau chiến dịch Hòa Bình, chiến tranh du kích ở Thái Bình
vẫn giữ vững được quyền làm chủ, lần lượt đập tan các âm mưu của địch, giải
phóng quê hương qua đó góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại hoàn toàn
106
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có sự hậu thuẫn của Mĩ.
Thắng lợi của chiến tranh du kích ở Thái Bình có một vị trí, ý nghĩa lịch
sử to lớn. Nó không chỉ góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp, chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo đường lối kháng chiến của Đảng,
Bác Hồ mà nó còn cho thấy khả năng cách mạng to lớn của nhân dân trong
tỉnh đồng thời tạo ra cái vốn cho cách mạng sau này. Bên cạnh đó, nó còn để
lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho cách mạng Việt Nam nói chung,
tỉnh Thái Bình nói riêng, đó là: Chiến tranh du kích phải phát huy được sức
mạnh của nhân dân. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức, mặt
trận đấu tranh. Phải xây dựng được hậu phương tại chỗ. Phải coi càn quét và
chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó chủ động đề ra
các biện pháp chống càn, đồng thời Đảng bộ ở địa phương phải không ngừng
củng cố và hoàn thiện về đường lối, tổ chức và năng lực lãnh đạo.Những ý
nghĩa và một số bài học kinh nghiệm của chiến tranh du kích ở Thái Bình
trong kháng chiến chống Pháp không chỉ là nguồn cổ vũ to lớn để quân dân
Thái Bình đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) mà cho đến ngày hôm nay nó vẫn còn giữ
107
nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chỉ huy quân sự huyện Đông Hưng (2008), Lịch sử quân sự huyện
Đông Hưng (1945-2005), Nxb Lao động Xã hội, Thái Bình.
3. Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Phụ (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Quỳnh Phụ (1945-2000).
4. Ban chỉ huy quân sự huyện Vũ Thư(2007), Lịch sử quân sự huyện Vũ Thư
(1930- 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tiền Hải (1998), Lịch sử Đảng bộ Tiền Hải,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thái Thụy (2005), Lịch sử đảng bộ huyện
Thái Thụy (1927 – 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vũ Thư (1989), Những sự kiện lịch sử
Đảng bộ huyện Vũ Thư 1945-1954.
8. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1999), Lịch sử đảng bộ tỉnh Thái
Bình tập 1 (1927 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình
tập 1 (1941-1951). Thái Bình 01/2007.
10. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình : Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình
tập 2(1952). Thái Bình 02/2007.
11. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình
tập3 (1953). Thái Bình 04/2007.
12. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Văn kiện Đảng bộ Tỉnh Thái Bình
108
tập 4(1954). Thái Bình 01/2007
13. Ban chấp hành Đảng bộ Quân sự Tỉnh Thái Bình ( 2010), Lịch sử đảng bộ
quân sự Tỉnh Thái Bình (1947-2007). Tỉnh Thái Bình xuất bản.
14. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương (1979), Những sự kiện lịch sử
Đảng, Tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
15. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình (1976), Thái Bình đánh giặc (hồi
ký kháng chiến chống Pháp) tập II.
16. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình (1980), Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ
Thái Bình ( 1945- 1954).
17. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình (1991) , Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thái Bình ( 1929- 1954).
18. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình (1989), Những sự kiện lịch sử Đảng tinh
Thái Bình (1945-1954).
19. Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Thái Bình (1950), Báo cáo năm 1950, phông
LKU 3, Cục Lưu trữ VPTƯĐ, Hà Nội.
20. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (1999), Thái Bình kháng chiến chống
Pháp xâm lược. BCHQS Thái Bình xuất bản.
21. Bộ Tổng Tham mưu (1998) Chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa
phương trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 -1975) –
Những bài nói và viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh du kích,
chiến tranh nhân dân địa phương. , Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
22. Bộ Tổng Tham Mưu (1998) : Chiến tranh du kích trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946-1954)- chuyên đề: Đặc trưng của chiến tranh
du kích vùng đồng bằng liên khu III trong kháng chiến chống Pháp, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
23. Bộ tư lệnh Quân khu III (2001), Lịch sử ngành kỹ thuật quân khu 3 trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.
24. Bộ tư lệnh Quân khu III (2005), Lịch sử hậu cần Quân khu 3 trong kháng
109
chiến chống Pháp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
25. Bộ tư lệnh Quân khu III – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân liên khu 3, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Bộ tư lệnh Quân khu III (1998) , Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Bộ Quốc phòng – Quân khu III (1995) , Trung đoàn 42 trung dũng, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
28. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Tổng kết tác
chiến phòng ngự trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược ( 1945- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2003): Lịch sử chiến
thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 – 1975) tập 1, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
30. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2011), Lịch sử chiến
thuật vận động tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ( 1945- 1975), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
31. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2009), Lịch sử cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tập I, II,III, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
32. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương
chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
33. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Lịch sử kỹ thuật
quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),
110
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
34. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Giải quyết một
số vấn đề kỹ thuật quân sự trong 30 năm kháng chiến (1945-1957), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
35. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử quân đội
nhân dân Việt Nam, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
36. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Một số trận đánh
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975) tập
VII. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
37. Bộ Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Lịch sử hậu cần
– kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Thực dân Pháp
(1945 – 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
38. Bộ Quốc phòng – Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, ( 2004), Từ điển
bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
39. Trường Chinh (1983), Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
40. Trường Chinh (1987). Tuyển tập, T1, 1937-1954, Nxb Sự Thật, Hà Nội
41. Lê Duẩn (1993), “Về chiến tranh nhân dân Việt Nam”. Nxb Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội
42. Văn Tiến Dũng (1974), Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
43. Văn Tiến Dũng (1978), Về chiến tranh nhân dân – quốc phòng toàn dân,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 8, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 9, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 10, Nxb
111
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 11, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 12, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, tập 13, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 14, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đảng Toàn Tập, Tập 15, Nxb
Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam (2009); Lịch sử Đảng bộ Quân đội
nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954) , Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
53. Võ Nguyên Giáp (1974), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước
tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
54. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh
bảo vệ tổ quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
55. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh nhân dân và Quân đội nhân dân,
Nxb Sự Thật, Hà Nội.
56. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân
dân và Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
57. Võ Nguyên Giáp (1969), “ Chỉ đạo chiến tranh du kích”, Bộ tổng tham
mưu xuất bản.
58. Võ Nguyên Giáp (1948), “Phát động du kích chiến tranh”, Chính trị cục
xuất bản.
59. Vũ Quang Hiển (2001) : Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng
112
bằng Bắc Bộ (1946-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp
Khu Tả ngạn sông Hồng (2001) : Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả
ngạn sông Hồng (1945 -1955), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hội Liên hiệp phụ nữ Tỉnh Thái Bình (2003): Lịch sử phong trào phụ nữ
Thái Bình (1927 -2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam – Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ
Liên khu 3 (2002), Lịch sử phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1955), Nxb Lao động- Xã hội,
Hà Nội.
63. Đồng Sĩ Nguyên (1965), “Làng chiến đấu”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
64. Đinh Xuân Lâm (1992), Quân khu 3 mảnh đất giàu truyền thống yêu nước
chống xâm lược, tạp chí Lịch sử quân sự, số 6, tr21-24.
65. Đinh Xuân Lâm (1997), Bài viết của Bác Hồ về Chiến tranh du kích Việt
Nam, tạp chí Lịch sử quân sự, số 3/1997, tr13-15.
66. Kịch Lịch (1963), Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (1970), Đấu tranh vũ trang và các lực lượng vũ trang nhân
dân, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (1980), Chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh Toàn Tập (1995), T3, 1930-1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
70. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T4, 1945-1946, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
71. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T5,1947-1949, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
113
Nội.
72. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T6,1950-1952. Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
73. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), T7, 1953-1954,Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
74. Hồ Chí Minh ( 1975), Về Vấn đề quân sự, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
75. V.I LêNin (1980), Bàn về chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự và nghệ
thuật quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
76. Tổng kết lịch sử chiến tranh du kích Thái Bình, Tỉnh đội Thái Bình xuất
bản năm 1961.
77. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình(2010): Địa
chí Thái Bình, Nxb Văn hóa thông tin
78. Tổng cục Hậu cần (1998), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
(1944-1975). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
79. Phát triển chiến tranh du kích chuyển mạnh sang tổng phản công, Cục
Tuyên huấn xuất bản 1951, Lưu TVTWQĐ.
80. Quân khu 3 (1994): “ Những trận đánh điển hình trên chiến trường vùng
châu thổ sông Hồng (1945-1975) tập 2”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
81. Quân khu 3 (1998): Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
82. Quân khu 3, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (2007), Thái Bình những
trận đánh tiêu biểu (1945-1975) tập 1. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình
114
xuất bản.
PHỤ LỤC
Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình
( ảnh từ thư viện tỉnh Thái Bình)
Bản đồ tiến công Thái Bình của thực dân Pháp ( 8-2-1950 – 19-3-1950)
(ảnh chụp trong cuốn Thái Bình những trận đánh tiêu biểu)
Nhân dân thị xã Thái Bình bãi chợ và đòi giải tán căng chợ Bo, đòi thực dân Pháp trả tự do cho người bị bắt sau trận càn Mandarine.
Hũ gạo kháng chiến
Đội trưởng đội du kích Tán Thuật( AHLLVT) Nguyễn Thị Chiên
Ban đốc chiến xã Tán Thuật ( huyện Kiến Xương) họp bàn kế hoạch tác chiến.
Lính Pháp đi càn bị thụt hố chông tại Tán Thuật ( huyện Kiến Xương)
Du kích Thần Huống ( Thái Thụy – Thái Bình)
Bia chiến thắng tại chợ Cổng ghi dấu trận đánh thắng quân Pháp của quân dân Thần Huống (Thái Thụy) (tác giả chụp T8/2014)
Du kích Nguyên Xá ( Đông Hưng- Thái Bình)
Lão du kích Nguyên Xá bảo vệ Làng.
Tượng đài du kích làng Nguyễn trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(Trang điện tử Báo Thái Bình)