ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
**************************
Lê Hồ Hiếu
Đảng bộ Thị xã Móng Cái
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội từ năm 1991 đến năm 2006
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà NộI – 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
**************************
Lê Hồ Hiếu
Đảng bộ Thị xã Móng Cái
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
từ năm 1991 đến năm 2006
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số : 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học : PGS,TS. Trình Mưu
Hà NộI – 2008
Cnxh
Quy ước chữ viết tắt
Cnh,hđh
: Chủ nghĩa xã hội
Dnnn
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Fdi
: Doanh nghiệp nhà nước
Htx
: đầu tư trực tiếp
Gdp
: Hợp tác xã
Tnhh
: Tổng sản phẩm trong nước
NQ
: Trách nhiệm hữu hạn
NQTW
: Nghị quyết
NXB CTQG
: Nghị quyết Trung ương
ĐHKHXH&NV
: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
BCT
: Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
BBT
: Bộ chính trị
BCH
: Ban bí thư
BCHTW
: Ban chấp hành
UBND
: Ban chấp hành Trung ương
: ủy ban Nhân dân
Mục lục
Trang
Mở đầu…………………………………………………… 1
Chương 1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu
đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái … 7
1.1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái……………………… 7
1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với thị xã móng cái trong quá
trình lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội…………………… 17
Chương 2. Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển
26 kinh tế – xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 –
2006
2.1. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã
hội trong những năm 1991 – 1996………………………… 26
2.2. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã
hội theo hướng CNH, HĐH (1996 – 2006)………………… 38
Chương 3. Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh
tế xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái……………… 81
3.1. Thành tựu và hạn chế chủ yếu ………………………… 81
3.2. Một số kinh nghiệm của Đảng bộ thị xã Móng Cái trong
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội………………………… 93
Kết luận ………………………………………………… 99
Danh mục tài liệu tham khảo …………………………… 101
Phụ lục ………………………………………………… 107
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Hai mươi
năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ
bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp ”
[8,tr.67-68].
Đó là thắng lợi mang tính bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển
của đất nước trên con đường đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó
thể hiện trên thực tế sự đóng góp tích cực của tất cả các Đảng bộ và nhân dân
các địa phương trong cả nước, đã vận dụng đường lối đổi mới của Đảng một
cách linh hoạt sáng tạo, góp phần đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng.
Hơn nữa, sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng lại xuất phát từ sự đòi
hỏi bức thiết ở cơ sở, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Vì lẽ đó mà
khi đường lối đổi mới của Đảng ra đời đã được tất cả các địa phương, cơ sở
chấp nhận một cách nhanh chóng, chỉ trong một thời gian ngắn đã phát huy
hiệu quả và đi vào cuộc sống, tạo thành một phong trào cách mạng rộng lớn,
sâu sắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta còn nhiều khó
khăn, phức tạp, đất nước còn trong tình trạng một nước nghèo, kinh tế, khoa
học kỹ thuật kém phát triển. ở nhiều địa phương đời sống của nhân dân còn
rất thấp. Cơ chế, trình độ quản lý kinh tế – xã hội còn lỏng lẻo, những tiềm
năng, thế mạnh của địa phương chưa được phát huy, đã ảnh hưởng trực tiếp
đến công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm lịch sử ở các Đảng bộ huyện,
thị trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trên lĩnh vực kinh tế –
xã hội giai đoạn 1986 – 2006 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đó là: khẳng định sự đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và những bài học
kinh nghiệm quý báu của các Đảng bộ trong việc tổ chức, lãnh đạo phong trào
cách mạng ở địa phương. Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ Thị xã Móng
Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội từ năm 1991 đến năm 2006” là rất
cần thiết, xét trên cả phương diện khoa học cũng như phương diện thực tiễn
góp phần nhìn nhận một cách có hệ thống chính sách phát triển kinh tế trong
thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế của địa phương, trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Tác giả luận văn mong muốn việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp một
phần nhỏ vào ý nghĩa đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế – xã hội
trong thời kỳ đổi mới trên phạm vi cả nước hoặc của Đảng bộ các tỉnh, thành
được đề cập đến khá nhiều trong các công trình khoa học, ngoài các bài nói,
bài viết của các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có tính chất định
hướng còn có thể kể đến một số công trình như: TS. Vũ Hồng Tiến(2005),
Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội; Phạm Xuân Nam(2001),
“Đổi mới kinh tế – xã hội ở Việt Nam (1986-2000) – Một cái nhìn tổng
quan”, Tạp chí Kinh tế và dự báo(11), tr.25; TS. Nguyễn Mạnh Hùng(2004),
Kinh tế – xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng, Nxb Thống Kê,
Hà Nội; Nguyễn Xuân Oánh(2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách
kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Phạm Xuân Nam(1991), Đổi
mới kinh tế – xã hội: thành tựu, vấn đề và giải pháp, Nxb Khoa học xã hội…
Đây là các công trình đề cập tập trung, trực tiếp đến các vấn đề phát triển kinh
tế – xã hội trên cả nước với nhiều cách tiếp cận khác nhau như vấn đề chuyển
dịch cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu, các vấn đề xã hội nhằm thúc đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế, khẳng định trong thực tế chủ trương của Đảng
trong đổi mới là hoàn toàn đúng đắn.
Ngoài ra, đã có không ít các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ
đề cập đến sự phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ khoa học kinh tế hoặc
Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử
Đảng ở phạm vi cả nước hoặc ở một địa phương cụ thể, như: Đào Trọng
Độ(2007), “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
(1986-2000)”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà
Nội; Nguyễn Thị Anh(2006), “Đảng bộ huyện An Dương (Hải Phòng) lãnh
đạo phát triển kinh tế thời kỳ 1986 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Lương Thị Yên(2005), “Đảng bộ
Lục Yên (Yên Bái) lãnh đạo phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới 1986 – 2004”,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Ngô Thị
Lan Phương(2007), “Quan hệ thương mại Việt – Trung trên địa bàn Quảng
Ninh giai đoạn 1991 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào tổng kết một cách có hệ
thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển
kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã.
Trong tình hình đó, luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả nhằm
làm rõ thêm, sáng tỏ hơn những chuyển biến trong việc hoạch định chính sách
phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới của tỉnh Quảng Ninh nói chung
và Thị xã Móng Cái nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trình bày quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát
triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006, đánh giá những kết quả đạt được,
những bài học kinh nghiệm và những phương án giải pháp phát triển thị xã
trong chặng đường mới. Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ thị xã
Móng Cái trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương, của tỉnh
vào tình hình cụ thể của thị xã Móng Cái thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết ba
nhiệm vụ sau:
+ Tình hình trong nước và thế giới tác động đến chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của Quảng Ninh nói chung và Móng Cái nói riêng.
+ Làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã Móng Cái trong
phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006.
+ Tổng kết những bài học kinh nghiệm, đề xuất những phương án và
giải pháp phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi của đề tài
Đối tượng: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ
Thị xã Móng Cái trong lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế xã hội của địa
phương giai đoạn 1991 – 2006.
Phạm vi nghiên cứu: Đảng bộ thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển
kinh tế – xã hội là đề tài rộng nên luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng bộ thị xã trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối đổi mới
của Đảng để phát triển kinh tế địa phương, thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo, chính sách với người có công, chính sách giáo dục đào tạo … giai
đoạn 1991 – 2006.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển kinh tế – xã hội, CNH,HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới.
* Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận sử học mac – xit, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, logic để làm rõ quá trình
Đảng bộ địa phương lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế – xã hội .
- Luận văn có sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng để
trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung trên.
* Nguồn tư liệu
- Nguồn tài liệu thành văn:
+ Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội IX.
+ Văn kiện của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh từ 1991 – 2006.
+ Văn kiện của Đảng bộ Thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.
+ Các báo cáo của HĐND và UBND Thị xã Móng Cái.
+ Niên giám thống kê hàng năm của TƯ và địa phương
+ Báo cáo của các cơ quan ban ngành trong tỉnh
+ Kết quả nghiên cứu của những công trình liên quan
- Nguồn tài liệu khảo sát thực tế: bao gồm kết quả đã thu được qua điều
tra xã hội học và điền dã thực tế.
6. Đóng góp của luận văn
- Về khoa học: Luận văn đã hệ thống hóa quá trình nhận thức và tổ
chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã
Móng Cái trong giai đoạn 1991 – 2006. Chỉ ra những nguyên nhân, bài học
kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trong thời gian qua để đẩy nhanh quá trình phát triển trong những năm tiếp
theo.
- Về thực tiễn:
+ Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về quá trình phát
triển kinh tế – xã hội địa phương, góp phần cung cấp luận cứ khoa học để xây
dựng các phương án phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã.
+ Khẳng định vai trò của Đảng bộ cơ sở trong khi quán triệt đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng thông qua việc làm sáng tỏ quá trình lãnh
đạo phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã đã tác động đến sự phát
triển xã hội.
+ Những kinh nghiệm được rút ra góp phần quan trọng vào phương
hướng phát triển kinh tế – xã hội của Thị xã Móng Cái trong giai đoạn tiếp
theo.
+ Làm tư liệu tham khảo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thị xã Móng Cái
nói riêng và lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh nói chung.
+ Làm tư liệu tham khảo giảng dạy môn lịch sử trong vấn đề liên hệ
lịch sử địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu đặt
ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.
Chương 2: Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển kinh tế
– xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.
Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh tế
xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái.
Chương 1
Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu
đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.
1.1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái.
Múng Cỏi là thị xó địa đầu phớa Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh, cũng
là địa đầu phớa Đông Bắc Việt Nam, cú 70 km đường biờn giới trờn bộ tiếp
giỏp với tỉnh Quảng Tõy, Trung Quốc. Phớa Đông giỏp Vịnh Bắc Bộ, phớa
Tõy giỏp huyện Hải Hà, phớa Nam giỏp huyện Cụ Tụ và phớa Bắc giỏp biờn
giới Việt Nam – Trung Quốc.
Thị xó Múng Cỏi hiện nay cú diện tớch đất tự nhiờn là 518,278 km2, trải rộng từ 107o10’ đến 108o05’ kinh độ Đông và từ 21o10’ đến 21o40’ vĩ độ
Bắc. 85% diện tớch của thị xó là đất liền, trong đó 71% diện tớch tự nhiờn là
đồi và nỳi xen kẽ giữa cỏc thung lũng, sụng suối, bói biển, thấp dần từ bắc tới
nam. Xó vựng cao Hải Sơn cú dóy Pan Nai với đỉnh cao nhất là 710 m. 15%
diện tớch của thị xó là đảo đó tạo thành nhiều cửa đầm, vũng, bói, thuận lợi
cho việc nuụi trồng và đánh bắt hải sản. Đảo Vĩnh Thực (3500 ha) là một dóy
nỳi chạy dài gần 20 km từ đông sang tõy, cỏch đất liền trờn 2km tạo thành
vịnh lớn, đỉnh cao nhất là 170m. Tổng dõn số thị xó năm 2006 là gần 8 vạn
người gồm 5 dõn tộc anh em: Kinh, Dao, Tày, Sỏn Chay và Hoa. Mật độ dân số trung bỡnh đạt 154 người/km2.
Về địa lý hành chớnh, theo sách “Khâm định Việt sử thông giám
Cương mục” thỡ Múng Cỏi xa xưa được gọi là trấn Triều Dương. Đến đời Lý
Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 được gọi là châu Vĩnh An. Đời hậu Lê năm
Thuận Thiờn thứ 1 (1426) gọi là Yờn Bang. Thế kỷ thứ XVII gọi là chõu Vạn
Ninh và thế kỷ thứ XVIII gọi là chõu Mang Nhai.
Đến đầu thế kỷ XIX, thị xó Múng Cỏi bõy giờ gồm tổng Vạn Ninh,
tổng Bỏt Trang và một phần tổng Hà Mụn thuộc chõu Vạn Ninh, phủ Hải
Đụng, trấn An Quảng. Thỏng 6 – 1888, chõu Vạn Ninh chia thành ba chõu
(Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn) của phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yờn.
Thỏng 6 – 1906, thực dõn Phỏp tỏch phủ Hải Ninh khỏi tỉnh Quảng Yờn,
thành lập tỉnh Hải Ninh gồm 3 chõu: Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn.
Sau Cỏch mạng Thỏng Tỏm 1945, để phự hợp với việc lónh đạo, chỉ
đạo của Trung ương Đảng và Chớnh phủ đối với cỏc địa phương, thỏng 10 –
1945 Chớnh phủ Việt Nam Dõn chủ Cộng hũa quyết định thành lập cỏc chiến
khu. Theo đó, tỉnh Hải Ninh (gồm cả Múng Cỏi) là một trong bảy tỉnh thuộc
Chiến khu 3 [27,tr.85]. Ngày 19-7-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Nghị định
tạm lập lại tỉnh Quảng Yờn và khu đặc biệt Hũn Gai [2,tr.160]. Khoảng cuối
năm 1946, việc phõn định địa giới cỏc chiến khu được điều chỉnh lại: Tỉnh
Quảng Yờn, tỉnh Hải Ninh và Đặc khu Hũn Gai tỏch khỏi Chiến khu 3 trực
thuộc Chiến khu 12; cỏc Liờn khu ủy lónh đạo các chiến khu và các tỉnh, tổ
chức Đảng Đặc khu Hũn Gai và hai tỉnh Quảng Yờn, Hải Ninh do Liờn khu
ủy 12 lónh đạo.Đến thỏng 1 – 1950, cỏc tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh và Đặc
khu Hũn Gai thuộc Liờn khu Việt Bắc; tỉnh Hải Ninh lỳc này gồm 7 huyện:
Múng Cỏi, Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bỡnh Liờu, Đỡnh Lập và Hải Chi.
Trong khỏng chiến chống Phỏp, Múng Cỏi nằm trong vựng địch chiếm đóng,
là thủ phủ của “xứ Nựng tự trị”.
Hũa bỡnh lập lại, “ngày 01-02-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị
định số 449-TTg về tái lập thị xó Múng Cỏi trực thuộc tỉnh Hải Ninh”
[1,tr.56]. “Ngày 30-10-1963, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hũa
khúa II, kỳ họp thứ 7 đó phờ chuẩn việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng
Quảng thành một đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Quảng Ninh”
[1,tr.160]. Ngày 2-7-1964, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 106-CP đổi
thị xó Múng Cỏi thành thị trấn Múng Cỏi thuộc huyện Múng Cỏi.
“Ngày 18-01-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 22-CP đổi
tên huyện Móng Cái thành huyện Hải Ninh” [1,tr.257]. Ngày 28-5-1991, Bộ
trưởng – Trưởng ban Ban tổ chức Chính phủ ra Quyết định số 284/TCCP đổi
tên thị trấn Hải Ninh thành thị trấn Móng Cái, thị trấn Móng Cái là huyện lỵ
huyện Hải Ninh. Ngày 20-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số
52/1998/NĐ-CP tái lập thị xó Múng Cỏi (trờn cơ sở toàn bộ diện tích và dân
số của huyện Hải Ninh cũ) thuộc tỉnh Quảng Ninh bao gồm 5 phường: Hũa
Lạc, Trần Phỳ, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ và 11 xó: Quảng Nghĩa, Hải
Tiến, Hải Đông, Hải Yên, Hải Hũa, Hải Xuõn, Vạn Ninh, Hải Sơn, Bỡnh
Ngọc, Vĩnh Trung và Vĩnh Thực.
Là một vùng đất biên giới nơi địa đầu của Tổ quốc, gắn với những
trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong việc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lónh thổ nờn Múng Cỏi cú bề dày truyền thống chống giặc ngoại xõm.
Thị xó Múng Cỏi là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế,
chính trị và an ninh, quốc phũng. Trải qua cỏc thời kỳ lịch sử của dõn tộc, tất
cả lực lượng xâm lược nước ta đều coi Móng Cái là một trong những mục tiêu
quan trọng hàng đầu.
Với vị trớ cửa ngừ tuyến đầu vùng Đông Bắc Tổ quốc, thị xó Múng Cỏi
đó từng ghi dấu ấn nhiều chiến cụng giữ nước oanh liệt của dân tộc. Vào thế
kỷ XI, Lý Thường Kiệt từ Móng Cái chủ động tiến công diệt giặc Tống ở
châu Khâm, châu Liêm, người dân nơi đây đó tham gia vào đạo quân diệt giặc
Tống. Thế kỷ thứ XIII, vào năm 1287 cánh quân thủy của quân Nguyên –
Mông từ Khâm Châu tiến theo đường biển vào xâm lược nước ta khi đi qua
cửa Vạn Ninh (Móng Cái) bị quan quân nhà Trần do Nhân đức hầu Trần Toàn
chỉ huy, phục kích chặn đánh chiến thuyền của Ô Mó Nhi gõy cho địch thiệt
hại nặng. Móng Cái cũn là căn cứ của nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại áp bức
bóc lột của triều đỡnh phong kiến. Thế kỷ XVII, triều đỡnh Món Thanh cho
quõn sang xõm lược nước ta, nhân dân các dân tộc Móng Cái đó nổi dậy tham
gia phong trào Quang Lónh, Quang Khỏnh chiến đấu anh dũng, chống giặc
ngoại xâm.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngay từ những ngày đầu nhân
dân các dân tộc Móng Cái đó anh dũng đứng lên đánh Pháp. Các nhà yêu
nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đó gõy dựng ở Múng Cỏi
một cơ sở của Việt Nam Quang phục hội.
Múng Cỏi cũn là cửa ngừ ra nước ngoài hoạt động của nhiều chiến sĩ
cách mạng. Ngày 17-7-1926, đồng chí Trần Phú cùng chín đồng chí khác đến
Móng Cái và qua biên giới để liên lạc với tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên. Ngoài ra, cũn nhiều đồng chí khác trong ban lónh đạo Tâm tâm
xó và Hội Việt Nam cỏch mạng Thanh niên như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng
Mậu… cũng được các cơ sở cách mạng của Móng Cái đưa đón ra nước ngoài
tỡm đường cứu nước.
Là thị xó được thiên nhiên ưu đói cú cả đồi núi và biển nên khí hậu của
Móng Cái rất ôn hũa và dễ chịu. Múng Cỏi là vựng cú lượng mưa lớn so với
bỡnh quõn cả nước, bỡnh quõn đạt 2.788mm, cao nhất là 4.110mm, mưa phần lớn tập trung vào tháng 7-8 hàng năm. Nhiệt độ trung bỡnh trong năm là 22oC.
Hệ thống sụng ngũi, hồ đập của Móng Cái rất phong phú.
Móng Cái xưa vốn là nơi buôn bán trao đổi hàng hóa giữa người Trung
Quốc với Việt Nam. Ngay từ đầu Công nguyên, con đường biển đi từ Khâm
Châu (Quảng Tây – Trung Quốc) theo hướng Tây Nam vào Việt Nam xuyên
qua tuyến đảo Quảng Ninh, từ châu Vĩnh An (Móng Cái) qua Vân Đồn, vịnh
Hạ Long, vào cửa Bạch Đằng, lặng sóng kín gió, yên tĩnh như một con kênh
trong đất liền nên sử cũ mệnh danh là Đông Kênh, là con đường giao thông
ven biển lý tưởng. Lúc thuận gió đi một mạch từ Khâm Châu đến Vân Đồn
chỉ mất 3 ngày. Đây chính là con đường mà thuyền buôn Trung Quốc mỗi khi
vào nước ta buôn bán thường đi qua, cũng chính là con đường mà các đạo
thủy quân phương Bắc như Nam Hán, Tống và Nguyên Mông đó tiến vào
xõm lược nước ta những năm 938, 981, 1288. Di chỉ Thoi Giếng (xó Vạn
Ninh) là một trong những di tích nổi tiếng thương cảng thời Trần. Vào thế kỷ
XII, sau khi thành lập thương cảng Vân Đồn, vua Lý Anh Tụng lập bến Vạn
Ninh (thuộc thôn Đông xó Vạn Ninh ngày nay). Bến này nhỏ hơn bến Vân
Đồn nhưng là bến cảng đầu cầu, thuyền buôn nước ngoài (chủ yếu là Trung
Quốc) muốn vào Vân Đồn phải ghé qua Vạn Ninh. Vỡ vậy, Vạn Ninh sớm trở
thành phố chợ đông vui, trên bến dưới thuyền. Từ đó, một số ngành nghề
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng khá phát triển và rất đa dạng. Xưa có
nghề gốm với 16 lũ bỏt, 2 lũ chum. Cỏc mặt hàng gốm sứ Múng Cỏi nổi tiếng
một thời, buụn bỏn khắp miền Bắc. Nghề dệt lụa thủ công và dệt vải khổ rộng
(vải cạp xá), dệt màn, cơ khí, làm muối… Nghề đóng, sửa chữa tàu thuyền
cánh dơi đi biển với đội thuyền vận tải hàng nghỡn tấn phương tiện đi khắp
mọi miền đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ là một trong những lực
lượng tham gia vận chuyển vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam.
Với hệ thống đường giao thụng thủy bộ đa dạng. Về đường thủy, với
50km bờ biển, Móng Cái có cảng Vạn Gia có thể đón tàu trên 1 vạn tấn. Các
cảng Thọ Xuân, Núi Dỏ, Cồn Rắn, bến Mũi Ngọc, Dân Tiến và hệ thống các
cảng thủy nội địa dọc sông Ka Long đủ điều kiện để bốc xếp, vận chuyển
hàng hóa. Tuyến tàu cao tốc cánh ngầm Móng Cái – Hạ Long, Móng Cái –
Hải Phũng thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa nhanh chóng. Về
đường bộ, quốc lộ 18A từ thành phố Hạ Long ra Móng Cái đó được trải nhựa.
Hiện nay, Chính phủ phê duyệt dự án xây dựng đường cao tốc ven biển đoạn
Vân Đồn – Móng Cái; quốc lộ 18A từ Hạ Long ra Móng Cái được tỉnh đầu tư
mở rộng. Trong tương lai không xa, Móng Cái có đường sắt nối sang tỉnh
Quảng Tây – Trung Quốc. Vỡ vậy, Múng Cỏi là cửa ngừ giao thụng thủy bộ
rất thuận lợi với cỏc tỉnh trong nước và khu vực, tạo ra thế mạnh của thị xó
vựng biờn giới Đông Bắc Tổ quốc.
Vị trớ thuận lợi nổi bật của Múng Cỏi là cú cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu
tiểu ngạch Ka Long và các điểm thông quan Lục Lằm, Pũ Hốn… Múng Cỏi
trở thành một cửa khẩu buụn bỏn hàng đầu của nước ta với thị trường Trung
Quốc, giữ vai trũ quan trọng trong chiến lược hợp tác kinh tế khu vực, là đầu
mối cung cấp các sản phẩm nguyên, nhiên liệu quan trọng như cao su, than
đá… sang Trung Quốc. Móng Cái tiếp cận trực tiếp với thị trường rộng lớn
phía Đông Nam Trung Quốc. Đây là một thị trường đông dân, có nhu cầu đa
dạng và có nhiều trung tâm kinh tế lớn đang phát triển sôi động với nhịp độ
rất nhanh. Chính sách mở cửa đó tạo cho Múng Cỏi trở thành một cửa khẩu
quốc tế quan trọng của nước ta, đồng thời là cửa khẩu trung chuyển hàng hóa
giữa nước ta, các nước ASEAN với Trung Quốc.
Việc thông thương giữa Móng Cái với các tỉnh trong cả nước cũng như
với các tỉnh duyên hải Nam Trung Quốc ngoài hệ thống đường bộ cũn cú
đường biển và cảng biển, đây là một lợi thế mà các cửa khẩu biên giới phía
Bắc không có. Đặc biệt cảng Vạn Gia nằm ở vị trí sát đường biên giới trên
biển với Trung Quốc đó tạo ra thế thuận lợi lớn cho việc giao lưu buôn bán
xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển. Với tính chất đặc thù đó, từ khi mở
cửa biên giới, Móng Cái thực sự trở thành đầu mối giao lưu quan trọng giữa
nước ta với Trung Quốc và các nước trong khu vực nói chung, cũng như giữa
tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Quảng Tõy núi riờng.
Vị trí đầu mối này có ý nghĩa chiến lược quan trọng, không chỉ tạo ra
những điều kiện thuận lợi để mở mang phỏt triển kinh tế, phỏt triển quan hệ
hợp tỏc giữa hai tỉnh và hai Nhà nước mà cũn là khu vực cạnh tranh kinh tế
và cú vị trớ rất quan trọng về quốc phũng an ninh.
Không những thế ngoài tiềm năng lớn về phát triển thương mại, Móng
Cái cũn nhiều tiềm năng đa dạng có thể khai thác như: kinh tế biển, khai thác
đất đai, tài nguyên khoáng sản để phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp.
Về tài nguyên biển, Móng Cái có vùng ven biển rộng, nhiều ngư
trường, bờ biển dài 50km có diện tích bói triều lớn, rất thuận lợi cho việc phỏt
triển nghề khai thỏc và nuụi trồng thủy hải sản. Trữ lượng có khả năng khai
thác từ 6 – 7 ngàn tấn/năm, nhưng hiện nay mức độ khai thỏc cũn thấp. Nếu
được đầu tư phương tiện đánh bắt ngoài khơi và tổ chức nuôi thâm canh sản
lượng thủy hải sản của Móng Cái có thể tăng lên gấp nhiều lần để cung cấp
cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Về đất đai, thị xó Múng Cỏi cú nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu,
nhân dân cần cù lao động với tổng diện tích đất trồng trọt trên địa bàn thị xó
đạt 7000 ha với hơn 13.000 hộ nông nghiệp, gần 60.000 nhân khẩu chiếm 75% dân số. Với diện tớch 520Km2, dân số trên 8 vạn người, mật độ dân số trung bỡnh đạt 154 người/km2 thỡ tiềm năng về đất sản xuất cũn rất lớn. Thị
xó Múng Cỏi cú địa hỡnh phớa bắc là đồi núi trung du, phía đông là đồng
bằng và có địa hỡnh thoải dần ra biển, cú hệ thống hồ nước ngọt với trữ lượng
nước rất lớn. Là một vùng đất gần biển, khí hậu khá ôn hoà so với các địa
phương khác, Móng Cái là khu vực ít chịu ảnh hưởng của thiên tai. Đây là
những yếu tố rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế
trang trại. Với tiềm năng về đất đai, khí hậu chúng ta có thể trồng nhiều loại
cây có giá trị và cho năng suất cao, giúp nhân dân thoát khỏi đói nghèo và
vươn lên làm giàu. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của lĩnh vực
thương mại – du lịch – dịch vụ, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng không
ngừng được quan tâm, tạo được sự chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất và
giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Về lõm nghiệp, thị xó Móng Cái là vùng núi biên giới nên được hưởng
nhiều cơ chế tài chính hỗ trợ trồng rừng của các tổ chức phi Chính phủ (dự án
661, Việt Đức, dự án trồng rừng ngập mặn JAICA...). Trong những năm qua,
do có các nguồn vốn hỗ trợ trên, Móng Cái đó trồng được hàng ngàn ha rừng
phũng hộ đầu nguồn, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ môi sinh, môi trường
và tạo nên các vùng có cảnh quan đẹp có thể khai thác vào mục đích du lịch.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho nhân dân đang
phát huy rất hiệu quả việc phỏt triển kinh tế trang trại.
Về nuôi trồng thủy sản, đây là một trong những tiềm năng, thế mạnh và
đang được đầu tư toàn diện để nhanh chóng trở thành một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn của Thị xó. Thị xó Múng Cỏi cú 6 xó, phường tiếp giáp biển
và vùng cửa sông với diện tích đất ngập nước hàng ngàn ha có tiềm năng, thế
mạnh trong nuôi trồng thuỷ sản rất lớn, rất thích hợp cho việc nuôi các loài
thuỷ sản giá trị kinh tế cao.
Móng Cái có hệ thống sông Ka Long và sông Bắc Luân đổ ra biển theo
2 cửa sông khác nhau; có sự điều hoà giữa nước ngọt và nước mặn đó tạo một
vựng nước lợ rất lớn. Đây là điều kiện lý tưởng để nuôi các loại thuỷ sản nước
lợ mà không phải tạo hồ điều tiết nước ngọt như nhiều địa phương khác nên
giảm chi phí đầu vào cho nhân dân. Trên vùng đất triều có diện tích rất lớn
rừng ngập mặn lâu niên và diện tích rừng ngập mặn đang tiếp tục được trồng
bổ sung và bảo vệ; hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển rất phong phú, đa
dạng và đặc trưng rất phù hợp cho việc nuôi các loài thuỷ sản giá trị cao: tôm,
cua, cá song... Bên cạnh đó nhiều vùng ven biển rất thích hợp nuôi các loại cá
lồng có giá trị cao (khu vực đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực) song chưa khai thác
được. Môi trường nước cũn tương đối sạch, chưa bị ô nhiễm nên việc nuôi
trồng thuỷ sản cũng cú nhiều thuận lợi.
Nhu cầu thị trường sản phẩm thuỷ sản trong và ngoài nước lớn, đặc biệt
là trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay. Đây là thời cơ vận hội
kích cầu nền sản xuất ngư nghiệp của Thị xó Múng Cỏi phỏt triển. Bên cạnh
đó, Móng Cái tiếp giáp với vùng biển có rất nhiều tiềm năng về thuỷ sản, rất
thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt xa bờ.
Trước tiềm năng, thế mạnh trong sản xuất ngư nghiệp, nhu cầu của thị
trường tại chỗ và thị trường xuất khẩu, trong những năm gần đây phong trào
nuụi trồng thuỷ sản trong nhõn dõn phỏt triển mạnh mẽ cả về quy mụ và
chủng loại nuụi.
Về khoáng sản, tuy trữ lượng không lớn nhưng có nhiều loại như: Đất
sét, cao lanh làm sành sứ, gạch ngói, đá hoa cương ở Lộc Phủ, Titan ở Bỡnh
Ngọc, Trà Cổ, cỏt đá sỏi phân bố ở nhiều nơi có khả năng khai thác phục vụ
phát triển một số ngành công nghiệp.
Về du lịch và nhân văn, Móng Cái được thiên nhiên ưu đói với nhiều
danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, cú bề dày lịch sử và nền văn hoá đặc thù của
địa phương, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi
cho ngành du lịch, dịch vụ du lịch của Móng Cái phát triển: khu du lịch Trà
Cổ - Bỡnh Ngọc, bói cỏt trắng rộng, thoải, mụi trường trong lành, hệ sinh thái
đa dạng cũn khỏ hoang sơ rất thích hợp để phỏt triển du lịch biển. Hiện nay
bói tắm Trà Cổ được đánh giá là một bói tắm đẹp trong cả nước; có đảo Vĩnh
Trung - Vĩnh Thực với tiềm năng du lịch biển chưa được khai thác; có diện
tích rất lớn hệ thống rừng ngập mặn, rừng phũng hộ đầu nguồn, các hồ, đập
có cảnh quan rất đẹp như: Tràng Vinh, Quất Đông... rất thích hợp để phát
triển du lịch sinh thái. Trên địa bàn Thị xó cũn nhiều chựa triền: ở phường Trà
Cổ cũn cú ngụi đỡnh lớn khởi dựng năm 1550, một công trỡnh kiến trỳc và
điêu khắc tiêu biểu cho nghệ thuật thời Lờ cũn khỏ nguyờn vẹn, đỡnh Trà Cổ
đó được Bộ văn hoá xếp hạng (Quyết định số 15 VH/ ngày 13/3/1974). éầu
năm 1999, Móng Cái có thêm hai kiến trúc nghệ thuật được xếp hạng (Quyết
định số 02- Qé/ BVHTT ngày 26/1/1999) đó là: chùa Nam Thọ cũng ở
phường Trà Cổ xây dựng vào thế kỷ 17, trong chùa có hơn 60 pho tượng do
nhiều chùa dồn lại, trong đó có nhiều pho tượng có mang đậm phong cách
dân gian của các thời kỳ lịch sử, có giá trị như một sưu tập các tác phẩm điêu
khắc; Chùa Xuân Lan ở xó Hải Xuõn được xây dựng cách đây trên 400 năm.
Chùa có cột xó bằng đá phiên và một quả chuông đúc thời Quang Trung. Ở
phường Trà Cổ cũn cú nhà thờ cụng giỏo với thỏp chuụng và giỏo đường uy
nghi xây dựng năm 1914, mới được tu bổ năm 1997, các danh thắng với
những nét đặc trưng riêng tạo nên một quần thể du lịch độc đáo, đa dạng mà ít
nơi có thể sánh kịp, làm tăng thêm sự chú ý đối với du khách.
Thiên nhiên ban tặng cho Móng Cái nhiều phong cảnh đẹp, ở địa đầu
của Tổ quốc, có nhiều di tích lịch sử, văn hoá lại nằm trong địa bàn trọng
điểm phát triển du lịch của cả nước. Nhân dân Móng Cái đa dạng về thành
phần dân tộc mang đậm nét văn hoá đặc sắc, có đức tính cần cù, đoàn kết,
mến khách. Múng Cỏi cú nhiều truyền thuyết và cỏc bài hỏt dõn gian. Ở xó
ven biển, nhất là ở Vạn Ninh xưa có hát tơ, hát ví, hát đôi trong đám cưới.
Vùng đồng bào Dao có hát “sán Cô”. Nay nhiều xó cú đông đảo dân các tỉnh
đồng bằng ra các vùng kinh tế mới mang theo truyền thống hát chèo và các
điệu dân ca của vùng Bắc Bộ. Lễ hội lớn nhất ở Móng Cái là hội làng Trà Cổ
tổ chức vào tuần đầu tháng sáu âm lịch. Bên cạnh phần tế lễ, rước chân nhang
từ miếu éụi về đỡnh, cú tục “ đóng cây ca đám”, tục thi lợn to, thi cỗ chay, cỗ
mặn. Điều này đó làm phong phỳ tài nguyờn du lịch và nhõn văn của nơi địa
đầu tổ quốc biên cương này.
1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với Đảng bộ thị xã Móng Cái trong
quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội .
Trước thập kỷ 90, thị xó Múng Cỏi cũn là một huyện miền nỳi biờn
giới kinh tế nụng nghiệp mang tớnh tự tỳc tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, cơ
cấu kinh tế nông lâm – ngư nghiệp là chủ yếu (85%), công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp nhỏ bé, manh mún; Tổng thu ngân sách hàng năm chỉ vài tỉ
đồng, thu không đủ chi, phần lớn dựa vào sự bao cấp của Trung ương và của
Tỉnh, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn…
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, và nhất là từ khi thực
hiện chủ trương mở cửa biên giới (tháng 2/1989) đến nay, Đảng bộ, quân và
dân thị xó Múng Cỏi từng bước vượt lên khó khăn, chớp đúng thời cơ, tập
trung sức mạnh, khai thác được tiềm năng thế mạnh về địa lý và vận dụng
triệt để các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là từ khi được áp
dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu theo Quyết định
675/TTg ngày 18/9/1996 và chính thức theo Quyết định 53/2001/QĐ-TTg
ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Móng Cái có những bước phát
triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – xó hội, quốc phũng, an ninh.
Thị xó Múng Cỏi từ một địa phương nghèo nay trở thành một vùng kinh tế
phát triển năng động với cơ cấu kinh tế được thay đổi cơ bản từ chỗ nông –
lâm – ngư nghiệp chiếm tới 80% tỷ trọng trong GDP trước năm 1989, chuyển
dịch sang thương mại - du lịch - dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp, trong
đó tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ chiếm trên 70%. Tốc độ tăng
trưởng duy trỡ cao, bỡnh quõn hàng năm trên 16%. Hoạt động lĩnh vực
thương mại luôn được duy trỡ tốc độ tăng trưởng. Tổng kim ngạch hàng hoá
qua cửa khẩu tăng bỡnh quõn hàng năm, năm cao nhất là 52,4%. Giá trị XNK
năm 2001 - 2005 đạt 3.698,4 triệu USD, năm 2005 so với năm 2000 bằng
274,3% và trong năm 2006 đạt hơn 2,11 tỷ USD.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu và kinh tế khu vực sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành
Thương mại. Việt Nam tham gia hiệp định ưu đói thuế quan (AFTA) và Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thỏi Bỡnh Dương (APEC), gia nhập WTO đó mở
ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư và thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển.
Đặc biệt, Móng Cái hiện nay đó trở thành một trong 2 trung tâm kinh tế lớn
của tỉnh Quảng Ninh, có vị trí quan trọng trong trục kinh tế trọng điểm Hà
Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh; là cửa ngừ quan trọng trong tiến trỡnh hội
nhập kinh tế giữa cỏc nước trong khu vực - cửa ngừ quan trọng của tự do hoỏ
mậu dịch ASEAN - Trung Quốc. Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung
Quốc, Móng Cái có vị trí đặc biệt quan trọng, đóng vai trũ trung tõm trong 2
hành lang kinh tế (Lào Cai - Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Cụn Minh
(Trung Quốc)), hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Quảng
Tây (Trung Quốc) và 1 vành đai kinh tế quanh vịnh Bắc Bộ (bao gồm: Quảng
Đông, Quảng Tây - Trung Quốc và Móng Cái - Hạ Long - Đồ Sơn).
Đi đôi với chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chiến lược đầu tư
toàn diện, có chiều sâu về mọi mặt từ cơ sở hạ tầng đến nguồn nhân lực để
đáp ứng tiến trỡnh hội nhập. Từ đó sẽ giảm bớt chi phí cho các doanh nghiệp
đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thị xó Múng Cỏi.
Bên cạnh tiềm năng do xu hướng phát triển mang lại, cơ chế chính sách
của Trung ương và của Tỉnh, Móng Cái cũn cú nhiều lợi thế do đặc thù khu
vực, tự nhiên mang lại. Cụ thể:
Móng Cái là khu kinh tế cửa khẩu, là một trong số ít địa phương tiếp
giáp với Trung Quốc, một thị trường rộng lớn và năng động, đặc biệt là từ khi
Trung Quốc gia nhập WTO. Trong những năm qua Móng Cái được xác định
là một trong những cửa ngừ giao lưu, trung chuyển hàng hoá giữa hai thị
trường Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Cú hệ thống giao thụng thuỷ bộ thuận tiện, cú cửa khẩu Quốc tế và cửa
khẩu tiểu ngạch, cú cảng biển mang tầm cỡ quốc gia và khu vực, có nhiều
cảng thuỷ nội địa phục vụ đắc lực cho hoạt động thương mại. Ngoài cơ chế ưu
đói, Thị xó đó quan tõm đầu tư xây dựng nhiều công trỡnh lớn phục vụ cho
hoạt động thương mại tại khu kinh tế cửa khẩu. Tính đến nay đó cú nhiều
doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư với giá trị đầu tư đó đạt con số
hàng ngàn tỷ đồng.
Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thị trường
nội địa được quan tâm đầu tư mạnh mẽ, có chiều sâu đó tạo một sức hỳt lớn
đối với các thương nhân trong và ngoài nước, đặc biệt là các thương nhân
Trung Quốc.
Cơ sở hạ tầng cho phát triển thương mại dịch vụ tiếp tục được đầu tư
toàn diện, đặc biệt là việc triển khai dự án xây dựng nâng cấp cảng biển Vạn
Gia, cầu cảng Dõn Tiến và chủ trương xây dựng cầu Bắc Luân 2 sẽ là động
lực mang tính chất đũn bẩy thu hỳt cỏc doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu.
Hoạt động thương mại thúc đẩy dịch vụ phát triển và ngược lại. Do
nắm bắt được quy luật phát triển của thị trường, trong những năm qua Móng
Cái đó, đang và sẽ tiếp tục được đầu tư, khuyến khích nhằm phát triển các
khu, cụm công nghiệp, dịch vụ tập trung (bốc xếp dỡ hàng hoá, kho, cảng...)
để hỗ trợ các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Nắm bắt được thời cơ và
nhu cầu thị trường Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh đó
đến Thị xó Múng Cỏi đầu tư kho ngoại quan để kinh doanh dịch vụ xuất nhập
khẩu; nhiều doanh nghiệp đó đầu tư sản xuất các dự án gia công, sơ chế các
mặt hàng để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc hoặc hàng hóa từ Trung
Quốc đi vào thị trường Việt Nam và các nước ASEAN. Năm 2006 trên địa
bàn thị xó cú 4.899 hộ kinh doanh cỏ thể; 258 doanh nghiệp và thu hỳt được
25 dự án đầu tư nước ngoài đó được cấp phép với tổng số vốn là 181,19 triệu
USD, trong đó một số liên doanh lớn như công ty liên doanh Hải Ninh-Lợi
Lai, Vĩnh Thuận, tập đoàn Vinh Cơ, Hồng Vận…
Về thị trường nội địa: Toàn Thị xó cú 15 chợ với tổng diện tớch sử dụng 39.560 m2, vốn đầu tư 207.346 triệu đồng. Trong đó chợ trung tâm
Móng Cái trên 83.000 triệu đồng. Tổng số hộ kinh doanh là 3.763 hộ, trong
đó 734 hộ là người nước ngoài (Trung Quốc). Từ khi các chợ được xây dựng
và đưa vào sử dụng đó tạo được nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa
phương. Giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Lĩnh vực sản xuất cụng nghiệp – tiểu thủ cụng nghiệp ngày càng phỏt
triển. Thị xó đó tiến hành quy hoạch cỏc khu cụng nghiệp tập trung như Hải
Yên, Hải Hũa, Ninh Dương. Toàn thị xó cú trờn 320 cơ sở sản xuất, chế biến,
giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động có thu nhập ổn định. Giá
trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp các năm tăng mạnh, giai đoạn
2000 – 2005 tăng bỡnh quõn 48,6%/năm.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng phát triển nhanh. 100% các xó,
phường có trụ sở, trạm xá, trường học kiên cố, cao tầng; đường nhựa đó tới
trung tõm cỏc xó, điện lưới quốc gia đó tới xó đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực và
xó miền nỳi Hải Sơn, Bắc Sơn, hơn 98% dân số của thị xó được sử dụng điện.
Các khu đô thị mới, hiện đại như Phượng Hoàng, Tây Ka Long, Hải Yên đang
dần được xây dựng, làm cho bộ mặt của thị xó Múng Cỏi ngày càng thay đổi.
Bưu chính viễn thông được đầu tư hiện đại, phát triển với tốc độ nhanh
và mạnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong nước và quốc tế, số máy
điện thoại đạt tỷ lệ 39 máy/100 dõn.
Hệ thống ngân hàng với sự tham gia đầy đủ của các ngân hàng lớn
trong nước đó cú nhiều đổi mới theo hướng hiện đại hóa và đa dạng các dịch
vụ. Chỉ tính riêng năm 2006, thanh toán biên mậu đạt 33.473 tỷ đồng, dịch vụ
chuyển tiền ước đạt 63.971 tỷ đồng.
Ngân sách trên địa bàn thị xó trước năm 1989 không tự cân đối được,
đến nay đó cú những đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước, nhịp độ
tăng bỡnh quõn hàng năm (giai đoạn 2000 – 2005) là 8,2%, riêng năm 2006
tổng ngân sách đạt 442,9 tỷ đồng.
Với sự phỏt triển nhanh về kinh tế - xó hội, đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện. Số hộ khá, giàu tăng nhanh; số hộ nghèo, đói
giảm mạnh. Từ đống đổ nát hoang tàn sau chiến tranh biên giới, sau 20 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, nơi đây đó mọc lờn một thị xó đông
vui, sầm uất; một đô thị trẻ, hiện đại, đa chức năng, tràn đầy sức sống.
Đây là những thuận lợi lớn cho bước phát triển kinh tế - xó hội của thị
xó Múng Cỏi.
Tuy nhiên thực trạng kinh tế – xã hội của thị xã còn đứng trước nhiều
khó khăn thách thức: Phát triển của Móng Cái thời gian qua chủ yếu mới tập
trung vào khu vực trung tâm gần cửa khẩu, các vùng nông thôn, miền núi, hải
đảo phát triển còn chậm, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đời sống còn khó khăn
và còn chênh lệch lớn so với vùng trung tâm đô thị. Đầu tư cho nông nghiệp
nông thôn tương đối lớn, song chưa đồng đều. Do đó chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp, nông thôn còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn
chiếm 14%. Đời sống nhân dân miền núi, dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn, đất hoang hóa còn nhiều.
Phát triển các ngành kinh tế chưa ổn định và cân đối. Cơ cấu nội ngành
còn chậm đổi mới, cơ cấu vùng chưa rõ nét. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn còn nhiều bất cập, hiệu quả khai thác tiềm năng đất
đai và lao động chưa cao; công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa
bền vững, phần giá trị gia tăng còn thấp; Các ngành dịch vụ phát triển chưa
cân đối, còn mang yếu tố tự phát nên hiệu quả kinh tế chưa cao; chất lượng
giao thông-vận tải có những mặt hạn chế, vận chuyển hành khách chưa đáp
ứng được nhu cầu du khách trong, ngoài nước; Việc huy động và phát huy các
nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân chưa tương xứng với tiềm năng.
Kinh doanh thương mại xuất nhập khẩu chủ yếu hàng hóa từ bên ngoài vào.
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn yếu, thiếu cơ sở vui chơi, giải trí. Khu du
lịch Trà Cổ chưa được đầu tư thỏa đáng.
Cơ chế, chính sách Nhà nước ban hành tuy đã có tác động lớn, nhưng
chưa đạt tới độ hấp dẫn cần thiết nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, nhất là
chính sách đất đai, ưu đãi phát triển thương mại, xuất nhập khẩu. Việc phân
cấp quản lý chưa có quy định rõ rệt, phù hợp. Nhìn chung các bộ ngành Trung
ương và các sở ngành của Tỉnh Quảng Ninh chưa thực hiện toàn diện Quyết
định 675 TTg và Quyết định 53/2001/QĐ-TTg. Chính sách ưu đãi đầu tư đã
rõ ràng song thủ tục cấp phép đầu tư còn rườm rà, thời gian cấp phép còn
chậm. Một số cơ chế chính sách đã lỗi thời còn chậm được loại bỏ. Bên cạnh
đó sự phối hợp giữa một số ngành có liên quan còn có hạn chế nhất định.
Trong những năm qua, nguồn vốn được đầu tư trở lại theo Quyết định
675/TTg và 53/TTg đóng vai trò chủ lực trong việc tạo nên diện mạo của
Móng Cái ngày nay. Từ khi có Quyết định số 185/2003/QĐ-TTg ngày
10/9/2004 của Thủ tướng chính phủ về việc bãi bỏ các quy định của Thủ
tướng chính phủ về cấp lại đầu tư trở lại từ các khoản thu của ngân sách nhà
nước và thực hiện cơ chế hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương ; sau đó
Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng chính phủ
có sửa đổi chỉnh lý một số nội dung về phần cấp vốn đầu tư trở lại nhưng cơ
bản vẫn là cơ chế “xin cho”. Cho nên thị xã Móng Cái gặp nhiều khó khăn để
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn, nhiều
công trình xây dựng dở dang không được đưa vào sử dụng đúng thời hạn,
nhiều công trình trọng điểm gặp khó khăn về vốn… Đầu tư kết cấu hạ tầng
chưa đồng bộ ; đặc biệt là các công trình vốn 53/TTg chuyển tiếp, các công
trình hạ tầng dân cư và cơ sở hạ tầng các khu du lịch. Kết cấu hạ tầng tại khu
kinh tế cửa khẩu Móng Cái còn bất cập chưa đáp ứng nhu cầu phát triển: cửa
khẩu quốc tế Bắc Luân đã xuống cấp, bãi kiểm tra hàng hóa thường xuyên bị
quá tải ; do hết vốn nên tiến độ cải tạo cửa khẩu Ka Long chậm, tàu thuyền
luôn bị mắc cạn nhất là vào mùa khô.
Thu ngân sách tuy đạt giá trị lớn nhưng một số nguồn thu còn hạn chế,
còn nhiều xã - phường chưa tự cân đối ngân sách; Việc thu phí, lệ phí đạt
thấp; nguồn thu từ cấp quyền sử dụng đất còn chiếm tỷ trọng cao.
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, nhất là quản lý đất đai còn
hạn chế. Tình trạng lấn chiếm, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong
nhân dân còn xẩy ra, có vụ việc diễn biến phức tạp; việc sử dụng quỹ đất cho
đầu tư phát triển chưa mạnh; Trong đầu tư XDCB vẫn còn dàn trải; tình trạng
thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chất lượng công trình vẫn là vấn đề cần
được quan tâm; dự án đầu tư theo các chương trình chưa được triển khai đồng
bộ, chất lượng thấp, hiệu quả chưa cao.
Thực hiện chủ trương "Xã hội hóa" trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo
dục... còn thiếu những biện pháp hữu hiệu. Chất lượng hoạt động của nhà văn
hoá cộng đồng chưa cao; Việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc
tang, trong lễ hội kết quả còn thấp; Bộ máy tổ chức, quy chế, lề lối làm việc
và đội ngũ cán bộ văn hóa còn yếu. Chất lượng khám, chữa bệnh của Bệnh
viện Móng Cái, mạng lưới y tế cơ sở nhìn chung chưa ngang tầm; Chất lượng
giáo dục vẫn là đòi hỏi bức xúc của nhân dân trong đào tạo nguồn nhân lực
cho địa phương. Chỉ tiêu hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ người sinh con
thứ 3 còn cao và không vững chắc.
Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển. Giáo dục đào tạo còn ở mức thấp chưa ngang tầm với tốc
độ phát triển kinh tế, công tác cán bộ cải cách hành chính còn chậm chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nguyên nhân chính là do năng lực trình độ quản lí bộ
máy công quyền của một số cán bộ còn yếu. Số ít cán bộ, nhất là ở cơ sở ý
thức rèn luyện phẩm chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm công tác chưa tốt; vi
phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, Đoàn thể, vi phạm chính sách đã phải xử lý
kỷ luật.
Là một thị xã vừa có biên giới trên đất liền và trên biển, phát triển kinh
tế gắn với bảo vệ an ninh ninh quốc phòng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết.
Trong cuộc canh tranh phát triển, Móng Cái đang đứng trước những thách
thức trước chủ trương phát triển mạnh mẽ các khu vực kinh tế biên giới phía
Nam Trung Quốc.
Tóm lại, những thuận lợi và khó khăn nêu trên đã đặt ra những yêu cầu
khách quan cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội đối với thị xã Móng Cái,
vì vậy để Móng Cái thực sự phát triển đáp ứng những yêu cầu đặt ra đòi hỏi
cần xây dựng thị xã Móng Cái thành một khu kinh tế cửa khẩu với các quy
chế ưu đãi nhằm đưa kinh tế thị xã phát triển với tốc độ nhanh. Xây dựng
Móng Cái thành một trung tâm kinh tế phát triển, có quy mô tương đối hiện
đại, tăng cường khả năng hợp tác và cạnh tranh trong khu vực, nhất là đối với
thị xã Đông Hưng – Trung Quốc. Xây dựng, phát triển theo một cơ cấu toàn
diện, ngoài phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch là trọng tâm, chú trọng
phát triển nông nghiệp và nông thôn, hướng các ngành nông lâm ngư nghiệp
phát triển phục vụ cho phát triển thương mại và du lịch trên địa bàn. Từng
bước hạn chế sự phát triển chênh lệch giữa các khu vực trên địa bàn thị xã,
nhất là miền núi và hải đảo. Tiếp tục huy động mọi nguồn vốn để từng bước
hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sự phát triển các ngành kinh tế,
nhất là hệ thống giao thông, kho tàng, bến bãi, điện nước, các cơ sở thương
mại, du lịch, vui chơi giải trí… phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội, đặc
biệt gắn với việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng,
giữ vững chủ quyền Quốc gia, chống các tệ nạn xã hội.
Những nội dung nêu trên vừa là căn cứ lý luận và thực tiễn khách quan,
vừa là nhận thức mới, là nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân thị xã để tạo
ra sự chuyển biến nhanh chóng về mọi mặt, tìm ra được mô hình kinh tế phù
hợp. Trong hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, quá trình đó đòi
hỏi Đảng bộ và nhân dân Móng Cái phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo để
khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, có bước chuyển dịch cơ cấu kinh
tế phù hợp và có hiệu quả hơn.
Chương 2
Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển
kinh tế – xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991–2006
2.1 Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
trong những năm 1991 – 1996
2.1.1 Những nội dung cơ bản đường lối đổi mới của Đảng trên lĩnh
vực kinh tế – xã hội .
Đại hội Đảng lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã tổng kết một bước công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc về
mọi mặt, bắt đầu từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, đổi mới công tác cán
bộ. Đổi mới tư duy kinh tế trên các quan điểm: Sử dụng các thành phần kinh
tế, vận động theo cơ chế thị trường. Đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tạo thường
xuyên phù hợp với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất.
Đại hội nhấn mạnh: “Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng
rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ
cấu hợp lý” [4,tr.47].
Đại hội Đảng lần thứ VII diễn ra trong bối cảnh cách mạng nước ta đạt
được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội.
Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đề ra mục
tiêu nhiệm vụ 5 năm tới, thông qua cương lĩnh và chiến lược kinh tế.
Đại hội đã đánh giá cao những thành tựu đã đạt được và khẳng định:
Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.
Từ thực tiễn cách mạng với những khó khăn, thuận lợi và những bài
học kinh nghiệm, Đại hội đã đề ra những phương hướng nhiệm vụ chủ yếu
trong 5 năm 1991 – 1995.
Mục tiêu tổng quát là: Vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát
triển kinh tế – xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất
công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Quán triệt một cách sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII. Đảng
bộ tỉnh Quảng Ninh tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (1991). Đại hội
đã đánh giá: Qua năm năm thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, đã
thu được một số thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy một số chỉ tiêu giảm
về số lượng, nhưng chất lượng và hiệu quả tăng lên. “Từ giữa những 1988 trở
đi, các chủ trương chính sách mới bắt đầu phát huy tác dụng và sau khi thực
hiện thông báo 118 của Ban bí thư Trung ương Đảng, cho dân hai bên biên
giới qua lại thăm thân và trao đổi hàng hóa thiết yếu đã tạo thêm điều kiện
mới về phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh”[15,tr.12]. “Bộ mặt kinh tế – xã hội
của tỉnh đã có bước chuyển biến, nhất là từ năm 1989 đến nay. Tỉnh đã sớm
chuyển sang cơ chế giá kinh doanh, giao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế
cơ sở. Đã ưu tiên từng bước đầu tư các cơ sở hạ tầng, giải quyết kết quả
những khó khăn gay gắt về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nhà ở,
phương tiện đi lại cho nhân dân trong tỉnh”[15,128].
Xuất phát từ tình hình đặc điểm của tỉnh, Đại hội đã đề ra những nhiệm
vụ biện pháp lớn trong 5 năm 1991 – 1995:
Mục tiêu chung: “Tiếp tục công cuộc đổi mới một cách sâu sắc, toàn
diện; từng bước ổn định tình hình kinh tế – xã hội; tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động; cân đối được thu chi ngân sách; ổn định và đảm bảo nhu
cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh, học tập và sinh hoạt văn hóa của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh; ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tiền đề phát triển cho
những năm sau” [15,tr.131].
Đại hội nhất trí cao với cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm trước
mắt được xác định là: “Công nghiệp – nông nghiệp – Thương mại – Dịch vụ
và Du lịch. Các ngành kinh tế trên có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau,
tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển” [15,tr.132].
“Phát triển nông nghiệp toàn diện, đưa nông nghiệp từng bước chuyển
sang sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp với công
nghiệp chế biến, gắn trồng trọt với chăn nuôi” [15, tr.133].
“Sắp xếp lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh ở tỉnh và các huyện,
thị xã cho phù hợp. Xây dựng Hồng Gai, Hải Ninh thành 2 trung tâm thương
mại và du lịch của tỉnh” [15,tr.135]
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh
của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ xung cho nhau
cùng phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã tiến hành Hội nghị giữa nhiệm
kỳ vào tháng 6-1993. Hội nghị đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội VII và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ sau Đại hội VI, nhằm làm
sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục tiến
lên.
Hội nghị đã nêu lên 3 thành tựu nổi bật: Thành tựu có ý nghĩa hàng đầu
là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế
– xã hội. Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị. Quan hệ đối
ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí của nước ta trên thế giới được nâng lên
tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hội nghị đánh giá tổng quát: “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải
khắc phục, những thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền
đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới
một bước công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.” [10,tr.47].
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh tiến hành vào
tháng 03 năm 1994. Hội nghị đã đánh giá tình hình thực hiện các nhiệm vụ,
chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII và khẳng định:
Kết quả có ý nghĩa hàng đầu là đã khắc phục được một bước quan trọng tình
trạng kinh tế – xã hội chậm phát triển, từng bước tăng nguồn lực tài chính và
cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh. Ba năm 1991 – 1994: “Kinh tế – xã
hội của tỉnh có bước tăng trưởng đáng kể, đã đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu
Đại hội IX Đảng bộ tỉnh đề ra; giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP) bình quân
hàng năm tăng 10%”[16,tr.8].
“Trong hoàn cảnh nhiều khó khăn, tỉnh đã ưu tiên đầu tư xây dựng hạ
tầng, tập trung cho giao thông, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc, phúc lợi công
cộng, từng bước hình thành hai Trung tâm thương mại Hồng Gai, Hải Ninh”
[16,tr.8].
“Cùng với phát triển kinh tế việc thực hiện các chính sách xã hội được
quan tâm hơn. Nhờ sản xuất – kinh doanh phát triển, hàng hóa phong phú, đa
dạng, giá cả tương đối ổn định, đời sống nhân dân ở vùng đô thị, vùng kinh tế
cửa khẩu và một số vùng nông thông được cải thiện…” [16, tr.12].
Bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại: Nền kinh tế của tỉnh phát triển
chưa đều, và chưa vững chắc, còn nhiều mặt mất cân đối. Công nghiệp địa
phương và tiểu – thủ công nghiệp manh mún và non yếu, chưa có sự chuyển
biến đáng kể về công nghệ, kỹ thuật; Kinh tế nông nghiệp và nông thôn đổi
mới chưa được bao nhiêu, nhiều tiềm năng thế mạnh về đất đai, đồi rừng, mặt
nước, nguồn lao động chưa được đầu tư khai thác hợp lý; Kinh tế cảng biển,
du lịch, dịch vụ, thương mại đang là lợi thế lớn của tỉnh, nhưng cơ sở hạ tầng
yếu kém; Văn hóa – xã hội tuy đã đạt được một số kết quả nhưng còn nhiều
vấn đề bức xúc chưa được giải quyết.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những tồn tại về phát triển
kinh tế – xã hội từ những năm 1991 đến năm 1993, Nghị quyết Hội nghị đề ra
những nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII:
“Nêu cao ý thức tự lực tự cường, động viên mọi tiềm năng và nguồn
lực sẵn có, tiếp tục tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, ưu tiên
đầu tư hai trung tâm thương mại Hồng Gai – Hải Ninh và mở rộng dần việc
xây dựng ra các địa phương khác trong tỉnh.
Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Củng cố, hoàn thiện và phát triển các thành phần kinh tế thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa; phát triển
công nghiệp chế biến, giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế Trung ương và
địa phương; giữa các ngành kinh tế trên địa bàn.
Thực hiện tốt công tác xã hội, văn hóa, từng bước giải quyết những vấn
đề bức xúc như việc làm, công bằng xã hội, nâng cao sức khỏe, trình độ dân
trí và đời sống nhân dân; thực hiện xóa đói giảm nghèo” [16,tr.31].
Những nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế – xã hội mà Đại hội lần
thứ VII của Đảng, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng và Đại hội
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh khóa IX đề ra là cơ sở lý luận và những mục tiêu cụ thể để Đảng
bộ thị xã Móng Cái thực hiện và vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với
hoàn cảnh của địa phương.
2.1.2 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đưa nền kinh tế huyện
phát triển.
Với tinh thần quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ ngày
17 đến 19-9-1991 Đảng bộ thị xã tiến hành Đại hội lần thứ XVIII (nhiệm kỳ
1991 – 1995). Căn cứ vào những thuận lợi và khó khăn của thị xã, Đại hội
XVIII đã đề ra phương hướng, mục tiêu tổng quát đến năm 1995 là:
“Động viên toàn đảng, toàn dân quán triệt và tiếp rục thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới của đảng, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc
phục khó khăn trở ngại với tinh thần tích cực, chủ động nhất để khai thác có
hiệu quả những tiểm năng về nông nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ
theo cơ cấu kinh tế của huyện là nông nghiệp-thương mại-dịch vụ, để thực
hiện mục tiêu ổn định và từng bước phát triển kinh tế –xã hội, củng cố quốc
phòng giữ vững an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng Hải Ninh
ngày càng giầu mạnh.”
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng,
Đại hội Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX và Đại hội Đảng Bộ huyện Hải
Ninh lần thứ XVIII; Đảng Bộ, quân và dân huyện Hải Ninh đã phát huy
truyền thống cách mạng, ý trí tự lực tự cường, đoàn kết khắc phục khó khăn,
nỗ lực phấn đấu đạt được những kết quả to lớn trên các lĩnh vực kinh tế – xã
hội.
Trước hết, nhận thức rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp và
xây dựng nông thôn mới ở một huyện có trên 70% số dân sống ở nông thôn
và ở một địa bàn có sự phát triển nhanh về thương mại, Đảng bộ Huyện đã có
nhiều chủ trương biện pháp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hoá. Hàng năm ngân sách huyện đầu tư bình quân 1 tỷ đồng/
năm cho xây dựng các công trình thuỷ lợi và khuyến nông như hội trợ đưa
giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Huy động các
nguồn vốn vay cho nông dân (Bình quân khu vực nông nghiệp là 500 ngàn
đồng/hộ). Cùng với việc thúc đẩy quá trình đổi mới cơ chế quản lý các hợp
tác xã nông nghiệp… Do đó sản xuất nông nghiệp mặc dù còn gặp nhiều khó
khăn nhưng cũng đạt một số kết quả. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm duy
trì ở mức 5.500ha (trong đó cây lúa 3.300 ha). Tổng sản lượng quy thóc hàng
năm đạt bình quân 12.000 tấn. Nhiều hộ gia đình trồng cây công nghiệp ngắn
ngày: cây ăn quả, rau hoa bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế. Chăn nuôi gia
súc, gia cầm có tiến bộ; đàn lợn, trâu, bò năm 1994 tăng 9% so với năm 1990.
Về lâm nghiệp, đẩy mạnh trồng cây phân tán gắn với giao đất, giao
rừng, đã trồng mới 250 ha rừng, tập trung ở khu vực Du lịch Trà Cổ – Bình
Ngọc, hơn một triệu cây phân tán. Trên 800 hộ đã nhận giao đất, giao rừng về
trồng và chăm sóc.
Về ngư nghiệp, chuyển hướng sang nghề cá nhân dân, phong trào nuôi
trồng thuỷ sản đã đạt một số kết quả .
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp có tiến bộ, đời sống của đại bộ phận
nhân dân ổn định, có mặt được cải thiện; số hộ kinh tế khá và giầu ngày một
tăng, hộ nghèo giảm (qua khảo sát điểm ở 6 xã, năm 1995 số hộ giầu và khá
là 27,63%, tăng 6,17% so với năm 1993; số hộ nghèo đói là 23,6% giảm
10,04% so với năm 1993). Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh giỏi
trong cả trồng trọt và chăn nuôi .
Đối với các ngành Công nghiệp – Xây dựng cơ bản – Giao thông vận
tải và bưu điện: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhiều thành phần phát
triển, các doanh nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, sản xuất, quản lý và
phân phối điện được duy trì và thực hiện tương đối tốt trong khu vực trung
tâm và một số vùng dân cư. Được sự quan tâm của nhà nước, đường điện
110kv đưa điện lưới quốc gia ra Móng Cái đã hoàn thành tháng 10 năm 1994;
Có khoảng 4.500 hộ, bằng 45% số hộ dân trong toàn huyện dùng điện lưới
quốc gia, sản lượng điện năm 1995 gấp 5 lần so với những năm cao nhất
trước đây. Đã có phương án quy hoạch, thiết kế kỹ thuật, đưa điện đến các xã.
Toàn huyện có hơn 100 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp như gạch xây
dựng (7,5triệu viên/năm), gia công đồ mộc, sửa chữa cơ khí… thu hút hàng
ngàn lao động, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển, xây dựng trên địa bàn .
Xây dựng cơ bản là lĩnh vực đạt nhiều kết quả, tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật cần thiết để phát triển kinh tế –xã hội. Đã tranh thủ mọi nguồn vốn
Trung ương, Tỉnh, các ngành và địa phương, trong nhân dân, vốn tài trợ và
đầu tư... để đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng, bộ mặt thị trấn và nông
thôn của huyện đã có sự biến đổi tích cực, từng bước hình thành một trung
tâm thương mại – du lịch lớn, một đô thị sầm uất, hàng nghìn nhà cao tầng
bao gồm: Trụ sở làm việc, bưu điện, bệnh viện, trường học, khách sạn, nhà
dân… đã được xây dựng, với khoảng 150.000 m2 sử dụng. Ước tính tổng vốn
đầu tư từ các nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ cho sự phát triển
kinh tế – xã hội của huyện trong năm năm qua đạt gần 400 tỷ đồng. Trong đó
vốn của Trung ương và tỉnh đầu tư vào công trình như điện, đường, cầu cống,
hồ chứa nước, cửa khẩu, biên giới và một số công trình khác trước hết vì sự
ổn định và phát triển của Hải Ninh chiếm gần 50%, đã chứng tỏ sự quan tâm
của Đảng và nhà nước với Hải Ninh.
Giao thông vận tải cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế –xã hội.
Đã làm mới 64 km đường nhựa và đường bê tông nội huyện. Đường ô tô từ
huyện đi các xã, đường liên xã, liên thôn đã được nâng cấp, các phương tiện
giao thông vận tải phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu vận tải trên địa bàn và
tăng gấp 3 lần so vớ năm 1990. Cảng Vạn Gia hoạt động bước đầu có hiệu
quả. Mỗi năm thu thuế xuất nhập khẩu hàng chục tỷ đồng, đã đón tàu 8000
tấn vào cảng an toàn và đang được nhà nước xem xét đầu tư để trở thành cảng
biển quốc gia .
Hệ thống thông tin liên lạc được xây dựng hiện đại và không ngừng mở
rộng, đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài, đảm bảo thông
tin liên lạc thông suốt gữa huyện với trong nước và quốc tế; góp phần thúc
đẩy kinh tế –xã hội phát triển. Đạt bình quân có 2,2 máy/100 dân.
Đảng bộ huyện đã chỉ đạo đầu tư cơ sở vật chất và khuyến khích
thương mại du lịch, dịch vụ nhiều thành phần phát triển, hoạt động giao lưu
buôn bán qua cửa khẩu phát triển nhanh mạnh hơn, dần đi vào chính ngạch.
Tổng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu qua địa bàn bình quân mỗi năm hàng
nghìn tỷ đồng. Thu thuế xuất nhập khẩu mỗi năm một tăng. Khu thương mại
được mở rộng, đến đầu năm 1996 đã có trên 2000 doanh nghiệp và hộ tư nhân
trong nước và nước ngoài có cơ sở kinh doanh, buôn bán tại Hải Ninh, trong
đó có một số doanh nghiệp lớn .
Nhiều khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế được củng cố,
xây mới bao gồm 460 phòng nghỉ với 830 giường (chỉ tiêu đề ra tại Đại hội
khoá XVIII là 300 giường). Số lượng khách du lịch đến Hải Ninh trong 4 năm
1991 đến 1995 là 250 ngàn lượt người (chỉ tính các khách nghỉ tại các khách
sạn).
Các hoạt động như dịch vụ như vận tải, bốc vác, bán hàng, kinh doanh
ăn uống, nghỉ trọ, ngân hàng… phát triển nhanh thu hút gần 3000 lao động .
Thương mại – Dịch vụ – Du lịch đã từng bước trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của huyện, chiếm tỷ trọng gần 70% trong GDP.
Trong công tác Tài chính – Ngân hàng: Đảng bộ huyện đã chủ trương
tập trung quản lý và khai thác nguồn thu trên địa bàn. Công tác quản lý thu,
chi ngân sách đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi, tổng thu ngân sách tăng
bình quân mỗi năm 47%. Vượt chỉ tiêu đại hội XVIII đề ra (20%). Tổng thu
ngân sách trên địa bàn huyện được 450 tỷ đồng; Không những đảm bảo cân
đối được ngân sách huyện mà đã đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung
ương và tỉnh.
Chi ngân sách đảm bảo kế hoạch, nguyên tắc, bảo đảm nhu cầu chi cần
thiết của địa phương, góp phần ổn định phát triển kinh tế –xã hội. Trong đó
chi cho xây dựng cơ bản chiếm 70% so với tổng chi, trong đó huyện ủy đã chỉ
đạo đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xây dựng nông thôn mới. Nhiều xã đã quản lý
tốt các nguồn thu, tạo nguồn thu mới để tự cân đối và đầu tư cơ sở hạ tầng.
Cuối năm 1995 các xã, thị trấn cơ bản tự cân đối được thu, chi thường xuyên;
Trong đó một số xã, thị trấn có nguồn thu ổn định. Hệ thống Ngân hàng hoàn
chỉnh; đã làm tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh
doanh, tiền tệ; khai thác và sử dụng có hiệu các nguồn vốn tín dụng, mở rộng
các dịch vụ mở rộng các dịch vụ chuyển đổi tiền tệ phục vụ kinh doanh…
góp phần vào chương trình xoá đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế – xã hội
của huyện.
Nhờ những chuyển biến về mặt kinh tế xã hội mà trên lĩnh vực văn hoá
-xã hội cũng có sự khởi sắc rõ rệt:
Sự nghiệp giáo dục từng bước ổn định và đạt tiến bộ đáng kể theo
hướng nâng cao chất lượng và xã hội hoá. Chuyển biến rõ nét là về phát triển
số lượng là ở tất cảc các ngành học và việc duy trì sĩ số, tỉ lệ học sinh phổ
thông so với số dân chiếm 22,96%, ở mức phát triển cao như các tỉnh đồng
bằng. Giai đoạn 1991 – 1995 số học sinh bỏ học chỉ dừng lại từ 3-5%. Phổ
cập giáo dục tiểu học từng bước được thực hiện.
Hoạt động văn hoá -văn nghệ, thông tin, tuyên truyền bước đầu có
nhiều cố gắng bám sát các nhiệm vụ chính trị của địa phương, tham gia một
số lần hội thi của tỉnh đạt kết quả. Phong trào thể dục thể thể thao có chiều
hướng phát triển tốt. Đài truyền thanh – truyền hình từng bước năng cao chất
lượng, mở rộng diện phủ sóng, tiếp sóng đài truyền hình trung ương và và đưa
tin của tỉnh, của huyện, góp phần vào việc tuyên truyền đương lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước, nâng cao nhận thức cho nhân dân… đáp ứng một phần
nhu cầu hưởng thụ văn hoá và đời sống tinh thần trong nhân dân.
Ngành y tế thực hiện có hiệu có kết quả công tác bảo vệ và chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân và chương trình y tế quốc gia; củng cố mảng lưới y tế
từ huyện đến cơ sở, kịp thời ngăn chặn không để dịch bệnh lớn xảy ra, bệnh
viện mới đã được đưa vào sử dụng, đội ngũ thầy thuốc được tăng cường đáp
ứng ngày một tốt hơn về nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân .
Công tác Dân số- Kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ. Giảm tỷ lệ phát
triển dân số từ 2,8% (năm 1991) xuống còn 2,04% (năm 1995), tỷ lệ sinh con
thứ 3 trở lên giảm, năm 1990 là 47,7%, năm 1995 còn 23,90% (giảm 23,8%).
Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em bước đầu có kết quả, các đối tượng
trẻ em đặc biệt khó khăn thường xuyên được trợ cấp, thăm hỏi. Một số cơ
quan đã tự nguyện đỡ đầu, chăm sóc trẻ em mồ côi, tàn tật.
Cùng với việc phát triển kinh tế, việc quyết các vấn đề xã hội và thực
hiện chính sách xã hội được quan tâm đầy đủ hơn nên có bước phát triển mới.
Do sản xuất, kinh doanh phát triển, có việc làm nên đời sống của số đông
nhân dân ổn định, có mặt được cải thiện. Một bộ phận dân cư có cuộc sống
vật chất và tinh thần khá lên rõ rệt. Các hoạt động “Uống nước nhớ nguồn”;
“Đền ơn đáp nghĩa” chăm lo đến đời sống của các gia đình liệt sỹ, thương
binh, gia đình có công với cách mạng… được đông đảo các cấp, các ngành
và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đã
giải quyết đất ở cho phần lớn nhân dân của thị trấn Móng Cái từng bước tạo
điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống, phát triển kinh tế.
Về tồn tại: Nền kinh tế của huyện phát triển chưa đều và chưa thật
vững chắc, còn có mặt mất cân đối.
Nông nghiệp hàng hoá chậm phát triển, nhiều tiềm năng thế mạnh về
đất đai, mặt nước, lao động chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả. Bộ mặt
nông thôn đổi mới chưa nhiều. Hoạt động của nhiều Ban quản lý các Hợp tác
xã còn lúng túng, chưa phù hợp với cơ chế mới, việc bảo vệ môi sinh, môi
trường chưa tốt.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa theo quy hoạch,
chưa tương xứng với khả năng của địa phương.
Trong xây dựng cơ bản công tác quản lý quy hoạch đất đai, chất lượng
một số công trình, thanh quyết toán còn tồn tại, thiếu sót. Tỷ lệ đầu tư cho xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và cho các công trình văn hoá, phúc lợi xã hội
còn thấp.
Thương mại – du lịch - dịch vụ chưa được tập trung chỉ đạo và giải
quyết những khó khăn để khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương.
Du lịch quốc doanh hoạt động còn lúng túng và kém hiệu quả, môi trường du
lịch chưa hấp dẫn.
Công tác quản lý tài chính- tiền tệ còn có mặt chưa tốt, buôn lậu, trốn
thuế vẫn tái diễn dưới nhiều hình thức, việc huy động nguồn vốn từ ngân hàng
và trong xã hội để đầu tư vào sản xuất còn rất hạn chế.
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội còn có những vấn đề bức xúc chưa được
giải quyết, một số gia đình thuộc đối tượng chính sách còn khó khăn. Nhân
dân ở vùng xa, vùng cao, hải đảo phần lớn còn nghèo, chưa có cơ chế chính
sách hỗ trợ có hiệu quả. Chất lượng khám chữa bệnh và mạng lưới y tế cơ sở
còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Tỷ lệ phát triển dân số ở một số khu vực còn
ở mức cao. Một số hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có
hiệu quả.
Nhìn chung, những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế – xã hội
trong giai đoạn 1991 – 1996 của Đảng bộ và nhân dân thị xã Móng Cái là to
lớn, đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế thị xã. Đảm bảo nhịp độ
tăng trưởng kinh tế (bình quân 12%/ năm) đạt phần lớn các mục tiêu Đại hội
XVIII đề ra, giữ vững sự ổn định chính trị, tạo ra sự chuyển biến đáng kể về
văn hoá-xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Đã xây dựng được những tiền đề vật chất cần thiết để từng bước hình
hành một trung tâm thương mại lớn, mở ra một thời kỳ mới có ý nghĩa rất
quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển của địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển mạnh hơn ở những năm sau.
2.2 Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 – 2006)
2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ thị xã Móng Cái cụ thể hóa đường lối
của Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Ninh thời kỳ 1996 - 2006.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng đã tổng kết
chặng đường 10 năm đổi mới và đề ra phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000. Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế
giới và trong nước, căn cứ vào cương lĩnh của Đảng, Đại hội quyết định cần
tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc. Đại hội xác định nước ta đang chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
Từ mục tiêu chung, Đại hội thông qua định hướng phát triển các lĩnh
vực chủ yếu, phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
năm năm 1996 – 2000 với 11 chương trình và lĩnh vực phát triển kinh tế – xã
hội lớn.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới
– thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.
Quán triệt một cách sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII.
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X (5-
1996), Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh và
nhận định: Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng bộ tỉnh, đã thu được một số thành tựu bước đầu
quan trọng, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự hỗ trợ
của các bộ, ban ngành Trung ương, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh đã
vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tranh thủ thời cơ thuận lợi, mở rộng giao
lưu kinh tế, tạo nên sự chuyển biến quan trọng của tỉnh trên các lĩnh vực. Bộ
mặt các thị xã, thị trấn và một số vùng trong tỉnh, nhất là thành phố Hạ Long
và thị trấn Móng Cái thay đổi rõ rệt.
Tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa đều và chưa vững chắc.
Nhiều tiềm năng chưa được khai thác tốt. Còn mất cân đối lớn giữa nhu cầu
phát triển với nguồn lực tài chính địa phương có hạn. Cơ sở hạ tầng yếu kém
làm hạn chế lớn việc thu hút đầu tư nước ngoài. Quản lý Nhà nước trên các
lĩnh vực kinh tế – xã hội còn nhiều thiếu sót, sơ hở…
Xuất phát từ tình hình đặc điểm của tỉnh, Đại hội xác định một số vấn
đề cơ bản về mục tiêu tổng quát của 5 năm 1996 – 2001:
“Phát huy những thành tích đạt được, tiếp tục khai thác mọi tiềm năng
thế mạnh của địa phương, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện theo định
hướng XHCN. Tranh thủ thời cơ, mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài
nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và tăng
cường nguồn lực kinh tế, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã
hội, đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất, phát triển các thành phần kinh tế,
củng cố thành phần kinh tế quốc doanh, tăng cường công tác quản lý của các
cấp chính quyền về kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh ninh quốc phòng, giữ
vững ổn định chính trị, từng bước nâng cao đời sống nhân dân và tạo điều
kiện cho bước phát triển sau năm 2000” [17,tr.82].
Đại hội nhất trí với những mục tiêu chủ yếu, trong đó: Nhịp độ tăng
trưởng GDP: 12-13% (khi có điều kiện đưa lên nhịp độ cao hơn).
Đại hội khẳng định: “mục tiêu chiến lược lâu dài theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh ta là phấn đấu đưa Quảng Ninh trở thành một
tỉnh công nghiệp và du lịch hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo nhiều việc
làm cho người lao động, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Trong 5 năm
tới, phát triển toàn diện các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại,
dịch vụ, du lịch, nhưng lấy ngành công nghiệp và du lịch làm trọng
tâm“[17,tr.83]
Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận
hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức không thể xem
thường. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được triệu tập.
Về đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội
nêu rõ:
Về đường lối kinh tế của Đảng là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp
phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh.
Quán triệt sâu sắc đường lối của Đại hội IX của Đảng, Đại hội đại biểu
lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh được tiến hành vào thời điểm lịch sử
có ý nghĩa quan trọng: Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã trải qua 15 năm, mặc dù có nhiều khó khăn thử thách, nhưng đã thu
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, tạo đà phát triển cho giai đoạn
tiếp theo.
Xuất phát từ tình hình, đặc điểm của tỉnh, Đại hội khẳng định mục tiêu
chiến lược phát triển lâu dài theo hướng CNH, HĐH là: “Phấn đấu đưa Quảng
Ninh thực sự trở thành một địa bàn động lực và phát triển năng động gắn kết
các địa phương khác trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ và cả nước”
[18,tr.103-104].
Đại hội cũng đã đặt ra chỉ tiêu trong năm năm 2001 – 2005: “Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 12-13%”[18,tr.34] và “GDP bình quân
tính theo đầu người năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 2000” [18,tr.34] .
Đảng bộ xác định: Trong những năm tới phải phát triển toàn diện các
ngành và lĩnh vực, xây dựng kinh tế của tỉnh theo cơ cấu: Công nghiệp, du
lịch, dịch vụ và nông nghiệp; đảm bảo tính hợp lý trên cơ sở tiềm năng, lợi
thế, tạo sự phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội…Tăng cường
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thu hút vốn và công nghệ cao để phát
triển, nhất là những ngành, lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh.
Về định hướng và giải pháp phát triển ngành, lĩnh vực cụ thể, Đảng bộ
xác định: “Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng các trung tâm thương mại Hạ Long,
Móng Cái, các cửa khẩu biên giới và những nơi có lợi thế về thương mại”
[18,tr.38]. “Tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ
phát triển du lịch, đưa ngành du lịch dần trở thành ngành kinh tế trọng điểm
có tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.…phát triển du lịch sinh thái ở
Đông Triều, Uông Bí, Vân Đồn, Móng Cái và những nơi có điều kiện. Phấn
đấu đến năm 2005 có đủ khả năng đáp ứng đón 3 triệu lượt khách du lịch,
trong đó có 1 triệu lượt khách lưu trú” [18,tr.38]. Khai thác có hiệu quả hệ
thống cảng biển, bến thủy nội địa. “Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các
lĩnh vực chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, các ngành sử dụng công nghệ cao,
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội…vào khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái. Tạo
mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã được cấp phép triển khai hoạt động”
[18,tr.43].
“Tỉnh có chính sách và biện pháp phát triển kinh tế ở các vùng, tạo điều
kiện cho các vùng trọng điểm tăng trưởng nhanh, giữ vững vai trò đầu tàu lôi
cuốn các vùng khác, đồng thời hỗ trợ tích cực các vùng khó khăn. Thành phố
Hạ Long, thị xã Móng Cái và một số đô thị khác, phát huy vai trò trung tâm
hành chính, kinh tế, thương mại, du lịch, văn hóa của từng vùng và địa
phương. Tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo quy hoạch đã được phê
duyệt, đưa công tác quản lý đô thị vào nền nếp. Phát triển các khu công
nghiệp và đô thị mới nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước” [18,tr.50].
Trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng,
từ ngày 3 đến ngày 5-2-1996, Đảng bộ huyện Hải Ninh tổ chức Đại hội đại
biểu lần thứ XIX. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương, Đại hội đề
ra mục tiêu cho 5 năm tới là: Tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới
toàn diện ,sâu sắc, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu
nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng thế mạnh trên địa bàn để đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị, bảo vệ an
ninh biên giới lãnh thổ, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng Hải
Ninh trở thành một trong những trung tâm kinh tế lớn của tỉnh, phấn đấu thực
hiện các mục thiêu chủ yếu sau: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân
13-15%/năm; Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 6- 8 %; Sản lượng lương
thực quy thóc 13.000-14.000 tấn/năm; Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn
tăng bình quân hàng năm 20%; Hạ tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm
0,06%”.
Đại hội xác định cơ cấu kinh tế của Hải Ninh giai đoạn tiếp theo là
Nông nghiệp – Thương Mại – Du lịch, Dịch vụ – Công nghiệp.
Đại hội Đảng bộ thị xã Móng Cái lần thứ XX tiến hành họp vào thời
điểm khá thuận lợi, nền kinh tế đất nước nói chung và nền kinh tế thị xã nói
riêng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sự vận dụng linh hoạt của những
chính sách phát triển kinh tế của Đảng bộ đã góp phần vượt và đạt được
những mục tiêu kinh tế – xã hội của nhiệm kỳ XIX.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu, khuyết điểm nhiệm kỳ XIX, Đại hội đề
ra mục tiêu tổng quát đến năm 2005 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc; khai thác mọi
tiềm năng thế mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hợp lý, phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đưa Móng Cái trở thành một khu kinh tế cửa khẩu phát triển năng
động và hiệu quả với kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ là mũi nhọn, kinh
tế nông nghiệp phát triển ổn định, kinh tế công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
từng bước phát triển theo hướng chế xuất, đi đôi với từng bước giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, phát triển văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng, bảo vệ
biên giới lãnh thổ; thực hiện tốt công tác đối ngoại, góp phần tích cực xây
dựng vùng biên giới hòa bình, hữu nghị, tạo môi trường xã hội lành mạnh, ổn
định, bền vững; tăng cường công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch – vững mạnh, nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, phát huy dân chủ,
giữ vững kỷ cương; xây dựng thị xã Móng Cái ngày càng giàu đẹp, văn minh,
hiện đại, xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế lớn của tỉnh Quảng
Ninh.
Các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm 2001 – 2006 là: nhịp độ tăng trưởng
GDP hàng năm đạt trên 12%, tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ trong
GDP đạt 75% trở lên, nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm trên
5%, công nghiệp tăng 20%, thu chi ngân sách tăng 10%, giảm tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên hàng năm 0,06%, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 5%.
Đại hội đề ra nhiệm vụ và các giải pháp: tập trung phát triển thương
mại, du lịch, dịch vụ, kinh tế đối ngoại; phát triển nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp;
tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; quản lý tốt các nguồn thu ngân
sách trên địa bàn; thực hiện tốt các vấn đề xã hội; quan tâm đầu tư phát triển
các địa bàn vùng cao biên giới và hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; kết
hợp phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh; đổi mới hoạt động và nâng
cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng.
Các giải pháp cơ bản được Đại hội đề ra là:
Xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp, khai thác tốt các nguồn lực: Trong
những năm tới, cơ cấu kinh tế của Thị xã được xác định là: Thương mại-du
lịch- dịch vụ-nông nghiệp-công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Tập trung phát triển các lĩnh vực có tiềm năng và thế mạnh của địa
phương: Thương mại-du lịch- dịch vụ hiện là ngành kinh tế mũi nhọn của Thị
xã cần phải tiếp tục giữ vững sự ổn định và phát triển, phấn đấu hàng năm
tăng tỷ trọng giá trị từ Thương mại - du lịch - dịch vụ trong tổng thu nhập
GDP của Thị xã.
Làm tốt công tác quản lý Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để các
Công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động có hiệu quả
cả về mặt kinh tế và xã hội, thúc đẩy các công ty liên doanh đang xây dựng
sớm vào hoạt động. Tiếp tục giới thiệu, tuyên truyền và thực hiện tốt cơ chế
chính sách ưu đãi được Nhà nước cho phép, chuẩn bị tốt các dự án gọi đầu tư,
tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào Móng Cái.
Tăng cường hợp tác hữu nghị với thị xã Đông Hưng, thành phố cảng
Phòng Thành và các địa phương khác của Trung Quốc vì sự phát triển của Thị
xã Móng Cái và các địa phương bạn.
Khai thác phát huy hiệu quả kinh tế nông nghiệp (bao gồm cả Nông-
Lâm-Ngư nghiệp) phát triển nông nghiệp hàng hóa. Nhịp độ tăng giá trị sản
xuất hàng năm 5%: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10 của BCH Đảng bộ
thị xã khóa XIX về phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp như
hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện….theo phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm. Chính quyền các cấp xây dựng quy chế cụ thể để huy
động tốt nguồn lực hàng năm.
Trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp để xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp, có các mô hình tổ chức sản xuất hợp lý. Trong đó
chú trọng củng cố phát huy các Hợp tác xã.
Từng bước phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, giao thông
và bưu điện: Khuyến khích phát triển, mở rộng các cơ sở sản xuất các ngành
nghề hiện có như: vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, sửa chữa gia công cơ
khí, nhôm kính, sản xuất đồ mộc, kim hoàn, đồ lưu niệm du lịch….phát triển
một số ngành nghề sản xuất như: đóng mới, sửa chữa tàu, thuyền, chế biến
nông sản, dệt thảm xuất khẩu, gia công hàng phục vụ du lịch….để thu hút
được nhiều lao động trên địa bàn. Mở rộng và khai thác có hiệu quả hệ thống
điện lưới.
Từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, chế biến lắp ráp hàng xuất, nhập khẩu theo quy hoạch đã
được duyệt trong khu kinh tế cửa khẩu, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân
vào đầu tư phát triển sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
Tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại hóa mạng lưới Bưu chính viễn
thông, đảm bảo thông tin liên lạc thuận lợi trong nước và Quốc tế, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Đẩy mạnh việc xây dựng điểm Bưu điện
văn hóa xã tăng cường công tác phát hành báo chí.
Tăng cường khai thác và phát triển các nguồn thu ngân sách trên địa
bàn, quản lý sử dụng nguồn tài chính có hiệu quả: Thực hiện nghiêm luật
ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu, du lịch-dịch vụ, hoạt động công-
thương nghiệp trong và ngoài quốc doanh, nông-lâm- ngư nghiệp…Chú trọng
phát triển thêm nguồn thu mới. Phấn đấu hàng năm thu ngân sách vượt chỉ
tiêu kế hoạch Tỉnh giao, tăng hơn cùng kỳ từ 8-10%. Đến năm 2005 có trên
60% số xã-phường tự cân đối được ngân sách. Thực hiện các biện pháp điều
tiết ngân sách hợp lý nhằm khuyến khích mở rộng nguồn thu.
Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường công tác
quản lý và phát triển đô thị: Trong 5 năm tới, cơ bản xây dựng hoàn thiện các
công trình cấp thiết về Thương mại- du lịch, giao thông, thủy lợi, điện, cấp và
thoát nước, hệ thống trường học, trạm xá, trụ sở các phường, xã nơi chưa
được đầu tư và một số công trình văn hóa công cộng.
Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ: Giữ vững và phát
triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo vì mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài Thị xã Móng Cái. Giữ vững thành quả phổ cập giáo
dục tiểu học và xóa mù chữ tiến tới phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi
trên phạm vi toàn Thị xã. Phấn đấu đến năm 2005 thị xã hoàn thành phổ cập
giáo dục THCS.
Tích cực giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Thực hiện tốt chế độ chính sách đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia
đình có công với cách mạng, gia đình bà mẹ Việt Nam anh hùng và người có
công. Đẩy mạnh phong trào xây dựng quỹ và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
từ thiện nhân đạo, giúp đỡ các đối tượng chính sách để các gia đình thuộc
diện chính sách ổn định đời sống với mức trung bình ở khu dân cư, giảm hộ
nghèo, không còn hộ đói. Ưu tiên bố trí sắp xếp việc làm cho các gia đình
thương binh, liệt sĩ.
Đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa: Đẩy mạnh phong trào “ Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, bao gồm các phong trào hiện có
như “người tốt, việc tốt”, “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói
giảm nghèo”. “xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa”, “toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”… Phấn đấu mỗi năm có 80% số hộ
gia đình trong Thị xã đăng ký phấn đấu trở thành gia đình văn hóa, đến năm
2005 mỗi xã, phường có ít nhất 01 thôn, 01 khu phố được công nhận là “làng
văn hóa”.
Ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội: Tăng cường công tác phòng chống
tệ nạn xã hội, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả cộng đồng, của
mỗi gia đình, mỗi cơ quan, đơn vị xã, phường nhằm chặn đứng và giảm dần
các tệ nạn xã hội (nhất là tệ nạn ma túy).
2.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện và kết quả.
2.2.2.1 Giai đoạn 1996 - 2001
Căn cứ vào những nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ XIX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XX. Đảng bộ thị
xã Móng Cái đã lãnh đạo nhân dân địa phương vượt qua những khó khăn thử
thách, tranh thủ sự ủng hộ và tạo điều kiện của Trung ương và của Tỉnh từng
bước tạo ra những bước đột phá lớn trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Phát huy ưu thế có đường biên giới dài chung với nước bạn Trung
Quốc, ngày 8-1-1996 Văn phòng Chính phủ có Công văn Số 135 về xây dựng
và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái. Sau đó, ngày 18-9-1996, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 675/TTg về việc áp dụng thí điểm một số
chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái, bao gồm thị trấn Móng Cái và các
xã Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc, Trà Cổ, Ninh Dương, Vạn Ninh, Hải Yến,
Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực thuộc tỉnh Quảng Ninh. Theo
Quyết định 675:
- Các nhà đầu tư trong và ngoài nước được khuyến khích đầu tư phát
triển các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực
Cửa khẩu Móng Cái phù hợp với Luật khuyến khích đầu tư trong nước và
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngoài quyền được hưởng các ưu đói
theo quy chế hiện hành, cũn được hưởng:
+ Chủ đầu tư được giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với khung
giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại khu vực Cửa khẩu Móng Cái.
+ Trong thời hạn 4 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế
lợi tức, chủ đầu tư chỉ phải nộp thuế lợi tức ở mức thấp nhất trong khung thuế
theo luật định.
+ Các chủ đầu tư không phân biệt trong hay ngoài nước, nếu đầu tư vào
các lĩnh vực ngành, nghề ưu tiên theo quy hoạch phát triển kinh tế - xó hội
của khu vực Cửa khẩu Móng Cái được miễn giảm thuế lợi tức theo quy định
hiện hành.
+ Chủ đầu tư nước ngoài nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với
thuế xuất ở mức thấp nhất trong khung thuế theo luật định.
- Khu vực Cửa khẩu Móng Cái được huy động nguồn vốn trong và
ngoài nước bằng các hỡnh thức thớch hợp để xây dựng các cơ sở hạ tầng cần
thiết và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp với quy hoạch phỏt
triển kinh tế - xó hội, bảo đảm quốc phũng và an ninh.
- Để thúc đẩy quá trỡnh xõy dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực Cửa khẩu
Móng Cái, được thành lập công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng là
doanh nghiệp Nhà nước. Trong 5 năm (từ 1996 -2000) mỗi năm Nhà nước
đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh cho khu vực Cửa khẩu Móng Cái không dưới
50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn khu vực Cửa khẩu Móng
Cái.
- Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cư trú ở các huyện
biên giới đối diện với khu vực Cửa khẩu Móng Cái được qua lại khu vực Cửa
khẩu Móng Cái bằng giấy chứng minh thư hoặc giấy thông hành xuất nhập
cảnh vùng biên giới do cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc cấp. Thời hạn
được phép tạm trú tại khu vực Cửa khẩu Móng Cái không quá 07 ngày ; Công
dân Trung Quốc cư trú ở ngoài khu vực nêu trên được qua lại khu vực Cửa
khẩu Móng Cái bằng hộ chiếu phổ thông do cơ quan có thẩm quyền của
Trung Quốc cấp, được miễn thị thực nhập xuất cảnh của Việt Nam. Thời hạn
được phép tạm trú tại khu vực cửa khẩu Móng Cái không quá 15 ngày; Người
nước ngoài khác được qua lại khu vực Cửa khẩu Móng Cái bằng hộ chiếu,
được miễn thị thực nhập xuất cảnh Việt Nam; thời hạn tạm trú tại khu vực
Cửa khẩu Móng Cái không quá 15 ngày.
- Thuyền viên Trung Quốc của các tàu, thuyền Trung Quốc được vào
khu vực Cửa khẩu Móng Cái để giao, nhận hàng hoá theo hợp đồng bằng sổ
thuyền viên do cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc cấp. Thuyền viên
nước ngoài khác vào khu vực Cửa khẩu Móng Cái theo quy đinh hiện hành
của Việt Nam về nhập xuất cảnh.
Đối với Quảng Ninh nói chung, Móng Cái nói riêng, Quyết định 675 là
một Quyết định có ý nghĩa quan trọng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự
phát triển và cũng là thí điểm một mô hình kinh tế, sẽ được tổng kết, rút kinh
nghiệm để áp dụng với các khu vực cửa khẩu biên giới khác trong cả nước.
Nhằm đảm bảo thực hiện tốt những vấn đề được Thủ tướng Chính phủ
cho phép trong Quyết định 675, ngày 16-11-1996, ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh ban hành kế hoạch số 3043 về việc thực hiện Quyết định 675 của
Thủ tướng Chính phủ. Theo đó:
* Về thương mại: Tỉnh sẽ tập trung đầu tư để nhanh chóng hình thành
một trung tâm thương mại lớn thứ hai sau trung tâm thương mại Hạ Long
phục vụ cho buôn bán trong nước và quá trình, tạo thành một đầu mối xuất
nhập khẩu không chỉ riêng cho Quảng Ninh mà cho cả các tỉnh trong cả nước.
Ngoài xuất nhập khẩu hàng hóa khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động tạm
nhập tái xuất và các dịch vụ vận chuyển hàng hóa quá cảnh. Tạo điều kiện
thuận lợi thu hút các doanh nghiệp của tỉnh cũng như của các tỉnh khác thực
hiện các hình thức kinh doanh trên.
* Về du lịch: Tập trung cải tạo, nâng cấp các nhà nghỉ, khách sạn ở Trà
Cổ. Khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài đầu
tư xây dựng mới các khách sạn nhà nghỉ ở Trà Cổ và Móng Cái. Bên cạnh đó
có quy hoạch xây dựng làng du lịch tổ chức nhiều hoạt động dịch vụ phục vụ
cho khách du lịch. Biến Trà Cổ thành trung tâm du lịch hấp dẫn lớn thứ hai
của tỉnh sau Hạ Long, với hệ thống khách sạn, nhà nghỉ và các công trình vui
chơi giải trí. Móng Cái sẽ là đầu mối quan trọng để thu hút khách du lịch
trong và ngoài nước, đặc biệt là khách Trung Quốc và các nước khác đến
Móng Cái qua đường Trung Quốc. Mở rộng các tuyến du lịch từ Móng Cái
đến các điểm du lịch trong nước và ngoài nước nhất là trung tâm du lịch Hạ
Long. Tăng cường quản lý các hoạt động lữ hành tại khu vực Móng Cái.
* Về đẩy mạnh các hoạt động đầu tư: Trên cơ sở luật pháp và các chính
sách ưu đãi về giá cho thuê mặt đất, mặt nước về thời hạn và mức miễn giảm
thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo Quyết định 675, tỉnh
Quảng Ninh sẽ tích cực thúc đẩy việc việc thu hút các đối tác đầu tư trong và
ngoài nước nhằm đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển các cơ sở phục vụ
cho khách du lịch, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ sở công nghiệp gia
công chế biến phục vụ xuất khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng.
Mở rộng hoạt động đầu tư trên cơ sở khuyến khích, ưu đãi các nhà đầu
tư trong nước, xem đó là đối tác chính trong giai đoạn đầu và thực hiện đa
phương hóa các nhà đầu tư nước ngoài tại khu vực cửa khẩu Móng Cái.
* Về kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế cửa
khẩu Móng Cái:
- Tại cửa khẩu quốc tế Bắc Luân, đầu năm 1997 sẽ triển khai xây dựng
công trình cửa khẩu với thiết kế bảo đảm tính hiện đại, tương xứng là một cửa
khẩu quốc tế quan trọng của đất nước ở phía Bắc.
- Tại km15 và một số khu vực như cảng Dân Tiến, Mũi Ngọc… cũng
sẽ đầu tư xây dựng hệ thống kiểm soát liên ngành với một số công trình chức
năng có quy mô thỏa đáng phục vụ thuận tiện cho công tác quản lý và kiểm
soát hoạt động xuất khẩu nhập cảnh và thương mại trước mắt cũng như lâu
dài ;
- Xây dựng và hoàn thiện các các tuyến giao thông trong khu vực. Đặc
biệt chú trọng giải quyết khâu thoát nước và vệ sinh đô thị ;
- Xây dựng bến xe trung tâm Móng Cái hiện đại ;
- Phối hợp với Bộ giao thông giải quyết cơ bản một số công trình cầu
cống thay cho các đập tràn hiện nay và tiếp tục cải tạo, nâng cấp đường 18A
từ thành phố Hạ Long đến Móng Cái, mở rộng đường từ Móng Cái đi Trà Cổ,
Mũi Ngọc ;
- Xây dựng hệ thống cụm cảng Vạn Gia – Mũi Ngọc ;
- Tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới điện hạ thế. Đưa điện ra đảo Vĩnh
Trung, Vĩnh Thực và đưa điện đến một số xã trong khu vực ;
- Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt cho khu vực, đặc biệt là giải
quyết nhu cầu nước cho trung tâm Móng Cái, đảm bảo 8.000m3/ngày/đêm ;
- Xây dựng các công trình văn hóa xã hội và phúc lợi công cộng trong
đó đặc biệt chú ý việc hoàn thiện và nâng cấp bệnh vện phục vụ cho nhân dân
và khách nước ngoài, xây dựng một khu trung tâm vui chơi giải trí và hệ
thống vườn hoa, công viên dọc sông Ka Long. Nâng cấp trung tâm phát thanh
truyền hình ;
- Hoàn thiện việc xây dựng khu trung tâm hành chính ;
Thực hiện nhiệm vụ 5 năm (1996 – 2000), Móng Cái có những thuận
lợi căn bản. Đó là, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn và đang chuyển sang giai đoạn mới “Thời kỳ đẩy tới
một bước công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước”, là kết quả và kinh nghiệm
của những năm qua cùng với sự quan tâm ưu đãi của Trung ương, của tỉnh thể
hiện tại Quyết định số 675/TTg (1996) của Thủ tướng Chính phủ về việc thí
điểm thực hiện một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái. Với chủ
trương đúng đắn và bước đi thích hợp, sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và
nhân dân Móng Cái nhịp độ tăng trưởng hàng năm tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt 17,6%. GDP bình quân đầu người năm 2000 là: 524,4USD.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, Huyện ủy
xác định sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng trong tổng thể nền
kinh tế của huyện. Để khuyến khích nông dân đầu tư phát triển sản xuất và
thực hiện chủ trương chính sách cơ cấu cây trồng vật nuôi có năng suất cao,
ngày 20-5-1996, Huyện ủy ra Nghị quyết 01/NQ-HU về công tác khuyến
nông năm 1996 – 1997, yêu cầu các nguồn quỹ (quỹ khuyến nông, vốn cấp
cho các dự án, mô hình, vốn vay ưu đãi…) hỗ trợ trung tâm khuyến nông
huyện, hộ nông dân chuyển giao tiến bộ khoa học, đưa giống cây trồng, vật
nuôi có hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất. Thực hiện Nghị quyết, Huyện ủy,
ủy ban nhân dân tăng cường công tác chỉ đạo.
Trong quá trình lãnh đạo sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, Huyện ủy nhận thức sâu sắc: muốn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa thì ngoài việc đổi mới cơ chế, chính sách phải
không ngừng củng cố quan hệ sản xuất với nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới
hợp tác xã nông nghiệp. Từ nhận thức đó, ngày 8-11-1996, Huyện ủy ra Nghị
quyết số 03 về chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Hợp tác xã tổ
chức thực hiện dịch vụ ở những khâu chủ yếu: Dịch vụ thủy lợi, thủy nông,
giống cây trồng và giống vật nuôi, vật tư phân bón, bảo vệ thực vật và phòng
bệnh gia súc, gia cầm. Tất cả các khâu dịch vụ trên đều phải dựa trên cơ sở
hợp đồng giữa Ban quản trị hợp tác xã với hộ gia đình xã viên, ngoài ra
những nơi có điều kiện, hợp tác xã có thể tổ chức các dịch vụ như: chế biến,
tiêu thụ sản phẩm, tín chấp vay vốn cho hộ nghèo, tín dụng, dịch vụ nuôi
trồng thủy sản, trồng cây lâu năm, vật liệu xây dựng, tiểu thủ công nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết số 03, ủy ban nhân dân huyện kịp thời triển khai theo
đúng luật. Sau 1 năm thực hiện, có 6 hợp tác xã chuyển đổi và hoạt động theo
cơ chế mới. Tuy nhiên ở những hợp tác xã này Ban quản lý hoạt động còn
nhiều lúng túng.
Việc kịp thời đổi mới hợp tác xã nông nghiệp, đổi mới cơ chế chính
sách trong nông nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc
đẩy kinh tế nông nghiệp của Hải Ninh trong hai năm 1996-1997. Năm 1997
so với năm 1996: tổng diện tích gieo trồng đạt 5.586,4 ha (tăng 154,4 ha);
tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 13.353 tấn (tăng 691 tấn); đàn lợn:
14.265 con (tăng 393 con); đàn trâu: 4.959 con (tăng 305 con); đàn bò: 1.810
(tăng 104 con). Trong hai năm 1996-1997 trồng mới 343 ha rừng tập trung;
nhiều công trình thủy lợi được cải tạo và xây dựng mới, trong đó công trình
hồ đập Tràng Vinh do Bộ Thủy lợi thiết kế và thi công được thực hiện với
tổng dự toán ban đầu được duyệt là 198 tỷ đồng.
Với ý thức trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, cùng với sự quan tâm
tạo điều kiện của các cấp, các ngành, các địa phương và có sự chỉ Tỉnh ủy, ủy
ban nhân dân Tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hải Ninh đã tập trung
thực hiện tốt Quyết định 675 của Chính phủ, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo đổi
mới cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là hàng đầu chuyển sang lấy Thương mại –
Du lịch làm mũi nhọn phát triển kinh tế địa phương. Đó là mũi đột phá, tiền
đề quan trọng để huyện Hải Ninh được Chính phủ nâng cấp thành thị xã sau
này.
Sau hơn 1 năm thực hiện Quyết định 675 của Thủ tướng Chính phủ,
mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực
châu á, song hoạt động thương mại – du lịch – dịch vụ của Móng Cái đạt
được những kết quả đáng khích lệ.
Khu vực cửa khẩu Móng Cái đã trở thành một thị trường lớn, sầm uất
nhất các tỉnh biên giới phía Bắc về tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan. Năm
1997, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 150 triệu USD, kim ngạch hàng tạm tái
xuất kho ngoại quan đạt 250 triệu USD. Thu thuế xuất nhập khẩu đạt 98 tỷ
đồng bằng 53% tổng thu ngân sách toàn huyện.
Năm 1997, trên địa bàn huyện có đại diện của 46 doanh nghiệp đang
hoạt động. Để thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển, Đảng bộ huyện chỉ
đạo tổ chức Hội chợ thương mại Quốc tế Móng Cái lần thứ nhất, Hải Ninh
tiếp xúc các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, qua đó có gần 200 nhà doanh
nghiệp trong và ngoài nước đến tìm hiểu cơ hội hợp tác, ký kết hợp đồng mua
bán tại cửa khẩu Móng Cái.
Với những ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, so với năm 1996, khách du lịch
Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam qua cửa khẩu Móng Cái tăng 250%;
khách du lịch Việt Nam xuất cảnh sang Trung Quốc tăng 40%.
Với chủ trương khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh ở
các lĩnh vực như: Điện, xây dựng, vật liệu xây dựng, cơ khí, vận tải… đáp
ứng nhu cầu trên địa bàn, năm 1997, huyện đã huy động được 174,76 tỷ đồng
cho xây dựng cơ bản trên địa bàn (tăng 32 tỷ so với 1996), trong đó vốn do
các ngành quản lý là: 46,29 tỷ đồng; vốn 675 (thị xã quản lý) là 54,37 tỷ
đồng; vốn ngân sách thị xã là 14,62 tỷ đồng; vốn đầu tư nước ngoài là 0,6 tỷ
đồng; vốn các tổ chức và nhân dân xây dựng, đầu tư của ngành bưu điện từ
1996 – 2000 là 58,88 tỷ đồng. Đảng bộ huyện chỉ đạo các ban ngành, cơ sở
thực hiện tốt kế hoạch xây dựng từ các nguồn vốn trên. Hệ thống giao thông
trên địa bàn tiếp tục được đầu tư nâng cấp sửa chữa và làm mới. Ngành Bưu
điện được đầu tư hiện đại đáp ứng yêu cầu phục vụ chính trị và phát triển kinh
tế. Năm 1997, bình quân 4,7 máy điện thoại/100 dân.
Song song với chỉ đạo phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, Đảng
bộ Hải Ninh hết sức quan tâm đến công tác văn hóa-xã hội. Ban thường vụ
Huyện ủy xây dựng Chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII) về giáo dục-đào tạo, Nghị quyết về phát triển văn hóa, thể thao…
Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển. Đời sống tinh thần của nhân dân
ngày một nâng cao. Năm 1997, Hải Ninh được công nhận phổ cập tiểu học
13/14 xã và hoàn thành chương trình thanh toán bệnh phong.
Sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, gần mười
năm “Mở cửa” biên giới, nhất là hai năm thực hiện Quyết định 675 của Thủ
tướng Chính phủ “Về áp dụng thí điểm một số chính sách cho khu kinh tế cửa
khẩu Móng Cái” đã tạo điều kiện cho địa phương phát huy tính chủ động, linh
hoạt và sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, làm cho bộ mặt kinh tế – xã hội
huyện Hải Ninh có những thay đổi sâu sắc. Từ một huyện miền núi, biên giới,
xa trung tâm tỉnh, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế – xã hội chậm phát triển,
nền kinh tế thuần nông, tự cung, tự cấp, thu ngân sách không đủ chi, đời sống
nhân dân còn nhiều khó khăn (số hộ nghèo đói trên 60%) Hải Ninh trở thành
huyện có kinh tế – xã hội phát triển với cơ cấu kinh tế tổng hợp, trong đó kinh
tế thương mại – du lịch – dịch vụ phát triển mạnh, tạo nguồn thu lớn cho đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng với tốc độ nhanh. Văn hóa – xã hội có bước chuyển
biến toàn diện, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc phòng –
an ninh được giữ vững, chính trị – xã hội ổn định.
Để đưa Hải Ninh trở thành trung tâm kinh tế thương mại – du lịch –
dịch vụ, vùng kinh tế động lực của tỉnh Quảng Ninh và phía Bắc, ngày 20-7-
1998 Chính phủ ban hành Nghị định 52/1998/NĐ-CP “Về thành lập thị xã
Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh (trên cơ sở diện tích, dân số huyện Hải
Ninh) và thành lập các phường, xã thuộc thị xã”.
Đảng bộ thị xã Móng Cái có 58 tổ chức cơ sở Đảng, với 1.400 đảng
viên.
Thị xã Móng Cái được thành lập đáp ứng nguyện vọng của cán bộ,
đảng viên và nhân dân thị xã, tạo không khí hồ hởi, phấn khởi để Đảng bộ và
nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của địa phương;
tạo điều kiện cho công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền được sâu sát,
hiệu quả. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết, cần cù sáng tạo
trong lao động sản xuất, nhanh chóng thích ứng và bước đầu có kinh nghiệm
trong công cuộc đổi mới.
Những thành tựu của đất nước, của Quảng Ninh và của Móng Cái sau
hơn 10 năm đổi mới là động lực để nhân dân các dân tộc Móng Cái vững tin
bước tiếp trên con đường đổi mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng (6-1996) về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
những định hướng và tiền đề để Đảng bộ thị xã Móng Cái vận dụng đề ra chủ
trương biện pháp phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã.
Trên lĩnh vực kinh tế, Thị ủy xác định thương mại – du lịch – dịch vụ là
ngành kinh tế mũi nhọn, để phát huy tiềm lực của các ngành kinh tế, khai thác
tốt thế mạnh của địa phương. Năm 1998, mặc dù tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính – kinh tế ở Đông Nam á và Chính phủ có một số thay đổi
trong chính sách xuất, nhập khẩu, nhưng với sự lãnh đạo, điều hành năng
động của cấp ủy, chính quyền hoạt động kinh doanh trên địa bàn vẫn duy trì
ổn định. Tổng giá trị hàng hóa xuất, nhập khẩu đạt 201 triệu USD.
Bước sang năm 1999, do có sự thay đổi cơ chế, chính sách tại khu vực
cửa khẩu biên giới làm cho hoạt động thương mại giảm nhiều so với những
năm trước, nhất là từ đầu năm dến trung tuần tháng tám. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu giảm 33,10% so với năm 1998. Trước tình hình đó, Thị ủy chủ
động, tích cực đề nghị với Tỉnh và Chính phủ có những giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Móng Cái. Ngày 7-8-1999 thực hiện
sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ ra Thông báo số
160-TB/VPCP cho phép Trạm kiểm soát liên hợp tại km 15 – bến tàu Dân
Tiến được thu thuế nhập khẩu bổ xung. Sau Thông báo 160, thị trường Móng
Cái có chuyển biến rõ rệt, nhịp độ lưu thông hàng hóa những tháng cuối năm
diễn ra sôi động hơn. Năm 2000, năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XIX, ngành thương mại có bước phát triển vượt bậc,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 352 triệu USD, tăng hơn 4 lần so với năm
1999.
Xác định là một trong 4 vùng du lịch trọng điểm của Quảng Ninh,
ngành du lịch tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng phục vụ
khách. Công tác quản lý, tổ chức, sắp xếp các tour du lịch trên địa bàn hợp lý.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành du lịch được chuyên nghiệp hóa một bước.
Năm 2000, lượng khách du lịch đến Móng Cái tăng gấp 5 lần năm 1997.
Cùng với lãnh đạo phát triển thương mại – du lịch – dịch vụ, Thị ủy tập
trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Các xã,
phường và hộ nông dân tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh, tăng
năng suất, đưa các giống lúa có năng suất cao vào sản xuất, nhất là giống lúa
lai Trung Quốc; đồng thời sử dụng các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
để chăm sóc, bảo vệ cây trồng. Từng bước chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, mở
rộng sản xuất vụ đông. Thị xã đầu tư 6 tỷ đồng cho kiên cố hóa kênh mương,
thị ủy bổ đê điều, hồ đập… Nhờ vậy, năm 1998, dù thời tiết diễn biến phức
tạp, vụ chiêm rét muộn dẫn đến mạ già, lúa ống, nhưng diện tích gieo trồng cả
năm đạt 5.475 ha, bằng 97,5% kế hoạch. Năng suất lúa đạt 30,2 tạ/ha, tăng 0,7
tạ/ha so với năm 1998. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đàn lợn tăng 1.230 con,
đàn trâu tăng 750 con, đàn bò tăng 330 con so với năm 1997.
Năm 1999, thời tiết vẫn diễn biến phức tạp, hạn nặng và kéo dài ở vụ
chiêm, vụ mùa vừa sâu bệnh, vừa mưa to gây ngập úng giữa lúc đang thu
hoạch, năng suất lúa đạt 26,7 tạ/ha, giảm 3,5 tạ/ha so với năm 1998. Thiệt hại
do thời tiết gây ra làm giảm khoảng 1.700 tấn thóc (vụ chiêm 600 tấn, vụ mùa
1.100 tấn), là năm có mức thiệt hại lớn nhất trong 10 năm trở lại đây. Sản
lượng lương thực đạt thấp, dẫn đến đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn.
Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thị xã,
ngày 6-7-2000, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã ra Nghị quyết số 10 “Về một
số chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội nông thôn trong
thời gian tới”. Thị ủy nhấn mạnh: Phải đặt sự phát triển nông thôn và kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp
hóa,hiện đại hóa, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng của Đảng bộ. Đồng
thời, nêu rõ một số chủ trương, biện pháp đẩy mạnh kinh tế nông nghiệp –
nông thôn theo hướng chuyển dịch cơ cấu, tăng cường đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng: điện - đường – trường – trạm; gắn với kế thừa và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết 10 của Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, ủy ban
nhân dân chỉ đạo các ngành các địa phương xây dựng đề án, tổ chức thực
hiện. Kết thúc năm 2000, tổng diện tích gieo trồng đạt 5.645 ha, tăng 7,4%.
Tổng sản lượng lương thực đạt 9.762 tấn, tăng 543 tấn so với năm 1999. Chăn
nuôi tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng.
Nuôi trồng thủy sản được coi trọng là một trong những hướng chuyển
dịch cơ cấu trong nông nghiệp và mang lại hiệu quả kinh tế. Năm 1998, ngư
trường khai thác hải sản từng bước được mở rộng, hình thành tổ hợp tác đánh
bắt xa bờ. Phong trào nuôi hải sản (tôm xú) được quan tâm đầu tư , nhiều hộ
nuôi có kết quả. Toàn thị xã có 1080 ha diện tích bãi triều, mặt nước đưa vào
nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm phát triển, năm 2000 diện tích nuôi tôm đạt 890
ha, chiếm 80% diện tích nuôi trồng thủy sản.
Sản xuất lâm nghiệp được các địa phương đẩy mạnh, thực hiện chính
sách giao đất, giao rừng cho hộ xã viên; thực hiện phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc bằng các chương trình PAM, 327, 120. Năm 1998, trồng mới 170 ha rừng
phòng hộ hồ Trà Vinh, chăm sóc 290 ha rừng khép tán và rừng cảnh quan môi
sinh. Giao mới 332 ha rừng cho hộ gia đình quản lý. Phong trào trồng cây ăn
quả phát triển, bước đầu hình thành mô hình kinh tế đồi rừng, trang trại ở một
số địa phương. Năm 1999, thị xã khoanh nuôi rừng tái sinh 1000 ha. Tiếp tục
giao đất rừng cho hai xã Hải Sơn và Hải Tiến đạt 200 ha. Tuy nhiên, trong
năm toàn thị xã đã để xảy ra cháy 123,5 ha rừng, trong đó có 33,5 ha rừng
trồng.
Nhờ chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cùng với
phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi đã thúc đẩy kinh tế hộ
gia đình nông dân phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Mô hình kinh tế VAC, kinh
tế trang trại được mở rộng. Nhiều hộ nông dân làm ăn giỏi trở thành giàu có.
Số hộ nông dân đạt danh hiệu “Hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi” ngày
một tăng.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được được Thị ủy tập trung
chỉ đạo. Thực hiện Nghị định 44/CP và 103/CP của Chính phủ và sự chỉ đạo
của tỉnh, thị xã tiến hành cổ phần hóa và chuyển hình thức sở hữu một số
doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, cổ phần hóa hoạt
động có hiệu quả hơn trước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp tục phát
triển và từng bước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các hợp tác xã cơ bản
chuyển đổi xong theo Luật Hợp tác xã, trong đó một số hợp tác xã đăng ký
kinh doanh và làm tốt công tác dịch vụ sản xuất, bước đầu phát huy tác dụng
hỗ trợ kinh tế hộ gia đình.
Năm 2000, tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt
32.243 triệu đồng, tăng 9 lần so với năm 1995. Tuy vậy, công nghiệp của thị
xã quy mô còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động và hiệu quả kinh
tế thấp. Các thành phần kinh tế và khu vực kinh tế chưa tạo thế hỗ trợ lẫn
nhau.
Nhằm xây dựng thị xã Móng Cái đến năm 2000 trở thành một đô thị
hiện đại, văn minh, Ban Thường vụ Thị ủy dành nhiều thời gian thảo luận,
cho ý kiến quy hoạch tổng thể khu vực trung tâm thị xã và các xã, phường.
Huy động nhiều nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung phát
triển nhanh khu trung tâm thương mại – cửa khẩu, khu du lịch, khu trung tâm
các xã. Từ năm 1996 – 2000, tổng các nguồn vốn xây dựng cơ bản đạt 578,62
tỷ. Giao thông – vận tải phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và
đời sống; năm 2000, đường nhựa đến trung tâm 14/16 xã, phường, đạt 87,5%.
Các trục đường chính ở khu trung tâm thị xã và khu du lịch được xây dựng
kiên cố hóa.
Mạng lưới thông tin liên lạc không ngừng được mở rộng theo hướng
hiện đại và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Năm 2000, thị xã có 9.313 máy
điện thoại, bình quân 13,9 máy/100 dân, tăng 6,18 lần năm 1995. Thông tin
liên lạc đã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và giữ vững an ninh –
quốc phòng trên địa bàn.
Công tác kế hoạch, tài chính, ngân hàng có bước phát triển. Tổng thu
ngân sách hàng năm đều đạt kế hoạch, nhịp độ tăng bình quân 6,9%. Năm
1998, năm đầu tiên thực hiện Luật Ngân sách và Pháp lệnh thực hành tiết
kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, Thị ủy lãnh đạo các ngành làm ngân sách
khai thác tốt nguồn thu, đảm bảo chi đúng nguyên tắc, tiết kiệm, đáp ứng kịp
thời cho phát triển kinh tế – xã hội. Thu ngân sách có nhiều tiến bộ, thu đúng,
thu đủ, tận dụng các nguồn thu, năm 2000 đạt 248,93 tỷ đồng, tăng 80,3% so
với năm 1999.
Hoạt động hệ thống tín dụng – ngân hàng đảm bảo an toàn, làm tốt
chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh tiền tệ, khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng, góp phần thúc đẩy các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển. Năm 2000, tổng số dư tiền gửi tiết
kiệm và các loại kỳ phiếu, trái phiếu đạt 147,7 tỷ đồng. Chi nhánh Ngân hàng
phục vụ người nghèo bước đầu hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện
mục tiêu giảm tỷ lệ hộ đói, nghèo của thị xã. Kho bạc nhà nước Móng Cái
thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về thu, chi; quản lý quỹ ngân sách,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Cùng với việc tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,
lĩnh vực văn hóa – xã hội được các cấp ủy quan tâm lãnh đạo.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các Nghị quyết của
Tỉnh ủy về giáo dục - đào tạo, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo được triển khai
đồng bộ đến các cấp, các ngành và các địa phương trên địa bàn thị xã. Số
lượng học sinh các cấp học, ngành học hàng năm đều tăng. Năm học 1999 –
2000, toàn thị xã có 30 trường học với 16.671 học sinh; tỷ lệ học sinh đi học
so với dân số đạt 24,9%. Hệ thống giáo dục mầm non phát triển với nhiều loại
hình trường lớp, thu hút 50,1%, số cháu trong độ tuổi mẫu giáo (trong đó số
cháu 5 tuổi đạt 92%). Chất lượng giáo dục có tiến bộ cả về đạo đức và văn
hóa. Đội ngũ giáo viên đều đạt chuẩn. Cơ sở vật chất, trường, lớp, trang thiết
bị phục vụ cho dạy và học không ngừng được quan tâm xây mới, bổ xung,
nâng cấp bằng nhiều nguồn vốn. Đến cuối năm 2000 có 12/16 xã phường có
trường học cao tầng, đạt 75%.
Thực hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
được các cấp, ngành và các địa phương coi trọng. Mạng lưới y tế cơ sở không
ngừng củng cố và tăng cường. Trung tâm y tế thị xã và các cơ sở khám chữa
bệnh đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, mua sắm thêm các trang thiết bị hiện đại,
thiết yếu. Các chương trình y tế quốc gia triển khai đồng bộ và đạt hiệu quả.
Tỷ lệ trẻ em tiêm đủ sáu liều vắc xin đạt trên 90%, chất lượng khám chữa
bệnh từng bước nâng lên. Công tác bảo vệ-chăm sóc trẻ em có nhiều cố gắng.
Phong trào toàn dân chăm sóc-giáo dục thiếu niên nhi đồng phát triển mạnh.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được trợ cấp, nhận đỡ đầu, chăm sóc
tăng nhanh từ 30% năm 1995 lên 70% năm 2000. tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ
em giảm từ 37% xuống còn 20%.
Thực hiện các chính sách xã hội có bước tiến bộ, Thị xã đã tập trung
đầu tư mở rộng, tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm nhiều việc là cho người
lao động ở thị xã, đến nay số người trong độ tuổi lao động ở thị xã cơ bản có
đủ việc làm, số lao động không có việc làm hoặc việc làm không ổn định chỉ
còn khoảng 2,1%.
Công tác xóa đói, giảm nghèo là một chương trình lớn được quan tâm
thực hiện trong nhiều năm qua. Các biện pháp xóa đói, giảm nghèo như: tạo
thêm việc làm từ phát triển sản xuất kinh doanh trên mõi lĩnh vực, tăng cường
thu hút các nguồn vốn tín dụng cho vay xóa đói giảm ghèo, tăng cường đầu tư
cơ sở hạ tầng ở nông thôn, thực hiện các chương trình khuyến nông, hướng
dẫn kỹ thuật nông nghiệp. Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước và
huy động cộng đồng hỗ trợ các đối tượng nghèo, đói có hiệu quả. Nhờ vậy số
hộ nghèo đói hàng năm giảm nhanh từ 21,12% năm 1995 xuống còn 9,97%
năm 2000 (đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIX).
Đời sống vật chất, tinh thần các đối tượng thuộc diện chính sách, các
gia đình có công với cách mạng ngày một khá hơn. hiện nay trong số các gia
đình được hưởng chính sách chỉ còn 12 hộ nghèo. Quỹ đền ơn đáp nghĩa đã
được thành lập, hoạt động kết quả bước đầu.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX, nhất là từ
khi tái lập thị xã, tuy còn những khó khăn, song được sự lãnh đạo trực tiếp
của Tỉnh ủy Quảng Ninh cùng với giúp đỡ Trung ương, sự nỗ lực phấn đấu
của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị xã, tình hình kinh tế – xã hội Móng
Cái đạt được kết quả quan trọng và toàn diện: tổng sản phẩm nội thị (GDP)
tăng 17,6%/năm, tăng gần gấp đôi so với bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại – du lịch – dịch vụ
(64,7%), nông nghiệp (14,1%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (19,4%).
Nghị quyết Đại hội XIX đề ra cho 5 năm 1996-2000 đã được hoàn thành về
cơ bản, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu, duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế-xã
hội ở mức cao. Văn hóa-xã hội có tiến bộ đáng kể, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, giữ vững sự ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng và an ninh, đạt nhiều thắng lợi trong công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Trong đó đạt được những thành tựu nổi bật để lại dấu ấn sâu sắc trong
nhiệm kỳ 5 năm 1996-2000.
Thương mại-du lịch-dịch vụ phát triển mạnh, tạo nguồn thu chủ yếu và
nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, khẳng định vị trí mũi nhọn kinh
tế hiệu quả chủ trương ưu tiên đầu tư phát triển trong cơ cấu kinh tế của Thị
xã.
Thực hiện Quyết định 675/TTg ngày 18/9/1996 của Thủ tướng chính
phủ về việc áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng
Cái đạt kết quả tốt trên nhiều mặt và được Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp
tục thực hiện trong thời gian tới.
Xây dựng cơ sở hạ tầng với khối lượng công trình và số tiền đầu tư đặc
biệt lớn. Trong đó bao gồm các công trình đầu mối quan trọng, các công trình
thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân như: khu cửa
khẩu Quốc tế-thương mại, hồ chứa nước Tràng Vinh và hệ thống thủy lợi, hệ
thống điện lưới tới hầu hết các điểm dân cư, hệ thống giao thông (bao gồm cả
việc đóng góp lớn với tỉnh để hoàn thành việc xây dựng hàng chục cây cầu
hiện đại trên tuyến đường Cửa Ông - Móng Cái, chấm dứt tình trạng ách tắc
do mưa lũ gây ra), các trường học cao tầng, bệnh viên, công sở, khu trung tâm
văn hóa….
Đã làm thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, nông thôn, tạo ra sự chuyển
biến về chất đối với cuộc sống của nhân dân các dân tộc trong thị xã, hình
thành về cơ bản một trung tâm kinh tế lớn của Tỉnh, một đô thị sầm uất mà
mốc son là việc Chính phủ cho phép thành lập Thị xã Móng Cái (ngày
20/7/1998), mở ra một thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch
sử xây dựng và phát triển của địa phương, thời kỳ cùng cả nước đẩy mạnh
công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực
hiện vẫn còn những khuyết nhược điểm: chưa khai thác tốt tiềm năng và thế
mạnh về thương mại – du lịch – dịch vụ trên địa bàn, chậm quy hoạch phát
triển tổng thể khu vực du lịch, đầu tư vào trung tâm thương mại. Nông nghiệp
phát triển chậm, giá trị thu từ nông nghiệp còn thấp, trong khi tiềm năng về
cây ăn quả, thực phẩm rau quả, nuôi trồng thủy sản chưa được khai thác, phát
huy. Công tác quản lý, bảo vệ rừng chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả
giữa các cấp, các ngành. Tình trạng phá rừng vẫn còn xảy ra. Công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ bé, phân tán, chưa có quy hoạch, sắp xếp
hợp lý. Thu ngân sách ở các xã đạt thấp, phần lớn xã, phường chưa tự cân đối
được thu chi. Trong xây dựng cơ bản, một số công trình chưa phát huy hiệu
quả.
Lĩnh vực xã hội còn nhiều bức xúc: thu nhập của nhân dân các xã vùng
núi, hải đảo còn thấp, chênh lệch về đời sống giữa các vùng còn cao; chất
lượng giáo dục chưa đạt yêu cầu so với mặt bằng chung; tệ nạn xã hội diễn
biến phức tạp, nhất là tệ nạn ma túy.
2.2.2.2 Giai đoạn 2001 - 2006
Bước vào thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2001 – 2005 do Đại hội Đảng bộ
thị xã Móng Cái lần thứ XX, ngay từ đầu năm, Ban Thường vụ Thị ủy ra
Thông báo kết luận số 10-TB/TU “Về một số chủ trương phát triển thương
mại – du lịch – dịch vụ năm 2001 và những năm tiếp theo”.
Năm 2001, thương mại, giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Tổng kim
ngạch hàng hóa qua cửa khẩu Móng Cái đạt 598 triệu USD, tăng 58% so với
năm 2000. Năm 2003, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã xác định là “Năm thực
hiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế”. Quán triệt chủ trương của Thị ủy,
ủy ban nhân dân thị xã chỉ đạo các ngành chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc, thúc đẩy hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu phát triển. Tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt 694 triệu USD, tăng 24,5% so với 2002. Thị trường nội
địa hàng hóa phong phú, đa dạng, lưu thông buôn bán thuận lợi.
Năm 2005, Móng Cái gặp một số khó khăn: giá hàng hóa tăng cao, thời
tiết diễn biến phức tạp, thị trường bất động sản tiếp tục “đóng băng”; Trung
Quốc hạn chế nhập khẩu qua đường tiểu ngạch, đơn phương dừng thủ tục
xuất – nhập cảnh cho khách du lịch Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu
Móng Cái. Quán triệt Nghị quyết số 21-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Quảng Ninh “Về đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch
vụ trên địa bàn”, Thị ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý tại cửa
khẩu, trạm kiểm soát liên ngành, chống buôn lậu và gian lận thương mại, tổ
chức giao ban giữa các ngành nhằm xử lý vướng mắc về thủ tục xuất nhập
khẩu, xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thông thoáng cho giao lưu hàng hóa và du
lịch. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực chợ trung tâm và cửa
khẩu, bến xe, kho bãi… Do đó, dịch vụ thương mại – du lịch khắc phục được
khó khăn và có bước phát triển, chất lượng dịch vụ không ngừng được nâng
lên. Tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu đạt 1.034 triệu USD, tăng gần 3 lần
so với năm 2000.
Mạng bưu chính – viễn thông được đầu tư nâng cấp theo hướng hiện
đại và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Đến năm 2005, 100% số xã trên địa
bàn thị xã có điểm Bưu điện văn hóa, nhiều nơi đầu tư phát triển mạng
internet phục vụ nhân dân. Toàn thị xã có 21.000 máy điện thoại, bình quân
27 máy điện thoại/100 dân, tăng 2 lần so với giai đoạn 1996 – 2000. Ngành
điện của thị xã được quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Mạng lưới điện
và chất lượng điện không ngừng cải thiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và
đời sống của nhân dân.
Chợ Trung tâm thị xã Móng Cái và các chợ đầu mối hoàn thành đưa
vào sử dụng, tạo sự buôn bán sầm uất trên địa bàn, thu hút trên 4000 hộ và
hơn 100 doanh nghiệp thương mại trong và ngoài nước đến kinh doanh, tạo
việc làm cho hơn một vạn lao động. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ năm 2005 đạt 1.689 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.
Hưởng ứng chương trình du lịch quốc gia “Việt Nam điểm đến của
thiên niên kỷ mới” do Bộ Văn hóa – Thông tin và Tổng cục Du lịch phát
động, Thị ủy chỉ đạo các ngành, các địa phương cần khai thác mọi tiềm năng
thế mạnh của Móng Cái về du lịch. Hàng loạt các dự án về dịch vụ, du lịch
được triển khai trên địa bàn thị xã. Đầu tư xây dựng các điểm vui chơi giải trí
tạo cảnh quan, môi trường du lịch thuận lợi tạo sự hấp dẫn du khách. Hàng
loạt dịch vụ, nhà hàng, khách sạn sang trọng hiện đại được triển khai đầu tư
xây dựng chuẩn bị cho một diện mạo mới về phát triển du lịch của Móng Cái
trong thế kỷ XXI. Kết thúc năm 2005, toàn thị xã có 223 khách sạn, nhà nghỉ,
trong đó một số khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên. Từ năm 2001 – 2005,
tổng số khách qua lại cửa khẩu đạt 12,6 triệu lượt người, tăng bình quân năm
17,6%, trong đó, khách nước ngoài đạt trên 10 triệu lượt người, tăng bình
quân 15%/năm. Doanh thu ngành du lịch các năm đều tăng, năm 2005 đạt 415
tỷ đồng, tăng 2,18 lần so với năm 2000.
Hệ thống Ngân hàng - Tài chính đã có nhiều hình thức đổi mới hoạt
động tiếp thị và hiện đại hóa dịch vụ như: thanh toán qua Ngân hàng điện
tử, biên mậu... nhằm huy động các nguồn vốn tín dụng cho vay đối với các dự
án thuộc các thành phần kinh tế. Ngân hàng nông nghiệp và Ngân hàng chính
sách đã có nhiều cố gắng cho hộ nghèo vay vốn, giảm tổng dư nợ quá hạn
dưới mức cho phép của ngành. Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư
phát triển, Ngân hàng Ngoại thương và Kho bạc Nhà nước Móng Cái hàng
năm đều hoàn thành tốt kế hoạch chuyên môn. Góp phần tích cực thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn phát triển và phục vụ đời sống nhân dân.
Doanh số các dịch vụ Ngân hàng 5 năm đạt trên 90.729 tỷ đồng, tăng bình
quân hàng năm là 43%.
Hoạt động tài chính, ngân sách đạt kết quả nổi bật. Đảng bộ đã chỉ đạo
các cấp ủy Đảng tăng cường lãnh đạo thực hiện Luật ngân sách, nhất là cấp
xã-phường. Nhìn chung các khoản thu thuế, phí, lệ phí đã được kiểm soát
tương đối chặt chẽ; ngành Thuế đã có nhiều cải tiến phương pháp quản lý các
đối tượng chịu thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ kinh doanh làm nghĩa vụ
với Nhà nước. Do vậy, thu ngân sách trên địa bàn đã tăng nhanh đảm bảo cho
sự phát triển sản xuất - kinh doanh.
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 5 năm đạt: 1.640,8 tỷ đồng,
tăng bình quân 8,2% năm. Trong đó, thu nội địa đạt: 812,26 tỷ, tăng bình
quân 32,3% năm.
Năm 2004, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 407,639 tỷ
đồng, tăng 60,3% so năm 2000. Trong đó, ngân sách xã-phường đã đạt 14,4 tỷ
đồng và đã có 4/17 xã-phường tự cân đối được ngân sách.
Tổng chi ngân sách địa phương 5 năm đạt 458,8 tỷ đồng, tăng bình
quân 42,4% năm.
Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% trong cơ cấu kinh
tế của thị xã nhưng ảnh hưởng trực tiếp đến đa số nhân dân trên địa bàn. Vì
vậy, Thị ủy, ủy ban nhân dân thị xã chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế
nông nghiệp theo hướng tăng cường chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
cơ cấu mùa vụ. Xác định là một trong 3 vùng lúa của tỉnh (Đông Triều, Yên
Hưng, Móng Cái), ngày 6-4-2001 Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã ra Nghị
quyết số 01-NQ/TU “Về việc tổ chức triển khai các mô hình trình diễn đã
thành công vào sản xuất đại trà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ
cấu mùa vụ trong nông nghiệp”. Ban Chấp hành Đảng bộ đánh giá: Từ năm
1996, thị xã đã quan tâm chỉ đạo thực hiện nhiều mô hình sản xuất nông
nghiệp, tập trung chủ yếu vào các giống lúa thuần, lúa lai của Trung Quốc
theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ. Kết quả các mô
hình trình diễn cho thấy các giống cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt, phù
hợp với đoàn kết tự nhiên, điều kiện sản xuất của địa phương, cho năng suất
tăng (1,5 2,5) lần so với năng suất bình quân của các loại giống đang sử
dụng, đặc biệt trong đó mô hình cấy giống thuần Khang dân đã được áp dụng
và hiện là giống chủ lực trong vụ xuân của thị xã… Thị ủy chủ trương: đưa
vào sản xuất đại trà các loại cây: lúa, ngô, rau, lạc và cây lấy dầu, tập trung
vào 3 vụ chính là vụ xuân, vụ mùa và vụ đông; phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa, bảo đảm an ninh ninh lương thực, tạo việc làm, cải
thiện đời sống của nhân dân khu vực nông nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết 01 của Thị ủy, ủy ban nhân dân thị xã đã xây
dựng kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện, với cơ chế, chính sách mới
khuyến khích sản xuất. Năm 2001, thời tiết thuận lợi, lượng mưa cao hơn
cùng kỳ và phân bổ đều trong năm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Tổng diện tích gieo trồng cả năm là 5.789,7ha, tăng 2,6% so với năm
2000. Tổng sản lượng lương thực đạt 15.295 tấn, tăng 5.216 tấn so với năm
2000. Năm 2003, năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, Đảng bộ thị
xã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, tích cực áp
dụng khoa học kỹ thuật, đưa cây, con giống mới có năng suất cao vào sản
xuất. Tổng diện tích gieo trồng 6.197,7 ha, tăng 408 ha so với năm 2001.
Năng suất lúa đạt 41,2 tạ và tăng 14,6 tạ/ ha so với năm 2000. Tổng sản lượng
lương thực đạt 16.836 tấn, bằng 108% kế hoạch, tăng 10,3 % so với năm
2002, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ XX.
Năm 2005, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, thời tiết diễn biến phức
tạp, giá vật tư nông nghiệp tăng cao. Thị ủy và ủy ban nhân dân thị xã chỉ đạo
các xã triển khai, thực hiện đề án “Xây dựng cánh đồng 30 triệu
đồng/ha/năm”, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng. Năng suất lúa đạt 42
tạ/ha, là năm có năng suất cao nhất từ trước đến năm 2005.
Tăng cường các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao đi đôi với đa
dạng hóa cây trồng, chuyển từ thế độc canh cây lương thực sang hình thành
một số vùng chuyên canh: lạc, ngô, rau-hoa-quả ở Hải Xuân, Hải Hòa, Ninh
Dương, Hải Đông... Hàng năm, thị xã chuyển hàng trăm hécta đất nông
nghiệp sang phát triển công nghiệp, trồng cây công nghiệp và nuôi trồng thủy
sản.
Cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng có sự chuyển đổi cơ bản. Móng Cái
hình thành 3 vụ sản xuất ổn định trong năm, trong đó vụ đông dần dần trở
thành vụ sản xuất hàng hóa, chiếm trên 30% diện tích canh tác.
Đối với lâm nghiệp, Thị ủy chỉ đạo đẩy mạnh phong trào trồng, chăm
sóc bảo vệ rừng. Từ năm 2001 đến năm 2005, toàn thị xã trồng 2.956 ha rừng
tập trung, đưa độ che phủ lên 42%. Việc khoanh nuôi, bảo vệ rừng được tiến
hành thường xuyên, hiện tượng khai thác lâm sản trái phép và cháy rừng
giảm.
Ngành chăn nuôi phát triển khá. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi
được áp dụng rộng rãi, chất lượng giống gia súc, gia cầm được nâng cao.
Công tác thú y, quản lý, kiểm soát giết mổ, vệ sinh an ninh toàn thực phẩm
được chỉ đạo thường xuyên, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Đàn gia
cầm phát triển ổn định, đàn gia súc tăng từ 26.394 con năm 2000 lên 31.054
con năm 2005. ở một số xã, phường xuất hiện mô hình chăn nuôi trang trại
với quy mô vừa và nhỏ, tỷ suất hàng hóa cao.
Là một trong 4 vùng trọng điểm thủy sản của tỉnh, Móng Cái xác định
nghề nuôi trồng thủy sản là mũi nhọn đột phá trong chương trình chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Năm 2002, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo
kết luận số 09-TB/TU “Về một số chủ trương, biện pháp phát triển nuôi trồng
thủy sản trong thời gian tới”. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Thị
ủy, phong trào nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh, diện tích được mở rộng
từ 1.040 ha năm 2000 lên 1.600 ha năm 2005. Nhiều hộ gia đình đầu tư chiều
sâu, nuôi công nghiệp, thâm canh, bán thâm canh, đưa năng suất từ 300kg/ha
năm 2000 lên 947kg/ha năm 2005 tăng hơn 3 lần. Sản lượng thủy sản hàng
năm đạt 3.700 tấn đến 4.300 tấn, trong đó nuôi trồng đạt 700 – 1.200 tấn.
Đi đôi với lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Thị ủy, ủy ban nhân
dân thị xã đề ra các chủ trương, định hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp là khâu đột phá trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có vai trò tác động trở lại hỗ trợ cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ nâng cao đời sống của nhân dân.
Quán triệt các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba, lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước”, “Về phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân” và thi hành Luật
Doanh nghiệp Nhà nước, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo kết luận số 16-
TB/TU “Về một số chủ trương, biện pháp phát triển công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sản xuất, chế biến hàng
xuất khẩu năm 2001 và những năm tiếp theo”. Thực hiện kết luận số 16 của
Thị ủy, từ năm 2001 đến năm 2006, sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp phát triển nhanh. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt
368,443 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2001 và tăng bình quân
48,6%/năm, vượt hơn 2 lần so với mục tiêu của Đại hội lần thứ XX Đảng bộ
thị xã đề ra.
Trong sản xuất công nghiệp, cơ cấu sản xuất hàng hóa có sự chuyển
biến tích cực theo hướng tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu, hàng tiêu dùng và
hàng có chất lượng. Hàng loạt khu, cụm công nghiệp tập trung mới được hình
thành như: Hải Hòa, Ninh Dương và Hải Yên.
Nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển
kinh tế – xã hội, nhất là phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ…, thị xã vừa thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi), vừa
tạo môi trường thông thoáng khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đến đầu tư làm ăn tại Móng Cái ngày càng nhiều. Năm năm (2001-
2005) vốn đầu tư phát triển từ doanh nghiệp, doanh nhân và nhân dân đạt
794,64 tỷ đồng, tăng bình quân 12,4%/năm. Đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài
tăng nhanh, từ năm 2001 đến 2005 có 17 dự án được cấp mới, nâng tổng số
dự án đầu tư nước ngoài tại Móng Cái lên 20, với tổng số vốn thực hiện đạt
61,7%. Các dự án đi vào hoạt động góp phần gia tăng giá trị sản xuất công
nghiệp, giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, tổng thu ngân sách trên địa
bàn thị xã và giải quyết việc làm cho người lao động. Với sự phát triển nhanh,
mạnh và đa dạng của các ngành công nghiệp, du lịch, dịch vụ, Móng Cái ngày
càng thay đổi với một diện mạo mới – năng động và hiện đại, trở thành điểm
sáng được cả nước biết đến thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, thu hút đầu
tư, thu ngân sách… Ngày 6-9-2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh ra
Nghị quyết số 19-NQ/TU “Về việc xây dựng và phát triển thị xã Móng Cái
trở thành Thành phố biên giới, cửa khẩu”, đó là điều kiện thuận lợi lớn để
ngành công nghiệp Móng Cái tiếp tục phát triển mạnh trong giai đoạn tiếp
theo.
Quán triệt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của Chính
phủ, Móng Cái tiến hành cổ phần hóa 2 công ty (doanh nghiệp nhà nước) đạt
kết quả. Sau cổ phần hóa, Công ty cổ phần Thương mại – dịch vụ Móng Cái
tiếp tục huy động thêm vốn, mở rộng sản xuất – kinh doanh; Công ty cổ phần
Du lịch – dịch vụ Móng Cái được kiện toàn tổ chức, kinh doanh có hiệu quả.
Các khoản nộp ngân sách và thu nhập của người lao động đều tăng hơn so với
trước đây.
Kinh tế tư nhân trên địa bàn thị xã tiếp tục phát triển về quy mô, chất
lượng và hiệu quả. Các hộ kinh doanh cá thể tăng nhanh, 5 năm (2001 –
2005) có hơn 1000 hộ, đưa tổng số hộ kinh doanh lên 4.000 hộ và 214 doanh
nghiệp. Tỷ trọng thu ngoài quốc doanh trong tổng số ngân sách hàng năm đều
tăng, năm 2005 chiếm 60%. Hoạt động của thành phần kinh tế tư nhân góp
phần tích cực vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng thu cho ngân sách, giải quyết
việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể”, Thị ủy chỉ đạo các ngành, các địa phương tiếp tục đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông
thôn phát triển. Đến năm 2005, hầu hết các loại hình hợp tác xã được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty quản lý Nhà nước về xây dựng trên địa bàn thị xã được chú
trọng, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo kết luận “Về định hướng đầu tư
xây dựng cơ bản năm 2001 và những năm tiếp theo”. Thực hiện kết luận của
Ban Thường vụ Thị ủy, ngành xây dựng tập trung hoàn thành các dự án quy
hoạch. Năm năm (2001 – 2005) nhiều dự án, cụm, khu công nghiệp, khu đô
thị mới, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại… được quy
hoạch và phê duyệt làm cơ sở để đầu tư xây dựng. Tổng vốn đầu tư phát triển
trên địa bàn 5 năm (2001 – 2005) đạt 2.206 tỷ đồng, tăng gần 2 lần so với 5
năm (1996-2000). Nhiều công trình xây dựng được hoàn thành như chương
trình điện lưới quốc gia lên vùng cao Bắc Sơn, Hải Sơn và 2 xã đảo, nhà bia
tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Trà Cổ, phòng khám đa khoa Trà
Cổ, Trạm truyền hình quốc gia, chợ trung tâm Móng Cái…
Để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, Thị xã tập trung đề nghị Tỉnh,
Trung ương nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua địa bàn, đầu
tư ngân sách địa phương cải tạo, nâng cấp các tuyến đường của thị xã, đồng
thời với cơ chế “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, tiến hành nhựa hóa, bê
tông hóa giao thông nông thôn. Hết năm 2005, hoàn thành nâng cấp quốc lộ
18A, đường nội thị, tuyến đường xuyên 2 xã đảo, đường biên giới Pò Hèn,
đường tới 100% xã, phường được mở rộng, rải nhựa và bê tông hóa. Thực
hiện Nghị quyết 13-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Ninh “Về phát triển kinh tế
cảng biển”, thị xã tập trung sửa chữa nâng cấp và xây dựng các bến thủy nội
địa, cảng biển trên địa bàn, như đầu tư mới Cảng Dân Tiến, Núi Đỏ; nâng cấp
Cảng Vạn Gia và hệ thống cảng thủy nội địa Thọ Xuân trên sông Ka Long với
nhiều phương thức đầu tư, xã hội hóa.
Việc phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn với hệ thống điện,
đường, trường, trạm tạo ra bước thay đổi căn bản bộ mặt thị xã, nhất là vùng
núi, hải đảo.
Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ thị xã
Móng Cái chú trọng chỉ đạo các hoạt động văn hóa – xã hội.
Đảng bộ và chính quyền thị xã Móng Cái xác định: giáo dục - đào tạo
cùng khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, nhân tố quyết định cho sự
phát triển của địa phương. Năm 2002, Ban Thường vụ Thị ủy thảo luận và
ban hành Nghị quyết 09 về lãnh đạo đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục -
đào tạo của thị xã giai đoạn (2002 – 2005) và chọn là “Năm giáo dục”, đề ra
chủ trương: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các ngành học,
cấp học, phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
hướng tới một xã hội học tập; duy trì phổ cập tiểu học đúng tuổi, phấn đấu
phổ cập trung học cơ sở vào năm 2005. Thực hiện chủ trương của Thị ủy, sự
nghiệp giáo dục - đào tạo ở Móng Cái phát triển đồng bộ cả quy mô, chất
lượng giáo dục, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Phong trào thi đua “Dạy
tốt, học tốt” được đông đảo thầy, cô giáo và học sinh trên địa bàn hưởng ứng.
Chất lượng giáo dục - đào tạo có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ
thông, trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và học sinh giỏi các cấp đều tăng. Năm 2005-2006, toàn thị xã có 21.140
người đi học, bằng 28% dân số. Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, hoàn
thành phổ cập trung học cơ sở. Phong trào học tập có bước phát triển ở nông
thôn, hải đảo, sơn khu, vùng đồng bào dân tộc. Cơ sở vật chất – kỹ thuật phục
vụ giảng dạy và học tập được tăng cường, 70% trường học cao tầng và 100%
lớp học được kiên cố hóa. Đội ngũ giáo viên được bổ sung về số lượng và
từng bước nâng cao về chất lượng. Đến năm 2005, có 7/41 trường được công
nhận đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I.
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và nền kinh tế
tri thức, trong những năm đầu thời kỳ XXI, Đảng bộ, chính quyền thị xã quan
tâm đầu tư phát triển khoa học, công nghệ để phục vụ sản xuất và đời sống.
Các địa phương tích cực đưa giống mới vào sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong các cơ quan của
thị xã, nhất là ngành bưu điện, tài chính, ngân hàng. Chương trình tin học hóa
được triển khai trong các cơ quan đảng, nhà nước bước đầu thu được một số
kết quả tích cực, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng phục vụ
nhân dân.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Thị ủy
chỉ rõ: xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn hóa là trách nhiệm của các cấp
ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn thể nhân dân các dân tộc thị xã. Thực
hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, phong trào “Toàn thể đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư” và phong trào xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn
hóa phát triển rộng khắp. Đến năm 2005, có trên 70% gia đình văn hóa, 95/95
thôn, khu phố xây dựng trong quy ước, 11/95 thôn, khu được công nhận
“Làng, khu phố văn hóa” cấp thị xã. Các thiết chế văn hóa được tăng cường
một bước, 48/95 làng, khu phố xây dựng nhà văn hóa. Đời sống văn hóa cơ sở
có nhiều khởi sắc. Hoạt động văn hóa thông tin có bước phát triển mới. Trạm
Truyền hình quốc gia khu vực đi vào hoạt động, cùng hệ thống truyền hình
của địa phương như Trạm phát sóng QTV, QTV3 và truyền hình cáp phủ
sóng đến hầu hết các địa phương. Hệ thống truyền thanh cơ sở được tăng
cường, đến năm 2006 thị xã có 38 cụm truyền thanh, 12/17 xã, phường có
trạm truyền thanh. Di tích lịch sử văn hóa quan trọng, danh thắng nổi tiếng
của thị xã được quy hoạch tổng thể thành các dự án để đầu tư xây dựng, tôn
tạo như: nhà bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Trà Cổ, khu du
lịch Trà Cổ-Bình Ngọc, điểm du lịch sinh thái Bãi Đông-Vạn Thực, đền Xã
Tắc-Ka Long… Công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, thông tin
được chú trọng hơn trước, nhằm lập lại trật tự trên lĩnh vực văn hóa: quản lý
quán Karaoke, khai thác mạng Internet, buôn bán băng, đĩa và các dịch vụ văn
hóa tại các khu du lịch. Cùng với việc tổ chức luân phiên Hội chợ thương mại
– du lịch hàng năm, hoạt động hát đối trên sông Ka Long giữa thanh niên
Móng Cái và thanh niên Đông Hưng góp phần giáo lưu văn hóa dân tộc Việt
Nam – Trung Quốc và đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân hai nước
Việt – Trung đạt kết quả.
Thực hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe
nhân dân có những chuyển biến tích cực. Mạng lưới y tế được tăng cường về
cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Thị xã và tỉnh đầu tư trên 6,6
tỷ đồng mua trang, thiết bị y cụ và nâng cấp Trung tâm y tế, tranh thủ nguồn
vốn ADB xây dựng phòng khám đa khoa khu vực Trà Cổ. 100% trạm y tế xã,
phường tiến hành xây dựng, nâng cấp. Đội ngũ cán bộ y tế thường xuyên
được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngày càng đáp ứng
yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.
Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước nâng lên. Các chương trình y tế
quốc gia triển khai sâu rộng và đạt kết quả khá. Tỷ lệ trẻ em tiêm đủ 6 loại
vắc xin đạt gần 100%. Công tác vệ sinh, phòng dịch được các cấp, các ngành,
các địa phương và ngành y tế quan tâm chỉ đạo nên trong vòng 5 năm (2001 –
2005) trên địa bàn thị xã không có dịch bệnh xảy ra.
Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được triển khai tích cực, rộng
khắp. Thực hiện Pháp lệnh Dân số, Thị ủy chỉ đạo ủy ban Dân số – Gia đình
và trẻ em cùng với hệ thống tuyên truyền viên dân số kiên trì tuyên truyền,
vận động, nâng cao nhận thức của người dân về chính sách dân số, kế hoạch
hóa gia đình của Nhà nước và địa phương. Đồng thời, xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm Pháp lệnh Dân số. Tình trạng tăng dân số đột biến không
xảy ra ở Móng Cái. Tỷ lệ dân số tự nhiên năm 2005 còn 1,2%, đạt chỉ tiêu Đại
hội XX. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên. Tỷ
lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 20% năm xuống còn 14,5% năm
2005. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên. Tỷ lệ
suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 20% năm 2000 xuống còn 14,5%
năm 2005.
Cùng với lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, Đảng bộ thị xã
thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc
làm và nâng cao đời sống nhân dân. Năm năm (2001 – 2005), thị xã tạo việc
làm cho 10.770 người và thu hút hàng ngàn lao động ở tỉnh ngoài đến làm
việc. Cơ cấu lao động phi nông nghiệp tăng lên. đời sống của nhân dân từng
bước được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 998,5
USD. Số hộ giàu không ngừng tăng, số hộ nghèo giảm xuống còn 2% năm
2005. Phong trào “Uống nước, nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ ngày “Vì
người nghèo” được đông đảo nhân dân hưởng ứng tham gia. Năm 2004, Thị
xã hoàn thành vượt mức kế hoạch xóa nhà tạm và cải thiện nhà ở cho hộ
nghèo, gồm 302 hộ với số tiền xây dựng trên 4 tỷ đồng, trong đó nhân dân
đóng góp hai phần ba, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bằng
công nhận. Chính sách xã hội đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương
binh thân nhân liệt sỹ, người già cô đơn, người nghèo, các học sinh nghèo
vượt khó, người tàn tật, người nhiễm chất độc màu da cam điôxin được các
cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các xã, phường, các đoàn thể nhân dân
thị xã quan tâm thực hiện tốt. Hàng năm, các chính sách hỗ trợ về y tế, giáo
dục - đào tạo, an ninh xã hội, dự án tín dụng cho vay ưu đãi, hỗ trợ sản xuất,
phát triển ngành nghề… đối với người nghèo được duy trì thường xuyên.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị
quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ thị xã lần thứ XXI, Thị ủy đã cụ thể hóa bằng các chương trình kinh
tế – xã hội và tổ chức thực hiện, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Năm 2006, năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, mặc dù còn
nhiều khó khăn: thời tiết bất lợi, dịch bệnh, giá cả các mặt hàng tăng cao,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Thị ủy, kinh tế – xã hội có bước phát triển theo
hướng bền vững, với tốc độ tăng trưởng cao. Xuất khẩu tiếp tục giữ vững nhịp
độ sôi động và tiến bộ. Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu
Móng Cái đạt 2.110,7 triệu USD, tăng 29,3 so với năm 2005. Thị trường nội
địa tiếp tục phát triển. Thị xã tổ chức thành công Hội chợ du lịch thời trang và
quà tặng Móng Cái năm 2006; phối hợp tổ chức Hội chợ thương mại du lịch
biên giới Việt – Trung, tổ chức khai trương chợ đêm. Giá cả thị trường khu
vực cửa khẩu ổn định, đáp ứng nhu cầu giao lưu thương mại và tiêu dùng của
nhân dân.
Công tác quản lý thị trường đấu tranh chống buôn lậu và gian lận
thương mại trên địa bàn được chú ý. Thị ủy chỉ đạo các ngành chức năng tăng
cường kiểm tra, kiểm soát ở những địa bàn trọng điểm. Nhờ vậy, tình hình
buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng giảm.
Ngành du lịch Móng Cái năm 2006 gặp khó khăn. Mặc dù thị xã đã tích
cực, chủ động đàm phán với các cơ quan chức năng của thị xã Đông Hưng –
Trung Quốc về việc tiếp tục cấp thẻ Thông hành cho khách du lịch Trung
Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu Móng Cái, nhưng hết năm 2006, Trung
Quốc vẫn chưa cấp thẻ trở lại. Được sự quan tâm của Thị ủy, của ủy ban nhân
dân và sự cố gắng của ngành du lịch Móng Cái tiếp tục phát triển. Tổng số
khách qua lại cửa khẩu Móng Cái 2.338.552 lượt, tăng 2,9% so với năm 2005.
Kinh tế phát triển, tạo điều kiện thu ngân sách trên địa bàn và chi ngân
sách địa phương tiếp tục tăng cao. Thu ngân sách năm 2006 đạt 442,29 tỷ
đồng, tăng 21,9% so với năm 2005. Chi ngân sách cả năm đạt 113,998 tỷ
đồng, tăng 43%. Tuy nhiên, ngày 31-10-2005, Thủ tướng Chính phủ Quyết
định 273/2005/QĐ-TTg “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết
định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19-4-2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới”. Quyết định 273 của Thủ tướng
Chính phủ nêu chủ trương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế cửa
khẩu, ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu một phần cho ngân sách địa
phương, nhưng phụ thuộc vào khả năng ngân sách Trung ương hàng năm. Do
vậy, ngân sách dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng khó khăn, nhiều công trình
không hoàn thành, nợ đọng kéo dài, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội
của Móng Cái.
Hoạt động tín dụng, ngân hàng có hiệu quả, giữ vững tốc độ tăng
trưởng, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Doanh số huy động vốn năm 2006 đạt 800 tỷ đồng, tăng 28,6%; doanh số cho
vay 550 tỷ đồng, tăng 6,1% so với năm 2005.
Năm 2006, thị xã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp giai đoạn 2006 – 2015 và định hướng đến năm 2020, được ủy
ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Thị ủy chỉ đạo ủy ban nhân dân thị xã xây dựng
kế hoạch thực hiện phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo quy
hoạch, hướng dẫn các đơn vị lập hồ sơ và triển khai dự án khuyến công, trong
năm có 3 dự án hoạt động và được Trung tâm khuyến công tỉnh cấp kinh phí.
Tổng giá trị sản lượng hàng hóa công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt
550,333 tỷ đồng, tăng 55,7% so với năm 2005, tăng trưởng cao là mặt hàng
tái chế cao su. Để giải quyết nợ đọng vốn xây dựng của các năm trước, thị xã
chủ động đề nghị tỉnh giúp đỡ. Ngày 9-10-2006, ủy ban nhân dân tỉnh ra
Quyết định số 3036-QĐ/UB “Về việc cân đối vốn thanh toán cho thị xã Móng
Cái”. Năm 2006, toàn thị xã có 229 công trình được ghi trong kế hoạch, với
tổng số vốn 91,467 tỷ đồng.
Năm 2006, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh xảy ra liên tiếp. Giá
nhiều mặt hàng vật tư nông nghiệp tăng cao ảnh hưởng đến trồng trọt, chăn
nuôi và nuôi trồng thủy sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ mà trực tiếp là
Ban Thường vụ Thị ủy, nông nghiệp vẫn giành thắng lợi. Tổng diện tích gieo
trồng 6.540,1 ha, vượt 4,4% so với kế hoạch. Tổng sản lượng lương thực đạt
16.977 tấn, tăng 3,5% so với năm 2005. Toàn thị xã có 140,95 ha triển khai đề
án cánh đồng 30 triệu đồng/ha/năm, vượt 80% so với kế hoạch. Đặc biệt là
thử nghiệm 10 ha, với công thức luân canh 3 vụ (lúa xuân – lúa mùa sớm và
ngô đông) đạt 48,83 triệu đồng/ha/năm, trong đó phường Ninh Dương đạt
72,48 triệu đồng/ha/năm, xã Hải Hòa đạt 61,33 triệu đồng/ha/năm. Lâm
nghiệp, trồng mới 1,291,8 ha rừng phòng hộ đầu nguồn hồ Tràng Vinh, rừng
Bắc Sơn, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc
và khôi phục diện tích rừng bị cháy trên địa bàn.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp do dịch cúm gia cầm
H5N1 và bệnh lở mồm long móng có nguy cơ bùng phát thành đại dịch.
Trước tình hình dịch bệnh, thị xã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện
pháp kiểm tra, kiểm soát đường biên, cửa khẩu ngăn chặn gia súc, gia cầm
nhập lậu qua biên giới. Đồng thời, chủ động phòng chống, khống chế không
để dịch bệnh phát sinh. Thú y chú trọng tiêm phòng chống các dịch bệnh tụ
huyết trùng, lở mồm, long móng, cúm gia cầm. Do làm tốt, phòng chống dịch
bệnh nên dịch bệnh không tái phát, đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định.
Năm 2006, thời tiết không thuận, tôm nuôi bị nhiễm bệnh nhiều, Thị ủy chỉ
đạo ngành nông nghiệp tăng cường kiểm dịch và phổ biến phương pháp
phòng chống dịch bệnh cho các hộ nuôi tôm, nhiều gia đình nhờ áp dụng khoa
học kỹ thuật đã cho thu hoạch cao. Tổng sản lượng thủy sản đạt 5.702,2 tấn,
vượt kế hoạch 31%, tăng 39,1% so với năm 2005. Trong đó sản lượng nuôi
trồng đạt 2.702,2 tấn, vượt kế hoạch 112%, tăng 36% so với năm 2005.
Nhìn chung sau 5 năm thực hiện, Đảng bộ thị xã Móng Cái đã lãnh đạo
hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu cơ bản do Đại hội Đảng bộ lần thứ XX đề
ra. Mặc dù còn một số tồn tại, khó khăn, song những kết quả đạt được là to
lớn và quan trọng: Nhịp độ tăng trưởng đạt mức cao và tương đối toàn diện
(16,1% vượt 4,1% so với chỉ tiêu); cơ cấu kinh tế Thương mại-du lịch-dịch
vụ (70%) -công nghiệp (15,1%) - nông nghiệp (14,9%) được chuyển dịch
đúng hướng và tăng trưởng nhanh; Đã thu hút, huy động hiệu quả các nguồn
lực để đầu tư phát triển; Phát huy được lợi thế so sánh của Thị xã có cửa khẩu
Quốc gia, Quốc tế, có thị trường hàng hóa sôi động của phía Nam-Trung
Quốc; nông nghiệp-nông thôn, biên giới, miền núi, hải đảo được quan tâm
đầu tư; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển đúng hướng...
Thành tựu nổi bật trong thời gian qua là chúng ta đã duy trì và phát triển sản
xuất-kinh doanh ổn định, tạo ra nguồn thu ngân sách lớn.
Các lĩnh vực văn hóa-xã hội đều có bước phát triển, tiến bộ; hệ thống
chính trị không ngừng được củng cố; quốc phòng-an ninh ngày càng được
tăng cường. Bộ mặt đô thị và nông thôn thay đổi; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được cải thiện... những kết quả và thắng lợi
đó đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ban Chấp hành Đảng bộ, Chính
quyền, Đoàn thể các cấp, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển trong giai
đoạn tiếp theo
Chương 3
Thành tựu và kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội
của Đảng bộ Thị xã Móng Cái.
3.1 Thành tựu và hạn chế chủ yếu
3.1.1 Thành tựu kinh tế - xó hội chủ yếu
Được sự quan tâm của các Bộ, Ngành Trung Ương, sự quan tâm chỉ
đạo sâu sắc của Tỉnh Uỷ, UBND Tỉnh Quảng Ninh cùng với sự quyết tâm
vượt bậc của Đảng bộ, Chớnh quyền, quõn và dõn cỏc dõn tộc Thị xó Múng
Cỏi, phỏt huy truyền thống cỏch mạng, ý chớ tự lực, tự cường, đoàn kết, khắc
phục khó khăn, thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước nên đó đạt được những kết quả và thành tựu to lớn trên các lĩnh vực
kinh tế xó hội, an ninh quốc phũng. Cú được kết quả trên là sự lónh đạo, chỉ
đạo nhạy bén, sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt cơ chế ưu đói cho Múng Cỏi
của cấp uỷ, chớnh quyền Thị xó. Sự quan tõm của cỏc cấp, cỏc ngành cựng
với sự khai thỏc hiệu quả cỏc tiềm năng, thế mạnh của Móng Cái đó, đang và
sẽ đưa Móng Cái lên vị thế cao hơn trong nước và trong khu vực. Từ khi cú
chớnh sỏch mở cửa biờn giới năm 1989, đặc biệt là từ khi Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định 675/1996/QĐ-TTg ngày 18/9/1996 (năm 2001 được
cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) kinh
tế - xó hội của thị xó phỏt triển nhanh, vững chắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP
bỡnh quõn hàng năm tăng từ 12 - 15%, cơ cấu kinh tế thay đổi cơ bản từ chỗ
nông - lâm - ngư nghiệp chuyển sang thương mại - du lịch - dịch vụ - nuôi
trồng thuỷ sản và chiếm tỷ trọng trên 80% thu nhập GDP của Thị xó.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rừ rệt, đặc biệt
là nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và hải đảo. Phải nói răng từ khi
có chính sách đổi mới nền kinh tế xó hội của Thị xó Múng Cỏi phỏt triển
mạnh cả về lượng và về chất với tốc độ tăng trưởng cao, an ninh biên giới
được giữ vững, quốc phũng được cũng cố, quan hệ đối ngoại được đưa lên
tầm cao mới mở ra nhiều triển vọng hợp tác phát triển về mọi mặt với Trung
Quốc
Kết quả đạt được trên các mặt kinh tế xó hội từ năm 1991 - 2006
như sau:
Về hoạt động thương mại: Hoạt động thương mại xuất nhập khẩu được
hỡnh thành và phỏt triển tại Múng Cỏi từ khi Nhà nước mở cửa khẩu Quốc tế
thông thương với Trung Quốc. Từ khi có Quyết định 675TTg (năm 2001
được cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ), hoạt động xuất nhập khẩu cửa khẩu Móng Cái thực sự chuyển mỡnh và
phỏt triển với tốc độ cao. Năm 1991, tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập
khẩu qua cửa khẩu Móng Cái đạt 164,8 triệu USD thỡ năm 2006 ước đạt
2.110 triệu USD, tốc độ tăng bỡnh quõn đạt 30-40%/năm. Song song với giá
trị kim ngạch tăng cao, trong cơ cấu kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu cũng
có nhiều dấu hiệu đáng mừng (kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng và ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kim ngạch hàng hóa XNK - riêng năm
2006, kim ngạch hàng xuất khẩu đạt 980,6 triệu USD), phản ánh năng lực của
nền kinh tế Việt Nam trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế
toàn cầu.
Các khu thương mại liên tiếp được đầu tư, xây dựng, nâng cấp hiện đại.
Đáng chú ý là đó cú nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tự bỏ vốn xây
dựng trung tâm thương mại, góp phần thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá. Do vận
dụng linh hoạt cơ chế ưu đói theo quyết định 675TTg và 53TTg, phát huy thế
mạnh, tháo gỡ khó khăn kịp thời trong hoạt động xuất nhập khẩu nên khu
kinh tế cửa khẩu Móng Cái thực sự có sức cuốn hút các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế đến đầu tư, kinh doanh. Đến năm 2006 đó cú cú 277 doanh
nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài, hợp tỏc xó, chi
nhánh, văn phũng đại diện) và 4.853 hộ kinh doanh cá thể (trong đó có 2.430
hộ kinh doanh tại 4 chợ trung tâm). Móng Cái đang thực sự trở thành khu
kinh tế thương mại lớn thứ 2 của Tỉnh Quảng Ninh.
Về du lịch dịch vụ: Khi chưa có chính sách mở cửa, đổi mới, mặc dù
Móng Cái có tiềm năng du lịch rất lớn song không phát huy được. Nguyên
nhân chính là giao thông đi lại khó khăn (đặc biệt là trước năm 1995), lượng
khách quốc tế đến tham quan du lịch Móng Cái rất ít, các ngành dịch vụ du
lịch không phát triển được. Từ khi Chính phủ có quyết định 675 TTg cho
phép áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái
(năm 2001 được cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ) hệ thống giao thông được tu sửa nâng cấp. Đến nay, hệ thống giao
thụng từ Hạ Long ra Múng Cỏi được nâng cấp, mở rộng, đặc biệt là đó cú sự
tham gia vận chuyển hành khỏch bằng tàu du lịch cao tốc cỏnh ngầm của 02
cụng ty (1 trong nước, 1 ngoài nước) với 2 tuyến là Móng Cái - Hạ Long và
Móng Cái - Hải Phũng; nhiều cụng ty du lịch cú trạm đại diện tại Móng Cái
với phương tiện vận chuyển tiện nghi, hiện đại. Thị trường dịch vụ du lịch của
Móng Cái phát triển rất nhanh, chất lượng phục vụ được nâng lên rừ rệt, giỏ
cả vừa phải, đặc biệt là môi trường du lịch được quản lý chặt chẽ, khụng cú sự
ộp giỏ, khụng cũn cỏc tệ nạn tại cỏc khu du lịch, thị trường dịch vụ cạnh tranh
mạnh mẽ song đảm bảo lành mạnh. Thủ tục, chính sách xuất nhập cảnh được
áp dụng và từng bước được cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiện, giá tour
cạnh tranh, chất lượng phục vụ ngày càng được nâng lên. Tất cả những yếu tố
trên là những động lực rất lớn thúc đẩy ngành du lịch Móng Cái phát triển.
Khách đi du lịch năm 1991 chỉ có 9.007 lượt thỡ năm 2003 lên tới hơn
250.000 lượt, năm 2006 có 362.458 lượt. Tốc độ tăng bỡnh quõn là 26.780
lượt/năm, cá biệt có năm tăng trên 50.000 lượt. Lượng khách lưu trú tại Móng
Cái hàng năm đạt 95.000 - 100.000 lượt và năm 2006 đạt 122.550 lượt thực
sự đang mở ra nhiều cơ hội để kích cầu các ngành dịch vụ du lịch phát triển.
Doanh thu ngành du lịch năm 1991 đạt 9.862 triệu đồng thỡ năm 2003
đạt 310,839 tỷ đồng. Năm 2005, 2006 tuy có rất nhiều khó khăn song doanh
thu ngành du lịch cũng đạt được 250 tỷ đồng .
Hoạt động tài chính - kho bạc: Hoạt động ngành ngân hàng, kho bạc có
vai trũ rất tớch cực trong cụng cuộc phỏt triển kinh tế xó hội của thị xó. Do
nắm bắt thời cơ, cải tiến, mở rộng các loại hỡnh dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ
thanh toán biên mậu và chuyển tiền) nên ngành ngân hàng đó tổ chức kinh
doanh rất hiệu quả, đồng thời đó gúp phần thỳc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu
phát triển. Nếu như thời điểm năm 1991, doanh số kinh doanh chỉ đạt vài
chục tỷ đồng thỡ năm 2003 doanh số hoạt động đạt 4.426 tỷ đồng và đến năm
2006, doanh số dịch vụ chuyển tiền đạt 63.971 tỷ đồng, thanh toán biên mậu
đạt trên 33.471 tỷ.
Về thu ngõn sỏch: Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong việc thực hiện phát
triển kinh tế - xó hội. Xỏc định thu ngân sách là điều kiện cần thiết để đầu tư
nhanh cơ sở hạ tầng. Do xác định vai trũ then chốt, trong những năm qua thị
xó đó tập trung quản lý, tổ chức tốt các nguồn thu, không những phấn đấu
tăng thu về mặt lượng mà về chất lượng thu cũng được nâng lên (thu nội địa
tăng mạnh qua các năm trong đó có thu từ ngoài quốc doanh, tiền cấp đất...).
Năm 1991 tổng thu ngân sách đạt 35,4 tỷ tăng bỡnh quõn 10 - 20%/năm và
đến năm 2006, tổng thu ngân sách đạt 430,8 tỷ đồng.
Về nông lâm ngư nghiệp: Thị xó thường xuyên quan tâm, ưu tiên cho
chương trỡnh khuyến nụng, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật
nuôi cho phù hợp với điều kiện phát triển ở địa phương. Hàng năm thị xó đầu
tư giành một khoản kinh phí để Trung tõm khuyến nông nghiên cứu đưa tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng được đầu tư
tương đối toàn diện, đồng bộ đó phỏt huy hiệu quả, đáng chú ý nhất là chương
trỡnh kiên cố hoá kênh mương nội đồng, việc xây dựng và triển khai quy
hoạch và đầu tư hạ tầng cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản hàng chục tỷ
đồng/năm. Mô hỡnh chuyển đổi kinh tế trang trại gắn với việc giao đất giao
rừng cho các hộ dân được thí điểm, tổng kết nhân rộng ra hầu hết cỏc xó,
phường trên địa bàn.
Do có chủ trương đầu tư và tổ chức khai thác hiệu quả các công trỡnh
hạ tầng trong sản xuất nụng lõm ngư nghiệp nên kết quả thu được thật phấn
khởi. Nếu như năm 1991 tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 9.469 tấn
thỡ năm 2002 đó đạt 15.000 tấn, hoàn thành sớm hơn 2 năm so với Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Thị xó đó đề ra, đặc biệt là năm 2006 tổng sản lượng
lương thực quy thóc đạt trên 16.977 tấn. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 1991
đạt 2.512 tấn thỡ năm 2006 đạt 5.702 tấn trong đó sản lượng nuôi trồng đạt
2.702 tấn.
Do có chủ trương và chiến lược đầu tư phù hợp, khai thác hiệu quả nên
trong những năm qua đời sống của nhân dân vùng nông thôn được cải thiện rừ
rệt. Hiện nay, kể cả theo tiờu chớ mới, Thị xó khụng cũn hộ đói, số hộ nghèo
giảm cũn 3,9%. (theo tiờu chớ mới)
Sản xuất cụng nghiệp – Tiểu thủ cụng nghiệp, bưu chính viễn thông:
Trước năm 1991, nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hầu như
chưa có, chỉ có một vài cơ sở cơ khí nhỏ phục vụ đời sống dân sinh, công
nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Từ khi có chính sách đổi
mới, nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhanh chóng hỡnh thành
và phỏt triển mạnh. Cơ chế ưu đói theo quyết định 675TTg có sức hút rất lớn
các thành phần kinh tế đầu tư, mở rộng sản xuất. Tận dụng, nắm bắt thời cơ,
thị xó đó triển khai xõy dựng khu cụng nghiệp - tiểu thủ cụng nghiệp Ninh
Dương, Hải Yên (trong đó khu Công nghiệp Hải Yên với quy mô 390 ha
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là khu công nghiệp trọng điểm của cả
nước). Trong tương lai, Móng Cái sẽ thực sự trở thành 1 trung tâm công
nghiệp lớn của Tỉnh và khu vực.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 1991 đạt
19,8 tỷ thỡ năm 2006 đạt 550 tỷ (giá thực tế), tốc độ tăng bỡnh quõn đạt 30%
-50%/năm.
Về đầu tư lưới điện: Tính đến nay 100% các xó, phường đó được dùng
điện lưới quốc gia. Đáng chú ý là trong năm 2001 và năm 2003 đó triển khai
xõy dựng lưới điện đến 2 xó đảo và xó Hải Sơn, Bắc Sơn, đây là điều mơ ước
của đồng bào 2 xó đảo và nhân dân vùng dân tộc ít người từ nhiều năm nay.
Việc đưa điện lưới quốc gia ra đảo và Hải Sơn, Bắc Sơn là tiền đề rất cần thiết
để phát triển kinh tế xó hội cho vựng sõu, vựng xa, vựng đặc biệt khó khăn,
giúp nhân dân vươn lên xoá đói, giảm nghèo và có cuộc sống văn minh hơn.
Đến nay, có tới 99% dân số được sử dụng điện lưới quốc gia.
Bưu chính viễn thông: ngành bưu chính viễn thông thực sự đi trước
một bước, mạng cáp quang đó được đầu tư đưa vào sử dụng hàng năm phát
triển thêm từ 500 - 700 máy. Hệ thống tổng đài điện thoại di động từng bước
được nâng cấp, hiện đại, dịch vụ đa dạng, phong phú hơn. Từ năm 2003 đến
nay ngành bưu chính đó cú bước đột phá trong việc đầu tư công nghệ, nâng
cấp mạng, mở rộng hku vực phủ sóng. Tính đến nay trên địa bàn thị xó, sóng
di động đó bao phủ cơ bản (kể cả vùng Trà Cổ, Bỡnh Ngọc và 2 xó đảo và xó
Bắc Sơn) phục vụ khu du lịch và thúc đẩy phát triển kinh tế xó hội cho 2 xó
đảo. Đến nay mật độ máy đó đạt 36,3 máy/100 dân (bao gồm cả số thuê bao
di động trả sau) gấp 8 lần so với thời điểm năm 1995.
Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi có Quyết định 675 TTg của
Thủ tướng Chính phủ kinh tế khu vực cửa khẩu Móng Cái cơ sở hạ tầng được
tập trung đầu tư xây dựng, tạo nên một đô thị văn minh hiện đại. Các công
trỡnh được đầu tư trọng điểm, có chiều sâu, khi đưa vào khai thác đó phỏt huy
hiệu quả cao, đặc biệt là các công trỡnh giao thụng, cỏc cụng trỡnh phục vụ
thương mại, du lịch, nông lâm ngư nghiệp.
Từ năm 1991 đến nay, giá trị đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng toàn xó hội
ở khu vực Móng Cái đạt trên 2300 tỷ đồng, trong đó các công trỡnh đầu tư
bằng nguồn vốn ngân sách chiếm tới 60%, từ nhân dân chiếm 40%. Trong
nguồn ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho các công trỡnh như đường
giao thông, điện, thông tin liên lạc, khu thương mại, trường học, bệnh viện,
công trỡnh thuỷ lợi phục vụ nụng nghiệp phỏt triển nụng thụn.
Thu hút đầu tư: Từ khi có cơ chế ưu đói đầu tư theo Quyết định 675
TTg đó cú nhiều doanh nghiệp, cỏc tập đoàn đầu tư trong và ngoài nước đến
tỡm hiểu về chớnh sỏch, thị trường và xin cấp phép đầu tư. Nếu như năm
1991 lĩnh vực thu hút đầu tư chỉ mới là những bước chuẩn bị thỡ đến nay đó
cú 21 dự ỏn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn pháp định là 170,4 triệu USD
trong đó nhiều doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả và đang mở rộng quy mô
sản xuất, kinh doanh. Việc vận dụng linh hoạt các chính sách ưu đói đầu tư,
tháo gỡ khó khăn về mặt cơ chế, chính sách đó làm cho Múng Cỏi cú sức hấp
dẫn rất lớn cỏc nhà đầu tư, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xó hội khu kinh tế cửa khẩu.
Về đầu tư trong nước: Tranh thủ được cơ chế, chính sách ưu đói và sự
ủng hộ của cấp uỷ, chớnh quyền thị xó, cỏc thành phần kinh tế đó mạnh dạn
đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu. Đến năm 2006 đó cú
cú 277 doanh nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài, hợp
tỏc xó, chi nhánh, văn phũng đại diện) với tổng số vốn pháp định đạt trên 600
tỷ đồng.
Công tác văn hoá - Y tế - Giáo dục: Về công tác văn hoá, luôn được
quan tâm đầu tư nhằm nâng cao mức sống tinh thần cho nhân dân. Nếu như
tại thời điểm năm 1991, cơ sở vật chất của ngành văn hoá hầu như không có
gỡ, sau khi cú quyết định 675TTg, bằng nguồn vốn ngân sách và sự tham gia
đóng góp của nhân dân, nhiều công trỡnh nhà văn hoá được đầu tư xây dựng.
Tính đến năm 2006 ngoài Trung tâm Văn hoá - Thông tin - Thể thao thị xó,
hầu hết cỏc xó, phường đều có nhà văn hoá thôn, bản phát huy hiệu quả rất
cao. Công tác tiếp, phát sóng truyền hỡnh được đưa lên tầm cao mới, chất
lượng phát sóng, tin, bài ngày càng được nâng lên; phản ánh đầy đủ, kịp thời
các hoạt động chính trị của Thị xó và đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ cho
nhân dân.
Thành quả thu được từ hoạt động ngành y tế là chất lượng khám chữa
bệnh của Trung tâm y tế và mạng lưới y tế cơ sở được nâng lên rừ rệt; Nõng
cao trỡnh độ chuyên môn, bổ sung lực lượng y bác sĩ gắn với việc thực hiện
12 điều y đức. Thị xó tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hịên đại
nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác quản lý
Nhà nước về Y dược tư nhân được tăng cường. Năm 1995, chỉ có 7.435 lượt
người khám chữa bệnh thỡ năm 2006 Trung tâm y tế (nay đó được quyết định
là Bệnh viện Đa khoa Khu vực) đó tổ chức khỏm bệnh cho 75.000 lượt người.
Đó tổ chức cấp thẻ bảo hiểm cho người nghèo được trên 900 sổ hộ nghèo để
làm căn cứ thực hiện các chính sách ưu đói đối với người nghèo. Các xó
nghốo, cỏc xó chương trỡnh 135 được quan tâm chỉ đạo, thực hiện và đó thu
được kết quả tốt.
Công tác giáo dục đào tạo thường xuyên được quan tâm của toàn xó
hội. Tỷ lệ học sinh đến trường mỗi năm đều tăng, tỷ lệ học sinh đi học trên tỷ
lệ dân số đạt 25%. Đến nay toàn thị xó đó đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học, THCS và xoá mù chữ, hiện nay đang thực hiện phổ cập bậc trung học;
Duy trỡ trường dân tộc nội trú Hải Sơn vào hoạt động và duy trỡ tốt sĩ số học
sinh là con em đồng bào dân tộc ít người. Cơ sở vật chất cho trường học luôn
được quan tâm, đó cú 80% số xó, phường có trường học cao tầng không cũn
tỡnh trạng học sinh phải học 3 ca. Phong trào xó hội hoỏ giỏo dục đang được
các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đặc biệt là ngành học mầm non và PTTH.
Thực hiện chớnh sỏch xó hội: Vấn đề thực hiện chính sách xó hội luụn
được trú trọng, đảm bảo chủ trương, chính sách của Đảng đến với mọi người
dân, thể hiện ý nghĩa ưu việt của chế độ mang lại. Đời sống nhân dân ổn định
và từng bước được cải thiện, công tác xoá đói giảm nghèo được các cấp đoàn
thể quan tâm thực hiện có hiệu quả. Qua điều tra thống kế năm 1991 cho thấy
số hộ đói nghèo chiếm 38%, đến nay chỉ cũn 3,9%.
Công tác đối ngoại: Tiếp tục duy trỡ và phỏt triển mối quan hệ hợp tỏc
hữu nghị với Thị xó Đông Hưng, khu Phũng Thành (Trung Quốc). Đó chủ
động phối hợp với Chính quyền Thị xó Đông Hưng và khu phũng Thành
(Trung Quốc) giải quyết nhiều vấn đề nảy sinh trên biên giới, tổ chức các hoạt
động giao lưu để thúc đẩy phát triển kinh tế xó hội khu vực biờn giới.
Quốc phũng an ninh: Sự ổn định về Quốc phũng an ninh cú ý nghĩa
quan trọng, là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xó hội.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua cấp uỷ chính quyền
địa phương đó làm tốt cụng tỏc chỉ đạo, nên tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị, trật
tự an ninh toàn xó hội được đảm bảo, chủ quyền quốc gia được giữ vững .
Túm lại, với những chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng
bộ thị xó, sự triển khai tớch cực của cỏc cấp chớnh quyền, cỏc sở, ban, ngành
chuyờn mụn trong 15 năm qua, tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội của thị xó Múng
Cỏi đó cú bước phát triển mạnh: kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối vững
chắc, cơ cấu kinh tế thay đổi cơ bản từ chỗ nông - lâm - ngư nghiệp chuyển
sang thương mại - du lịch - dịch vụ - nuôi trồng thuỷ sản, văn hóa xó hội cú
nhiều tiến bộ, an ninh chớnh trị được giữ vững, đời sống nhân dân được nâng
cao, nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng bộ thị xó, tớch
cực gúp phần xõy dựng quờ hương ngày càng giàu đẹp. Quỏ trỡnh lónh đạo
đó đó để lại những kinh nghiệm quý bỏu cho sự lónh đạo của Đảng bộ thị xó
trong những năm tiếp theo để xây dựng Móng Cái là Thành phố biên giới cửa
khẩu – Trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ hiện đại, văn minh.
Nguyên nhân của những thành tựu đó, trước hết là do thực hiện đúng
quan điểm "đổi mới" của Đảng, Nhà nước và đã có những chủ trương, chính
sách phù hợp phát triển các khu vực kinh tế cửa khẩu, biên giới, trong đó có
Thị xã Móng Cái. Đồng thời, dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, HĐND-
UBND, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các ban, ngành Quảng Ninh. Ban Thường
vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ, HĐND-UBND đã có những đổi mới trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm chắc tình hình cơ sở,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự tập trung vào các công việc
trọng tâm, đột xuất, với lộ trình thực hiện phù hợp, cụ thể hơn. Chủ động bổ
sung quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của thị xã, của một số ngành; ban
hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng, bức xúc, kịp thời vận dụng một
cách có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bổ sung
giải pháp phù hợp nhằm khai thác những lợi thế, tiềm năng có được trên địa
bàn.
Do có những chủ trương đúng, sát thực tiễn, đã tạo ra sự đoàn kết thống
nhất cao trong xã hội, quán triệt quan điểm "xã hội hoá", huy động các
nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các
thành phần kinh tế và toàn xã hội tham gia, tạo nên sự phát triển năng động,
toàn diện thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị từ thị xã đến cơ
sở luôn được xác định là nhiệm vụ then chốt, trọng tâm và luôn được thường
xuyên quan tâm thực hiện. Nắm chắc diễn biến tình hình tư tưởng trong Đảng,
tâm trạng nhân dân, kịp thời giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân; làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, sử dụng đúng người, đúng việc; có
kiểm tra, uốn nắn kịp thời; bám sát cơ sở, xử lý dứt điểm các tình huống từ cơ
sở ..v.v. Đây là những việc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tổ chức Đảng
là tổ chức tiên phong, đảng viên là đảng viên gương mẫu. Từ đó, tạo ra niềm
tin, động lực to lớn để Đảng bộ, nhân dân Thị xã chúng ta hoàn thành nhiệm
vụ chính trị của mình.
3.1.2 Những hạn chế và yếu kộm
Trước hết, tuy tốc độ tăng trưởng cao, song chưa vững chắc, chưa đều;
cơ cấu nội ngành còn chậm đổi mới, cơ cấu vùng chưa rõ nét. Công nghiệp
hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn còn nhiều bất cập, hiệu quả khai thác
tiềm năng đất đai và lao động chưa cao; công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp
phát triển chưa bền vững, phần giá trị gia tăng còn thấp; Các ngành dịch vụ
phát triển chưa cân đối, còn mang yếu tố tự phát nên hiệu quả kinh tế chưa
cao; chất lượng giao thông-vận tải có những mặt hạn chế, vận chuyển hành
khách chưa đáp ứng được nhu cầu du khách trong, ngoài nước; Việc huy động
và phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân chưa tương xứng
với tiềm năng; Đời sống nhân dân miền núi, dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn...
Thu ngân sách tuy đạt giá trị lớn nhưng một số nguồn thu còn hạn chế,
còn nhiều xã-phường chưa tự cân đối ngân sách; Việc thu phí, lệ phí đạt
thấp; nguồn thu từ cấp quyền sử dụng đất còn chiếm tỷ trọng cao.
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, nhất là quản lý đất đai còn
hạn chế. Tình trạng lấn chiếm, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong
nhân dân còn xẩy ra, có vụ việc diễn biến phức tạp; việc sử dụng quỹ đất cho
đầu tư phát triển chưa mạnh; Trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn dàn trải;
tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chất lượng công trình vẫn là vấn
đề cần được quan tâm; dự án đầu tư theo các chương trình chưa được triển
khai đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu quả chưa cao.
Thực hiện chủ trương "Xã hội hóa" trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo
dục... còn thiếu những biện pháp hữu hiệu. Chất lượng hoạt động của nhà văn
hoá cộng đồng chưa cao; Việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc
tang, trong lễ hội kết quả còn thấp; Bộ máy tổ chức, quy chế, lề lối làm việc
và đội ngũ cán bộ văn hóa còn yếu. Chất lượng khám, chữa bệnh của Bệnh
viện Móng Cái, mạng lưới y tế cơ sở nhìn chung chưa ngang tầm; Chất lượng
giáo dục vẫn là đòi hỏi bức xúc của nhân dân trong đào tạo nguồn nhân lực
cho địa phương. Chỉ tiêu hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ người sinh con
thứ 3 còn cao và không vững chắc.
Nguyên nhân của những thiếu sót, yếu kém là do tình hình thế giới
diễn biến phức tạp, tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhanh, một số chính
sách vĩ mô, một số vấn đề mới về hành lang pháp lý của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chưa hướng dẫn kịp thời. Giá cả một số mặt hàng
thiết yếu tăng cao, dịch bệnh và thời tiết diễn biến phức tạp... đã ảnh hưởng
trực tiếp đến kinh tế, đời sống nhân dân.
Ngoài ra, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ, Ban Chấp
hành Đảng bộ, của Thường trực Thị ủy, HĐND-UBND Thị xã có lúc chưa
kịp thời, chưa kiên quyết. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên trong cán bộ
chủ chốt ở cơ sở trước những việc khó, liên quan đến số đông nhân dân... còn
nặng và khá phổ biến. Năng lực trình độ quản lí bộ máy công quyền của một
số cán bộ còn yếu. Số ít cán bộ, nhất là cơ sở ý thức rèn luyện phẩm chất, đạo
đức, tinh thần trách nhiệm công tác chưa tốt; vi phạm nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, Đoàn thể, vi phạm chính sách đã phải xử lý kỷ luật. Sự phối hợp giữa
các cơ quan chức năng khi giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh
tế trực tiếp của dân chưa tốt.
Đảng bộ thị xã Móng Cái nghiêm túc xem xét những nguyên nhân đó
để tìm ra hướng đi mới khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, các cấp chính quyền, đưa các hoạt động kinh tế – xã hội của thị xã
đi đúng hướng, phát triển mạnh mẽ.
3.2 Một số kinh nghiệm trong lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
của Đảng bộ thị xã Móng Cái.
Từ những kết quả đó đạt được và những tồn tại, chạn chế trong quá
trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội trong 15 năm qua của Đảng bộ thị xó Múng
Cỏi, cú thể rỳt ra một vài kinh nghiệm sau:
Một là, Phải quán triệt sâu sắc đường lối chính sách Đảng, pháp luật
của nhà nước và vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa
phương.
Vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Trung ương không phải
là kinh nghiệm riêng của Đảng bộ Móng Cái. Bất cứ Đảng bộ nào lãnh đạo
thành công công cuộc đổi mới ở địa phương đều đúc rút ra kinh nghiệm lãnh
đạo quan trọng là vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Trung ương.
Đối với Đảng bộ thị xã Móng Cái, đây là kinh nghiệm quan trọng đầu tiên.
Muốn vận dụng sáng tạo, trước hết phải đòi hỏi quán triệt sâu sắc đường lối
của Trung ương, bảo đảm cho việc thực hiện ở địa phương không đi chệch
hướng. Đường lối, chính sách của Đảng chỉ thể hiện ở những vấn đề chung
nhất, nhưng mỗi địa phương có những đặc điểm riêng, những điều kiện kinh
tế – xã hội không hoàn toàn giống nhau. Do vậy các Đảng bộ phải biết vận
dụng một cách linh hoạt sáng tạo, phù hợp với từng địa phương. Tuyên
truyền, vận động, giáo dục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện của Đảng bộ, tránh tư
tưởng chủ quan, tự mãn. Chính tư tưởng đó dẫn đến quan liêu, duy ý chí, thủ
tiêu sáng tạo… Trải qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ thị xã
Móng Cái đã xuất phát từ đường lối, chính sách của Trung ương, nhận thức
đầy đủ đặc điểm, điều kiện của địa phương có vị trí địa lý chiến lược, có
nhiều tiềm năng đa dạng có thể khai thác như: Du lịch, kinh tế biển, khai thác
đất đai, tài nguyên khoáng sản để phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp… Đảng bộ thị xã Móng Cái đã đề ra những chủ trương,
giải pháp phù hợp với địa phương, đó chính là sự vận dụng sáng tạo đường
lối, chính sách chung của Đảng bộ thị xã Móng Cái. Thị ủy tổ chức học tập
nghiêm túc các Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh tới toàn bộ hệ thống
tổ chức của Đảng bộ để quán triển đúng đắn, sâu sắc đường lối của cấp trên.
Sau đó Thị ủy đề ra Nghị quyết về chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị
quyết. Ngay sau đó, ủy ban nhân dân thị xã có quyết định triển khai cụ thể ở
địa phương. Nghị quyết của Thị ủy, Quyết định của ủy ban nhân dân đều căn
cứ đường lối, chính sách của Trung ương, Tỉnh và đặc điểm của địa phương
để đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp.
Hai là, Chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý có trình độ năng lực, bản lĩnh, đạo đức, trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, có khả năng quyết đoán, nhiệt tình, nhạy bén với điều
kiện hoàn cảnh mới.
Đội ngũ cán bộ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc” [35,tr.222]. Người luôn đặt cán bộ ở vị trí then chốt: “Cán bộ
là dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ
dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê liệt” [35,tr.222]. Người thường xuyên
chăm lo đến việc đào tạo, rèn luyện để có một đội ngũ cán bộ tốt, Người
khẳng định: “Cán bộ tốt việc gì cũng xong” và “Muôn việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”
[35,tr.222].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã xác định tiêu chuẩn
chung của cán bộ như sau: “Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, phấn đấu
thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà
nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực,
không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có
trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của nhà nước. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao” [11,tr.79-80]
Qua đó thể hiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn quan tâm
đến công tác cán bộ và đào tạo đội ngũ cán bộ. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, đội ngũ cán bộ phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt
mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
Đảng bộ thị xã Móng Cái thường xuyên chăm lo công tác xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo phát triển
kinh tế – xã hội của thị xã.
Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng, các chỉ thị Nghị quyết của
Trung ương, của tỉnh ủy, thị ủy được quán triệt nghiêm túc, kịp thời gắn với
chương trình hành động của từng cấp, từng ngành. Công tác giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ, đảng viên được triển khai tích cực góp phần nâng cao
nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, chống những biểu hiện thoái
hóa biến chất trong Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng, với công cuộc đổi mới thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
của địa phương.
Cơ chế kinh tế mới không chỉ đòi hỏi có sự lãnh đạo đúng đắn kịp thời
của Đảng mà nó còn phải có đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo và quản lý. Công tác cán bộ
có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng, làm tốt
công tác cán bộ thì hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, kinh tế – xã hội
ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Nhận thức đầy đủ về công tác cán bộ, thị xã đã hoàn thành việc tổ chức
sắp xếp lại các phòng, ban chức năng theo Nghị định 172 của Chính Phủ. Đội
ngũ cán bộ quản lí Nhà nước đã có trình độ chuyên môn khá hơn (60/78 đồng
chí có trình độ Đại học, nhiều đồng chí đã có trình độ cao cấp lý luận). Căn cứ
vào yêu cầu nhiệm vụ UBND thị xã đã ban hành quyết định ưu đãi đối với
cán bộ đi học, chính sách ưu đãi tiếp nhận sinh viên có trình độ đại học xuống
cơ sở công tác. Trong thời gian qua Thị uỷ đã thực hiện có hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Một mặt do tích cực thực hiện các chỉ tiêu cử cán
bộ đi học do Tỉnh phân bổ, mặt khác chủ động phối hợp với các Trường của
Tỉnh, của Trung ương để mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ tại Thị xã.
Ba là, Lãnh đạo thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước của chính
quyền các cấp trên địa bàn đối với phát triển kinh tế – xã hội.
Tiềm năng về nguồn lực cho phát triển kinh tế ở Móng Cái còn rất lớn,
nếu có những chính sách thích hợp thì sẽ phát huy được tác dụng trong huy
động nguồn lực cho phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. ở đây
cần nhận thức rằng mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế dù là hữu hình hay
vô hình phải được thừa nhận bằng pháp luật, người sở hữu nó phải được
hưởng thành quả khi đưa vào sản xuất, kinh doanh, phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của các cơ quan nhà nước
gây cản trở cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị. Tiếp tục
hoàn thiện thể chế, chính sách là một yêu cầu bức thiết đặt ra để phù hợp với
phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Để thực hiện được điều này cần phải tiếp tục tạo hành lang pháp lý,
điều kiện môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh tiến
độ cải cách hành chính nhà nước và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế.
Thực hiện chủ trương cải cách hành chính, mà trước mắt là cải cách thủ
tục hành chính có kết quả bước đầu. 100% các xã-phường và Thị xã đã thành
lập phòng đón tiếp, giải quyết các yêu cầu của công dân theo cơ chế "một
cửa", có trang thiết bị, phòng đón tiếp tương đối khang trang.
Bốn là, Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo kinh tế của Đảng bộ địa
phương.
Cũng như ở các thời kỳ cách mạng trước đây, trong công cuộc đổi mới
đất nước, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi. Lãnh đạo
thực hiện phát triển kinh tế – xã hội ở Móng Cái trong những năm vừa qua đạt
được nhiều kết quả, nhân tố hàng đầu là sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã quán
triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt”, Đảng bộ thị xã Móng Cái luôn tăng cường vai trò lãnh đạo kinh tế
và đổi mới phương thức lãnh đạo kinh tế, tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo
phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã. Sự lãnh đạo của Đảng bộ không
chỉ là vận dụng Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh để đề ra chủ trương,
giải pháp phù hợp với Móng Cái mà quan trọng là tổ chức thực hiện, đi sâu đi
sát cơ sở nắm bắt tình hình, giải quyết, hỗ trợ kịp thời. Đảng bộ chỉ đạo các
cấp chính quyền tích cực cải cách hành chính theo hướng công khai, minh
bạch, rõ ràng, dễ kiểm tra, kiểm soát và dễ thực hiện. Đây là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng và luôn được các nhà đầu tư đánh giá cao, thậm chí còn
có hiệu quả cao so với những ưu đãi về tài chính. Để đảm bảo thu hút và khai
thác các nguồn vốn có hiệu quả, việc nâng cao tinh thần và thái độ, trách
nhiệm của các cơ quan chính quyền, các cấp, các ngành là cần thiết. Bên cạnh
việc phân định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ cần có một cơ chế giám sát hữu
hiệu để tránh tình trạng buông lỏng trách nhiệm ở một khau nào đó, gây ảnh
hưởng đến cả hệ thống bộ máy chính quyền. Cần có những biện pháp kịp thời
để xử lý những sai phạm xảy ra, không ngừng tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế cạnh tranh phát triển mạnh mẽ. Phương thức lãnh đạo, điều hành
của các cấp ủy Đảng nói chung và các cấp ủy Đảng trong khối kinh tế nói
riêng phải thường xuyên đổi mới theo tinh thần phát huy dân chủ, tăng cường
đoàn kết, thường xuyên kiểm tra, đảm bảo được sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng bộ. Mọi chủ trương, giải pháp lớn của Đảng bộ, về tổ chức và cán bộ
đều được thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra Nghị quyết theo đa số. Tăng
cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo
và trách nhiệm cá nhân. Kiện toàn tổ chức Đảng đồng thời phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức Đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các
đơn vị sản xuất, kinh doanh. Đảng gắn bó với cơ sở gắn bó với quần chúng,
thể hiện ý chí và nguyện vọng của quần chúng…
Những kinh nghiệm trên được Đảng bộ thị xã Móng Cái đúc rút trong
quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội. Những kinh nghiệm đó cần
được phát huy bổ xung để tiếp tục đưa kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển
mạnh thực hiện được mục tiêu mà Đại hội XXI Đảng bộ thị xã đề ra.
Kết luận
Hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006), nhất là từ khi thành lập thị xã (7-
1998) Móng Cái có sự phát triển mạnh mẽ. Vị thế của thị xã đã được khẳng
định. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX, X, XI, XII và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ thị xã lần thứ XVIII, XIX, XX, XXI, Đảng bộ thị xã lãnh đạo các
ngành, các xã, phường nắm tình bắt thời cơ, vượt qua thử thách, phát huy các
thế mạnh, khai thác mọi nguồn lực để tập trung phát triển kinh tế – xã hội.
Nhờ sự lãnh đạo sâu sát, năng động của cấp ủy Đảng, chính quyền và sự nỗ
lực của nhân dân các dân tộc, thị xã Móng Cái có những bước phát triển to
lớn về thương mại, du lịch và phát triển kinh tế vùng cửa khẩu với mức tăng
trưởng cao và tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2001
– 2005) tăng 16,1%/năm; bình quân thu nhập trên 1000USD/người/năm. Mỗi
năm bình quân 1 triệu lượt khách du lịch đến Móng Cái. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực, đúng hướng: Từ nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 80% tỷ
trọng GDP chuyển sang thương mại – du lịch – dịch vụ – công nghiệp – nông
nghiệp, trong đó tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ chiếm trên 70%. Kết
cấu hạ tầng phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội được tăng cường đầu
tư, xây dựng, phát huy hiệu quả làm thay đổi bộ mặt của thị xã. Đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc được cải thiện rõ rệt. Sự nghiệp văn
hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển. Thế trận quốc phòng toàn dân an ninh
nhân dân được củng cố và giữ vững. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng
và phát triển. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được thực hiện có hiệu
quả, hệ thống chính trị được củng cố nâng cao chất lượng hoạt động. Đó là
điều kiện tiên quyết đưa Móng Cái trở thành một địa phương có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh và bền vững, là một trong những điểm sáng về kinh tế của
tỉnh và cả nước.
Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, Đảng bộ thị xã Móng Cái luôn
chủ động, sáng tạo tìm tòi cách làm mới, từng bước khai thác tốt tiềm năng,
lợi thế để đưa nền kinh tế thị xã vươn lên giành thắng lợi lớn hơn. Với tiềm
năng, lợi thế và những thắng lợi đã đạt được, cùng với những chủ trương,
chính sách tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội sẽ là yếu tố hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư. Sự quan tâm của Trung ương và của Tỉnh, sự năng
động, sáng tạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của lãnh đạo thị xã là một trong
những nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã
hội của thị xã Móng Cái.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu tiến bộ, thị xã Móng Cái cũng
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót: kinh tế tăng trưởng cao, song chưa vững
chắc, chưa đều: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn
nhiều bất cập, hiệu quả khai thác tiềm năng đất đai và lao động chưa cao:
công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé. Chất lượng nguồn nhân lực chưa
đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ
và nhân dân Móng Cái cần phát huy tối đa nội lực, tích cực chủ động tranh
thủ nguồn ngoại lực, tận dụng thời cơ, vận hội thu hút đầu tư trong nước và
nước ngoài, tạo nên sức mạnh tổng hợp đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
nhanh và bền vững.
Những kinh nghiệm của Đảng bộ thị xã Móng Cái rút ra trong quá trình
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội là vô cùng quý báu đối với sự phát triển
của thị xã trong hiện tại và tương lai. Đó là nền tảng vững chắc, là tiền đề tạo
nên sức mạnh mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc thị xã Móng
Cái viết tiếp những trang sử vẻ vang trong chặng đường mới – chặng đường
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Móng Cái là Thành phố
biên giới cửa khẩu – Trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ hiện đại, văn
minh.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Phạm Ngọc Anh (2003), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa
giới các đơn vị hành chính 1945 – 1997, Nxb Văn hóa – Thông tin.
3. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam(1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên
chủ nghĩa xã hội – Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội
đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia,
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VI) “Về phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế – xã hội trong ba năm 1988 - 1990 và năm 1988”.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ
(khóa VII) , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VIII) , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương (khóa IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) Về phát triển kinh tế – xã hội, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX
16. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1994), Văn kiện Hội nghị Đại biểu Đảng bộ
tỉnh giữa nhiệm kỳ (Khóa IX)
17. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ X
18. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh biểu lần thứ XI
19. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XII
20. Đảng bộ huyện Hải Ninh (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ
XVIII Đảng bộ huyện Hải Ninh
21. Đảng bộ huyện Hải Ninh (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ
XIX Đảng bộ huyện Hải Ninh
22. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XX
Đảng bộ thị xã Móng Cái
23. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ
XXI Đảng bộ thị xã Móng Cái
24. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2000), Nghị quyết “Về một số chủ trương,
biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội nông thôn trong thời
gian tới”, Số 10/NQ-TU.
25. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2001), Nghị quyết “Về việc tổ chức triển
khai các mô hình trình diễn đã thành công vào sản xuất đại trà, thực
hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp” ,
Số 01/NQ-TU.
26. Nguyễn Hữu Đức (2003), Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi
mới đất nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
27. PGS Lê Mậu Hãn – Ths. Nguyễn Huy Cát – Ths. Phạm Hồng
Chương(2006), Biên niên Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 – 2005,
tập I (1945-1954), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
28. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Vững bước trên con đường đã
chọn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Huyện ủy Hải Ninh (1994), Nghị quyết của BCH Đảng bộ huyện về
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về “Tiếp
tục đổi mới về phát triển kinh tế – xã hội nông thôn” , Số 05/NQ-HU.
30. Huyện ủy Hải Ninh (1995), Nghị quyết của BTV Huyện ủy “Về việc
củng cố và phát triển Du lịch – Dịch vụ trên địa bàn huyện” , Số
05/NQ-HU.
31. Huyện ủy Hải Ninh (1996), Nghị quyết về công tác khuyến nông năm
1996 – 1997, Số 01/NQ-HU.
32. Huyện ủy Hải Ninh (1996), Nghị quyết về chuyển đổi mô hình hợp tác
xã nông nghiệp, Số 03/NQ-HU.
33. Phạm Xuân Nam (2001), “Đổi mới kinh tế – xã hội ở Việt Nam (1986-
2000) – Một cái nhìn tổng quan”, Tạp chí Kinh tế và dự báo(11), tr.25.
34. Vũ Dương Ninh (2001), Quan hệ đối ngoại Việt Nam qua 15 năm đổi
mới (1986 – 2000), Nxb Khoa học Xã hội
35. Niên giám thống kê thị xã Móng Cái năm 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội
– 2004.
36. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. PGS,TS. Trình Mưu – TS. Nguyễn Thế Lực – TS. Nguyễn Hoàng
Giáp (2005), Quá trình triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận Chinh trị, Hà
Nội.
38. Đỗ Mười (1993), Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội. Bài
phát biểu tại Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5 khóa VII.
39. Đinh Xuân Lý (2001), Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Nguyễn Xuân Oánh (2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách
kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Trọng Phúc (1998), Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Tỉnh ủy Quảng Ninh (2004), Nghị quyết “Về việc xây dựng và phát
triển thị xã Móng Cái trở thành Thành phố biên giới, cửa khẩu”, Số
19-NQ/TU.
43. Thị ủy Móng Cái (2001), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thị xã Móng
Cái – Khóa XX “V/V tổ chức triển khai các mô hình trình diễn đã
thành công vào sản xuất đại trà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp” , Số 01-NQ/TU.
44. Thị ủy Móng Cái (2001), Thông báo kết luận của BTV Thị ủy “Về một
số chủ trương, biện pháp phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sản xuất, chế biến
hàng xuất khẩu năm 2001 và những năm tiếp theo”, Số 16-TB/TU.
45. Thị ủy Móng Cái (2002), Thông báo kết luận của BTV Thị ủy “V/V
phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thị xã Móng
Cái trong thời gian tới”, Số 10/TB-TU.
46. Thị ủy Móng Cái (2003), Báo cáo tổng hợp chỉ tiêu phát triển kinh tế –
xã hội thời kỳ 1990 – 2003, Số 215-BC/TU.
47. Thị ủy Móng Cái (2003), Số 13-NQ/TU, Nghị quyết của Ban Thường
vụ Thị ủy “Về phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2010”
48. Thị ủy Móng Cái (2004), Nghị quyết của Ban Thường vụ Thị ủy “Về
xây dựng, phát triển thị xã Móng Cái đến 2010” , Số 27-NQ/TU.
49. Thị ủy Móng Cái (2005), Báo cáo kết quả 3 năm (2002 – 2005) triển
khai, thực hiện Chỉ thị 15 – CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Ninh “Về tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới,
biển đảo Quảng Ninh trong tình hình mới”, Số 254-BC/TU.
50. Vũ Hồng Tiến (2005), Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà
Nội.
51. Đặng Hữu Toàn (2002), Chủ nghĩa Mác-Lênin và công cuộc đổi mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Đào Duy Tùng (1996), Quan niệm về Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. UBND huyện Hải Ninh (1998), Các báo cáo tình hình kinh tế – xã hội
huyện Hải Ninh từ năm 1991 – 1997, Văn phòng UBND
54. UBND thị xã Móng Cái (2006), Các báo cáo tình hình kinh tế – xã thị
xã Móng Cái từ năm 1998 – 2006, Văn phòng UBND
55. UBND thị xã Móng Cái (1995), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kế hoạch
năm 1991 – 1995, phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 1996 – 2000,
Số 18/BC-UB.
56. UBND thị xã Móng Cái (1998), Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế – xã hội thị xã Móng Cái đến năm 2010, Số 70/BC-
UB.
57. UBND thị xã Móng Cái (2003), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện chỉ thị
15/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường xây dựng và phát
triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh các xã, phường
biên giới, hải đảo, Số 93/BC-UB.
58. UBND thị xã Móng Cái (2004), Báo cáo Về tình hình phát triển đô thị
giai đoạn 1995 – 2004, Số 157/BC-UB.
59. UBND thị xã Móng Cái (2005), Báo cáo Kết quả thực hiện chỉ tiêu
kinh tế – xã hội thời kỳ 2001-2005; định hướng phát triển kinh tế – xã
hội 2006-2010, Số 190/BC-UB.
60. UBND thị xã Móng Cái (2006), Báo cáo tình hình hoạt động trong
thời gian qua và một số đề xuất về cơ chế chính sách cho khu kinh tế
cửa khẩu Móng Cái trong thời gian tới, Số 231/BC-UBND.