ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

**************************

Lê Hồ Hiếu

Đảng bộ Thị xã Móng Cái

lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội từ năm 1991 đến năm 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà NộI – 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

**************************

Lê Hồ Hiếu

Đảng bộ Thị xã Móng Cái

lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội

từ năm 1991 đến năm 2006

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã số : 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học : PGS,TS. Trình Mưu

Hà NộI – 2008

Cnxh

Quy ước chữ viết tắt

Cnh,hđh

: Chủ nghĩa xã hội

Dnnn

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Fdi

: Doanh nghiệp nhà nước

Htx

: đầu tư trực tiếp

Gdp

: Hợp tác xã

Tnhh

: Tổng sản phẩm trong nước

NQ

: Trách nhiệm hữu hạn

NQTW

: Nghị quyết

NXB CTQG

: Nghị quyết Trung ương

ĐHKHXH&NV

: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

BCT

: Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

BBT

: Bộ chính trị

BCH

: Ban bí thư

BCHTW

: Ban chấp hành

UBND

: Ban chấp hành Trung ương

: ủy ban Nhân dân

Mục lục

Trang

Mở đầu…………………………………………………… 1

Chương 1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu

đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái … 7

1.1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái……………………… 7

1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với thị xã móng cái trong quá

trình lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội…………………… 17

Chương 2. Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển

26 kinh tế – xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 –

2006

2.1. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã

hội trong những năm 1991 – 1996………………………… 26

2.2. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã

hội theo hướng CNH, HĐH (1996 – 2006)………………… 38

Chương 3. Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh

tế xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái……………… 81

3.1. Thành tựu và hạn chế chủ yếu ………………………… 81

3.2. Một số kinh nghiệm của Đảng bộ thị xã Móng Cái trong

lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội………………………… 93

Kết luận ………………………………………………… 99

Danh mục tài liệu tham khảo …………………………… 101

Phụ lục ………………………………………………… 107

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX

tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Hai mươi

năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công

cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ

bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được

đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối

đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định.

Quốc phòng và an ninh ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc

tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều,

tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp ”

[8,tr.67-68].

Đó là thắng lợi mang tính bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển

của đất nước trên con đường đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó

thể hiện trên thực tế sự đóng góp tích cực của tất cả các Đảng bộ và nhân dân

các địa phương trong cả nước, đã vận dụng đường lối đổi mới của Đảng một

cách linh hoạt sáng tạo, góp phần đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng.

Hơn nữa, sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng lại xuất phát từ sự đòi

hỏi bức thiết ở cơ sở, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Vì lẽ đó mà

khi đường lối đổi mới của Đảng ra đời đã được tất cả các địa phương, cơ sở

chấp nhận một cách nhanh chóng, chỉ trong một thời gian ngắn đã phát huy

hiệu quả và đi vào cuộc sống, tạo thành một phong trào cách mạng rộng lớn,

sâu sắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta còn nhiều khó

khăn, phức tạp, đất nước còn trong tình trạng một nước nghèo, kinh tế, khoa

học kỹ thuật kém phát triển. ở nhiều địa phương đời sống của nhân dân còn

rất thấp. Cơ chế, trình độ quản lý kinh tế – xã hội còn lỏng lẻo, những tiềm

năng, thế mạnh của địa phương chưa được phát huy, đã ảnh hưởng trực tiếp

đến công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm lịch sử ở các Đảng bộ huyện,

thị trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trên lĩnh vực kinh tế –

xã hội giai đoạn 1986 – 2006 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.

Đó là: khẳng định sự đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và những bài học

kinh nghiệm quý báu của các Đảng bộ trong việc tổ chức, lãnh đạo phong trào

cách mạng ở địa phương. Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ Thị xã Móng

Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội từ năm 1991 đến năm 2006” là rất

cần thiết, xét trên cả phương diện khoa học cũng như phương diện thực tiễn

góp phần nhìn nhận một cách có hệ thống chính sách phát triển kinh tế trong

thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế của địa phương, trên cơ sở đó đưa ra những

giải pháp góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

Tác giả luận văn mong muốn việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp một

phần nhỏ vào ý nghĩa đó.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế – xã hội

trong thời kỳ đổi mới trên phạm vi cả nước hoặc của Đảng bộ các tỉnh, thành

được đề cập đến khá nhiều trong các công trình khoa học, ngoài các bài nói,

bài viết của các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có tính chất định

hướng còn có thể kể đến một số công trình như: TS. Vũ Hồng Tiến(2005),

Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội; Phạm Xuân Nam(2001),

“Đổi mới kinh tế – xã hội ở Việt Nam (1986-2000) – Một cái nhìn tổng

quan”, Tạp chí Kinh tế và dự báo(11), tr.25; TS. Nguyễn Mạnh Hùng(2004),

Kinh tế – xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng, Nxb Thống Kê,

Hà Nội; Nguyễn Xuân Oánh(2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách

kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Phạm Xuân Nam(1991), Đổi

mới kinh tế – xã hội: thành tựu, vấn đề và giải pháp, Nxb Khoa học xã hội…

Đây là các công trình đề cập tập trung, trực tiếp đến các vấn đề phát triển kinh

tế – xã hội trên cả nước với nhiều cách tiếp cận khác nhau như vấn đề chuyển

dịch cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu, các vấn đề xã hội nhằm thúc đẩy

nhanh sự phát triển kinh tế, khẳng định trong thực tế chủ trương của Đảng

trong đổi mới là hoàn toàn đúng đắn.

Ngoài ra, đã có không ít các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ

đề cập đến sự phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ khoa học kinh tế hoặc

Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử

Đảng ở phạm vi cả nước hoặc ở một địa phương cụ thể, như: Đào Trọng

Độ(2007), “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp

(1986-2000)”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà

Nội; Nguyễn Thị Anh(2006), “Đảng bộ huyện An Dương (Hải Phòng) lãnh

đạo phát triển kinh tế thời kỳ 1986 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,

Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Lương Thị Yên(2005), “Đảng bộ

Lục Yên (Yên Bái) lãnh đạo phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới 1986 – 2004”,

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Ngô Thị

Lan Phương(2007), “Quan hệ thương mại Việt – Trung trên địa bàn Quảng

Ninh giai đoạn 1991 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường

ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội.

Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào tổng kết một cách có hệ

thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển

kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã.

Trong tình hình đó, luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả nhằm

làm rõ thêm, sáng tỏ hơn những chuyển biến trong việc hoạch định chính sách

phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới của tỉnh Quảng Ninh nói chung

và Thị xã Móng Cái nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Trình bày quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát

triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006, đánh giá những kết quả đạt được,

những bài học kinh nghiệm và những phương án giải pháp phát triển thị xã

trong chặng đường mới. Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ thị xã

Móng Cái trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương, của tỉnh

vào tình hình cụ thể của thị xã Móng Cái thời kỳ đổi mới.

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết ba

nhiệm vụ sau:

+ Tình hình trong nước và thế giới tác động đến chiến lược phát triển

kinh tế – xã hội của Quảng Ninh nói chung và Móng Cái nói riêng.

+ Làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã Móng Cái trong

phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006.

+ Tổng kết những bài học kinh nghiệm, đề xuất những phương án và

giải pháp phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới.

4. Đối tượng và phạm vi của đề tài

Đối tượng: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ

Thị xã Móng Cái trong lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế xã hội của địa

phương giai đoạn 1991 – 2006.

Phạm vi nghiên cứu: Đảng bộ thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển

kinh tế – xã hội là đề tài rộng nên luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo

của Đảng bộ thị xã trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối đổi mới

của Đảng để phát triển kinh tế địa phương, thực hiện chính sách xóa đói giảm

nghèo, chính sách với người có công, chính sách giáo dục đào tạo … giai

đoạn 1991 – 2006.

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu

* Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phát triển kinh tế – xã hội, CNH,HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới.

* Phương pháp nghiên cứu

- Trên cơ sở phương pháp luận sử học mac – xit, phương pháp nghiên

cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, logic để làm rõ quá trình

Đảng bộ địa phương lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế – xã hội .

- Luận văn có sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng để

trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung trên.

* Nguồn tư liệu

- Nguồn tài liệu thành văn:

+ Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội IX.

+ Văn kiện của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh từ 1991 – 2006.

+ Văn kiện của Đảng bộ Thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.

+ Các báo cáo của HĐND và UBND Thị xã Móng Cái.

+ Niên giám thống kê hàng năm của TƯ và địa phương

+ Báo cáo của các cơ quan ban ngành trong tỉnh

+ Kết quả nghiên cứu của những công trình liên quan

- Nguồn tài liệu khảo sát thực tế: bao gồm kết quả đã thu được qua điều

tra xã hội học và điền dã thực tế.

6. Đóng góp của luận văn

- Về khoa học: Luận văn đã hệ thống hóa quá trình nhận thức và tổ

chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã

Móng Cái trong giai đoạn 1991 – 2006. Chỉ ra những nguyên nhân, bài học

kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại

trong thời gian qua để đẩy nhanh quá trình phát triển trong những năm tiếp

theo.

- Về thực tiễn:

+ Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về quá trình phát

triển kinh tế – xã hội địa phương, góp phần cung cấp luận cứ khoa học để xây

dựng các phương án phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã.

+ Khẳng định vai trò của Đảng bộ cơ sở trong khi quán triệt đường lối

chủ trương, chính sách của Đảng thông qua việc làm sáng tỏ quá trình lãnh

đạo phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã đã tác động đến sự phát

triển xã hội.

+ Những kinh nghiệm được rút ra góp phần quan trọng vào phương

hướng phát triển kinh tế – xã hội của Thị xã Móng Cái trong giai đoạn tiếp

theo.

+ Làm tư liệu tham khảo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thị xã Móng Cái

nói riêng và lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh nói chung.

+ Làm tư liệu tham khảo giảng dạy môn lịch sử trong vấn đề liên hệ

lịch sử địa phương.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1: Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu đặt

ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.

Chương 2: Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển kinh tế

– xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.

Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh tế

xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái.

Chương 1

Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu

đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.

1.1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái.

Múng Cỏi là thị xó địa đầu phớa Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh, cũng

là địa đầu phớa Đông Bắc Việt Nam, cú 70 km đường biờn giới trờn bộ tiếp

giỏp với tỉnh Quảng Tõy, Trung Quốc. Phớa Đông giỏp Vịnh Bắc Bộ, phớa

Tõy giỏp huyện Hải Hà, phớa Nam giỏp huyện Cụ Tụ và phớa Bắc giỏp biờn

giới Việt Nam – Trung Quốc.

Thị xó Múng Cỏi hiện nay cú diện tớch đất tự nhiờn là 518,278 km2, trải rộng từ 107o10’ đến 108o05’ kinh độ Đông và từ 21o10’ đến 21o40’ vĩ độ

Bắc. 85% diện tớch của thị xó là đất liền, trong đó 71% diện tớch tự nhiờn là

đồi và nỳi xen kẽ giữa cỏc thung lũng, sụng suối, bói biển, thấp dần từ bắc tới

nam. Xó vựng cao Hải Sơn cú dóy Pan Nai với đỉnh cao nhất là 710 m. 15%

diện tớch của thị xó là đảo đó tạo thành nhiều cửa đầm, vũng, bói, thuận lợi

cho việc nuụi trồng và đánh bắt hải sản. Đảo Vĩnh Thực (3500 ha) là một dóy

nỳi chạy dài gần 20 km từ đông sang tõy, cỏch đất liền trờn 2km tạo thành

vịnh lớn, đỉnh cao nhất là 170m. Tổng dõn số thị xó năm 2006 là gần 8 vạn

người gồm 5 dõn tộc anh em: Kinh, Dao, Tày, Sỏn Chay và Hoa. Mật độ dân số trung bỡnh đạt 154 người/km2.

Về địa lý hành chớnh, theo sách “Khâm định Việt sử thông giám

Cương mục” thỡ Múng Cỏi xa xưa được gọi là trấn Triều Dương. Đến đời Lý

Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 được gọi là châu Vĩnh An. Đời hậu Lê năm

Thuận Thiờn thứ 1 (1426) gọi là Yờn Bang. Thế kỷ thứ XVII gọi là chõu Vạn

Ninh và thế kỷ thứ XVIII gọi là chõu Mang Nhai.

Đến đầu thế kỷ XIX, thị xó Múng Cỏi bõy giờ gồm tổng Vạn Ninh,

tổng Bỏt Trang và một phần tổng Hà Mụn thuộc chõu Vạn Ninh, phủ Hải

Đụng, trấn An Quảng. Thỏng 6 – 1888, chõu Vạn Ninh chia thành ba chõu

(Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn) của phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yờn.

Thỏng 6 – 1906, thực dõn Phỏp tỏch phủ Hải Ninh khỏi tỉnh Quảng Yờn,

thành lập tỉnh Hải Ninh gồm 3 chõu: Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn.

Sau Cỏch mạng Thỏng Tỏm 1945, để phự hợp với việc lónh đạo, chỉ

đạo của Trung ương Đảng và Chớnh phủ đối với cỏc địa phương, thỏng 10 –

1945 Chớnh phủ Việt Nam Dõn chủ Cộng hũa quyết định thành lập cỏc chiến

khu. Theo đó, tỉnh Hải Ninh (gồm cả Múng Cỏi) là một trong bảy tỉnh thuộc

Chiến khu 3 [27,tr.85]. Ngày 19-7-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Nghị định

tạm lập lại tỉnh Quảng Yờn và khu đặc biệt Hũn Gai [2,tr.160]. Khoảng cuối

năm 1946, việc phõn định địa giới cỏc chiến khu được điều chỉnh lại: Tỉnh

Quảng Yờn, tỉnh Hải Ninh và Đặc khu Hũn Gai tỏch khỏi Chiến khu 3 trực

thuộc Chiến khu 12; cỏc Liờn khu ủy lónh đạo các chiến khu và các tỉnh, tổ

chức Đảng Đặc khu Hũn Gai và hai tỉnh Quảng Yờn, Hải Ninh do Liờn khu

ủy 12 lónh đạo.Đến thỏng 1 – 1950, cỏc tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh và Đặc

khu Hũn Gai thuộc Liờn khu Việt Bắc; tỉnh Hải Ninh lỳc này gồm 7 huyện:

Múng Cỏi, Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bỡnh Liờu, Đỡnh Lập và Hải Chi.

Trong khỏng chiến chống Phỏp, Múng Cỏi nằm trong vựng địch chiếm đóng,

là thủ phủ của “xứ Nựng tự trị”.

Hũa bỡnh lập lại, “ngày 01-02-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị

định số 449-TTg về tái lập thị xó Múng Cỏi trực thuộc tỉnh Hải Ninh”

[1,tr.56]. “Ngày 30-10-1963, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hũa

khúa II, kỳ họp thứ 7 đó phờ chuẩn việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng

Quảng thành một đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Quảng Ninh”

[1,tr.160]. Ngày 2-7-1964, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 106-CP đổi

thị xó Múng Cỏi thành thị trấn Múng Cỏi thuộc huyện Múng Cỏi.

“Ngày 18-01-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 22-CP đổi

tên huyện Móng Cái thành huyện Hải Ninh” [1,tr.257]. Ngày 28-5-1991, Bộ

trưởng – Trưởng ban Ban tổ chức Chính phủ ra Quyết định số 284/TCCP đổi

tên thị trấn Hải Ninh thành thị trấn Móng Cái, thị trấn Móng Cái là huyện lỵ

huyện Hải Ninh. Ngày 20-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số

52/1998/NĐ-CP tái lập thị xó Múng Cỏi (trờn cơ sở toàn bộ diện tích và dân

số của huyện Hải Ninh cũ) thuộc tỉnh Quảng Ninh bao gồm 5 phường: Hũa

Lạc, Trần Phỳ, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ và 11 xó: Quảng Nghĩa, Hải

Tiến, Hải Đông, Hải Yên, Hải Hũa, Hải Xuõn, Vạn Ninh, Hải Sơn, Bỡnh

Ngọc, Vĩnh Trung và Vĩnh Thực.

Là một vùng đất biên giới nơi địa đầu của Tổ quốc, gắn với những

trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong việc đấu tranh bảo vệ chủ

quyền lónh thổ nờn Múng Cỏi cú bề dày truyền thống chống giặc ngoại xõm.

Thị xó Múng Cỏi là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế,

chính trị và an ninh, quốc phũng. Trải qua cỏc thời kỳ lịch sử của dõn tộc, tất

cả lực lượng xâm lược nước ta đều coi Móng Cái là một trong những mục tiêu

quan trọng hàng đầu.

Với vị trớ cửa ngừ tuyến đầu vùng Đông Bắc Tổ quốc, thị xó Múng Cỏi

đó từng ghi dấu ấn nhiều chiến cụng giữ nước oanh liệt của dân tộc. Vào thế

kỷ XI, Lý Thường Kiệt từ Móng Cái chủ động tiến công diệt giặc Tống ở

châu Khâm, châu Liêm, người dân nơi đây đó tham gia vào đạo quân diệt giặc

Tống. Thế kỷ thứ XIII, vào năm 1287 cánh quân thủy của quân Nguyên –

Mông từ Khâm Châu tiến theo đường biển vào xâm lược nước ta khi đi qua

cửa Vạn Ninh (Móng Cái) bị quan quân nhà Trần do Nhân đức hầu Trần Toàn

chỉ huy, phục kích chặn đánh chiến thuyền của Ô Mó Nhi gõy cho địch thiệt

hại nặng. Móng Cái cũn là căn cứ của nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại áp bức

bóc lột của triều đỡnh phong kiến. Thế kỷ XVII, triều đỡnh Món Thanh cho

quõn sang xõm lược nước ta, nhân dân các dân tộc Móng Cái đó nổi dậy tham

gia phong trào Quang Lónh, Quang Khỏnh chiến đấu anh dũng, chống giặc

ngoại xâm.

Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngay từ những ngày đầu nhân

dân các dân tộc Móng Cái đó anh dũng đứng lên đánh Pháp. Các nhà yêu

nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đó gõy dựng ở Múng Cỏi

một cơ sở của Việt Nam Quang phục hội.

Múng Cỏi cũn là cửa ngừ ra nước ngoài hoạt động của nhiều chiến sĩ

cách mạng. Ngày 17-7-1926, đồng chí Trần Phú cùng chín đồng chí khác đến

Móng Cái và qua biên giới để liên lạc với tổ chức Hội Việt Nam cách mạng

Thanh niên. Ngoài ra, cũn nhiều đồng chí khác trong ban lónh đạo Tâm tâm

xó và Hội Việt Nam cỏch mạng Thanh niên như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng

Mậu… cũng được các cơ sở cách mạng của Móng Cái đưa đón ra nước ngoài

tỡm đường cứu nước.

Là thị xó được thiên nhiên ưu đói cú cả đồi núi và biển nên khí hậu của

Móng Cái rất ôn hũa và dễ chịu. Múng Cỏi là vựng cú lượng mưa lớn so với

bỡnh quõn cả nước, bỡnh quõn đạt 2.788mm, cao nhất là 4.110mm, mưa phần lớn tập trung vào tháng 7-8 hàng năm. Nhiệt độ trung bỡnh trong năm là 22oC.

Hệ thống sụng ngũi, hồ đập của Móng Cái rất phong phú.

Móng Cái xưa vốn là nơi buôn bán trao đổi hàng hóa giữa người Trung

Quốc với Việt Nam. Ngay từ đầu Công nguyên, con đường biển đi từ Khâm

Châu (Quảng Tây – Trung Quốc) theo hướng Tây Nam vào Việt Nam xuyên

qua tuyến đảo Quảng Ninh, từ châu Vĩnh An (Móng Cái) qua Vân Đồn, vịnh

Hạ Long, vào cửa Bạch Đằng, lặng sóng kín gió, yên tĩnh như một con kênh

trong đất liền nên sử cũ mệnh danh là Đông Kênh, là con đường giao thông

ven biển lý tưởng. Lúc thuận gió đi một mạch từ Khâm Châu đến Vân Đồn

chỉ mất 3 ngày. Đây chính là con đường mà thuyền buôn Trung Quốc mỗi khi

vào nước ta buôn bán thường đi qua, cũng chính là con đường mà các đạo

thủy quân phương Bắc như Nam Hán, Tống và Nguyên Mông đó tiến vào

xõm lược nước ta những năm 938, 981, 1288. Di chỉ Thoi Giếng (xó Vạn

Ninh) là một trong những di tích nổi tiếng thương cảng thời Trần. Vào thế kỷ

XII, sau khi thành lập thương cảng Vân Đồn, vua Lý Anh Tụng lập bến Vạn

Ninh (thuộc thôn Đông xó Vạn Ninh ngày nay). Bến này nhỏ hơn bến Vân

Đồn nhưng là bến cảng đầu cầu, thuyền buôn nước ngoài (chủ yếu là Trung

Quốc) muốn vào Vân Đồn phải ghé qua Vạn Ninh. Vỡ vậy, Vạn Ninh sớm trở

thành phố chợ đông vui, trên bến dưới thuyền. Từ đó, một số ngành nghề

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng khá phát triển và rất đa dạng. Xưa có

nghề gốm với 16 lũ bỏt, 2 lũ chum. Cỏc mặt hàng gốm sứ Múng Cỏi nổi tiếng

một thời, buụn bỏn khắp miền Bắc. Nghề dệt lụa thủ công và dệt vải khổ rộng

(vải cạp xá), dệt màn, cơ khí, làm muối… Nghề đóng, sửa chữa tàu thuyền

cánh dơi đi biển với đội thuyền vận tải hàng nghỡn tấn phương tiện đi khắp

mọi miền đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ là một trong những lực

lượng tham gia vận chuyển vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam.

Với hệ thống đường giao thụng thủy bộ đa dạng. Về đường thủy, với

50km bờ biển, Móng Cái có cảng Vạn Gia có thể đón tàu trên 1 vạn tấn. Các

cảng Thọ Xuân, Núi Dỏ, Cồn Rắn, bến Mũi Ngọc, Dân Tiến và hệ thống các

cảng thủy nội địa dọc sông Ka Long đủ điều kiện để bốc xếp, vận chuyển

hàng hóa. Tuyến tàu cao tốc cánh ngầm Móng Cái – Hạ Long, Móng Cái –

Hải Phũng thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa nhanh chóng. Về

đường bộ, quốc lộ 18A từ thành phố Hạ Long ra Móng Cái đó được trải nhựa.

Hiện nay, Chính phủ phê duyệt dự án xây dựng đường cao tốc ven biển đoạn

Vân Đồn – Móng Cái; quốc lộ 18A từ Hạ Long ra Móng Cái được tỉnh đầu tư

mở rộng. Trong tương lai không xa, Móng Cái có đường sắt nối sang tỉnh

Quảng Tây – Trung Quốc. Vỡ vậy, Múng Cỏi là cửa ngừ giao thụng thủy bộ

rất thuận lợi với cỏc tỉnh trong nước và khu vực, tạo ra thế mạnh của thị xó

vựng biờn giới Đông Bắc Tổ quốc.

Vị trớ thuận lợi nổi bật của Múng Cỏi là cú cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu

tiểu ngạch Ka Long và các điểm thông quan Lục Lằm, Pũ Hốn… Múng Cỏi

trở thành một cửa khẩu buụn bỏn hàng đầu của nước ta với thị trường Trung

Quốc, giữ vai trũ quan trọng trong chiến lược hợp tác kinh tế khu vực, là đầu

mối cung cấp các sản phẩm nguyên, nhiên liệu quan trọng như cao su, than

đá… sang Trung Quốc. Móng Cái tiếp cận trực tiếp với thị trường rộng lớn

phía Đông Nam Trung Quốc. Đây là một thị trường đông dân, có nhu cầu đa

dạng và có nhiều trung tâm kinh tế lớn đang phát triển sôi động với nhịp độ

rất nhanh. Chính sách mở cửa đó tạo cho Múng Cỏi trở thành một cửa khẩu

quốc tế quan trọng của nước ta, đồng thời là cửa khẩu trung chuyển hàng hóa

giữa nước ta, các nước ASEAN với Trung Quốc.

Việc thông thương giữa Móng Cái với các tỉnh trong cả nước cũng như

với các tỉnh duyên hải Nam Trung Quốc ngoài hệ thống đường bộ cũn cú

đường biển và cảng biển, đây là một lợi thế mà các cửa khẩu biên giới phía

Bắc không có. Đặc biệt cảng Vạn Gia nằm ở vị trí sát đường biên giới trên

biển với Trung Quốc đó tạo ra thế thuận lợi lớn cho việc giao lưu buôn bán

xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển. Với tính chất đặc thù đó, từ khi mở

cửa biên giới, Móng Cái thực sự trở thành đầu mối giao lưu quan trọng giữa

nước ta với Trung Quốc và các nước trong khu vực nói chung, cũng như giữa

tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Quảng Tõy núi riờng.

Vị trí đầu mối này có ý nghĩa chiến lược quan trọng, không chỉ tạo ra

những điều kiện thuận lợi để mở mang phỏt triển kinh tế, phỏt triển quan hệ

hợp tỏc giữa hai tỉnh và hai Nhà nước mà cũn là khu vực cạnh tranh kinh tế

và cú vị trớ rất quan trọng về quốc phũng an ninh.

Không những thế ngoài tiềm năng lớn về phát triển thương mại, Móng

Cái cũn nhiều tiềm năng đa dạng có thể khai thác như: kinh tế biển, khai thác

đất đai, tài nguyên khoáng sản để phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp.

Về tài nguyên biển, Móng Cái có vùng ven biển rộng, nhiều ngư

trường, bờ biển dài 50km có diện tích bói triều lớn, rất thuận lợi cho việc phỏt

triển nghề khai thỏc và nuụi trồng thủy hải sản. Trữ lượng có khả năng khai

thác từ 6 – 7 ngàn tấn/năm, nhưng hiện nay mức độ khai thỏc cũn thấp. Nếu

được đầu tư phương tiện đánh bắt ngoài khơi và tổ chức nuôi thâm canh sản

lượng thủy hải sản của Móng Cái có thể tăng lên gấp nhiều lần để cung cấp

cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Về đất đai, thị xó Múng Cỏi cú nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu,

nhân dân cần cù lao động với tổng diện tích đất trồng trọt trên địa bàn thị xó

đạt 7000 ha với hơn 13.000 hộ nông nghiệp, gần 60.000 nhân khẩu chiếm 75% dân số. Với diện tớch 520Km2, dân số trên 8 vạn người, mật độ dân số trung bỡnh đạt 154 người/km2 thỡ tiềm năng về đất sản xuất cũn rất lớn. Thị

xó Múng Cỏi cú địa hỡnh phớa bắc là đồi núi trung du, phía đông là đồng

bằng và có địa hỡnh thoải dần ra biển, cú hệ thống hồ nước ngọt với trữ lượng

nước rất lớn. Là một vùng đất gần biển, khí hậu khá ôn hoà so với các địa

phương khác, Móng Cái là khu vực ít chịu ảnh hưởng của thiên tai. Đây là

những yếu tố rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế

trang trại. Với tiềm năng về đất đai, khí hậu chúng ta có thể trồng nhiều loại

cây có giá trị và cho năng suất cao, giúp nhân dân thoát khỏi đói nghèo và

vươn lên làm giàu. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của lĩnh vực

thương mại – du lịch – dịch vụ, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng không

ngừng được quan tâm, tạo được sự chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất và

giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Về lõm nghiệp, thị xó Móng Cái là vùng núi biên giới nên được hưởng

nhiều cơ chế tài chính hỗ trợ trồng rừng của các tổ chức phi Chính phủ (dự án

661, Việt Đức, dự án trồng rừng ngập mặn JAICA...). Trong những năm qua,

do có các nguồn vốn hỗ trợ trên, Móng Cái đó trồng được hàng ngàn ha rừng

phũng hộ đầu nguồn, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ môi sinh, môi trường

và tạo nên các vùng có cảnh quan đẹp có thể khai thác vào mục đích du lịch.

Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho nhân dân đang

phát huy rất hiệu quả việc phỏt triển kinh tế trang trại.

Về nuôi trồng thủy sản, đây là một trong những tiềm năng, thế mạnh và

đang được đầu tư toàn diện để nhanh chóng trở thành một trong những ngành

kinh tế mũi nhọn của Thị xó. Thị xó Múng Cỏi cú 6 xó, phường tiếp giáp biển

và vùng cửa sông với diện tích đất ngập nước hàng ngàn ha có tiềm năng, thế

mạnh trong nuôi trồng thuỷ sản rất lớn, rất thích hợp cho việc nuôi các loài

thuỷ sản giá trị kinh tế cao.

Móng Cái có hệ thống sông Ka Long và sông Bắc Luân đổ ra biển theo

2 cửa sông khác nhau; có sự điều hoà giữa nước ngọt và nước mặn đó tạo một

vựng nước lợ rất lớn. Đây là điều kiện lý tưởng để nuôi các loại thuỷ sản nước

lợ mà không phải tạo hồ điều tiết nước ngọt như nhiều địa phương khác nên

giảm chi phí đầu vào cho nhân dân. Trên vùng đất triều có diện tích rất lớn

rừng ngập mặn lâu niên và diện tích rừng ngập mặn đang tiếp tục được trồng

bổ sung và bảo vệ; hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển rất phong phú, đa

dạng và đặc trưng rất phù hợp cho việc nuôi các loài thuỷ sản giá trị cao: tôm,

cua, cá song... Bên cạnh đó nhiều vùng ven biển rất thích hợp nuôi các loại cá

lồng có giá trị cao (khu vực đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực) song chưa khai thác

được. Môi trường nước cũn tương đối sạch, chưa bị ô nhiễm nên việc nuôi

trồng thuỷ sản cũng cú nhiều thuận lợi.

Nhu cầu thị trường sản phẩm thuỷ sản trong và ngoài nước lớn, đặc biệt

là trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay. Đây là thời cơ vận hội

kích cầu nền sản xuất ngư nghiệp của Thị xó Múng Cỏi phỏt triển. Bên cạnh

đó, Móng Cái tiếp giáp với vùng biển có rất nhiều tiềm năng về thuỷ sản, rất

thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt xa bờ.

Trước tiềm năng, thế mạnh trong sản xuất ngư nghiệp, nhu cầu của thị

trường tại chỗ và thị trường xuất khẩu, trong những năm gần đây phong trào

nuụi trồng thuỷ sản trong nhõn dõn phỏt triển mạnh mẽ cả về quy mụ và

chủng loại nuụi.

Về khoáng sản, tuy trữ lượng không lớn nhưng có nhiều loại như: Đất

sét, cao lanh làm sành sứ, gạch ngói, đá hoa cương ở Lộc Phủ, Titan ở Bỡnh

Ngọc, Trà Cổ, cỏt đá sỏi phân bố ở nhiều nơi có khả năng khai thác phục vụ

phát triển một số ngành công nghiệp.

Về du lịch và nhân văn, Móng Cái được thiên nhiên ưu đói với nhiều

danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, cú bề dày lịch sử và nền văn hoá đặc thù của

địa phương, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi

cho ngành du lịch, dịch vụ du lịch của Móng Cái phát triển: khu du lịch Trà

Cổ - Bỡnh Ngọc, bói cỏt trắng rộng, thoải, mụi trường trong lành, hệ sinh thái

đa dạng cũn khỏ hoang sơ rất thích hợp để phỏt triển du lịch biển. Hiện nay

bói tắm Trà Cổ được đánh giá là một bói tắm đẹp trong cả nước; có đảo Vĩnh

Trung - Vĩnh Thực với tiềm năng du lịch biển chưa được khai thác; có diện

tích rất lớn hệ thống rừng ngập mặn, rừng phũng hộ đầu nguồn, các hồ, đập

có cảnh quan rất đẹp như: Tràng Vinh, Quất Đông... rất thích hợp để phát

triển du lịch sinh thái. Trên địa bàn Thị xó cũn nhiều chựa triền: ở phường Trà

Cổ cũn cú ngụi đỡnh lớn khởi dựng năm 1550, một công trỡnh kiến trỳc và

điêu khắc tiêu biểu cho nghệ thuật thời Lờ cũn khỏ nguyờn vẹn, đỡnh Trà Cổ

đó được Bộ văn hoá xếp hạng (Quyết định số 15 VH/ ngày 13/3/1974). éầu

năm 1999, Móng Cái có thêm hai kiến trúc nghệ thuật được xếp hạng (Quyết

định số 02- Qé/ BVHTT ngày 26/1/1999) đó là: chùa Nam Thọ cũng ở

phường Trà Cổ xây dựng vào thế kỷ 17, trong chùa có hơn 60 pho tượng do

nhiều chùa dồn lại, trong đó có nhiều pho tượng có mang đậm phong cách

dân gian của các thời kỳ lịch sử, có giá trị như một sưu tập các tác phẩm điêu

khắc; Chùa Xuân Lan ở xó Hải Xuõn được xây dựng cách đây trên 400 năm.

Chùa có cột xó bằng đá phiên và một quả chuông đúc thời Quang Trung. Ở

phường Trà Cổ cũn cú nhà thờ cụng giỏo với thỏp chuụng và giỏo đường uy

nghi xây dựng năm 1914, mới được tu bổ năm 1997, các danh thắng với

những nét đặc trưng riêng tạo nên một quần thể du lịch độc đáo, đa dạng mà ít

nơi có thể sánh kịp, làm tăng thêm sự chú ý đối với du khách.

Thiên nhiên ban tặng cho Móng Cái nhiều phong cảnh đẹp, ở địa đầu

của Tổ quốc, có nhiều di tích lịch sử, văn hoá lại nằm trong địa bàn trọng

điểm phát triển du lịch của cả nước. Nhân dân Móng Cái đa dạng về thành

phần dân tộc mang đậm nét văn hoá đặc sắc, có đức tính cần cù, đoàn kết,

mến khách. Múng Cỏi cú nhiều truyền thuyết và cỏc bài hỏt dõn gian. Ở xó

ven biển, nhất là ở Vạn Ninh xưa có hát tơ, hát ví, hát đôi trong đám cưới.

Vùng đồng bào Dao có hát “sán Cô”. Nay nhiều xó cú đông đảo dân các tỉnh

đồng bằng ra các vùng kinh tế mới mang theo truyền thống hát chèo và các

điệu dân ca của vùng Bắc Bộ. Lễ hội lớn nhất ở Móng Cái là hội làng Trà Cổ

tổ chức vào tuần đầu tháng sáu âm lịch. Bên cạnh phần tế lễ, rước chân nhang

từ miếu éụi về đỡnh, cú tục “ đóng cây ca đám”, tục thi lợn to, thi cỗ chay, cỗ

mặn. Điều này đó làm phong phỳ tài nguyờn du lịch và nhõn văn của nơi địa

đầu tổ quốc biên cương này.

1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với Đảng bộ thị xã Móng Cái trong

quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội .

Trước thập kỷ 90, thị xó Múng Cỏi cũn là một huyện miền nỳi biờn

giới kinh tế nụng nghiệp mang tớnh tự tỳc tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, cơ

cấu kinh tế nông lâm – ngư nghiệp là chủ yếu (85%), công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp nhỏ bé, manh mún; Tổng thu ngân sách hàng năm chỉ vài tỉ

đồng, thu không đủ chi, phần lớn dựa vào sự bao cấp của Trung ương và của

Tỉnh, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn…

Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, và nhất là từ khi thực

hiện chủ trương mở cửa biên giới (tháng 2/1989) đến nay, Đảng bộ, quân và

dân thị xó Múng Cỏi từng bước vượt lên khó khăn, chớp đúng thời cơ, tập

trung sức mạnh, khai thác được tiềm năng thế mạnh về địa lý và vận dụng

triệt để các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là từ khi được áp

dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu theo Quyết định

675/TTg ngày 18/9/1996 và chính thức theo Quyết định 53/2001/QĐ-TTg

ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Móng Cái có những bước phát

triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – xó hội, quốc phũng, an ninh.

Thị xó Múng Cỏi từ một địa phương nghèo nay trở thành một vùng kinh tế

phát triển năng động với cơ cấu kinh tế được thay đổi cơ bản từ chỗ nông –

lâm – ngư nghiệp chiếm tới 80% tỷ trọng trong GDP trước năm 1989, chuyển

dịch sang thương mại - du lịch - dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp, trong

đó tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ chiếm trên 70%. Tốc độ tăng

trưởng duy trỡ cao, bỡnh quõn hàng năm trên 16%. Hoạt động lĩnh vực

thương mại luôn được duy trỡ tốc độ tăng trưởng. Tổng kim ngạch hàng hoá

qua cửa khẩu tăng bỡnh quõn hàng năm, năm cao nhất là 52,4%. Giá trị XNK

năm 2001 - 2005 đạt 3.698,4 triệu USD, năm 2005 so với năm 2000 bằng

274,3% và trong năm 2006 đạt hơn 2,11 tỷ USD.

Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu và kinh tế khu vực sẽ mở ra

nhiều cơ hội cho sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành

Thương mại. Việt Nam tham gia hiệp định ưu đói thuế quan (AFTA) và Diễn

đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thỏi Bỡnh Dương (APEC), gia nhập WTO đó mở

ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư và thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển.

Đặc biệt, Móng Cái hiện nay đó trở thành một trong 2 trung tâm kinh tế lớn

của tỉnh Quảng Ninh, có vị trí quan trọng trong trục kinh tế trọng điểm Hà

Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh; là cửa ngừ quan trọng trong tiến trỡnh hội

nhập kinh tế giữa cỏc nước trong khu vực - cửa ngừ quan trọng của tự do hoỏ

mậu dịch ASEAN - Trung Quốc. Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung

Quốc, Móng Cái có vị trí đặc biệt quan trọng, đóng vai trũ trung tõm trong 2

hành lang kinh tế (Lào Cai - Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Cụn Minh

(Trung Quốc)), hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Quảng

Tây (Trung Quốc) và 1 vành đai kinh tế quanh vịnh Bắc Bộ (bao gồm: Quảng

Đông, Quảng Tây - Trung Quốc và Móng Cái - Hạ Long - Đồ Sơn).

Đi đôi với chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chiến lược đầu tư

toàn diện, có chiều sâu về mọi mặt từ cơ sở hạ tầng đến nguồn nhân lực để

đáp ứng tiến trỡnh hội nhập. Từ đó sẽ giảm bớt chi phí cho các doanh nghiệp

đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thị xó Múng Cỏi.

Bên cạnh tiềm năng do xu hướng phát triển mang lại, cơ chế chính sách

của Trung ương và của Tỉnh, Móng Cái cũn cú nhiều lợi thế do đặc thù khu

vực, tự nhiên mang lại. Cụ thể:

Móng Cái là khu kinh tế cửa khẩu, là một trong số ít địa phương tiếp

giáp với Trung Quốc, một thị trường rộng lớn và năng động, đặc biệt là từ khi

Trung Quốc gia nhập WTO. Trong những năm qua Móng Cái được xác định

là một trong những cửa ngừ giao lưu, trung chuyển hàng hoá giữa hai thị

trường Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Cú hệ thống giao thụng thuỷ bộ thuận tiện, cú cửa khẩu Quốc tế và cửa

khẩu tiểu ngạch, cú cảng biển mang tầm cỡ quốc gia và khu vực, có nhiều

cảng thuỷ nội địa phục vụ đắc lực cho hoạt động thương mại. Ngoài cơ chế ưu

đói, Thị xó đó quan tõm đầu tư xây dựng nhiều công trỡnh lớn phục vụ cho

hoạt động thương mại tại khu kinh tế cửa khẩu. Tính đến nay đó cú nhiều

doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư với giá trị đầu tư đó đạt con số

hàng ngàn tỷ đồng.

Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thị trường

nội địa được quan tâm đầu tư mạnh mẽ, có chiều sâu đó tạo một sức hỳt lớn

đối với các thương nhân trong và ngoài nước, đặc biệt là các thương nhân

Trung Quốc.

Cơ sở hạ tầng cho phát triển thương mại dịch vụ tiếp tục được đầu tư

toàn diện, đặc biệt là việc triển khai dự án xây dựng nâng cấp cảng biển Vạn

Gia, cầu cảng Dõn Tiến và chủ trương xây dựng cầu Bắc Luân 2 sẽ là động

lực mang tính chất đũn bẩy thu hỳt cỏc doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất

nhập khẩu.

Hoạt động thương mại thúc đẩy dịch vụ phát triển và ngược lại. Do

nắm bắt được quy luật phát triển của thị trường, trong những năm qua Móng

Cái đó, đang và sẽ tiếp tục được đầu tư, khuyến khích nhằm phát triển các

khu, cụm công nghiệp, dịch vụ tập trung (bốc xếp dỡ hàng hoá, kho, cảng...)

để hỗ trợ các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Nắm bắt được thời cơ và

nhu cầu thị trường Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh đó

đến Thị xó Múng Cỏi đầu tư kho ngoại quan để kinh doanh dịch vụ xuất nhập

khẩu; nhiều doanh nghiệp đó đầu tư sản xuất các dự án gia công, sơ chế các

mặt hàng để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc hoặc hàng hóa từ Trung

Quốc đi vào thị trường Việt Nam và các nước ASEAN. Năm 2006 trên địa

bàn thị xó cú 4.899 hộ kinh doanh cỏ thể; 258 doanh nghiệp và thu hỳt được

25 dự án đầu tư nước ngoài đó được cấp phép với tổng số vốn là 181,19 triệu

USD, trong đó một số liên doanh lớn như công ty liên doanh Hải Ninh-Lợi

Lai, Vĩnh Thuận, tập đoàn Vinh Cơ, Hồng Vận…

Về thị trường nội địa: Toàn Thị xó cú 15 chợ với tổng diện tớch sử dụng 39.560 m2, vốn đầu tư 207.346 triệu đồng. Trong đó chợ trung tâm

Móng Cái trên 83.000 triệu đồng. Tổng số hộ kinh doanh là 3.763 hộ, trong

đó 734 hộ là người nước ngoài (Trung Quốc). Từ khi các chợ được xây dựng

và đưa vào sử dụng đó tạo được nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa

phương. Giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.

Lĩnh vực sản xuất cụng nghiệp – tiểu thủ cụng nghiệp ngày càng phỏt

triển. Thị xó đó tiến hành quy hoạch cỏc khu cụng nghiệp tập trung như Hải

Yên, Hải Hũa, Ninh Dương. Toàn thị xó cú trờn 320 cơ sở sản xuất, chế biến,

giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động có thu nhập ổn định. Giá

trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp các năm tăng mạnh, giai đoạn

2000 – 2005 tăng bỡnh quõn 48,6%/năm.

Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng phát triển nhanh. 100% các xó,

phường có trụ sở, trạm xá, trường học kiên cố, cao tầng; đường nhựa đó tới

trung tõm cỏc xó, điện lưới quốc gia đó tới xó đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực và

xó miền nỳi Hải Sơn, Bắc Sơn, hơn 98% dân số của thị xó được sử dụng điện.

Các khu đô thị mới, hiện đại như Phượng Hoàng, Tây Ka Long, Hải Yên đang

dần được xây dựng, làm cho bộ mặt của thị xó Múng Cỏi ngày càng thay đổi.

Bưu chính viễn thông được đầu tư hiện đại, phát triển với tốc độ nhanh

và mạnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong nước và quốc tế, số máy

điện thoại đạt tỷ lệ 39 máy/100 dõn.

Hệ thống ngân hàng với sự tham gia đầy đủ của các ngân hàng lớn

trong nước đó cú nhiều đổi mới theo hướng hiện đại hóa và đa dạng các dịch

vụ. Chỉ tính riêng năm 2006, thanh toán biên mậu đạt 33.473 tỷ đồng, dịch vụ

chuyển tiền ước đạt 63.971 tỷ đồng.

Ngân sách trên địa bàn thị xó trước năm 1989 không tự cân đối được,

đến nay đó cú những đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước, nhịp độ

tăng bỡnh quõn hàng năm (giai đoạn 2000 – 2005) là 8,2%, riêng năm 2006

tổng ngân sách đạt 442,9 tỷ đồng.

Với sự phỏt triển nhanh về kinh tế - xó hội, đời sống của nhân dân

không ngừng được cải thiện. Số hộ khá, giàu tăng nhanh; số hộ nghèo, đói

giảm mạnh. Từ đống đổ nát hoang tàn sau chiến tranh biên giới, sau 20 năm

thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, nơi đây đó mọc lờn một thị xó đông

vui, sầm uất; một đô thị trẻ, hiện đại, đa chức năng, tràn đầy sức sống.

Đây là những thuận lợi lớn cho bước phát triển kinh tế - xó hội của thị

xó Múng Cỏi.

Tuy nhiên thực trạng kinh tế – xã hội của thị xã còn đứng trước nhiều

khó khăn thách thức: Phát triển của Móng Cái thời gian qua chủ yếu mới tập

trung vào khu vực trung tâm gần cửa khẩu, các vùng nông thôn, miền núi, hải

đảo phát triển còn chậm, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đời sống còn khó khăn

và còn chênh lệch lớn so với vùng trung tâm đô thị. Đầu tư cho nông nghiệp

nông thôn tương đối lớn, song chưa đồng đều. Do đó chuyển dịch cơ cấu kinh

tế trong nông nghiệp, nông thôn còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn

chiếm 14%. Đời sống nhân dân miền núi, dân tộc thiểu số còn nhiều khó

khăn, đất hoang hóa còn nhiều.

Phát triển các ngành kinh tế chưa ổn định và cân đối. Cơ cấu nội ngành

còn chậm đổi mới, cơ cấu vùng chưa rõ nét. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn còn nhiều bất cập, hiệu quả khai thác tiềm năng đất

đai và lao động chưa cao; công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa

bền vững, phần giá trị gia tăng còn thấp; Các ngành dịch vụ phát triển chưa

cân đối, còn mang yếu tố tự phát nên hiệu quả kinh tế chưa cao; chất lượng

giao thông-vận tải có những mặt hạn chế, vận chuyển hành khách chưa đáp

ứng được nhu cầu du khách trong, ngoài nước; Việc huy động và phát huy các

nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân chưa tương xứng với tiềm năng.

Kinh doanh thương mại xuất nhập khẩu chủ yếu hàng hóa từ bên ngoài vào.

Cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn yếu, thiếu cơ sở vui chơi, giải trí. Khu du

lịch Trà Cổ chưa được đầu tư thỏa đáng.

Cơ chế, chính sách Nhà nước ban hành tuy đã có tác động lớn, nhưng

chưa đạt tới độ hấp dẫn cần thiết nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, nhất là

chính sách đất đai, ưu đãi phát triển thương mại, xuất nhập khẩu. Việc phân

cấp quản lý chưa có quy định rõ rệt, phù hợp. Nhìn chung các bộ ngành Trung

ương và các sở ngành của Tỉnh Quảng Ninh chưa thực hiện toàn diện Quyết

định 675 TTg và Quyết định 53/2001/QĐ-TTg. Chính sách ưu đãi đầu tư đã

rõ ràng song thủ tục cấp phép đầu tư còn rườm rà, thời gian cấp phép còn

chậm. Một số cơ chế chính sách đã lỗi thời còn chậm được loại bỏ. Bên cạnh

đó sự phối hợp giữa một số ngành có liên quan còn có hạn chế nhất định.

Trong những năm qua, nguồn vốn được đầu tư trở lại theo Quyết định

675/TTg và 53/TTg đóng vai trò chủ lực trong việc tạo nên diện mạo của

Móng Cái ngày nay. Từ khi có Quyết định số 185/2003/QĐ-TTg ngày

10/9/2004 của Thủ tướng chính phủ về việc bãi bỏ các quy định của Thủ

tướng chính phủ về cấp lại đầu tư trở lại từ các khoản thu của ngân sách nhà

nước và thực hiện cơ chế hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương ; sau đó

Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng chính phủ

có sửa đổi chỉnh lý một số nội dung về phần cấp vốn đầu tư trở lại nhưng cơ

bản vẫn là cơ chế “xin cho”. Cho nên thị xã Móng Cái gặp nhiều khó khăn để

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn, nhiều

công trình xây dựng dở dang không được đưa vào sử dụng đúng thời hạn,

nhiều công trình trọng điểm gặp khó khăn về vốn… Đầu tư kết cấu hạ tầng

chưa đồng bộ ; đặc biệt là các công trình vốn 53/TTg chuyển tiếp, các công

trình hạ tầng dân cư và cơ sở hạ tầng các khu du lịch. Kết cấu hạ tầng tại khu

kinh tế cửa khẩu Móng Cái còn bất cập chưa đáp ứng nhu cầu phát triển: cửa

khẩu quốc tế Bắc Luân đã xuống cấp, bãi kiểm tra hàng hóa thường xuyên bị

quá tải ; do hết vốn nên tiến độ cải tạo cửa khẩu Ka Long chậm, tàu thuyền

luôn bị mắc cạn nhất là vào mùa khô.

Thu ngân sách tuy đạt giá trị lớn nhưng một số nguồn thu còn hạn chế,

còn nhiều xã - phường chưa tự cân đối ngân sách; Việc thu phí, lệ phí đạt

thấp; nguồn thu từ cấp quyền sử dụng đất còn chiếm tỷ trọng cao.

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, nhất là quản lý đất đai còn

hạn chế. Tình trạng lấn chiếm, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong

nhân dân còn xẩy ra, có vụ việc diễn biến phức tạp; việc sử dụng quỹ đất cho

đầu tư phát triển chưa mạnh; Trong đầu tư XDCB vẫn còn dàn trải; tình trạng

thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chất lượng công trình vẫn là vấn đề cần

được quan tâm; dự án đầu tư theo các chương trình chưa được triển khai đồng

bộ, chất lượng thấp, hiệu quả chưa cao.

Thực hiện chủ trương "Xã hội hóa" trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo

dục... còn thiếu những biện pháp hữu hiệu. Chất lượng hoạt động của nhà văn

hoá cộng đồng chưa cao; Việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc

tang, trong lễ hội kết quả còn thấp; Bộ máy tổ chức, quy chế, lề lối làm việc

và đội ngũ cán bộ văn hóa còn yếu. Chất lượng khám, chữa bệnh của Bệnh

viện Móng Cái, mạng lưới y tế cơ sở nhìn chung chưa ngang tầm; Chất lượng

giáo dục vẫn là đòi hỏi bức xúc của nhân dân trong đào tạo nguồn nhân lực

cho địa phương. Chỉ tiêu hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ người sinh con

thứ 3 còn cao và không vững chắc.

Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển. Giáo dục đào tạo còn ở mức thấp chưa ngang tầm với tốc

độ phát triển kinh tế, công tác cán bộ cải cách hành chính còn chậm chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nguyên nhân chính là do năng lực trình độ quản lí bộ

máy công quyền của một số cán bộ còn yếu. Số ít cán bộ, nhất là ở cơ sở ý

thức rèn luyện phẩm chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm công tác chưa tốt; vi

phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, Đoàn thể, vi phạm chính sách đã phải xử lý

kỷ luật.

Là một thị xã vừa có biên giới trên đất liền và trên biển, phát triển kinh

tế gắn với bảo vệ an ninh ninh quốc phòng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết.

Trong cuộc canh tranh phát triển, Móng Cái đang đứng trước những thách

thức trước chủ trương phát triển mạnh mẽ các khu vực kinh tế biên giới phía

Nam Trung Quốc.

Tóm lại, những thuận lợi và khó khăn nêu trên đã đặt ra những yêu cầu

khách quan cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội đối với thị xã Móng Cái,

vì vậy để Móng Cái thực sự phát triển đáp ứng những yêu cầu đặt ra đòi hỏi

cần xây dựng thị xã Móng Cái thành một khu kinh tế cửa khẩu với các quy

chế ưu đãi nhằm đưa kinh tế thị xã phát triển với tốc độ nhanh. Xây dựng

Móng Cái thành một trung tâm kinh tế phát triển, có quy mô tương đối hiện

đại, tăng cường khả năng hợp tác và cạnh tranh trong khu vực, nhất là đối với

thị xã Đông Hưng – Trung Quốc. Xây dựng, phát triển theo một cơ cấu toàn

diện, ngoài phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch là trọng tâm, chú trọng

phát triển nông nghiệp và nông thôn, hướng các ngành nông lâm ngư nghiệp

phát triển phục vụ cho phát triển thương mại và du lịch trên địa bàn. Từng

bước hạn chế sự phát triển chênh lệch giữa các khu vực trên địa bàn thị xã,

nhất là miền núi và hải đảo. Tiếp tục huy động mọi nguồn vốn để từng bước

hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sự phát triển các ngành kinh tế,

nhất là hệ thống giao thông, kho tàng, bến bãi, điện nước, các cơ sở thương

mại, du lịch, vui chơi giải trí… phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội, đặc

biệt gắn với việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng,

giữ vững chủ quyền Quốc gia, chống các tệ nạn xã hội.

Những nội dung nêu trên vừa là căn cứ lý luận và thực tiễn khách quan,

vừa là nhận thức mới, là nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân thị xã để tạo

ra sự chuyển biến nhanh chóng về mọi mặt, tìm ra được mô hình kinh tế phù

hợp. Trong hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, quá trình đó đòi

hỏi Đảng bộ và nhân dân Móng Cái phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo để

khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, có bước chuyển dịch cơ cấu kinh

tế phù hợp và có hiệu quả hơn.

Chương 2

Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển

kinh tế – xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991–2006

2.1 Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội

trong những năm 1991 – 1996

2.1.1 Những nội dung cơ bản đường lối đổi mới của Đảng trên lĩnh

vực kinh tế – xã hội .

Đại hội Đảng lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã tổng kết một bước công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc về

mọi mặt, bắt đầu từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, đổi mới công tác cán

bộ. Đổi mới tư duy kinh tế trên các quan điểm: Sử dụng các thành phần kinh

tế, vận động theo cơ chế thị trường. Đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tạo thường

xuyên phù hợp với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực

lượng sản xuất.

Đại hội nhấn mạnh: “Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng

rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ

cấu hợp lý” [4,tr.47].

Đại hội Đảng lần thứ VII diễn ra trong bối cảnh cách mạng nước ta đạt

được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội.

Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đề ra mục

tiêu nhiệm vụ 5 năm tới, thông qua cương lĩnh và chiến lược kinh tế.

Đại hội đã đánh giá cao những thành tựu đã đạt được và khẳng định:

Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.

Từ thực tiễn cách mạng với những khó khăn, thuận lợi và những bài

học kinh nghiệm, Đại hội đã đề ra những phương hướng nhiệm vụ chủ yếu

trong 5 năm 1991 – 1995.

Mục tiêu tổng quát là: Vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát

triển kinh tế – xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất

công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.

Quán triệt một cách sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII. Đảng

bộ tỉnh Quảng Ninh tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (1991). Đại hội

đã đánh giá: Qua năm năm thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị

quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, đã

thu được một số thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy một số chỉ tiêu giảm

về số lượng, nhưng chất lượng và hiệu quả tăng lên. “Từ giữa những 1988 trở

đi, các chủ trương chính sách mới bắt đầu phát huy tác dụng và sau khi thực

hiện thông báo 118 của Ban bí thư Trung ương Đảng, cho dân hai bên biên

giới qua lại thăm thân và trao đổi hàng hóa thiết yếu đã tạo thêm điều kiện

mới về phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh”[15,tr.12]. “Bộ mặt kinh tế – xã hội

của tỉnh đã có bước chuyển biến, nhất là từ năm 1989 đến nay. Tỉnh đã sớm

chuyển sang cơ chế giá kinh doanh, giao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế

cơ sở. Đã ưu tiên từng bước đầu tư các cơ sở hạ tầng, giải quyết kết quả

những khó khăn gay gắt về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nhà ở,

phương tiện đi lại cho nhân dân trong tỉnh”[15,128].

Xuất phát từ tình hình đặc điểm của tỉnh, Đại hội đã đề ra những nhiệm

vụ biện pháp lớn trong 5 năm 1991 – 1995:

Mục tiêu chung: “Tiếp tục công cuộc đổi mới một cách sâu sắc, toàn

diện; từng bước ổn định tình hình kinh tế – xã hội; tạo thêm nhiều việc làm

cho người lao động; cân đối được thu chi ngân sách; ổn định và đảm bảo nhu

cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh, học tập và sinh hoạt văn hóa của

nhân dân các dân tộc trong tỉnh; ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tiền đề phát triển cho

những năm sau” [15,tr.131].

Đại hội nhất trí cao với cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm trước

mắt được xác định là: “Công nghiệp – nông nghiệp – Thương mại – Dịch vụ

và Du lịch. Các ngành kinh tế trên có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau,

tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển” [15,tr.132].

“Phát triển nông nghiệp toàn diện, đưa nông nghiệp từng bước chuyển

sang sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp với công

nghiệp chế biến, gắn trồng trọt với chăn nuôi” [15, tr.133].

“Sắp xếp lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh ở tỉnh và các huyện,

thị xã cho phù hợp. Xây dựng Hồng Gai, Hải Ninh thành 2 trung tâm thương

mại và du lịch của tỉnh” [15,tr.135]

Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh

của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ xung cho nhau

cùng phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Trong nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã tiến hành Hội nghị giữa nhiệm

kỳ vào tháng 6-1993. Hội nghị đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại

hội VII và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ sau Đại hội VI, nhằm làm

sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước

ta. Xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục tiến

lên.

Hội nghị đã nêu lên 3 thành tựu nổi bật: Thành tựu có ý nghĩa hàng đầu

là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế

– xã hội. Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị. Quan hệ đối

ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí của nước ta trên thế giới được nâng lên

tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hội nghị đánh giá tổng quát: “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải

khắc phục, những thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền

đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới

một bước công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.” [10,tr.47].

Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh tiến hành vào

tháng 03 năm 1994. Hội nghị đã đánh giá tình hình thực hiện các nhiệm vụ,

chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII và khẳng định:

Kết quả có ý nghĩa hàng đầu là đã khắc phục được một bước quan trọng tình

trạng kinh tế – xã hội chậm phát triển, từng bước tăng nguồn lực tài chính và

cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh. Ba năm 1991 – 1994: “Kinh tế – xã

hội của tỉnh có bước tăng trưởng đáng kể, đã đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu

Đại hội IX Đảng bộ tỉnh đề ra; giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP) bình quân

hàng năm tăng 10%”[16,tr.8].

“Trong hoàn cảnh nhiều khó khăn, tỉnh đã ưu tiên đầu tư xây dựng hạ

tầng, tập trung cho giao thông, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc, phúc lợi công

cộng, từng bước hình thành hai Trung tâm thương mại Hồng Gai, Hải Ninh”

[16,tr.8].

“Cùng với phát triển kinh tế việc thực hiện các chính sách xã hội được

quan tâm hơn. Nhờ sản xuất – kinh doanh phát triển, hàng hóa phong phú, đa

dạng, giá cả tương đối ổn định, đời sống nhân dân ở vùng đô thị, vùng kinh tế

cửa khẩu và một số vùng nông thông được cải thiện…” [16, tr.12].

Bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại: Nền kinh tế của tỉnh phát triển

chưa đều, và chưa vững chắc, còn nhiều mặt mất cân đối. Công nghiệp địa

phương và tiểu – thủ công nghiệp manh mún và non yếu, chưa có sự chuyển

biến đáng kể về công nghệ, kỹ thuật; Kinh tế nông nghiệp và nông thôn đổi

mới chưa được bao nhiêu, nhiều tiềm năng thế mạnh về đất đai, đồi rừng, mặt

nước, nguồn lao động chưa được đầu tư khai thác hợp lý; Kinh tế cảng biển,

du lịch, dịch vụ, thương mại đang là lợi thế lớn của tỉnh, nhưng cơ sở hạ tầng

yếu kém; Văn hóa – xã hội tuy đã đạt được một số kết quả nhưng còn nhiều

vấn đề bức xúc chưa được giải quyết.

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những tồn tại về phát triển

kinh tế – xã hội từ những năm 1991 đến năm 1993, Nghị quyết Hội nghị đề ra

những nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII:

“Nêu cao ý thức tự lực tự cường, động viên mọi tiềm năng và nguồn

lực sẵn có, tiếp tục tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, ưu tiên

đầu tư hai trung tâm thương mại Hồng Gai – Hải Ninh và mở rộng dần việc

xây dựng ra các địa phương khác trong tỉnh.

Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài

nước, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.

Củng cố, hoàn thiện và phát triển các thành phần kinh tế thúc đẩy quá

trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa; phát triển

công nghiệp chế biến, giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế Trung ương và

địa phương; giữa các ngành kinh tế trên địa bàn.

Thực hiện tốt công tác xã hội, văn hóa, từng bước giải quyết những vấn

đề bức xúc như việc làm, công bằng xã hội, nâng cao sức khỏe, trình độ dân

trí và đời sống nhân dân; thực hiện xóa đói giảm nghèo” [16,tr.31].

Những nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế – xã hội mà Đại hội lần

thứ VII của Đảng, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng và Đại hội

Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng bộ tỉnh

Quảng Ninh khóa IX đề ra là cơ sở lý luận và những mục tiêu cụ thể để Đảng

bộ thị xã Móng Cái thực hiện và vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với

hoàn cảnh của địa phương.

2.1.2 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đưa nền kinh tế huyện

phát triển.

Với tinh thần quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ ngày

17 đến 19-9-1991 Đảng bộ thị xã tiến hành Đại hội lần thứ XVIII (nhiệm kỳ

1991 – 1995). Căn cứ vào những thuận lợi và khó khăn của thị xã, Đại hội

XVIII đã đề ra phương hướng, mục tiêu tổng quát đến năm 1995 là:

“Động viên toàn đảng, toàn dân quán triệt và tiếp rục thực hiện thắng

lợi công cuộc đổi mới của đảng, phát huy những kết quả đã đạt được, khắc

phục khó khăn trở ngại với tinh thần tích cực, chủ động nhất để khai thác có

hiệu quả những tiểm năng về nông nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ

theo cơ cấu kinh tế của huyện là nông nghiệp-thương mại-dịch vụ, để thực

hiện mục tiêu ổn định và từng bước phát triển kinh tế –xã hội, củng cố quốc

phòng giữ vững an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng Hải Ninh

ngày càng giầu mạnh.”

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng,

Đại hội Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX và Đại hội Đảng Bộ huyện Hải

Ninh lần thứ XVIII; Đảng Bộ, quân và dân huyện Hải Ninh đã phát huy

truyền thống cách mạng, ý trí tự lực tự cường, đoàn kết khắc phục khó khăn,

nỗ lực phấn đấu đạt được những kết quả to lớn trên các lĩnh vực kinh tế – xã

hội.

Trước hết, nhận thức rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp và

xây dựng nông thôn mới ở một huyện có trên 70% số dân sống ở nông thôn

và ở một địa bàn có sự phát triển nhanh về thương mại, Đảng bộ Huyện đã có

nhiều chủ trương biện pháp nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông

nghiệp hàng hoá. Hàng năm ngân sách huyện đầu tư bình quân 1 tỷ đồng/

năm cho xây dựng các công trình thuỷ lợi và khuyến nông như hội trợ đưa

giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Huy động các

nguồn vốn vay cho nông dân (Bình quân khu vực nông nghiệp là 500 ngàn

đồng/hộ). Cùng với việc thúc đẩy quá trình đổi mới cơ chế quản lý các hợp

tác xã nông nghiệp… Do đó sản xuất nông nghiệp mặc dù còn gặp nhiều khó

khăn nhưng cũng đạt một số kết quả. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm duy

trì ở mức 5.500ha (trong đó cây lúa 3.300 ha). Tổng sản lượng quy thóc hàng

năm đạt bình quân 12.000 tấn. Nhiều hộ gia đình trồng cây công nghiệp ngắn

ngày: cây ăn quả, rau hoa bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế. Chăn nuôi gia

súc, gia cầm có tiến bộ; đàn lợn, trâu, bò năm 1994 tăng 9% so với năm 1990.

Về lâm nghiệp, đẩy mạnh trồng cây phân tán gắn với giao đất, giao

rừng, đã trồng mới 250 ha rừng, tập trung ở khu vực Du lịch Trà Cổ – Bình

Ngọc, hơn một triệu cây phân tán. Trên 800 hộ đã nhận giao đất, giao rừng về

trồng và chăm sóc.

Về ngư nghiệp, chuyển hướng sang nghề cá nhân dân, phong trào nuôi

trồng thuỷ sản đã đạt một số kết quả .

Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp có tiến bộ, đời sống của đại bộ phận

nhân dân ổn định, có mặt được cải thiện; số hộ kinh tế khá và giầu ngày một

tăng, hộ nghèo giảm (qua khảo sát điểm ở 6 xã, năm 1995 số hộ giầu và khá

là 27,63%, tăng 6,17% so với năm 1993; số hộ nghèo đói là 23,6% giảm

10,04% so với năm 1993). Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh giỏi

trong cả trồng trọt và chăn nuôi .

Đối với các ngành Công nghiệp – Xây dựng cơ bản – Giao thông vận

tải và bưu điện: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhiều thành phần phát

triển, các doanh nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, sản xuất, quản lý và

phân phối điện được duy trì và thực hiện tương đối tốt trong khu vực trung

tâm và một số vùng dân cư. Được sự quan tâm của nhà nước, đường điện

110kv đưa điện lưới quốc gia ra Móng Cái đã hoàn thành tháng 10 năm 1994;

Có khoảng 4.500 hộ, bằng 45% số hộ dân trong toàn huyện dùng điện lưới

quốc gia, sản lượng điện năm 1995 gấp 5 lần so với những năm cao nhất

trước đây. Đã có phương án quy hoạch, thiết kế kỹ thuật, đưa điện đến các xã.

Toàn huyện có hơn 100 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp như gạch xây

dựng (7,5triệu viên/năm), gia công đồ mộc, sửa chữa cơ khí… thu hút hàng

ngàn lao động, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển, xây dựng trên địa bàn .

Xây dựng cơ bản là lĩnh vực đạt nhiều kết quả, tạo cơ sở vật chất kỹ

thuật cần thiết để phát triển kinh tế –xã hội. Đã tranh thủ mọi nguồn vốn

Trung ương, Tỉnh, các ngành và địa phương, trong nhân dân, vốn tài trợ và

đầu tư... để đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng, bộ mặt thị trấn và nông

thôn của huyện đã có sự biến đổi tích cực, từng bước hình thành một trung

tâm thương mại – du lịch lớn, một đô thị sầm uất, hàng nghìn nhà cao tầng

bao gồm: Trụ sở làm việc, bưu điện, bệnh viện, trường học, khách sạn, nhà

dân… đã được xây dựng, với khoảng 150.000 m2 sử dụng. Ước tính tổng vốn

đầu tư từ các nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ cho sự phát triển

kinh tế – xã hội của huyện trong năm năm qua đạt gần 400 tỷ đồng. Trong đó

vốn của Trung ương và tỉnh đầu tư vào công trình như điện, đường, cầu cống,

hồ chứa nước, cửa khẩu, biên giới và một số công trình khác trước hết vì sự

ổn định và phát triển của Hải Ninh chiếm gần 50%, đã chứng tỏ sự quan tâm

của Đảng và nhà nước với Hải Ninh.

Giao thông vận tải cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế –xã hội.

Đã làm mới 64 km đường nhựa và đường bê tông nội huyện. Đường ô tô từ

huyện đi các xã, đường liên xã, liên thôn đã được nâng cấp, các phương tiện

giao thông vận tải phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu vận tải trên địa bàn và

tăng gấp 3 lần so vớ năm 1990. Cảng Vạn Gia hoạt động bước đầu có hiệu

quả. Mỗi năm thu thuế xuất nhập khẩu hàng chục tỷ đồng, đã đón tàu 8000

tấn vào cảng an toàn và đang được nhà nước xem xét đầu tư để trở thành cảng

biển quốc gia .

Hệ thống thông tin liên lạc được xây dựng hiện đại và không ngừng mở

rộng, đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài, đảm bảo thông

tin liên lạc thông suốt gữa huyện với trong nước và quốc tế; góp phần thúc

đẩy kinh tế –xã hội phát triển. Đạt bình quân có 2,2 máy/100 dân.

Đảng bộ huyện đã chỉ đạo đầu tư cơ sở vật chất và khuyến khích

thương mại du lịch, dịch vụ nhiều thành phần phát triển, hoạt động giao lưu

buôn bán qua cửa khẩu phát triển nhanh mạnh hơn, dần đi vào chính ngạch.

Tổng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu qua địa bàn bình quân mỗi năm hàng

nghìn tỷ đồng. Thu thuế xuất nhập khẩu mỗi năm một tăng. Khu thương mại

được mở rộng, đến đầu năm 1996 đã có trên 2000 doanh nghiệp và hộ tư nhân

trong nước và nước ngoài có cơ sở kinh doanh, buôn bán tại Hải Ninh, trong

đó có một số doanh nghiệp lớn .

Nhiều khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế được củng cố,

xây mới bao gồm 460 phòng nghỉ với 830 giường (chỉ tiêu đề ra tại Đại hội

khoá XVIII là 300 giường). Số lượng khách du lịch đến Hải Ninh trong 4 năm

1991 đến 1995 là 250 ngàn lượt người (chỉ tính các khách nghỉ tại các khách

sạn).

Các hoạt động như dịch vụ như vận tải, bốc vác, bán hàng, kinh doanh

ăn uống, nghỉ trọ, ngân hàng… phát triển nhanh thu hút gần 3000 lao động .

Thương mại – Dịch vụ – Du lịch đã từng bước trở thành ngành kinh tế

mũi nhọn của huyện, chiếm tỷ trọng gần 70% trong GDP.

Trong công tác Tài chính – Ngân hàng: Đảng bộ huyện đã chủ trương

tập trung quản lý và khai thác nguồn thu trên địa bàn. Công tác quản lý thu,

chi ngân sách đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi, tổng thu ngân sách tăng

bình quân mỗi năm 47%. Vượt chỉ tiêu đại hội XVIII đề ra (20%). Tổng thu

ngân sách trên địa bàn huyện được 450 tỷ đồng; Không những đảm bảo cân

đối được ngân sách huyện mà đã đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung

ương và tỉnh.

Chi ngân sách đảm bảo kế hoạch, nguyên tắc, bảo đảm nhu cầu chi cần

thiết của địa phương, góp phần ổn định phát triển kinh tế –xã hội. Trong đó

chi cho xây dựng cơ bản chiếm 70% so với tổng chi, trong đó huyện ủy đã chỉ

đạo đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xây dựng nông thôn mới. Nhiều xã đã quản lý

tốt các nguồn thu, tạo nguồn thu mới để tự cân đối và đầu tư cơ sở hạ tầng.

Cuối năm 1995 các xã, thị trấn cơ bản tự cân đối được thu, chi thường xuyên;

Trong đó một số xã, thị trấn có nguồn thu ổn định. Hệ thống Ngân hàng hoàn

chỉnh; đã làm tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh

doanh, tiền tệ; khai thác và sử dụng có hiệu các nguồn vốn tín dụng, mở rộng

các dịch vụ mở rộng các dịch vụ chuyển đổi tiền tệ phục vụ kinh doanh…

góp phần vào chương trình xoá đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế – xã hội

của huyện.

Nhờ những chuyển biến về mặt kinh tế xã hội mà trên lĩnh vực văn hoá

-xã hội cũng có sự khởi sắc rõ rệt:

Sự nghiệp giáo dục từng bước ổn định và đạt tiến bộ đáng kể theo

hướng nâng cao chất lượng và xã hội hoá. Chuyển biến rõ nét là về phát triển

số lượng là ở tất cảc các ngành học và việc duy trì sĩ số, tỉ lệ học sinh phổ

thông so với số dân chiếm 22,96%, ở mức phát triển cao như các tỉnh đồng

bằng. Giai đoạn 1991 – 1995 số học sinh bỏ học chỉ dừng lại từ 3-5%. Phổ

cập giáo dục tiểu học từng bước được thực hiện.

Hoạt động văn hoá -văn nghệ, thông tin, tuyên truyền bước đầu có

nhiều cố gắng bám sát các nhiệm vụ chính trị của địa phương, tham gia một

số lần hội thi của tỉnh đạt kết quả. Phong trào thể dục thể thể thao có chiều

hướng phát triển tốt. Đài truyền thanh – truyền hình từng bước năng cao chất

lượng, mở rộng diện phủ sóng, tiếp sóng đài truyền hình trung ương và và đưa

tin của tỉnh, của huyện, góp phần vào việc tuyên truyền đương lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước, nâng cao nhận thức cho nhân dân… đáp ứng một phần

nhu cầu hưởng thụ văn hoá và đời sống tinh thần trong nhân dân.

Ngành y tế thực hiện có hiệu có kết quả công tác bảo vệ và chăm sóc

sức khoẻ cho nhân dân và chương trình y tế quốc gia; củng cố mảng lưới y tế

từ huyện đến cơ sở, kịp thời ngăn chặn không để dịch bệnh lớn xảy ra, bệnh

viện mới đã được đưa vào sử dụng, đội ngũ thầy thuốc được tăng cường đáp

ứng ngày một tốt hơn về nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân .

Công tác Dân số- Kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ. Giảm tỷ lệ phát

triển dân số từ 2,8% (năm 1991) xuống còn 2,04% (năm 1995), tỷ lệ sinh con

thứ 3 trở lên giảm, năm 1990 là 47,7%, năm 1995 còn 23,90% (giảm 23,8%).

Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em bước đầu có kết quả, các đối tượng

trẻ em đặc biệt khó khăn thường xuyên được trợ cấp, thăm hỏi. Một số cơ

quan đã tự nguyện đỡ đầu, chăm sóc trẻ em mồ côi, tàn tật.

Cùng với việc phát triển kinh tế, việc quyết các vấn đề xã hội và thực

hiện chính sách xã hội được quan tâm đầy đủ hơn nên có bước phát triển mới.

Do sản xuất, kinh doanh phát triển, có việc làm nên đời sống của số đông

nhân dân ổn định, có mặt được cải thiện. Một bộ phận dân cư có cuộc sống

vật chất và tinh thần khá lên rõ rệt. Các hoạt động “Uống nước nhớ nguồn”;

“Đền ơn đáp nghĩa” chăm lo đến đời sống của các gia đình liệt sỹ, thương

binh, gia đình có công với cách mạng… được đông đảo các cấp, các ngành

và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đã

giải quyết đất ở cho phần lớn nhân dân của thị trấn Móng Cái từng bước tạo

điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống, phát triển kinh tế.

Về tồn tại: Nền kinh tế của huyện phát triển chưa đều và chưa thật

vững chắc, còn có mặt mất cân đối.

Nông nghiệp hàng hoá chậm phát triển, nhiều tiềm năng thế mạnh về

đất đai, mặt nước, lao động chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả. Bộ mặt

nông thôn đổi mới chưa nhiều. Hoạt động của nhiều Ban quản lý các Hợp tác

xã còn lúng túng, chưa phù hợp với cơ chế mới, việc bảo vệ môi sinh, môi

trường chưa tốt.

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa theo quy hoạch,

chưa tương xứng với khả năng của địa phương.

Trong xây dựng cơ bản công tác quản lý quy hoạch đất đai, chất lượng

một số công trình, thanh quyết toán còn tồn tại, thiếu sót. Tỷ lệ đầu tư cho xây

dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và cho các công trình văn hoá, phúc lợi xã hội

còn thấp.

Thương mại – du lịch - dịch vụ chưa được tập trung chỉ đạo và giải

quyết những khó khăn để khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương.

Du lịch quốc doanh hoạt động còn lúng túng và kém hiệu quả, môi trường du

lịch chưa hấp dẫn.

Công tác quản lý tài chính- tiền tệ còn có mặt chưa tốt, buôn lậu, trốn

thuế vẫn tái diễn dưới nhiều hình thức, việc huy động nguồn vốn từ ngân hàng

và trong xã hội để đầu tư vào sản xuất còn rất hạn chế.

Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội còn có những vấn đề bức xúc chưa được

giải quyết, một số gia đình thuộc đối tượng chính sách còn khó khăn. Nhân

dân ở vùng xa, vùng cao, hải đảo phần lớn còn nghèo, chưa có cơ chế chính

sách hỗ trợ có hiệu quả. Chất lượng khám chữa bệnh và mạng lưới y tế cơ sở

còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Tỷ lệ phát triển dân số ở một số khu vực còn

ở mức cao. Một số hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có

hiệu quả.

Nhìn chung, những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế – xã hội

trong giai đoạn 1991 – 1996 của Đảng bộ và nhân dân thị xã Móng Cái là to

lớn, đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế thị xã. Đảm bảo nhịp độ

tăng trưởng kinh tế (bình quân 12%/ năm) đạt phần lớn các mục tiêu Đại hội

XVIII đề ra, giữ vững sự ổn định chính trị, tạo ra sự chuyển biến đáng kể về

văn hoá-xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

Đã xây dựng được những tiền đề vật chất cần thiết để từng bước hình

hành một trung tâm thương mại lớn, mở ra một thời kỳ mới có ý nghĩa rất

quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển của địa phương, tạo điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển mạnh hơn ở những năm sau.

2.2 Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 – 2006)

2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ thị xã Móng Cái cụ thể hóa đường lối

của Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Ninh thời kỳ 1996 - 2006.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng đã tổng kết

chặng đường 10 năm đổi mới và đề ra phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu

phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000. Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế

giới và trong nước, căn cứ vào cương lĩnh của Đảng, Đại hội quyết định cần

tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo

vệ Tổ quốc. Đại hội xác định nước ta đang chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở

thành một nước công nghiệp.

Từ mục tiêu chung, Đại hội thông qua định hướng phát triển các lĩnh

vực chủ yếu, phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội

năm năm 1996 – 2000 với 11 chương trình và lĩnh vực phát triển kinh tế – xã

hội lớn.

Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới

– thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam

độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã

hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và hợp tác với

nhân dân các nước trên thế giới.

Quán triệt một cách sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII.

Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X (5-

1996), Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh và

nhận định: Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và Nghị

quyết Đại hội IX của Đảng bộ tỉnh, đã thu được một số thành tựu bước đầu

quan trọng, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự hỗ trợ

của các bộ, ban ngành Trung ương, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh đã

vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tranh thủ thời cơ thuận lợi, mở rộng giao

lưu kinh tế, tạo nên sự chuyển biến quan trọng của tỉnh trên các lĩnh vực. Bộ

mặt các thị xã, thị trấn và một số vùng trong tỉnh, nhất là thành phố Hạ Long

và thị trấn Móng Cái thay đổi rõ rệt.

Tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa đều và chưa vững chắc.

Nhiều tiềm năng chưa được khai thác tốt. Còn mất cân đối lớn giữa nhu cầu

phát triển với nguồn lực tài chính địa phương có hạn. Cơ sở hạ tầng yếu kém

làm hạn chế lớn việc thu hút đầu tư nước ngoài. Quản lý Nhà nước trên các

lĩnh vực kinh tế – xã hội còn nhiều thiếu sót, sơ hở…

Xuất phát từ tình hình đặc điểm của tỉnh, Đại hội xác định một số vấn

đề cơ bản về mục tiêu tổng quát của 5 năm 1996 – 2001:

“Phát huy những thành tích đạt được, tiếp tục khai thác mọi tiềm năng

thế mạnh của địa phương, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện theo định

hướng XHCN. Tranh thủ thời cơ, mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài

nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và tăng

cường nguồn lực kinh tế, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã

hội, đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất, phát triển các thành phần kinh tế,

củng cố thành phần kinh tế quốc doanh, tăng cường công tác quản lý của các

cấp chính quyền về kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh ninh quốc phòng, giữ

vững ổn định chính trị, từng bước nâng cao đời sống nhân dân và tạo điều

kiện cho bước phát triển sau năm 2000” [17,tr.82].

Đại hội nhất trí với những mục tiêu chủ yếu, trong đó: Nhịp độ tăng

trưởng GDP: 12-13% (khi có điều kiện đưa lên nhịp độ cao hơn).

Đại hội khẳng định: “mục tiêu chiến lược lâu dài theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh ta là phấn đấu đưa Quảng Ninh trở thành một

tỉnh công nghiệp và du lịch hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo nhiều việc

làm cho người lao động, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Trong 5 năm

tới, phát triển toàn diện các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại,

dịch vụ, du lịch, nhưng lấy ngành công nghiệp và du lịch làm trọng

tâm“[17,tr.83]

Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận

hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức không thể xem

thường. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới,

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được triệu tập.

Về đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội

nêu rõ:

Về đường lối kinh tế của Đảng là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước

công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan

hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội

lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để

phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát

triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp

phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh.

Quán triệt sâu sắc đường lối của Đại hội IX của Đảng, Đại hội đại biểu

lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh được tiến hành vào thời điểm lịch sử

có ý nghĩa quan trọng: Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của

Đảng đã trải qua 15 năm, mặc dù có nhiều khó khăn thử thách, nhưng đã thu

được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, tạo đà phát triển cho giai đoạn

tiếp theo.

Xuất phát từ tình hình, đặc điểm của tỉnh, Đại hội khẳng định mục tiêu

chiến lược phát triển lâu dài theo hướng CNH, HĐH là: “Phấn đấu đưa Quảng

Ninh thực sự trở thành một địa bàn động lực và phát triển năng động gắn kết

các địa phương khác trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ và cả nước”

[18,tr.103-104].

Đại hội cũng đã đặt ra chỉ tiêu trong năm năm 2001 – 2005: “Tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 12-13%”[18,tr.34] và “GDP bình quân

tính theo đầu người năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 2000” [18,tr.34] .

Đảng bộ xác định: Trong những năm tới phải phát triển toàn diện các

ngành và lĩnh vực, xây dựng kinh tế của tỉnh theo cơ cấu: Công nghiệp, du

lịch, dịch vụ và nông nghiệp; đảm bảo tính hợp lý trên cơ sở tiềm năng, lợi

thế, tạo sự phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội…Tăng cường

và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, thu hút vốn và công nghệ cao để phát

triển, nhất là những ngành, lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh.

Về định hướng và giải pháp phát triển ngành, lĩnh vực cụ thể, Đảng bộ

xác định: “Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng các trung tâm thương mại Hạ Long,

Móng Cái, các cửa khẩu biên giới và những nơi có lợi thế về thương mại”

[18,tr.38]. “Tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ

phát triển du lịch, đưa ngành du lịch dần trở thành ngành kinh tế trọng điểm

có tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.…phát triển du lịch sinh thái ở

Đông Triều, Uông Bí, Vân Đồn, Móng Cái và những nơi có điều kiện. Phấn

đấu đến năm 2005 có đủ khả năng đáp ứng đón 3 triệu lượt khách du lịch,

trong đó có 1 triệu lượt khách lưu trú” [18,tr.38]. Khai thác có hiệu quả hệ

thống cảng biển, bến thủy nội địa. “Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các

lĩnh vực chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, các ngành sử dụng công nghệ cao,

phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội…vào khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái. Tạo

mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã được cấp phép triển khai hoạt động”

[18,tr.43].

“Tỉnh có chính sách và biện pháp phát triển kinh tế ở các vùng, tạo điều

kiện cho các vùng trọng điểm tăng trưởng nhanh, giữ vững vai trò đầu tàu lôi

cuốn các vùng khác, đồng thời hỗ trợ tích cực các vùng khó khăn. Thành phố

Hạ Long, thị xã Móng Cái và một số đô thị khác, phát huy vai trò trung tâm

hành chính, kinh tế, thương mại, du lịch, văn hóa của từng vùng và địa

phương. Tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo quy hoạch đã được phê

duyệt, đưa công tác quản lý đô thị vào nền nếp. Phát triển các khu công

nghiệp và đô thị mới nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước” [18,tr.50].

Trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng,

từ ngày 3 đến ngày 5-2-1996, Đảng bộ huyện Hải Ninh tổ chức Đại hội đại

biểu lần thứ XIX. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương, Đại hội đề

ra mục tiêu cho 5 năm tới là: Tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới

toàn diện ,sâu sắc, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu

nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng thế mạnh trên địa bàn để đẩy

mạnh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị, bảo vệ an

ninh biên giới lãnh thổ, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng Hải

Ninh trở thành một trong những trung tâm kinh tế lớn của tỉnh, phấn đấu thực

hiện các mục thiêu chủ yếu sau: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân

13-15%/năm; Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 6- 8 %; Sản lượng lương

thực quy thóc 13.000-14.000 tấn/năm; Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn

tăng bình quân hàng năm 20%; Hạ tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm

0,06%”.

Đại hội xác định cơ cấu kinh tế của Hải Ninh giai đoạn tiếp theo là

Nông nghiệp – Thương Mại – Du lịch, Dịch vụ – Công nghiệp.

Đại hội Đảng bộ thị xã Móng Cái lần thứ XX tiến hành họp vào thời

điểm khá thuận lợi, nền kinh tế đất nước nói chung và nền kinh tế thị xã nói

riêng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sự vận dụng linh hoạt của những

chính sách phát triển kinh tế của Đảng bộ đã góp phần vượt và đạt được

những mục tiêu kinh tế – xã hội của nhiệm kỳ XIX.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu, khuyết điểm nhiệm kỳ XIX, Đại hội đề

ra mục tiêu tổng quát đến năm 2005 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc; khai thác mọi

tiềm năng thế mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế hợp lý, phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, đưa Móng Cái trở thành một khu kinh tế cửa khẩu phát triển năng

động và hiệu quả với kinh tế thương mại – du lịch – dịch vụ là mũi nhọn, kinh

tế nông nghiệp phát triển ổn định, kinh tế công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

từng bước phát triển theo hướng chế xuất, đi đôi với từng bước giải quyết tốt

các vấn đề xã hội, phát triển văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống nhân

dân; giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng, bảo vệ

biên giới lãnh thổ; thực hiện tốt công tác đối ngoại, góp phần tích cực xây

dựng vùng biên giới hòa bình, hữu nghị, tạo môi trường xã hội lành mạnh, ổn

định, bền vững; tăng cường công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng

Đảng và hệ thống chính trị trong sạch – vững mạnh, nâng cao hiệu quả quản

lý Nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, phát huy dân chủ,

giữ vững kỷ cương; xây dựng thị xã Móng Cái ngày càng giàu đẹp, văn minh,

hiện đại, xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế lớn của tỉnh Quảng

Ninh.

Các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm 2001 – 2006 là: nhịp độ tăng trưởng

GDP hàng năm đạt trên 12%, tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ trong

GDP đạt 75% trở lên, nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm trên

5%, công nghiệp tăng 20%, thu chi ngân sách tăng 10%, giảm tỷ lệ tăng dân

số tự nhiên hàng năm 0,06%, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 5%.

Đại hội đề ra nhiệm vụ và các giải pháp: tập trung phát triển thương

mại, du lịch, dịch vụ, kinh tế đối ngoại; phát triển nông nghiệp theo hướng

sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp;

tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; quản lý tốt các nguồn thu ngân

sách trên địa bàn; thực hiện tốt các vấn đề xã hội; quan tâm đầu tư phát triển

các địa bàn vùng cao biên giới và hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; kết

hợp phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh; đổi mới hoạt động và nâng

cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu của Đảng.

Các giải pháp cơ bản được Đại hội đề ra là:

Xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp, khai thác tốt các nguồn lực: Trong

những năm tới, cơ cấu kinh tế của Thị xã được xác định là: Thương mại-du

lịch- dịch vụ-nông nghiệp-công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Tập trung phát triển các lĩnh vực có tiềm năng và thế mạnh của địa

phương: Thương mại-du lịch- dịch vụ hiện là ngành kinh tế mũi nhọn của Thị

xã cần phải tiếp tục giữ vững sự ổn định và phát triển, phấn đấu hàng năm

tăng tỷ trọng giá trị từ Thương mại - du lịch - dịch vụ trong tổng thu nhập

GDP của Thị xã.

Làm tốt công tác quản lý Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để các

Công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động có hiệu quả

cả về mặt kinh tế và xã hội, thúc đẩy các công ty liên doanh đang xây dựng

sớm vào hoạt động. Tiếp tục giới thiệu, tuyên truyền và thực hiện tốt cơ chế

chính sách ưu đãi được Nhà nước cho phép, chuẩn bị tốt các dự án gọi đầu tư,

tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào Móng Cái.

Tăng cường hợp tác hữu nghị với thị xã Đông Hưng, thành phố cảng

Phòng Thành và các địa phương khác của Trung Quốc vì sự phát triển của Thị

xã Móng Cái và các địa phương bạn.

Khai thác phát huy hiệu quả kinh tế nông nghiệp (bao gồm cả Nông-

Lâm-Ngư nghiệp) phát triển nông nghiệp hàng hóa. Nhịp độ tăng giá trị sản

xuất hàng năm 5%: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10 của BCH Đảng bộ

thị xã khóa XIX về phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, đẩy mạnh phát triển

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.

Tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp như

hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện….theo phương châm Nhà nước và

nhân dân cùng làm. Chính quyền các cấp xây dựng quy chế cụ thể để huy

động tốt nguồn lực hàng năm.

Trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp để xây dựng

quan hệ sản xuất phù hợp, có các mô hình tổ chức sản xuất hợp lý. Trong đó

chú trọng củng cố phát huy các Hợp tác xã.

Từng bước phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, giao thông

và bưu điện: Khuyến khích phát triển, mở rộng các cơ sở sản xuất các ngành

nghề hiện có như: vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, sửa chữa gia công cơ

khí, nhôm kính, sản xuất đồ mộc, kim hoàn, đồ lưu niệm du lịch….phát triển

một số ngành nghề sản xuất như: đóng mới, sửa chữa tàu, thuyền, chế biến

nông sản, dệt thảm xuất khẩu, gia công hàng phục vụ du lịch….để thu hút

được nhiều lao động trên địa bàn. Mở rộng và khai thác có hiệu quả hệ thống

điện lưới.

Từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực sản xuất công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp, chế biến lắp ráp hàng xuất, nhập khẩu theo quy hoạch đã

được duyệt trong khu kinh tế cửa khẩu, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân

vào đầu tư phát triển sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.

Tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại hóa mạng lưới Bưu chính viễn

thông, đảm bảo thông tin liên lạc thuận lợi trong nước và Quốc tế, đáp ứng

nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Đẩy mạnh việc xây dựng điểm Bưu điện

văn hóa xã tăng cường công tác phát hành báo chí.

Tăng cường khai thác và phát triển các nguồn thu ngân sách trên địa

bàn, quản lý sử dụng nguồn tài chính có hiệu quả: Thực hiện nghiêm luật

ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu, du lịch-dịch vụ, hoạt động công-

thương nghiệp trong và ngoài quốc doanh, nông-lâm- ngư nghiệp…Chú trọng

phát triển thêm nguồn thu mới. Phấn đấu hàng năm thu ngân sách vượt chỉ

tiêu kế hoạch Tỉnh giao, tăng hơn cùng kỳ từ 8-10%. Đến năm 2005 có trên

60% số xã-phường tự cân đối được ngân sách. Thực hiện các biện pháp điều

tiết ngân sách hợp lý nhằm khuyến khích mở rộng nguồn thu.

Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường công tác

quản lý và phát triển đô thị: Trong 5 năm tới, cơ bản xây dựng hoàn thiện các

công trình cấp thiết về Thương mại- du lịch, giao thông, thủy lợi, điện, cấp và

thoát nước, hệ thống trường học, trạm xá, trụ sở các phường, xã nơi chưa

được đầu tư và một số công trình văn hóa công cộng.

Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ: Giữ vững và phát

triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo vì mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài Thị xã Móng Cái. Giữ vững thành quả phổ cập giáo

dục tiểu học và xóa mù chữ tiến tới phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi

trên phạm vi toàn Thị xã. Phấn đấu đến năm 2005 thị xã hoàn thành phổ cập

giáo dục THCS.

Tích cực giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân:

Thực hiện tốt chế độ chính sách đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia

đình có công với cách mạng, gia đình bà mẹ Việt Nam anh hùng và người có

công. Đẩy mạnh phong trào xây dựng quỹ và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,

từ thiện nhân đạo, giúp đỡ các đối tượng chính sách để các gia đình thuộc

diện chính sách ổn định đời sống với mức trung bình ở khu dân cư, giảm hộ

nghèo, không còn hộ đói. Ưu tiên bố trí sắp xếp việc làm cho các gia đình

thương binh, liệt sĩ.

Đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa: Đẩy mạnh phong trào “ Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, bao gồm các phong trào hiện có

như “người tốt, việc tốt”, “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói

giảm nghèo”. “xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa”, “toàn dân đoàn kết

xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”… Phấn đấu mỗi năm có 80% số hộ

gia đình trong Thị xã đăng ký phấn đấu trở thành gia đình văn hóa, đến năm

2005 mỗi xã, phường có ít nhất 01 thôn, 01 khu phố được công nhận là “làng

văn hóa”.

Ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội: Tăng cường công tác phòng chống

tệ nạn xã hội, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả cộng đồng, của

mỗi gia đình, mỗi cơ quan, đơn vị xã, phường nhằm chặn đứng và giảm dần

các tệ nạn xã hội (nhất là tệ nạn ma túy).

2.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện và kết quả.

2.2.2.1 Giai đoạn 1996 - 2001

Căn cứ vào những nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ lần thứ XIX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XX. Đảng bộ thị

xã Móng Cái đã lãnh đạo nhân dân địa phương vượt qua những khó khăn thử

thách, tranh thủ sự ủng hộ và tạo điều kiện của Trung ương và của Tỉnh từng

bước tạo ra những bước đột phá lớn trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Phát huy ưu thế có đường biên giới dài chung với nước bạn Trung

Quốc, ngày 8-1-1996 Văn phòng Chính phủ có Công văn Số 135 về xây dựng

và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái. Sau đó, ngày 18-9-1996, Thủ

tướng Chính phủ ra Quyết định số 675/TTg về việc áp dụng thí điểm một số

chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái, bao gồm thị trấn Móng Cái và các

xã Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc, Trà Cổ, Ninh Dương, Vạn Ninh, Hải Yến,

Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực thuộc tỉnh Quảng Ninh. Theo

Quyết định 675:

- Các nhà đầu tư trong và ngoài nước được khuyến khích đầu tư phát

triển các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực

Cửa khẩu Móng Cái phù hợp với Luật khuyến khích đầu tư trong nước và

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngoài quyền được hưởng các ưu đói

theo quy chế hiện hành, cũn được hưởng:

+ Chủ đầu tư được giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với khung

giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại khu vực Cửa khẩu Móng Cái.

+ Trong thời hạn 4 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế

lợi tức, chủ đầu tư chỉ phải nộp thuế lợi tức ở mức thấp nhất trong khung thuế

theo luật định.

+ Các chủ đầu tư không phân biệt trong hay ngoài nước, nếu đầu tư vào

các lĩnh vực ngành, nghề ưu tiên theo quy hoạch phát triển kinh tế - xó hội

của khu vực Cửa khẩu Móng Cái được miễn giảm thuế lợi tức theo quy định

hiện hành.

+ Chủ đầu tư nước ngoài nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với

thuế xuất ở mức thấp nhất trong khung thuế theo luật định.

- Khu vực Cửa khẩu Móng Cái được huy động nguồn vốn trong và

ngoài nước bằng các hỡnh thức thớch hợp để xây dựng các cơ sở hạ tầng cần

thiết và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp với quy hoạch phỏt

triển kinh tế - xó hội, bảo đảm quốc phũng và an ninh.

- Để thúc đẩy quá trỡnh xõy dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực Cửa khẩu

Móng Cái, được thành lập công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng là

doanh nghiệp Nhà nước. Trong 5 năm (từ 1996 -2000) mỗi năm Nhà nước

đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh cho khu vực Cửa khẩu Móng Cái không dưới

50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn khu vực Cửa khẩu Móng

Cái.

- Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cư trú ở các huyện

biên giới đối diện với khu vực Cửa khẩu Móng Cái được qua lại khu vực Cửa

khẩu Móng Cái bằng giấy chứng minh thư hoặc giấy thông hành xuất nhập

cảnh vùng biên giới do cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc cấp. Thời hạn

được phép tạm trú tại khu vực Cửa khẩu Móng Cái không quá 07 ngày ; Công

dân Trung Quốc cư trú ở ngoài khu vực nêu trên được qua lại khu vực Cửa

khẩu Móng Cái bằng hộ chiếu phổ thông do cơ quan có thẩm quyền của

Trung Quốc cấp, được miễn thị thực nhập xuất cảnh của Việt Nam. Thời hạn

được phép tạm trú tại khu vực cửa khẩu Móng Cái không quá 15 ngày; Người

nước ngoài khác được qua lại khu vực Cửa khẩu Móng Cái bằng hộ chiếu,

được miễn thị thực nhập xuất cảnh Việt Nam; thời hạn tạm trú tại khu vực

Cửa khẩu Móng Cái không quá 15 ngày.

- Thuyền viên Trung Quốc của các tàu, thuyền Trung Quốc được vào

khu vực Cửa khẩu Móng Cái để giao, nhận hàng hoá theo hợp đồng bằng sổ

thuyền viên do cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc cấp. Thuyền viên

nước ngoài khác vào khu vực Cửa khẩu Móng Cái theo quy đinh hiện hành

của Việt Nam về nhập xuất cảnh.

Đối với Quảng Ninh nói chung, Móng Cái nói riêng, Quyết định 675 là

một Quyết định có ý nghĩa quan trọng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự

phát triển và cũng là thí điểm một mô hình kinh tế, sẽ được tổng kết, rút kinh

nghiệm để áp dụng với các khu vực cửa khẩu biên giới khác trong cả nước.

Nhằm đảm bảo thực hiện tốt những vấn đề được Thủ tướng Chính phủ

cho phép trong Quyết định 675, ngày 16-11-1996, ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ninh ban hành kế hoạch số 3043 về việc thực hiện Quyết định 675 của

Thủ tướng Chính phủ. Theo đó:

* Về thương mại: Tỉnh sẽ tập trung đầu tư để nhanh chóng hình thành

một trung tâm thương mại lớn thứ hai sau trung tâm thương mại Hạ Long

phục vụ cho buôn bán trong nước và quá trình, tạo thành một đầu mối xuất

nhập khẩu không chỉ riêng cho Quảng Ninh mà cho cả các tỉnh trong cả nước.

Ngoài xuất nhập khẩu hàng hóa khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động tạm

nhập tái xuất và các dịch vụ vận chuyển hàng hóa quá cảnh. Tạo điều kiện

thuận lợi thu hút các doanh nghiệp của tỉnh cũng như của các tỉnh khác thực

hiện các hình thức kinh doanh trên.

* Về du lịch: Tập trung cải tạo, nâng cấp các nhà nghỉ, khách sạn ở Trà

Cổ. Khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài đầu

tư xây dựng mới các khách sạn nhà nghỉ ở Trà Cổ và Móng Cái. Bên cạnh đó

có quy hoạch xây dựng làng du lịch tổ chức nhiều hoạt động dịch vụ phục vụ

cho khách du lịch. Biến Trà Cổ thành trung tâm du lịch hấp dẫn lớn thứ hai

của tỉnh sau Hạ Long, với hệ thống khách sạn, nhà nghỉ và các công trình vui

chơi giải trí. Móng Cái sẽ là đầu mối quan trọng để thu hút khách du lịch

trong và ngoài nước, đặc biệt là khách Trung Quốc và các nước khác đến

Móng Cái qua đường Trung Quốc. Mở rộng các tuyến du lịch từ Móng Cái

đến các điểm du lịch trong nước và ngoài nước nhất là trung tâm du lịch Hạ

Long. Tăng cường quản lý các hoạt động lữ hành tại khu vực Móng Cái.

* Về đẩy mạnh các hoạt động đầu tư: Trên cơ sở luật pháp và các chính

sách ưu đãi về giá cho thuê mặt đất, mặt nước về thời hạn và mức miễn giảm

thuế lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo Quyết định 675, tỉnh

Quảng Ninh sẽ tích cực thúc đẩy việc việc thu hút các đối tác đầu tư trong và

ngoài nước nhằm đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển các cơ sở phục vụ

cho khách du lịch, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ sở công nghiệp gia

công chế biến phục vụ xuất khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng.

Mở rộng hoạt động đầu tư trên cơ sở khuyến khích, ưu đãi các nhà đầu

tư trong nước, xem đó là đối tác chính trong giai đoạn đầu và thực hiện đa

phương hóa các nhà đầu tư nước ngoài tại khu vực cửa khẩu Móng Cái.

* Về kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế cửa

khẩu Móng Cái:

- Tại cửa khẩu quốc tế Bắc Luân, đầu năm 1997 sẽ triển khai xây dựng

công trình cửa khẩu với thiết kế bảo đảm tính hiện đại, tương xứng là một cửa

khẩu quốc tế quan trọng của đất nước ở phía Bắc.

- Tại km15 và một số khu vực như cảng Dân Tiến, Mũi Ngọc… cũng

sẽ đầu tư xây dựng hệ thống kiểm soát liên ngành với một số công trình chức

năng có quy mô thỏa đáng phục vụ thuận tiện cho công tác quản lý và kiểm

soát hoạt động xuất khẩu nhập cảnh và thương mại trước mắt cũng như lâu

dài ;

- Xây dựng và hoàn thiện các các tuyến giao thông trong khu vực. Đặc

biệt chú trọng giải quyết khâu thoát nước và vệ sinh đô thị ;

- Xây dựng bến xe trung tâm Móng Cái hiện đại ;

- Phối hợp với Bộ giao thông giải quyết cơ bản một số công trình cầu

cống thay cho các đập tràn hiện nay và tiếp tục cải tạo, nâng cấp đường 18A

từ thành phố Hạ Long đến Móng Cái, mở rộng đường từ Móng Cái đi Trà Cổ,

Mũi Ngọc ;

- Xây dựng hệ thống cụm cảng Vạn Gia – Mũi Ngọc ;

- Tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới điện hạ thế. Đưa điện ra đảo Vĩnh

Trung, Vĩnh Thực và đưa điện đến một số xã trong khu vực ;

- Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt cho khu vực, đặc biệt là giải

quyết nhu cầu nước cho trung tâm Móng Cái, đảm bảo 8.000m3/ngày/đêm ;

- Xây dựng các công trình văn hóa xã hội và phúc lợi công cộng trong

đó đặc biệt chú ý việc hoàn thiện và nâng cấp bệnh vện phục vụ cho nhân dân

và khách nước ngoài, xây dựng một khu trung tâm vui chơi giải trí và hệ

thống vườn hoa, công viên dọc sông Ka Long. Nâng cấp trung tâm phát thanh

truyền hình ;

- Hoàn thiện việc xây dựng khu trung tâm hành chính ;

Thực hiện nhiệm vụ 5 năm (1996 – 2000), Móng Cái có những thuận

lợi căn bản. Đó là, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã đạt được

những thành tựu to lớn và đang chuyển sang giai đoạn mới “Thời kỳ đẩy tới

một bước công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước”, là kết quả và kinh nghiệm

của những năm qua cùng với sự quan tâm ưu đãi của Trung ương, của tỉnh thể

hiện tại Quyết định số 675/TTg (1996) của Thủ tướng Chính phủ về việc thí

điểm thực hiện một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái. Với chủ

trương đúng đắn và bước đi thích hợp, sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và

nhân dân Móng Cái nhịp độ tăng trưởng hàng năm tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) đạt 17,6%. GDP bình quân đầu người năm 2000 là: 524,4USD.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, Huyện ủy

xác định sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng trong tổng thể nền

kinh tế của huyện. Để khuyến khích nông dân đầu tư phát triển sản xuất và

thực hiện chủ trương chính sách cơ cấu cây trồng vật nuôi có năng suất cao,

ngày 20-5-1996, Huyện ủy ra Nghị quyết 01/NQ-HU về công tác khuyến

nông năm 1996 – 1997, yêu cầu các nguồn quỹ (quỹ khuyến nông, vốn cấp

cho các dự án, mô hình, vốn vay ưu đãi…) hỗ trợ trung tâm khuyến nông

huyện, hộ nông dân chuyển giao tiến bộ khoa học, đưa giống cây trồng, vật

nuôi có hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất. Thực hiện Nghị quyết, Huyện ủy,

ủy ban nhân dân tăng cường công tác chỉ đạo.

Trong quá trình lãnh đạo sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn

mới, Huyện ủy nhận thức sâu sắc: muốn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo

hướng sản xuất hàng hóa thì ngoài việc đổi mới cơ chế, chính sách phải

không ngừng củng cố quan hệ sản xuất với nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới

hợp tác xã nông nghiệp. Từ nhận thức đó, ngày 8-11-1996, Huyện ủy ra Nghị

quyết số 03 về chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Hợp tác xã tổ

chức thực hiện dịch vụ ở những khâu chủ yếu: Dịch vụ thủy lợi, thủy nông,

giống cây trồng và giống vật nuôi, vật tư phân bón, bảo vệ thực vật và phòng

bệnh gia súc, gia cầm. Tất cả các khâu dịch vụ trên đều phải dựa trên cơ sở

hợp đồng giữa Ban quản trị hợp tác xã với hộ gia đình xã viên, ngoài ra

những nơi có điều kiện, hợp tác xã có thể tổ chức các dịch vụ như: chế biến,

tiêu thụ sản phẩm, tín chấp vay vốn cho hộ nghèo, tín dụng, dịch vụ nuôi

trồng thủy sản, trồng cây lâu năm, vật liệu xây dựng, tiểu thủ công nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết số 03, ủy ban nhân dân huyện kịp thời triển khai theo

đúng luật. Sau 1 năm thực hiện, có 6 hợp tác xã chuyển đổi và hoạt động theo

cơ chế mới. Tuy nhiên ở những hợp tác xã này Ban quản lý hoạt động còn

nhiều lúng túng.

Việc kịp thời đổi mới hợp tác xã nông nghiệp, đổi mới cơ chế chính

sách trong nông nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc

đẩy kinh tế nông nghiệp của Hải Ninh trong hai năm 1996-1997. Năm 1997

so với năm 1996: tổng diện tích gieo trồng đạt 5.586,4 ha (tăng 154,4 ha);

tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 13.353 tấn (tăng 691 tấn); đàn lợn:

14.265 con (tăng 393 con); đàn trâu: 4.959 con (tăng 305 con); đàn bò: 1.810

(tăng 104 con). Trong hai năm 1996-1997 trồng mới 343 ha rừng tập trung;

nhiều công trình thủy lợi được cải tạo và xây dựng mới, trong đó công trình

hồ đập Tràng Vinh do Bộ Thủy lợi thiết kế và thi công được thực hiện với

tổng dự toán ban đầu được duyệt là 198 tỷ đồng.

Với ý thức trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, cùng với sự quan tâm

tạo điều kiện của các cấp, các ngành, các địa phương và có sự chỉ Tỉnh ủy, ủy

ban nhân dân Tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hải Ninh đã tập trung

thực hiện tốt Quyết định 675 của Chính phủ, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo đổi

mới cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là hàng đầu chuyển sang lấy Thương mại –

Du lịch làm mũi nhọn phát triển kinh tế địa phương. Đó là mũi đột phá, tiền

đề quan trọng để huyện Hải Ninh được Chính phủ nâng cấp thành thị xã sau

này.

Sau hơn 1 năm thực hiện Quyết định 675 của Thủ tướng Chính phủ,

mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực

châu á, song hoạt động thương mại – du lịch – dịch vụ của Móng Cái đạt

được những kết quả đáng khích lệ.

Khu vực cửa khẩu Móng Cái đã trở thành một thị trường lớn, sầm uất

nhất các tỉnh biên giới phía Bắc về tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan. Năm

1997, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 150 triệu USD, kim ngạch hàng tạm tái

xuất kho ngoại quan đạt 250 triệu USD. Thu thuế xuất nhập khẩu đạt 98 tỷ

đồng bằng 53% tổng thu ngân sách toàn huyện.

Năm 1997, trên địa bàn huyện có đại diện của 46 doanh nghiệp đang

hoạt động. Để thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển, Đảng bộ huyện chỉ

đạo tổ chức Hội chợ thương mại Quốc tế Móng Cái lần thứ nhất, Hải Ninh

tiếp xúc các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, qua đó có gần 200 nhà doanh

nghiệp trong và ngoài nước đến tìm hiểu cơ hội hợp tác, ký kết hợp đồng mua

bán tại cửa khẩu Móng Cái.

Với những ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, so với năm 1996, khách du lịch

Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam qua cửa khẩu Móng Cái tăng 250%;

khách du lịch Việt Nam xuất cảnh sang Trung Quốc tăng 40%.

Với chủ trương khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh ở

các lĩnh vực như: Điện, xây dựng, vật liệu xây dựng, cơ khí, vận tải… đáp

ứng nhu cầu trên địa bàn, năm 1997, huyện đã huy động được 174,76 tỷ đồng

cho xây dựng cơ bản trên địa bàn (tăng 32 tỷ so với 1996), trong đó vốn do

các ngành quản lý là: 46,29 tỷ đồng; vốn 675 (thị xã quản lý) là 54,37 tỷ

đồng; vốn ngân sách thị xã là 14,62 tỷ đồng; vốn đầu tư nước ngoài là 0,6 tỷ

đồng; vốn các tổ chức và nhân dân xây dựng, đầu tư của ngành bưu điện từ

1996 – 2000 là 58,88 tỷ đồng. Đảng bộ huyện chỉ đạo các ban ngành, cơ sở

thực hiện tốt kế hoạch xây dựng từ các nguồn vốn trên. Hệ thống giao thông

trên địa bàn tiếp tục được đầu tư nâng cấp sửa chữa và làm mới. Ngành Bưu

điện được đầu tư hiện đại đáp ứng yêu cầu phục vụ chính trị và phát triển kinh

tế. Năm 1997, bình quân 4,7 máy điện thoại/100 dân.

Song song với chỉ đạo phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, Đảng

bộ Hải Ninh hết sức quan tâm đến công tác văn hóa-xã hội. Ban thường vụ

Huyện ủy xây dựng Chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa

VIII) về giáo dục-đào tạo, Nghị quyết về phát triển văn hóa, thể thao…

Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển. Đời sống tinh thần của nhân dân

ngày một nâng cao. Năm 1997, Hải Ninh được công nhận phổ cập tiểu học

13/14 xã và hoàn thành chương trình thanh toán bệnh phong.

Sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, gần mười

năm “Mở cửa” biên giới, nhất là hai năm thực hiện Quyết định 675 của Thủ

tướng Chính phủ “Về áp dụng thí điểm một số chính sách cho khu kinh tế cửa

khẩu Móng Cái” đã tạo điều kiện cho địa phương phát huy tính chủ động, linh

hoạt và sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, làm cho bộ mặt kinh tế – xã hội

huyện Hải Ninh có những thay đổi sâu sắc. Từ một huyện miền núi, biên giới,

xa trung tâm tỉnh, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế – xã hội chậm phát triển,

nền kinh tế thuần nông, tự cung, tự cấp, thu ngân sách không đủ chi, đời sống

nhân dân còn nhiều khó khăn (số hộ nghèo đói trên 60%) Hải Ninh trở thành

huyện có kinh tế – xã hội phát triển với cơ cấu kinh tế tổng hợp, trong đó kinh

tế thương mại – du lịch – dịch vụ phát triển mạnh, tạo nguồn thu lớn cho đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng với tốc độ nhanh. Văn hóa – xã hội có bước chuyển

biến toàn diện, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc phòng –

an ninh được giữ vững, chính trị – xã hội ổn định.

Để đưa Hải Ninh trở thành trung tâm kinh tế thương mại – du lịch –

dịch vụ, vùng kinh tế động lực của tỉnh Quảng Ninh và phía Bắc, ngày 20-7-

1998 Chính phủ ban hành Nghị định 52/1998/NĐ-CP “Về thành lập thị xã

Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh (trên cơ sở diện tích, dân số huyện Hải

Ninh) và thành lập các phường, xã thuộc thị xã”.

Đảng bộ thị xã Móng Cái có 58 tổ chức cơ sở Đảng, với 1.400 đảng

viên.

Thị xã Móng Cái được thành lập đáp ứng nguyện vọng của cán bộ,

đảng viên và nhân dân thị xã, tạo không khí hồ hởi, phấn khởi để Đảng bộ và

nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của địa phương;

tạo điều kiện cho công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền được sâu sát,

hiệu quả. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết, cần cù sáng tạo

trong lao động sản xuất, nhanh chóng thích ứng và bước đầu có kinh nghiệm

trong công cuộc đổi mới.

Những thành tựu của đất nước, của Quảng Ninh và của Móng Cái sau

hơn 10 năm đổi mới là động lực để nhân dân các dân tộc Móng Cái vững tin

bước tiếp trên con đường đổi mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII của Đảng (6-1996) về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là

những định hướng và tiền đề để Đảng bộ thị xã Móng Cái vận dụng đề ra chủ

trương biện pháp phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã.

Trên lĩnh vực kinh tế, Thị ủy xác định thương mại – du lịch – dịch vụ là

ngành kinh tế mũi nhọn, để phát huy tiềm lực của các ngành kinh tế, khai thác

tốt thế mạnh của địa phương. Năm 1998, mặc dù tác động của cuộc khủng

hoảng tài chính – kinh tế ở Đông Nam á và Chính phủ có một số thay đổi

trong chính sách xuất, nhập khẩu, nhưng với sự lãnh đạo, điều hành năng

động của cấp ủy, chính quyền hoạt động kinh doanh trên địa bàn vẫn duy trì

ổn định. Tổng giá trị hàng hóa xuất, nhập khẩu đạt 201 triệu USD.

Bước sang năm 1999, do có sự thay đổi cơ chế, chính sách tại khu vực

cửa khẩu biên giới làm cho hoạt động thương mại giảm nhiều so với những

năm trước, nhất là từ đầu năm dến trung tuần tháng tám. Tổng kim ngạch xuất

nhập khẩu giảm 33,10% so với năm 1998. Trước tình hình đó, Thị ủy chủ

động, tích cực đề nghị với Tỉnh và Chính phủ có những giải pháp tháo gỡ khó

khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Móng Cái. Ngày 7-8-1999 thực hiện

sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ ra Thông báo số

160-TB/VPCP cho phép Trạm kiểm soát liên hợp tại km 15 – bến tàu Dân

Tiến được thu thuế nhập khẩu bổ xung. Sau Thông báo 160, thị trường Móng

Cái có chuyển biến rõ rệt, nhịp độ lưu thông hàng hóa những tháng cuối năm

diễn ra sôi động hơn. Năm 2000, năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện lần thứ XIX, ngành thương mại có bước phát triển vượt bậc,

tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 352 triệu USD, tăng hơn 4 lần so với năm

1999.

Xác định là một trong 4 vùng du lịch trọng điểm của Quảng Ninh,

ngành du lịch tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng phục vụ

khách. Công tác quản lý, tổ chức, sắp xếp các tour du lịch trên địa bàn hợp lý.

Đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành du lịch được chuyên nghiệp hóa một bước.

Năm 2000, lượng khách du lịch đến Móng Cái tăng gấp 5 lần năm 1997.

Cùng với lãnh đạo phát triển thương mại – du lịch – dịch vụ, Thị ủy tập

trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Các xã,

phường và hộ nông dân tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh, tăng

năng suất, đưa các giống lúa có năng suất cao vào sản xuất, nhất là giống lúa

lai Trung Quốc; đồng thời sử dụng các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu

để chăm sóc, bảo vệ cây trồng. Từng bước chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, mở

rộng sản xuất vụ đông. Thị xã đầu tư 6 tỷ đồng cho kiên cố hóa kênh mương,

thị ủy bổ đê điều, hồ đập… Nhờ vậy, năm 1998, dù thời tiết diễn biến phức

tạp, vụ chiêm rét muộn dẫn đến mạ già, lúa ống, nhưng diện tích gieo trồng cả

năm đạt 5.475 ha, bằng 97,5% kế hoạch. Năng suất lúa đạt 30,2 tạ/ha, tăng 0,7

tạ/ha so với năm 1998. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đàn lợn tăng 1.230 con,

đàn trâu tăng 750 con, đàn bò tăng 330 con so với năm 1997.

Năm 1999, thời tiết vẫn diễn biến phức tạp, hạn nặng và kéo dài ở vụ

chiêm, vụ mùa vừa sâu bệnh, vừa mưa to gây ngập úng giữa lúc đang thu

hoạch, năng suất lúa đạt 26,7 tạ/ha, giảm 3,5 tạ/ha so với năm 1998. Thiệt hại

do thời tiết gây ra làm giảm khoảng 1.700 tấn thóc (vụ chiêm 600 tấn, vụ mùa

1.100 tấn), là năm có mức thiệt hại lớn nhất trong 10 năm trở lại đây. Sản

lượng lương thực đạt thấp, dẫn đến đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn.

Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thị xã,

ngày 6-7-2000, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã ra Nghị quyết số 10 “Về một

số chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội nông thôn trong

thời gian tới”. Thị ủy nhấn mạnh: Phải đặt sự phát triển nông thôn và kinh tế

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp

hóa,hiện đại hóa, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng của Đảng bộ. Đồng

thời, nêu rõ một số chủ trương, biện pháp đẩy mạnh kinh tế nông nghiệp –

nông thôn theo hướng chuyển dịch cơ cấu, tăng cường đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng: điện - đường – trường – trạm; gắn với kế thừa và phát huy truyền

thống văn hóa dân tộc.

Thực hiện Nghị quyết 10 của Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, ủy ban

nhân dân chỉ đạo các ngành các địa phương xây dựng đề án, tổ chức thực

hiện. Kết thúc năm 2000, tổng diện tích gieo trồng đạt 5.645 ha, tăng 7,4%.

Tổng sản lượng lương thực đạt 9.762 tấn, tăng 543 tấn so với năm 1999. Chăn

nuôi tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng.

Nuôi trồng thủy sản được coi trọng là một trong những hướng chuyển

dịch cơ cấu trong nông nghiệp và mang lại hiệu quả kinh tế. Năm 1998, ngư

trường khai thác hải sản từng bước được mở rộng, hình thành tổ hợp tác đánh

bắt xa bờ. Phong trào nuôi hải sản (tôm xú) được quan tâm đầu tư , nhiều hộ

nuôi có kết quả. Toàn thị xã có 1080 ha diện tích bãi triều, mặt nước đưa vào

nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm phát triển, năm 2000 diện tích nuôi tôm đạt 890

ha, chiếm 80% diện tích nuôi trồng thủy sản.

Sản xuất lâm nghiệp được các địa phương đẩy mạnh, thực hiện chính

sách giao đất, giao rừng cho hộ xã viên; thực hiện phủ xanh đất trống, đồi núi

trọc bằng các chương trình PAM, 327, 120. Năm 1998, trồng mới 170 ha rừng

phòng hộ hồ Trà Vinh, chăm sóc 290 ha rừng khép tán và rừng cảnh quan môi

sinh. Giao mới 332 ha rừng cho hộ gia đình quản lý. Phong trào trồng cây ăn

quả phát triển, bước đầu hình thành mô hình kinh tế đồi rừng, trang trại ở một

số địa phương. Năm 1999, thị xã khoanh nuôi rừng tái sinh 1000 ha. Tiếp tục

giao đất rừng cho hai xã Hải Sơn và Hải Tiến đạt 200 ha. Tuy nhiên, trong

năm toàn thị xã đã để xảy ra cháy 123,5 ha rừng, trong đó có 33,5 ha rừng

trồng.

Nhờ chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cùng với

phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi đã thúc đẩy kinh tế hộ

gia đình nông dân phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Mô hình kinh tế VAC, kinh

tế trang trại được mở rộng. Nhiều hộ nông dân làm ăn giỏi trở thành giàu có.

Số hộ nông dân đạt danh hiệu “Hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi” ngày

một tăng.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được được Thị ủy tập trung

chỉ đạo. Thực hiện Nghị định 44/CP và 103/CP của Chính phủ và sự chỉ đạo

của tỉnh, thị xã tiến hành cổ phần hóa và chuyển hình thức sở hữu một số

doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, cổ phần hóa hoạt

động có hiệu quả hơn trước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp tục phát

triển và từng bước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các hợp tác xã cơ bản

chuyển đổi xong theo Luật Hợp tác xã, trong đó một số hợp tác xã đăng ký

kinh doanh và làm tốt công tác dịch vụ sản xuất, bước đầu phát huy tác dụng

hỗ trợ kinh tế hộ gia đình.

Năm 2000, tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt

32.243 triệu đồng, tăng 9 lần so với năm 1995. Tuy vậy, công nghiệp của thị

xã quy mô còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động và hiệu quả kinh

tế thấp. Các thành phần kinh tế và khu vực kinh tế chưa tạo thế hỗ trợ lẫn

nhau.

Nhằm xây dựng thị xã Móng Cái đến năm 2000 trở thành một đô thị

hiện đại, văn minh, Ban Thường vụ Thị ủy dành nhiều thời gian thảo luận,

cho ý kiến quy hoạch tổng thể khu vực trung tâm thị xã và các xã, phường.

Huy động nhiều nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung phát

triển nhanh khu trung tâm thương mại – cửa khẩu, khu du lịch, khu trung tâm

các xã. Từ năm 1996 – 2000, tổng các nguồn vốn xây dựng cơ bản đạt 578,62

tỷ. Giao thông – vận tải phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và

đời sống; năm 2000, đường nhựa đến trung tâm 14/16 xã, phường, đạt 87,5%.

Các trục đường chính ở khu trung tâm thị xã và khu du lịch được xây dựng

kiên cố hóa.

Mạng lưới thông tin liên lạc không ngừng được mở rộng theo hướng

hiện đại và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Năm 2000, thị xã có 9.313 máy

điện thoại, bình quân 13,9 máy/100 dân, tăng 6,18 lần năm 1995. Thông tin

liên lạc đã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và giữ vững an ninh –

quốc phòng trên địa bàn.

Công tác kế hoạch, tài chính, ngân hàng có bước phát triển. Tổng thu

ngân sách hàng năm đều đạt kế hoạch, nhịp độ tăng bình quân 6,9%. Năm

1998, năm đầu tiên thực hiện Luật Ngân sách và Pháp lệnh thực hành tiết

kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, Thị ủy lãnh đạo các ngành làm ngân sách

khai thác tốt nguồn thu, đảm bảo chi đúng nguyên tắc, tiết kiệm, đáp ứng kịp

thời cho phát triển kinh tế – xã hội. Thu ngân sách có nhiều tiến bộ, thu đúng,

thu đủ, tận dụng các nguồn thu, năm 2000 đạt 248,93 tỷ đồng, tăng 80,3% so

với năm 1999.

Hoạt động hệ thống tín dụng – ngân hàng đảm bảo an toàn, làm tốt

chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh tiền tệ, khai

thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng, góp phần thúc đẩy các

lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển. Năm 2000, tổng số dư tiền gửi tiết

kiệm và các loại kỳ phiếu, trái phiếu đạt 147,7 tỷ đồng. Chi nhánh Ngân hàng

phục vụ người nghèo bước đầu hoạt động có hiệu quả, góp phần thực hiện

mục tiêu giảm tỷ lệ hộ đói, nghèo của thị xã. Kho bạc nhà nước Móng Cái

thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về thu, chi; quản lý quỹ ngân sách,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Cùng với việc tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,

lĩnh vực văn hóa – xã hội được các cấp ủy quan tâm lãnh đạo.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các Nghị quyết của

Tỉnh ủy về giáo dục - đào tạo, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo được triển khai

đồng bộ đến các cấp, các ngành và các địa phương trên địa bàn thị xã. Số

lượng học sinh các cấp học, ngành học hàng năm đều tăng. Năm học 1999 –

2000, toàn thị xã có 30 trường học với 16.671 học sinh; tỷ lệ học sinh đi học

so với dân số đạt 24,9%. Hệ thống giáo dục mầm non phát triển với nhiều loại

hình trường lớp, thu hút 50,1%, số cháu trong độ tuổi mẫu giáo (trong đó số

cháu 5 tuổi đạt 92%). Chất lượng giáo dục có tiến bộ cả về đạo đức và văn

hóa. Đội ngũ giáo viên đều đạt chuẩn. Cơ sở vật chất, trường, lớp, trang thiết

bị phục vụ cho dạy và học không ngừng được quan tâm xây mới, bổ xung,

nâng cấp bằng nhiều nguồn vốn. Đến cuối năm 2000 có 12/16 xã phường có

trường học cao tầng, đạt 75%.

Thực hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân

được các cấp, ngành và các địa phương coi trọng. Mạng lưới y tế cơ sở không

ngừng củng cố và tăng cường. Trung tâm y tế thị xã và các cơ sở khám chữa

bệnh đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, mua sắm thêm các trang thiết bị hiện đại,

thiết yếu. Các chương trình y tế quốc gia triển khai đồng bộ và đạt hiệu quả.

Tỷ lệ trẻ em tiêm đủ sáu liều vắc xin đạt trên 90%, chất lượng khám chữa

bệnh từng bước nâng lên. Công tác bảo vệ-chăm sóc trẻ em có nhiều cố gắng.

Phong trào toàn dân chăm sóc-giáo dục thiếu niên nhi đồng phát triển mạnh.

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được trợ cấp, nhận đỡ đầu, chăm sóc

tăng nhanh từ 30% năm 1995 lên 70% năm 2000. tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ

em giảm từ 37% xuống còn 20%.

Thực hiện các chính sách xã hội có bước tiến bộ, Thị xã đã tập trung

đầu tư mở rộng, tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển

các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm nhiều việc là cho người

lao động ở thị xã, đến nay số người trong độ tuổi lao động ở thị xã cơ bản có

đủ việc làm, số lao động không có việc làm hoặc việc làm không ổn định chỉ

còn khoảng 2,1%.

Công tác xóa đói, giảm nghèo là một chương trình lớn được quan tâm

thực hiện trong nhiều năm qua. Các biện pháp xóa đói, giảm nghèo như: tạo

thêm việc làm từ phát triển sản xuất kinh doanh trên mõi lĩnh vực, tăng cường

thu hút các nguồn vốn tín dụng cho vay xóa đói giảm ghèo, tăng cường đầu tư

cơ sở hạ tầng ở nông thôn, thực hiện các chương trình khuyến nông, hướng

dẫn kỹ thuật nông nghiệp. Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước và

huy động cộng đồng hỗ trợ các đối tượng nghèo, đói có hiệu quả. Nhờ vậy số

hộ nghèo đói hàng năm giảm nhanh từ 21,12% năm 1995 xuống còn 9,97%

năm 2000 (đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIX).

Đời sống vật chất, tinh thần các đối tượng thuộc diện chính sách, các

gia đình có công với cách mạng ngày một khá hơn. hiện nay trong số các gia

đình được hưởng chính sách chỉ còn 12 hộ nghèo. Quỹ đền ơn đáp nghĩa đã

được thành lập, hoạt động kết quả bước đầu.

Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX, nhất là từ

khi tái lập thị xã, tuy còn những khó khăn, song được sự lãnh đạo trực tiếp

của Tỉnh ủy Quảng Ninh cùng với giúp đỡ Trung ương, sự nỗ lực phấn đấu

của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị xã, tình hình kinh tế – xã hội Móng

Cái đạt được kết quả quan trọng và toàn diện: tổng sản phẩm nội thị (GDP)

tăng 17,6%/năm, tăng gần gấp đôi so với bình quân chung của tỉnh. Cơ cấu

kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại – du lịch – dịch vụ

(64,7%), nông nghiệp (14,1%), công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (19,4%).

Nghị quyết Đại hội XIX đề ra cho 5 năm 1996-2000 đã được hoàn thành về

cơ bản, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu, duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế-xã

hội ở mức cao. Văn hóa-xã hội có tiến bộ đáng kể, đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, giữ vững sự ổn định chính trị,

củng cố quốc phòng và an ninh, đạt nhiều thắng lợi trong công tác xây dựng

Đảng, chính quyền, đoàn thể.

Trong đó đạt được những thành tựu nổi bật để lại dấu ấn sâu sắc trong

nhiệm kỳ 5 năm 1996-2000.

Thương mại-du lịch-dịch vụ phát triển mạnh, tạo nguồn thu chủ yếu và

nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, khẳng định vị trí mũi nhọn kinh

tế hiệu quả chủ trương ưu tiên đầu tư phát triển trong cơ cấu kinh tế của Thị

xã.

Thực hiện Quyết định 675/TTg ngày 18/9/1996 của Thủ tướng chính

phủ về việc áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng

Cái đạt kết quả tốt trên nhiều mặt và được Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp

tục thực hiện trong thời gian tới.

Xây dựng cơ sở hạ tầng với khối lượng công trình và số tiền đầu tư đặc

biệt lớn. Trong đó bao gồm các công trình đầu mối quan trọng, các công trình

thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân như: khu cửa

khẩu Quốc tế-thương mại, hồ chứa nước Tràng Vinh và hệ thống thủy lợi, hệ

thống điện lưới tới hầu hết các điểm dân cư, hệ thống giao thông (bao gồm cả

việc đóng góp lớn với tỉnh để hoàn thành việc xây dựng hàng chục cây cầu

hiện đại trên tuyến đường Cửa Ông - Móng Cái, chấm dứt tình trạng ách tắc

do mưa lũ gây ra), các trường học cao tầng, bệnh viên, công sở, khu trung tâm

văn hóa….

Đã làm thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, nông thôn, tạo ra sự chuyển

biến về chất đối với cuộc sống của nhân dân các dân tộc trong thị xã, hình

thành về cơ bản một trung tâm kinh tế lớn của Tỉnh, một đô thị sầm uất mà

mốc son là việc Chính phủ cho phép thành lập Thị xã Móng Cái (ngày

20/7/1998), mở ra một thời kỳ phát triển mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch

sử xây dựng và phát triển của địa phương, thời kỳ cùng cả nước đẩy mạnh

công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực

hiện vẫn còn những khuyết nhược điểm: chưa khai thác tốt tiềm năng và thế

mạnh về thương mại – du lịch – dịch vụ trên địa bàn, chậm quy hoạch phát

triển tổng thể khu vực du lịch, đầu tư vào trung tâm thương mại. Nông nghiệp

phát triển chậm, giá trị thu từ nông nghiệp còn thấp, trong khi tiềm năng về

cây ăn quả, thực phẩm rau quả, nuôi trồng thủy sản chưa được khai thác, phát

huy. Công tác quản lý, bảo vệ rừng chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả

giữa các cấp, các ngành. Tình trạng phá rừng vẫn còn xảy ra. Công nghiệp và

tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ bé, phân tán, chưa có quy hoạch, sắp xếp

hợp lý. Thu ngân sách ở các xã đạt thấp, phần lớn xã, phường chưa tự cân đối

được thu chi. Trong xây dựng cơ bản, một số công trình chưa phát huy hiệu

quả.

Lĩnh vực xã hội còn nhiều bức xúc: thu nhập của nhân dân các xã vùng

núi, hải đảo còn thấp, chênh lệch về đời sống giữa các vùng còn cao; chất

lượng giáo dục chưa đạt yêu cầu so với mặt bằng chung; tệ nạn xã hội diễn

biến phức tạp, nhất là tệ nạn ma túy.

2.2.2.2 Giai đoạn 2001 - 2006

Bước vào thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2001 – 2005 do Đại hội Đảng bộ

thị xã Móng Cái lần thứ XX, ngay từ đầu năm, Ban Thường vụ Thị ủy ra

Thông báo kết luận số 10-TB/TU “Về một số chủ trương phát triển thương

mại – du lịch – dịch vụ năm 2001 và những năm tiếp theo”.

Năm 2001, thương mại, giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Tổng kim

ngạch hàng hóa qua cửa khẩu Móng Cái đạt 598 triệu USD, tăng 58% so với

năm 2000. Năm 2003, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã xác định là “Năm thực

hiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế”. Quán triệt chủ trương của Thị ủy,

ủy ban nhân dân thị xã chỉ đạo các ngành chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc, thúc đẩy hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu phát triển. Tổng kim

ngạch xuất khẩu đạt 694 triệu USD, tăng 24,5% so với 2002. Thị trường nội

địa hàng hóa phong phú, đa dạng, lưu thông buôn bán thuận lợi.

Năm 2005, Móng Cái gặp một số khó khăn: giá hàng hóa tăng cao, thời

tiết diễn biến phức tạp, thị trường bất động sản tiếp tục “đóng băng”; Trung

Quốc hạn chế nhập khẩu qua đường tiểu ngạch, đơn phương dừng thủ tục

xuất – nhập cảnh cho khách du lịch Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu

Móng Cái. Quán triệt Nghị quyết số 21-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Quảng Ninh “Về đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch

vụ trên địa bàn”, Thị ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý tại cửa

khẩu, trạm kiểm soát liên ngành, chống buôn lậu và gian lận thương mại, tổ

chức giao ban giữa các ngành nhằm xử lý vướng mắc về thủ tục xuất nhập

khẩu, xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thông thoáng cho giao lưu hàng hóa và du

lịch. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là khu vực chợ trung tâm và cửa

khẩu, bến xe, kho bãi… Do đó, dịch vụ thương mại – du lịch khắc phục được

khó khăn và có bước phát triển, chất lượng dịch vụ không ngừng được nâng

lên. Tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu đạt 1.034 triệu USD, tăng gần 3 lần

so với năm 2000.

Mạng bưu chính – viễn thông được đầu tư nâng cấp theo hướng hiện

đại và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Đến năm 2005, 100% số xã trên địa

bàn thị xã có điểm Bưu điện văn hóa, nhiều nơi đầu tư phát triển mạng

internet phục vụ nhân dân. Toàn thị xã có 21.000 máy điện thoại, bình quân

27 máy điện thoại/100 dân, tăng 2 lần so với giai đoạn 1996 – 2000. Ngành

điện của thị xã được quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Mạng lưới điện

và chất lượng điện không ngừng cải thiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và

đời sống của nhân dân.

Chợ Trung tâm thị xã Móng Cái và các chợ đầu mối hoàn thành đưa

vào sử dụng, tạo sự buôn bán sầm uất trên địa bàn, thu hút trên 4000 hộ và

hơn 100 doanh nghiệp thương mại trong và ngoài nước đến kinh doanh, tạo

việc làm cho hơn một vạn lao động. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu

dịch vụ năm 2005 đạt 1.689 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.

Hưởng ứng chương trình du lịch quốc gia “Việt Nam điểm đến của

thiên niên kỷ mới” do Bộ Văn hóa – Thông tin và Tổng cục Du lịch phát

động, Thị ủy chỉ đạo các ngành, các địa phương cần khai thác mọi tiềm năng

thế mạnh của Móng Cái về du lịch. Hàng loạt các dự án về dịch vụ, du lịch

được triển khai trên địa bàn thị xã. Đầu tư xây dựng các điểm vui chơi giải trí

tạo cảnh quan, môi trường du lịch thuận lợi tạo sự hấp dẫn du khách. Hàng

loạt dịch vụ, nhà hàng, khách sạn sang trọng hiện đại được triển khai đầu tư

xây dựng chuẩn bị cho một diện mạo mới về phát triển du lịch của Móng Cái

trong thế kỷ XXI. Kết thúc năm 2005, toàn thị xã có 223 khách sạn, nhà nghỉ,

trong đó một số khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên. Từ năm 2001 – 2005,

tổng số khách qua lại cửa khẩu đạt 12,6 triệu lượt người, tăng bình quân năm

17,6%, trong đó, khách nước ngoài đạt trên 10 triệu lượt người, tăng bình

quân 15%/năm. Doanh thu ngành du lịch các năm đều tăng, năm 2005 đạt 415

tỷ đồng, tăng 2,18 lần so với năm 2000.

Hệ thống Ngân hàng - Tài chính đã có nhiều hình thức đổi mới hoạt

động tiếp thị và hiện đại hóa dịch vụ như: thanh toán qua Ngân hàng điện

tử, biên mậu... nhằm huy động các nguồn vốn tín dụng cho vay đối với các dự

án thuộc các thành phần kinh tế. Ngân hàng nông nghiệp và Ngân hàng chính

sách đã có nhiều cố gắng cho hộ nghèo vay vốn, giảm tổng dư nợ quá hạn

dưới mức cho phép của ngành. Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư

phát triển, Ngân hàng Ngoại thương và Kho bạc Nhà nước Móng Cái hàng

năm đều hoàn thành tốt kế hoạch chuyên môn. Góp phần tích cực thúc đẩy

sản xuất, kinh doanh trên địa bàn phát triển và phục vụ đời sống nhân dân.

Doanh số các dịch vụ Ngân hàng 5 năm đạt trên 90.729 tỷ đồng, tăng bình

quân hàng năm là 43%.

Hoạt động tài chính, ngân sách đạt kết quả nổi bật. Đảng bộ đã chỉ đạo

các cấp ủy Đảng tăng cường lãnh đạo thực hiện Luật ngân sách, nhất là cấp

xã-phường. Nhìn chung các khoản thu thuế, phí, lệ phí đã được kiểm soát

tương đối chặt chẽ; ngành Thuế đã có nhiều cải tiến phương pháp quản lý các

đối tượng chịu thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ kinh doanh làm nghĩa vụ

với Nhà nước. Do vậy, thu ngân sách trên địa bàn đã tăng nhanh đảm bảo cho

sự phát triển sản xuất - kinh doanh.

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 5 năm đạt: 1.640,8 tỷ đồng,

tăng bình quân 8,2% năm. Trong đó, thu nội địa đạt: 812,26 tỷ, tăng bình

quân 32,3% năm.

Năm 2004, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 407,639 tỷ

đồng, tăng 60,3% so năm 2000. Trong đó, ngân sách xã-phường đã đạt 14,4 tỷ

đồng và đã có 4/17 xã-phường tự cân đối được ngân sách.

Tổng chi ngân sách địa phương 5 năm đạt 458,8 tỷ đồng, tăng bình

quân 42,4% năm.

Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% trong cơ cấu kinh

tế của thị xã nhưng ảnh hưởng trực tiếp đến đa số nhân dân trên địa bàn. Vì

vậy, Thị ủy, ủy ban nhân dân thị xã chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế

nông nghiệp theo hướng tăng cường chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi,

cơ cấu mùa vụ. Xác định là một trong 3 vùng lúa của tỉnh (Đông Triều, Yên

Hưng, Móng Cái), ngày 6-4-2001 Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã ra Nghị

quyết số 01-NQ/TU “Về việc tổ chức triển khai các mô hình trình diễn đã

thành công vào sản xuất đại trà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ

cấu mùa vụ trong nông nghiệp”. Ban Chấp hành Đảng bộ đánh giá: Từ năm

1996, thị xã đã quan tâm chỉ đạo thực hiện nhiều mô hình sản xuất nông

nghiệp, tập trung chủ yếu vào các giống lúa thuần, lúa lai của Trung Quốc

theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ. Kết quả các mô

hình trình diễn cho thấy các giống cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt, phù

hợp với đoàn kết tự nhiên, điều kiện sản xuất của địa phương, cho năng suất

tăng (1,5  2,5) lần so với năng suất bình quân của các loại giống đang sử

dụng, đặc biệt trong đó mô hình cấy giống thuần Khang dân đã được áp dụng

và hiện là giống chủ lực trong vụ xuân của thị xã… Thị ủy chủ trương: đưa

vào sản xuất đại trà các loại cây: lúa, ngô, rau, lạc và cây lấy dầu, tập trung

vào 3 vụ chính là vụ xuân, vụ mùa và vụ đông; phát triển nông nghiệp theo

hướng sản xuất hàng hóa, bảo đảm an ninh ninh lương thực, tạo việc làm, cải

thiện đời sống của nhân dân khu vực nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết 01 của Thị ủy, ủy ban nhân dân thị xã đã xây

dựng kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện, với cơ chế, chính sách mới

khuyến khích sản xuất. Năm 2001, thời tiết thuận lợi, lượng mưa cao hơn

cùng kỳ và phân bổ đều trong năm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông

nghiệp. Tổng diện tích gieo trồng cả năm là 5.789,7ha, tăng 2,6% so với năm

2000. Tổng sản lượng lương thực đạt 15.295 tấn, tăng 5.216 tấn so với năm

2000. Năm 2003, năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, Đảng bộ thị

xã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, tích cực áp

dụng khoa học kỹ thuật, đưa cây, con giống mới có năng suất cao vào sản

xuất. Tổng diện tích gieo trồng 6.197,7 ha, tăng 408 ha so với năm 2001.

Năng suất lúa đạt 41,2 tạ và tăng 14,6 tạ/ ha so với năm 2000. Tổng sản lượng

lương thực đạt 16.836 tấn, bằng 108% kế hoạch, tăng 10,3 % so với năm

2002, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ XX.

Năm 2005, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, thời tiết diễn biến phức

tạp, giá vật tư nông nghiệp tăng cao. Thị ủy và ủy ban nhân dân thị xã chỉ đạo

các xã triển khai, thực hiện đề án “Xây dựng cánh đồng 30 triệu

đồng/ha/năm”, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng. Năng suất lúa đạt 42

tạ/ha, là năm có năng suất cao nhất từ trước đến năm 2005.

Tăng cường các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao đi đôi với đa

dạng hóa cây trồng, chuyển từ thế độc canh cây lương thực sang hình thành

một số vùng chuyên canh: lạc, ngô, rau-hoa-quả ở Hải Xuân, Hải Hòa, Ninh

Dương, Hải Đông... Hàng năm, thị xã chuyển hàng trăm hécta đất nông

nghiệp sang phát triển công nghiệp, trồng cây công nghiệp và nuôi trồng thủy

sản.

Cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng có sự chuyển đổi cơ bản. Móng Cái

hình thành 3 vụ sản xuất ổn định trong năm, trong đó vụ đông dần dần trở

thành vụ sản xuất hàng hóa, chiếm trên 30% diện tích canh tác.

Đối với lâm nghiệp, Thị ủy chỉ đạo đẩy mạnh phong trào trồng, chăm

sóc bảo vệ rừng. Từ năm 2001 đến năm 2005, toàn thị xã trồng 2.956 ha rừng

tập trung, đưa độ che phủ lên 42%. Việc khoanh nuôi, bảo vệ rừng được tiến

hành thường xuyên, hiện tượng khai thác lâm sản trái phép và cháy rừng

giảm.

Ngành chăn nuôi phát triển khá. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi

được áp dụng rộng rãi, chất lượng giống gia súc, gia cầm được nâng cao.

Công tác thú y, quản lý, kiểm soát giết mổ, vệ sinh an ninh toàn thực phẩm

được chỉ đạo thường xuyên, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Đàn gia

cầm phát triển ổn định, đàn gia súc tăng từ 26.394 con năm 2000 lên 31.054

con năm 2005. ở một số xã, phường xuất hiện mô hình chăn nuôi trang trại

với quy mô vừa và nhỏ, tỷ suất hàng hóa cao.

Là một trong 4 vùng trọng điểm thủy sản của tỉnh, Móng Cái xác định

nghề nuôi trồng thủy sản là mũi nhọn đột phá trong chương trình chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Năm 2002, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo

kết luận số 09-TB/TU “Về một số chủ trương, biện pháp phát triển nuôi trồng

thủy sản trong thời gian tới”. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Thị

ủy, phong trào nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh, diện tích được mở rộng

từ 1.040 ha năm 2000 lên 1.600 ha năm 2005. Nhiều hộ gia đình đầu tư chiều

sâu, nuôi công nghiệp, thâm canh, bán thâm canh, đưa năng suất từ 300kg/ha

năm 2000 lên 947kg/ha năm 2005 tăng hơn 3 lần. Sản lượng thủy sản hàng

năm đạt 3.700 tấn đến 4.300 tấn, trong đó nuôi trồng đạt 700 – 1.200 tấn.

Đi đôi với lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, Thị ủy, ủy ban nhân

dân thị xã đề ra các chủ trương, định hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp là khâu đột phá trong

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có vai trò tác động trở lại hỗ trợ cho phát triển

nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ nâng cao đời sống của nhân dân.

Quán triệt các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba, lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về đổi mới doanh nghiệp Nhà

nước”, “Về phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân” và thi hành Luật

Doanh nghiệp Nhà nước, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo kết luận số 16-

TB/TU “Về một số chủ trương, biện pháp phát triển công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sản xuất, chế biến hàng

xuất khẩu năm 2001 và những năm tiếp theo”. Thực hiện kết luận số 16 của

Thị ủy, từ năm 2001 đến năm 2006, sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công

nghiệp phát triển nhanh. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt

368,443 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2001 và tăng bình quân

48,6%/năm, vượt hơn 2 lần so với mục tiêu của Đại hội lần thứ XX Đảng bộ

thị xã đề ra.

Trong sản xuất công nghiệp, cơ cấu sản xuất hàng hóa có sự chuyển

biến tích cực theo hướng tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu, hàng tiêu dùng và

hàng có chất lượng. Hàng loạt khu, cụm công nghiệp tập trung mới được hình

thành như: Hải Hòa, Ninh Dương và Hải Yên.

Nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển

kinh tế – xã hội, nhất là phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây

dựng, dịch vụ…, thị xã vừa thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi), vừa

tạo môi trường thông thoáng khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài

nước đến đầu tư làm ăn tại Móng Cái ngày càng nhiều. Năm năm (2001-

2005) vốn đầu tư phát triển từ doanh nghiệp, doanh nhân và nhân dân đạt

794,64 tỷ đồng, tăng bình quân 12,4%/năm. Đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài

tăng nhanh, từ năm 2001 đến 2005 có 17 dự án được cấp mới, nâng tổng số

dự án đầu tư nước ngoài tại Móng Cái lên 20, với tổng số vốn thực hiện đạt

61,7%. Các dự án đi vào hoạt động góp phần gia tăng giá trị sản xuất công

nghiệp, giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, tổng thu ngân sách trên địa

bàn thị xã và giải quyết việc làm cho người lao động. Với sự phát triển nhanh,

mạnh và đa dạng của các ngành công nghiệp, du lịch, dịch vụ, Móng Cái ngày

càng thay đổi với một diện mạo mới – năng động và hiện đại, trở thành điểm

sáng được cả nước biết đến thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, thu hút đầu

tư, thu ngân sách… Ngày 6-9-2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh ra

Nghị quyết số 19-NQ/TU “Về việc xây dựng và phát triển thị xã Móng Cái

trở thành Thành phố biên giới, cửa khẩu”, đó là điều kiện thuận lợi lớn để

ngành công nghiệp Móng Cái tiếp tục phát triển mạnh trong giai đoạn tiếp

theo.

Quán triệt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của Chính

phủ, Móng Cái tiến hành cổ phần hóa 2 công ty (doanh nghiệp nhà nước) đạt

kết quả. Sau cổ phần hóa, Công ty cổ phần Thương mại – dịch vụ Móng Cái

tiếp tục huy động thêm vốn, mở rộng sản xuất – kinh doanh; Công ty cổ phần

Du lịch – dịch vụ Móng Cái được kiện toàn tổ chức, kinh doanh có hiệu quả.

Các khoản nộp ngân sách và thu nhập của người lao động đều tăng hơn so với

trước đây.

Kinh tế tư nhân trên địa bàn thị xã tiếp tục phát triển về quy mô, chất

lượng và hiệu quả. Các hộ kinh doanh cá thể tăng nhanh, 5 năm (2001 –

2005) có hơn 1000 hộ, đưa tổng số hộ kinh doanh lên 4.000 hộ và 214 doanh

nghiệp. Tỷ trọng thu ngoài quốc doanh trong tổng số ngân sách hàng năm đều

tăng, năm 2005 chiếm 60%. Hoạt động của thành phần kinh tế tư nhân góp

phần tích cực vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng thu cho ngân sách, giải quyết

việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa IX) “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập

thể”, Thị ủy chỉ đạo các ngành, các địa phương tiếp tục đổi mới và nâng cao

hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông

thôn phát triển. Đến năm 2005, hầu hết các loại hình hợp tác xã được cấp giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Công ty quản lý Nhà nước về xây dựng trên địa bàn thị xã được chú

trọng, Ban Thường vụ Thị ủy ra Thông báo kết luận “Về định hướng đầu tư

xây dựng cơ bản năm 2001 và những năm tiếp theo”. Thực hiện kết luận của

Ban Thường vụ Thị ủy, ngành xây dựng tập trung hoàn thành các dự án quy

hoạch. Năm năm (2001 – 2005) nhiều dự án, cụm, khu công nghiệp, khu đô

thị mới, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương mại… được quy

hoạch và phê duyệt làm cơ sở để đầu tư xây dựng. Tổng vốn đầu tư phát triển

trên địa bàn 5 năm (2001 – 2005) đạt 2.206 tỷ đồng, tăng gần 2 lần so với 5

năm (1996-2000). Nhiều công trình xây dựng được hoàn thành như chương

trình điện lưới quốc gia lên vùng cao Bắc Sơn, Hải Sơn và 2 xã đảo, nhà bia

tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Trà Cổ, phòng khám đa khoa Trà

Cổ, Trạm truyền hình quốc gia, chợ trung tâm Móng Cái…

Để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, Thị xã tập trung đề nghị Tỉnh,

Trung ương nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua địa bàn, đầu

tư ngân sách địa phương cải tạo, nâng cấp các tuyến đường của thị xã, đồng

thời với cơ chế “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, tiến hành nhựa hóa, bê

tông hóa giao thông nông thôn. Hết năm 2005, hoàn thành nâng cấp quốc lộ

18A, đường nội thị, tuyến đường xuyên 2 xã đảo, đường biên giới Pò Hèn,

đường tới 100% xã, phường được mở rộng, rải nhựa và bê tông hóa. Thực

hiện Nghị quyết 13-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Ninh “Về phát triển kinh tế

cảng biển”, thị xã tập trung sửa chữa nâng cấp và xây dựng các bến thủy nội

địa, cảng biển trên địa bàn, như đầu tư mới Cảng Dân Tiến, Núi Đỏ; nâng cấp

Cảng Vạn Gia và hệ thống cảng thủy nội địa Thọ Xuân trên sông Ka Long với

nhiều phương thức đầu tư, xã hội hóa.

Việc phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn với hệ thống điện,

đường, trường, trạm tạo ra bước thay đổi căn bản bộ mặt thị xã, nhất là vùng

núi, hải đảo.

Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ thị xã

Móng Cái chú trọng chỉ đạo các hoạt động văn hóa – xã hội.

Đảng bộ và chính quyền thị xã Móng Cái xác định: giáo dục - đào tạo

cùng khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, nhân tố quyết định cho sự

phát triển của địa phương. Năm 2002, Ban Thường vụ Thị ủy thảo luận và

ban hành Nghị quyết 09 về lãnh đạo đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục -

đào tạo của thị xã giai đoạn (2002 – 2005) và chọn là “Năm giáo dục”, đề ra

chủ trương: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các ngành học,

cấp học, phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa

phương, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

hướng tới một xã hội học tập; duy trì phổ cập tiểu học đúng tuổi, phấn đấu

phổ cập trung học cơ sở vào năm 2005. Thực hiện chủ trương của Thị ủy, sự

nghiệp giáo dục - đào tạo ở Móng Cái phát triển đồng bộ cả quy mô, chất

lượng giáo dục, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Phong trào thi đua “Dạy

tốt, học tốt” được đông đảo thầy, cô giáo và học sinh trên địa bàn hưởng ứng.

Chất lượng giáo dục - đào tạo có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ

thông, trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp

và học sinh giỏi các cấp đều tăng. Năm 2005-2006, toàn thị xã có 21.140

người đi học, bằng 28% dân số. Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, hoàn

thành phổ cập trung học cơ sở. Phong trào học tập có bước phát triển ở nông

thôn, hải đảo, sơn khu, vùng đồng bào dân tộc. Cơ sở vật chất – kỹ thuật phục

vụ giảng dạy và học tập được tăng cường, 70% trường học cao tầng và 100%

lớp học được kiên cố hóa. Đội ngũ giáo viên được bổ sung về số lượng và

từng bước nâng cao về chất lượng. Đến năm 2005, có 7/41 trường được công

nhận đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I.

Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và nền kinh tế

tri thức, trong những năm đầu thời kỳ XXI, Đảng bộ, chính quyền thị xã quan

tâm đầu tư phát triển khoa học, công nghệ để phục vụ sản xuất và đời sống.

Các địa phương tích cực đưa giống mới vào sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng

thủy sản. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong các cơ quan của

thị xã, nhất là ngành bưu điện, tài chính, ngân hàng. Chương trình tin học hóa

được triển khai trong các cơ quan đảng, nhà nước bước đầu thu được một số

kết quả tích cực, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng phục vụ

nhân dân.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng

và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Thị ủy

chỉ rõ: xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn hóa là trách nhiệm của các cấp

ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn thể nhân dân các dân tộc thị xã. Thực

hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, phong trào “Toàn thể đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư” và phong trào xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn

hóa phát triển rộng khắp. Đến năm 2005, có trên 70% gia đình văn hóa, 95/95

thôn, khu phố xây dựng trong quy ước, 11/95 thôn, khu được công nhận

“Làng, khu phố văn hóa” cấp thị xã. Các thiết chế văn hóa được tăng cường

một bước, 48/95 làng, khu phố xây dựng nhà văn hóa. Đời sống văn hóa cơ sở

có nhiều khởi sắc. Hoạt động văn hóa thông tin có bước phát triển mới. Trạm

Truyền hình quốc gia khu vực đi vào hoạt động, cùng hệ thống truyền hình

của địa phương như Trạm phát sóng QTV, QTV3 và truyền hình cáp phủ

sóng đến hầu hết các địa phương. Hệ thống truyền thanh cơ sở được tăng

cường, đến năm 2006 thị xã có 38 cụm truyền thanh, 12/17 xã, phường có

trạm truyền thanh. Di tích lịch sử văn hóa quan trọng, danh thắng nổi tiếng

của thị xã được quy hoạch tổng thể thành các dự án để đầu tư xây dựng, tôn

tạo như: nhà bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Trà Cổ, khu du

lịch Trà Cổ-Bình Ngọc, điểm du lịch sinh thái Bãi Đông-Vạn Thực, đền Xã

Tắc-Ka Long… Công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, thông tin

được chú trọng hơn trước, nhằm lập lại trật tự trên lĩnh vực văn hóa: quản lý

quán Karaoke, khai thác mạng Internet, buôn bán băng, đĩa và các dịch vụ văn

hóa tại các khu du lịch. Cùng với việc tổ chức luân phiên Hội chợ thương mại

– du lịch hàng năm, hoạt động hát đối trên sông Ka Long giữa thanh niên

Móng Cái và thanh niên Đông Hưng góp phần giáo lưu văn hóa dân tộc Việt

Nam – Trung Quốc và đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân hai nước

Việt – Trung đạt kết quả.

Thực hiện sự chỉ đạo của Thị ủy, sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe

nhân dân có những chuyển biến tích cực. Mạng lưới y tế được tăng cường về

cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Thị xã và tỉnh đầu tư trên 6,6

tỷ đồng mua trang, thiết bị y cụ và nâng cấp Trung tâm y tế, tranh thủ nguồn

vốn ADB xây dựng phòng khám đa khoa khu vực Trà Cổ. 100% trạm y tế xã,

phường tiến hành xây dựng, nâng cấp. Đội ngũ cán bộ y tế thường xuyên

được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngày càng đáp ứng

yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.

Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước nâng lên. Các chương trình y tế

quốc gia triển khai sâu rộng và đạt kết quả khá. Tỷ lệ trẻ em tiêm đủ 6 loại

vắc xin đạt gần 100%. Công tác vệ sinh, phòng dịch được các cấp, các ngành,

các địa phương và ngành y tế quan tâm chỉ đạo nên trong vòng 5 năm (2001 –

2005) trên địa bàn thị xã không có dịch bệnh xảy ra.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được triển khai tích cực, rộng

khắp. Thực hiện Pháp lệnh Dân số, Thị ủy chỉ đạo ủy ban Dân số – Gia đình

và trẻ em cùng với hệ thống tuyên truyền viên dân số kiên trì tuyên truyền,

vận động, nâng cao nhận thức của người dân về chính sách dân số, kế hoạch

hóa gia đình của Nhà nước và địa phương. Đồng thời, xử lý nghiêm các

trường hợp vi phạm Pháp lệnh Dân số. Tình trạng tăng dân số đột biến không

xảy ra ở Móng Cái. Tỷ lệ dân số tự nhiên năm 2005 còn 1,2%, đạt chỉ tiêu Đại

hội XX. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên. Tỷ

lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 20% năm xuống còn 14,5% năm

2005. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên. Tỷ lệ

suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 20% năm 2000 xuống còn 14,5%

năm 2005.

Cùng với lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, Đảng bộ thị xã

thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc

làm và nâng cao đời sống nhân dân. Năm năm (2001 – 2005), thị xã tạo việc

làm cho 10.770 người và thu hút hàng ngàn lao động ở tỉnh ngoài đến làm

việc. Cơ cấu lao động phi nông nghiệp tăng lên. đời sống của nhân dân từng

bước được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 998,5

USD. Số hộ giàu không ngừng tăng, số hộ nghèo giảm xuống còn 2% năm

2005. Phong trào “Uống nước, nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ ngày “Vì

người nghèo” được đông đảo nhân dân hưởng ứng tham gia. Năm 2004, Thị

xã hoàn thành vượt mức kế hoạch xóa nhà tạm và cải thiện nhà ở cho hộ

nghèo, gồm 302 hộ với số tiền xây dựng trên 4 tỷ đồng, trong đó nhân dân

đóng góp hai phần ba, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bằng

công nhận. Chính sách xã hội đối với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương

binh thân nhân liệt sỹ, người già cô đơn, người nghèo, các học sinh nghèo

vượt khó, người tàn tật, người nhiễm chất độc màu da cam điôxin được các

cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các xã, phường, các đoàn thể nhân dân

thị xã quan tâm thực hiện tốt. Hàng năm, các chính sách hỗ trợ về y tế, giáo

dục - đào tạo, an ninh xã hội, dự án tín dụng cho vay ưu đãi, hỗ trợ sản xuất,

phát triển ngành nghề… đối với người nghèo được duy trì thường xuyên.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị

quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh và Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ thị xã lần thứ XXI, Thị ủy đã cụ thể hóa bằng các chương trình kinh

tế – xã hội và tổ chức thực hiện, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Năm 2006, năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, mặc dù còn

nhiều khó khăn: thời tiết bất lợi, dịch bệnh, giá cả các mặt hàng tăng cao,

nhưng dưới sự lãnh đạo của Thị ủy, kinh tế – xã hội có bước phát triển theo

hướng bền vững, với tốc độ tăng trưởng cao. Xuất khẩu tiếp tục giữ vững nhịp

độ sôi động và tiến bộ. Tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu

Móng Cái đạt 2.110,7 triệu USD, tăng 29,3 so với năm 2005. Thị trường nội

địa tiếp tục phát triển. Thị xã tổ chức thành công Hội chợ du lịch thời trang và

quà tặng Móng Cái năm 2006; phối hợp tổ chức Hội chợ thương mại du lịch

biên giới Việt – Trung, tổ chức khai trương chợ đêm. Giá cả thị trường khu

vực cửa khẩu ổn định, đáp ứng nhu cầu giao lưu thương mại và tiêu dùng của

nhân dân.

Công tác quản lý thị trường đấu tranh chống buôn lậu và gian lận

thương mại trên địa bàn được chú ý. Thị ủy chỉ đạo các ngành chức năng tăng

cường kiểm tra, kiểm soát ở những địa bàn trọng điểm. Nhờ vậy, tình hình

buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng giảm.

Ngành du lịch Móng Cái năm 2006 gặp khó khăn. Mặc dù thị xã đã tích

cực, chủ động đàm phán với các cơ quan chức năng của thị xã Đông Hưng –

Trung Quốc về việc tiếp tục cấp thẻ Thông hành cho khách du lịch Trung

Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu Móng Cái, nhưng hết năm 2006, Trung

Quốc vẫn chưa cấp thẻ trở lại. Được sự quan tâm của Thị ủy, của ủy ban nhân

dân và sự cố gắng của ngành du lịch Móng Cái tiếp tục phát triển. Tổng số

khách qua lại cửa khẩu Móng Cái 2.338.552 lượt, tăng 2,9% so với năm 2005.

Kinh tế phát triển, tạo điều kiện thu ngân sách trên địa bàn và chi ngân

sách địa phương tiếp tục tăng cao. Thu ngân sách năm 2006 đạt 442,29 tỷ

đồng, tăng 21,9% so với năm 2005. Chi ngân sách cả năm đạt 113,998 tỷ

đồng, tăng 43%. Tuy nhiên, ngày 31-10-2005, Thủ tướng Chính phủ Quyết

định 273/2005/QĐ-TTg “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết

định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19-4-2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính

sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới”. Quyết định 273 của Thủ tướng

Chính phủ nêu chủ trương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế cửa

khẩu, ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu một phần cho ngân sách địa

phương, nhưng phụ thuộc vào khả năng ngân sách Trung ương hàng năm. Do

vậy, ngân sách dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng khó khăn, nhiều công trình

không hoàn thành, nợ đọng kéo dài, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội

của Móng Cái.

Hoạt động tín dụng, ngân hàng có hiệu quả, giữ vững tốc độ tăng

trưởng, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Doanh số huy động vốn năm 2006 đạt 800 tỷ đồng, tăng 28,6%; doanh số cho

vay 550 tỷ đồng, tăng 6,1% so với năm 2005.

Năm 2006, thị xã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu

thủ công nghiệp giai đoạn 2006 – 2015 và định hướng đến năm 2020, được ủy

ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Thị ủy chỉ đạo ủy ban nhân dân thị xã xây dựng

kế hoạch thực hiện phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo quy

hoạch, hướng dẫn các đơn vị lập hồ sơ và triển khai dự án khuyến công, trong

năm có 3 dự án hoạt động và được Trung tâm khuyến công tỉnh cấp kinh phí.

Tổng giá trị sản lượng hàng hóa công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt

550,333 tỷ đồng, tăng 55,7% so với năm 2005, tăng trưởng cao là mặt hàng

tái chế cao su. Để giải quyết nợ đọng vốn xây dựng của các năm trước, thị xã

chủ động đề nghị tỉnh giúp đỡ. Ngày 9-10-2006, ủy ban nhân dân tỉnh ra

Quyết định số 3036-QĐ/UB “Về việc cân đối vốn thanh toán cho thị xã Móng

Cái”. Năm 2006, toàn thị xã có 229 công trình được ghi trong kế hoạch, với

tổng số vốn 91,467 tỷ đồng.

Năm 2006, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh xảy ra liên tiếp. Giá

nhiều mặt hàng vật tư nông nghiệp tăng cao ảnh hưởng đến trồng trọt, chăn

nuôi và nuôi trồng thủy sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ mà trực tiếp là

Ban Thường vụ Thị ủy, nông nghiệp vẫn giành thắng lợi. Tổng diện tích gieo

trồng 6.540,1 ha, vượt 4,4% so với kế hoạch. Tổng sản lượng lương thực đạt

16.977 tấn, tăng 3,5% so với năm 2005. Toàn thị xã có 140,95 ha triển khai đề

án cánh đồng 30 triệu đồng/ha/năm, vượt 80% so với kế hoạch. Đặc biệt là

thử nghiệm 10 ha, với công thức luân canh 3 vụ (lúa xuân – lúa mùa sớm và

ngô đông) đạt 48,83 triệu đồng/ha/năm, trong đó phường Ninh Dương đạt

72,48 triệu đồng/ha/năm, xã Hải Hòa đạt 61,33 triệu đồng/ha/năm. Lâm

nghiệp, trồng mới 1,291,8 ha rừng phòng hộ đầu nguồn hồ Tràng Vinh, rừng

Bắc Sơn, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc

và khôi phục diện tích rừng bị cháy trên địa bàn.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp do dịch cúm gia cầm

H5N1 và bệnh lở mồm long móng có nguy cơ bùng phát thành đại dịch.

Trước tình hình dịch bệnh, thị xã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện

pháp kiểm tra, kiểm soát đường biên, cửa khẩu ngăn chặn gia súc, gia cầm

nhập lậu qua biên giới. Đồng thời, chủ động phòng chống, khống chế không

để dịch bệnh phát sinh. Thú y chú trọng tiêm phòng chống các dịch bệnh tụ

huyết trùng, lở mồm, long móng, cúm gia cầm. Do làm tốt, phòng chống dịch

bệnh nên dịch bệnh không tái phát, đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định.

Năm 2006, thời tiết không thuận, tôm nuôi bị nhiễm bệnh nhiều, Thị ủy chỉ

đạo ngành nông nghiệp tăng cường kiểm dịch và phổ biến phương pháp

phòng chống dịch bệnh cho các hộ nuôi tôm, nhiều gia đình nhờ áp dụng khoa

học kỹ thuật đã cho thu hoạch cao. Tổng sản lượng thủy sản đạt 5.702,2 tấn,

vượt kế hoạch 31%, tăng 39,1% so với năm 2005. Trong đó sản lượng nuôi

trồng đạt 2.702,2 tấn, vượt kế hoạch 112%, tăng 36% so với năm 2005.

Nhìn chung sau 5 năm thực hiện, Đảng bộ thị xã Móng Cái đã lãnh đạo

hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu cơ bản do Đại hội Đảng bộ lần thứ XX đề

ra. Mặc dù còn một số tồn tại, khó khăn, song những kết quả đạt được là to

lớn và quan trọng: Nhịp độ tăng trưởng đạt mức cao và tương đối toàn diện

(16,1% vượt 4,1% so với chỉ tiêu); cơ cấu kinh tế Thương mại-du lịch-dịch

vụ (70%) -công nghiệp (15,1%) - nông nghiệp (14,9%) được chuyển dịch

đúng hướng và tăng trưởng nhanh; Đã thu hút, huy động hiệu quả các nguồn

lực để đầu tư phát triển; Phát huy được lợi thế so sánh của Thị xã có cửa khẩu

Quốc gia, Quốc tế, có thị trường hàng hóa sôi động của phía Nam-Trung

Quốc; nông nghiệp-nông thôn, biên giới, miền núi, hải đảo được quan tâm

đầu tư; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển đúng hướng...

Thành tựu nổi bật trong thời gian qua là chúng ta đã duy trì và phát triển sản

xuất-kinh doanh ổn định, tạo ra nguồn thu ngân sách lớn.

Các lĩnh vực văn hóa-xã hội đều có bước phát triển, tiến bộ; hệ thống

chính trị không ngừng được củng cố; quốc phòng-an ninh ngày càng được

tăng cường. Bộ mặt đô thị và nông thôn thay đổi; đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân không ngừng được cải thiện... những kết quả và thắng lợi

đó đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ban Chấp hành Đảng bộ, Chính

quyền, Đoàn thể các cấp, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển trong giai

đoạn tiếp theo

Chương 3

Thành tựu và kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội

của Đảng bộ Thị xã Móng Cái.

3.1 Thành tựu và hạn chế chủ yếu

3.1.1 Thành tựu kinh tế - xó hội chủ yếu

Được sự quan tâm của các Bộ, Ngành Trung Ương, sự quan tâm chỉ

đạo sâu sắc của Tỉnh Uỷ, UBND Tỉnh Quảng Ninh cùng với sự quyết tâm

vượt bậc của Đảng bộ, Chớnh quyền, quõn và dõn cỏc dõn tộc Thị xó Múng

Cỏi, phỏt huy truyền thống cỏch mạng, ý chớ tự lực, tự cường, đoàn kết, khắc

phục khó khăn, thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước nên đó đạt được những kết quả và thành tựu to lớn trên các lĩnh vực

kinh tế xó hội, an ninh quốc phũng. Cú được kết quả trên là sự lónh đạo, chỉ

đạo nhạy bén, sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt cơ chế ưu đói cho Múng Cỏi

của cấp uỷ, chớnh quyền Thị xó. Sự quan tõm của cỏc cấp, cỏc ngành cựng

với sự khai thỏc hiệu quả cỏc tiềm năng, thế mạnh của Móng Cái đó, đang và

sẽ đưa Móng Cái lên vị thế cao hơn trong nước và trong khu vực. Từ khi cú

chớnh sỏch mở cửa biờn giới năm 1989, đặc biệt là từ khi Thủ tướng Chính

phủ ban hành Quyết định 675/1996/QĐ-TTg ngày 18/9/1996 (năm 2001 được

cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) kinh

tế - xó hội của thị xó phỏt triển nhanh, vững chắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP

bỡnh quõn hàng năm tăng từ 12 - 15%, cơ cấu kinh tế thay đổi cơ bản từ chỗ

nông - lâm - ngư nghiệp chuyển sang thương mại - du lịch - dịch vụ - nuôi

trồng thuỷ sản và chiếm tỷ trọng trên 80% thu nhập GDP của Thị xó.

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rừ rệt, đặc biệt

là nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và hải đảo. Phải nói răng từ khi

có chính sách đổi mới nền kinh tế xó hội của Thị xó Múng Cỏi phỏt triển

mạnh cả về lượng và về chất với tốc độ tăng trưởng cao, an ninh biên giới

được giữ vững, quốc phũng được cũng cố, quan hệ đối ngoại được đưa lên

tầm cao mới mở ra nhiều triển vọng hợp tác phát triển về mọi mặt với Trung

Quốc

Kết quả đạt được trên các mặt kinh tế xó hội từ năm 1991 - 2006

như sau:

Về hoạt động thương mại: Hoạt động thương mại xuất nhập khẩu được

hỡnh thành và phỏt triển tại Múng Cỏi từ khi Nhà nước mở cửa khẩu Quốc tế

thông thương với Trung Quốc. Từ khi có Quyết định 675TTg (năm 2001

được cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ), hoạt động xuất nhập khẩu cửa khẩu Móng Cái thực sự chuyển mỡnh và

phỏt triển với tốc độ cao. Năm 1991, tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập

khẩu qua cửa khẩu Móng Cái đạt 164,8 triệu USD thỡ năm 2006 ước đạt

2.110 triệu USD, tốc độ tăng bỡnh quõn đạt 30-40%/năm. Song song với giá

trị kim ngạch tăng cao, trong cơ cấu kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu cũng

có nhiều dấu hiệu đáng mừng (kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng và ngày

càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kim ngạch hàng hóa XNK - riêng năm

2006, kim ngạch hàng xuất khẩu đạt 980,6 triệu USD), phản ánh năng lực của

nền kinh tế Việt Nam trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế

toàn cầu.

Các khu thương mại liên tiếp được đầu tư, xây dựng, nâng cấp hiện đại.

Đáng chú ý là đó cú nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tự bỏ vốn xây

dựng trung tâm thương mại, góp phần thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá. Do vận

dụng linh hoạt cơ chế ưu đói theo quyết định 675TTg và 53TTg, phát huy thế

mạnh, tháo gỡ khó khăn kịp thời trong hoạt động xuất nhập khẩu nên khu

kinh tế cửa khẩu Móng Cái thực sự có sức cuốn hút các doanh nghiệp, các

thành phần kinh tế đến đầu tư, kinh doanh. Đến năm 2006 đó cú cú 277 doanh

nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài, hợp tỏc xó, chi

nhánh, văn phũng đại diện) và 4.853 hộ kinh doanh cá thể (trong đó có 2.430

hộ kinh doanh tại 4 chợ trung tâm). Móng Cái đang thực sự trở thành khu

kinh tế thương mại lớn thứ 2 của Tỉnh Quảng Ninh.

Về du lịch dịch vụ: Khi chưa có chính sách mở cửa, đổi mới, mặc dù

Móng Cái có tiềm năng du lịch rất lớn song không phát huy được. Nguyên

nhân chính là giao thông đi lại khó khăn (đặc biệt là trước năm 1995), lượng

khách quốc tế đến tham quan du lịch Móng Cái rất ít, các ngành dịch vụ du

lịch không phát triển được. Từ khi Chính phủ có quyết định 675 TTg cho

phép áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái

(năm 2001 được cụ thể hóa bằng Quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ) hệ thống giao thông được tu sửa nâng cấp. Đến nay, hệ thống giao

thụng từ Hạ Long ra Múng Cỏi được nâng cấp, mở rộng, đặc biệt là đó cú sự

tham gia vận chuyển hành khỏch bằng tàu du lịch cao tốc cỏnh ngầm của 02

cụng ty (1 trong nước, 1 ngoài nước) với 2 tuyến là Móng Cái - Hạ Long và

Móng Cái - Hải Phũng; nhiều cụng ty du lịch cú trạm đại diện tại Móng Cái

với phương tiện vận chuyển tiện nghi, hiện đại. Thị trường dịch vụ du lịch của

Móng Cái phát triển rất nhanh, chất lượng phục vụ được nâng lên rừ rệt, giỏ

cả vừa phải, đặc biệt là môi trường du lịch được quản lý chặt chẽ, khụng cú sự

ộp giỏ, khụng cũn cỏc tệ nạn tại cỏc khu du lịch, thị trường dịch vụ cạnh tranh

mạnh mẽ song đảm bảo lành mạnh. Thủ tục, chính sách xuất nhập cảnh được

áp dụng và từng bước được cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiện, giá tour

cạnh tranh, chất lượng phục vụ ngày càng được nâng lên. Tất cả những yếu tố

trên là những động lực rất lớn thúc đẩy ngành du lịch Móng Cái phát triển.

Khách đi du lịch năm 1991 chỉ có 9.007 lượt thỡ năm 2003 lên tới hơn

250.000 lượt, năm 2006 có 362.458 lượt. Tốc độ tăng bỡnh quõn là 26.780

lượt/năm, cá biệt có năm tăng trên 50.000 lượt. Lượng khách lưu trú tại Móng

Cái hàng năm đạt 95.000 - 100.000 lượt và năm 2006 đạt 122.550 lượt thực

sự đang mở ra nhiều cơ hội để kích cầu các ngành dịch vụ du lịch phát triển.

Doanh thu ngành du lịch năm 1991 đạt 9.862 triệu đồng thỡ năm 2003

đạt 310,839 tỷ đồng. Năm 2005, 2006 tuy có rất nhiều khó khăn song doanh

thu ngành du lịch cũng đạt được 250 tỷ đồng .

Hoạt động tài chính - kho bạc: Hoạt động ngành ngân hàng, kho bạc có

vai trũ rất tớch cực trong cụng cuộc phỏt triển kinh tế xó hội của thị xó. Do

nắm bắt thời cơ, cải tiến, mở rộng các loại hỡnh dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ

thanh toán biên mậu và chuyển tiền) nên ngành ngân hàng đó tổ chức kinh

doanh rất hiệu quả, đồng thời đó gúp phần thỳc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu

phát triển. Nếu như thời điểm năm 1991, doanh số kinh doanh chỉ đạt vài

chục tỷ đồng thỡ năm 2003 doanh số hoạt động đạt 4.426 tỷ đồng và đến năm

2006, doanh số dịch vụ chuyển tiền đạt 63.971 tỷ đồng, thanh toán biên mậu

đạt trên 33.471 tỷ.

Về thu ngõn sỏch: Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong việc thực hiện phát

triển kinh tế - xó hội. Xỏc định thu ngân sách là điều kiện cần thiết để đầu tư

nhanh cơ sở hạ tầng. Do xác định vai trũ then chốt, trong những năm qua thị

xó đó tập trung quản lý, tổ chức tốt các nguồn thu, không những phấn đấu

tăng thu về mặt lượng mà về chất lượng thu cũng được nâng lên (thu nội địa

tăng mạnh qua các năm trong đó có thu từ ngoài quốc doanh, tiền cấp đất...).

Năm 1991 tổng thu ngân sách đạt 35,4 tỷ tăng bỡnh quõn 10 - 20%/năm và

đến năm 2006, tổng thu ngân sách đạt 430,8 tỷ đồng.

Về nông lâm ngư nghiệp: Thị xó thường xuyên quan tâm, ưu tiên cho

chương trỡnh khuyến nụng, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật

nuôi cho phù hợp với điều kiện phát triển ở địa phương. Hàng năm thị xó đầu

tư giành một khoản kinh phí để Trung tõm khuyến nông nghiên cứu đưa tiến

bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng được đầu tư

tương đối toàn diện, đồng bộ đó phỏt huy hiệu quả, đáng chú ý nhất là chương

trỡnh kiên cố hoá kênh mương nội đồng, việc xây dựng và triển khai quy

hoạch và đầu tư hạ tầng cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản hàng chục tỷ

đồng/năm. Mô hỡnh chuyển đổi kinh tế trang trại gắn với việc giao đất giao

rừng cho các hộ dân được thí điểm, tổng kết nhân rộng ra hầu hết cỏc xó,

phường trên địa bàn.

Do có chủ trương đầu tư và tổ chức khai thác hiệu quả các công trỡnh

hạ tầng trong sản xuất nụng lõm ngư nghiệp nên kết quả thu được thật phấn

khởi. Nếu như năm 1991 tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 9.469 tấn

thỡ năm 2002 đó đạt 15.000 tấn, hoàn thành sớm hơn 2 năm so với Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ Thị xó đó đề ra, đặc biệt là năm 2006 tổng sản lượng

lương thực quy thóc đạt trên 16.977 tấn. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 1991

đạt 2.512 tấn thỡ năm 2006 đạt 5.702 tấn trong đó sản lượng nuôi trồng đạt

2.702 tấn.

Do có chủ trương và chiến lược đầu tư phù hợp, khai thác hiệu quả nên

trong những năm qua đời sống của nhân dân vùng nông thôn được cải thiện rừ

rệt. Hiện nay, kể cả theo tiờu chớ mới, Thị xó khụng cũn hộ đói, số hộ nghèo

giảm cũn 3,9%. (theo tiờu chớ mới)

Sản xuất cụng nghiệp – Tiểu thủ cụng nghiệp, bưu chính viễn thông:

Trước năm 1991, nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hầu như

chưa có, chỉ có một vài cơ sở cơ khí nhỏ phục vụ đời sống dân sinh, công

nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Từ khi có chính sách đổi

mới, nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhanh chóng hỡnh thành

và phỏt triển mạnh. Cơ chế ưu đói theo quyết định 675TTg có sức hút rất lớn

các thành phần kinh tế đầu tư, mở rộng sản xuất. Tận dụng, nắm bắt thời cơ,

thị xó đó triển khai xõy dựng khu cụng nghiệp - tiểu thủ cụng nghiệp Ninh

Dương, Hải Yên (trong đó khu Công nghiệp Hải Yên với quy mô 390 ha

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là khu công nghiệp trọng điểm của cả

nước). Trong tương lai, Móng Cái sẽ thực sự trở thành 1 trung tâm công

nghiệp lớn của Tỉnh và khu vực.

Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 1991 đạt

19,8 tỷ thỡ năm 2006 đạt 550 tỷ (giá thực tế), tốc độ tăng bỡnh quõn đạt 30%

-50%/năm.

Về đầu tư lưới điện: Tính đến nay 100% các xó, phường đó được dùng

điện lưới quốc gia. Đáng chú ý là trong năm 2001 và năm 2003 đó triển khai

xõy dựng lưới điện đến 2 xó đảo và xó Hải Sơn, Bắc Sơn, đây là điều mơ ước

của đồng bào 2 xó đảo và nhân dân vùng dân tộc ít người từ nhiều năm nay.

Việc đưa điện lưới quốc gia ra đảo và Hải Sơn, Bắc Sơn là tiền đề rất cần thiết

để phát triển kinh tế xó hội cho vựng sõu, vựng xa, vựng đặc biệt khó khăn,

giúp nhân dân vươn lên xoá đói, giảm nghèo và có cuộc sống văn minh hơn.

Đến nay, có tới 99% dân số được sử dụng điện lưới quốc gia.

Bưu chính viễn thông: ngành bưu chính viễn thông thực sự đi trước

một bước, mạng cáp quang đó được đầu tư đưa vào sử dụng hàng năm phát

triển thêm từ 500 - 700 máy. Hệ thống tổng đài điện thoại di động từng bước

được nâng cấp, hiện đại, dịch vụ đa dạng, phong phú hơn. Từ năm 2003 đến

nay ngành bưu chính đó cú bước đột phá trong việc đầu tư công nghệ, nâng

cấp mạng, mở rộng hku vực phủ sóng. Tính đến nay trên địa bàn thị xó, sóng

di động đó bao phủ cơ bản (kể cả vùng Trà Cổ, Bỡnh Ngọc và 2 xó đảo và xó

Bắc Sơn) phục vụ khu du lịch và thúc đẩy phát triển kinh tế xó hội cho 2 xó

đảo. Đến nay mật độ máy đó đạt 36,3 máy/100 dân (bao gồm cả số thuê bao

di động trả sau) gấp 8 lần so với thời điểm năm 1995.

Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi có Quyết định 675 TTg của

Thủ tướng Chính phủ kinh tế khu vực cửa khẩu Móng Cái cơ sở hạ tầng được

tập trung đầu tư xây dựng, tạo nên một đô thị văn minh hiện đại. Các công

trỡnh được đầu tư trọng điểm, có chiều sâu, khi đưa vào khai thác đó phỏt huy

hiệu quả cao, đặc biệt là các công trỡnh giao thụng, cỏc cụng trỡnh phục vụ

thương mại, du lịch, nông lâm ngư nghiệp.

Từ năm 1991 đến nay, giá trị đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng toàn xó hội

ở khu vực Móng Cái đạt trên 2300 tỷ đồng, trong đó các công trỡnh đầu tư

bằng nguồn vốn ngân sách chiếm tới 60%, từ nhân dân chiếm 40%. Trong

nguồn ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho các công trỡnh như đường

giao thông, điện, thông tin liên lạc, khu thương mại, trường học, bệnh viện,

công trỡnh thuỷ lợi phục vụ nụng nghiệp phỏt triển nụng thụn.

Thu hút đầu tư: Từ khi có cơ chế ưu đói đầu tư theo Quyết định 675

TTg đó cú nhiều doanh nghiệp, cỏc tập đoàn đầu tư trong và ngoài nước đến

tỡm hiểu về chớnh sỏch, thị trường và xin cấp phép đầu tư. Nếu như năm

1991 lĩnh vực thu hút đầu tư chỉ mới là những bước chuẩn bị thỡ đến nay đó

cú 21 dự ỏn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn pháp định là 170,4 triệu USD

trong đó nhiều doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả và đang mở rộng quy mô

sản xuất, kinh doanh. Việc vận dụng linh hoạt các chính sách ưu đói đầu tư,

tháo gỡ khó khăn về mặt cơ chế, chính sách đó làm cho Múng Cỏi cú sức hấp

dẫn rất lớn cỏc nhà đầu tư, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh

tế - xó hội khu kinh tế cửa khẩu.

Về đầu tư trong nước: Tranh thủ được cơ chế, chính sách ưu đói và sự

ủng hộ của cấp uỷ, chớnh quyền thị xó, cỏc thành phần kinh tế đó mạnh dạn

đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại khu kinh tế cửa khẩu. Đến năm 2006 đó cú

cú 277 doanh nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài, hợp

tỏc xó, chi nhánh, văn phũng đại diện) với tổng số vốn pháp định đạt trên 600

tỷ đồng.

Công tác văn hoá - Y tế - Giáo dục: Về công tác văn hoá, luôn được

quan tâm đầu tư nhằm nâng cao mức sống tinh thần cho nhân dân. Nếu như

tại thời điểm năm 1991, cơ sở vật chất của ngành văn hoá hầu như không có

gỡ, sau khi cú quyết định 675TTg, bằng nguồn vốn ngân sách và sự tham gia

đóng góp của nhân dân, nhiều công trỡnh nhà văn hoá được đầu tư xây dựng.

Tính đến năm 2006 ngoài Trung tâm Văn hoá - Thông tin - Thể thao thị xó,

hầu hết cỏc xó, phường đều có nhà văn hoá thôn, bản phát huy hiệu quả rất

cao. Công tác tiếp, phát sóng truyền hỡnh được đưa lên tầm cao mới, chất

lượng phát sóng, tin, bài ngày càng được nâng lên; phản ánh đầy đủ, kịp thời

các hoạt động chính trị của Thị xó và đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ cho

nhân dân.

Thành quả thu được từ hoạt động ngành y tế là chất lượng khám chữa

bệnh của Trung tâm y tế và mạng lưới y tế cơ sở được nâng lên rừ rệt; Nõng

cao trỡnh độ chuyên môn, bổ sung lực lượng y bác sĩ gắn với việc thực hiện

12 điều y đức. Thị xó tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hịên đại

nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác quản lý

Nhà nước về Y dược tư nhân được tăng cường. Năm 1995, chỉ có 7.435 lượt

người khám chữa bệnh thỡ năm 2006 Trung tâm y tế (nay đó được quyết định

là Bệnh viện Đa khoa Khu vực) đó tổ chức khỏm bệnh cho 75.000 lượt người.

Đó tổ chức cấp thẻ bảo hiểm cho người nghèo được trên 900 sổ hộ nghèo để

làm căn cứ thực hiện các chính sách ưu đói đối với người nghèo. Các xó

nghốo, cỏc xó chương trỡnh 135 được quan tâm chỉ đạo, thực hiện và đó thu

được kết quả tốt.

Công tác giáo dục đào tạo thường xuyên được quan tâm của toàn xó

hội. Tỷ lệ học sinh đến trường mỗi năm đều tăng, tỷ lệ học sinh đi học trên tỷ

lệ dân số đạt 25%. Đến nay toàn thị xó đó đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu

học, THCS và xoá mù chữ, hiện nay đang thực hiện phổ cập bậc trung học;

Duy trỡ trường dân tộc nội trú Hải Sơn vào hoạt động và duy trỡ tốt sĩ số học

sinh là con em đồng bào dân tộc ít người. Cơ sở vật chất cho trường học luôn

được quan tâm, đó cú 80% số xó, phường có trường học cao tầng không cũn

tỡnh trạng học sinh phải học 3 ca. Phong trào xó hội hoỏ giỏo dục đang được

các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đặc biệt là ngành học mầm non và PTTH.

Thực hiện chớnh sỏch xó hội: Vấn đề thực hiện chính sách xó hội luụn

được trú trọng, đảm bảo chủ trương, chính sách của Đảng đến với mọi người

dân, thể hiện ý nghĩa ưu việt của chế độ mang lại. Đời sống nhân dân ổn định

và từng bước được cải thiện, công tác xoá đói giảm nghèo được các cấp đoàn

thể quan tâm thực hiện có hiệu quả. Qua điều tra thống kế năm 1991 cho thấy

số hộ đói nghèo chiếm 38%, đến nay chỉ cũn 3,9%.

Công tác đối ngoại: Tiếp tục duy trỡ và phỏt triển mối quan hệ hợp tỏc

hữu nghị với Thị xó Đông Hưng, khu Phũng Thành (Trung Quốc). Đó chủ

động phối hợp với Chính quyền Thị xó Đông Hưng và khu phũng Thành

(Trung Quốc) giải quyết nhiều vấn đề nảy sinh trên biên giới, tổ chức các hoạt

động giao lưu để thúc đẩy phát triển kinh tế xó hội khu vực biờn giới.

Quốc phũng an ninh: Sự ổn định về Quốc phũng an ninh cú ý nghĩa

quan trọng, là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xó hội.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua cấp uỷ chính quyền

địa phương đó làm tốt cụng tỏc chỉ đạo, nên tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị, trật

tự an ninh toàn xó hội được đảm bảo, chủ quyền quốc gia được giữ vững .

Túm lại, với những chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng

bộ thị xó, sự triển khai tớch cực của cỏc cấp chớnh quyền, cỏc sở, ban, ngành

chuyờn mụn trong 15 năm qua, tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội của thị xó Múng

Cỏi đó cú bước phát triển mạnh: kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối vững

chắc, cơ cấu kinh tế thay đổi cơ bản từ chỗ nông - lâm - ngư nghiệp chuyển

sang thương mại - du lịch - dịch vụ - nuôi trồng thuỷ sản, văn hóa xó hội cú

nhiều tiến bộ, an ninh chớnh trị được giữ vững, đời sống nhân dân được nâng

cao, nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng bộ thị xó, tớch

cực gúp phần xõy dựng quờ hương ngày càng giàu đẹp. Quỏ trỡnh lónh đạo

đó đó để lại những kinh nghiệm quý bỏu cho sự lónh đạo của Đảng bộ thị xó

trong những năm tiếp theo để xây dựng Móng Cái là Thành phố biên giới cửa

khẩu – Trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ hiện đại, văn minh.

Nguyên nhân của những thành tựu đó, trước hết là do thực hiện đúng

quan điểm "đổi mới" của Đảng, Nhà nước và đã có những chủ trương, chính

sách phù hợp phát triển các khu vực kinh tế cửa khẩu, biên giới, trong đó có

Thị xã Móng Cái. Đồng thời, dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, HĐND-

UBND, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các ban, ngành Quảng Ninh. Ban Thường

vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ, HĐND-UBND đã có những đổi mới trong công

tác lãnh đạo, chỉ đạo, bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm chắc tình hình cơ sở,

thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự tập trung vào các công việc

trọng tâm, đột xuất, với lộ trình thực hiện phù hợp, cụ thể hơn. Chủ động bổ

sung quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của thị xã, của một số ngành; ban

hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng, bức xúc, kịp thời vận dụng một

cách có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bổ sung

giải pháp phù hợp nhằm khai thác những lợi thế, tiềm năng có được trên địa

bàn.

Do có những chủ trương đúng, sát thực tiễn, đã tạo ra sự đoàn kết thống

nhất cao trong xã hội, quán triệt quan điểm "xã hội hoá", huy động các

nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các

thành phần kinh tế và toàn xã hội tham gia, tạo nên sự phát triển năng động,

toàn diện thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị từ thị xã đến cơ

sở luôn được xác định là nhiệm vụ then chốt, trọng tâm và luôn được thường

xuyên quan tâm thực hiện. Nắm chắc diễn biến tình hình tư tưởng trong Đảng,

tâm trạng nhân dân, kịp thời giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của

nhân dân; làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, sử dụng đúng người, đúng việc; có

kiểm tra, uốn nắn kịp thời; bám sát cơ sở, xử lý dứt điểm các tình huống từ cơ

sở ..v.v. Đây là những việc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tổ chức Đảng

là tổ chức tiên phong, đảng viên là đảng viên gương mẫu. Từ đó, tạo ra niềm

tin, động lực to lớn để Đảng bộ, nhân dân Thị xã chúng ta hoàn thành nhiệm

vụ chính trị của mình.

3.1.2 Những hạn chế và yếu kộm

Trước hết, tuy tốc độ tăng trưởng cao, song chưa vững chắc, chưa đều;

cơ cấu nội ngành còn chậm đổi mới, cơ cấu vùng chưa rõ nét. Công nghiệp

hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn còn nhiều bất cập, hiệu quả khai thác

tiềm năng đất đai và lao động chưa cao; công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp

phát triển chưa bền vững, phần giá trị gia tăng còn thấp; Các ngành dịch vụ

phát triển chưa cân đối, còn mang yếu tố tự phát nên hiệu quả kinh tế chưa

cao; chất lượng giao thông-vận tải có những mặt hạn chế, vận chuyển hành

khách chưa đáp ứng được nhu cầu du khách trong, ngoài nước; Việc huy động

và phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân chưa tương xứng

với tiềm năng; Đời sống nhân dân miền núi, dân tộc thiểu số còn nhiều khó

khăn...

Thu ngân sách tuy đạt giá trị lớn nhưng một số nguồn thu còn hạn chế,

còn nhiều xã-phường chưa tự cân đối ngân sách; Việc thu phí, lệ phí đạt

thấp; nguồn thu từ cấp quyền sử dụng đất còn chiếm tỷ trọng cao.

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, nhất là quản lý đất đai còn

hạn chế. Tình trạng lấn chiếm, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong

nhân dân còn xẩy ra, có vụ việc diễn biến phức tạp; việc sử dụng quỹ đất cho

đầu tư phát triển chưa mạnh; Trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn dàn trải;

tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chất lượng công trình vẫn là vấn

đề cần được quan tâm; dự án đầu tư theo các chương trình chưa được triển

khai đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu quả chưa cao.

Thực hiện chủ trương "Xã hội hóa" trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo

dục... còn thiếu những biện pháp hữu hiệu. Chất lượng hoạt động của nhà văn

hoá cộng đồng chưa cao; Việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc

tang, trong lễ hội kết quả còn thấp; Bộ máy tổ chức, quy chế, lề lối làm việc

và đội ngũ cán bộ văn hóa còn yếu. Chất lượng khám, chữa bệnh của Bệnh

viện Móng Cái, mạng lưới y tế cơ sở nhìn chung chưa ngang tầm; Chất lượng

giáo dục vẫn là đòi hỏi bức xúc của nhân dân trong đào tạo nguồn nhân lực

cho địa phương. Chỉ tiêu hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ người sinh con

thứ 3 còn cao và không vững chắc.

Nguyên nhân của những thiếu sót, yếu kém là do tình hình thế giới

diễn biến phức tạp, tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhanh, một số chính

sách vĩ mô, một số vấn đề mới về hành lang pháp lý của nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN chưa hướng dẫn kịp thời. Giá cả một số mặt hàng

thiết yếu tăng cao, dịch bệnh và thời tiết diễn biến phức tạp... đã ảnh hưởng

trực tiếp đến kinh tế, đời sống nhân dân.

Ngoài ra, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ, Ban Chấp

hành Đảng bộ, của Thường trực Thị ủy, HĐND-UBND Thị xã có lúc chưa

kịp thời, chưa kiên quyết. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên trong cán bộ

chủ chốt ở cơ sở trước những việc khó, liên quan đến số đông nhân dân... còn

nặng và khá phổ biến. Năng lực trình độ quản lí bộ máy công quyền của một

số cán bộ còn yếu. Số ít cán bộ, nhất là cơ sở ý thức rèn luyện phẩm chất, đạo

đức, tinh thần trách nhiệm công tác chưa tốt; vi phạm nguyên tắc sinh hoạt

Đảng, Đoàn thể, vi phạm chính sách đã phải xử lý kỷ luật. Sự phối hợp giữa

các cơ quan chức năng khi giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh

tế trực tiếp của dân chưa tốt.

Đảng bộ thị xã Móng Cái nghiêm túc xem xét những nguyên nhân đó

để tìm ra hướng đi mới khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo của các cấp

ủy Đảng, các cấp chính quyền, đưa các hoạt động kinh tế – xã hội của thị xã

đi đúng hướng, phát triển mạnh mẽ.

3.2 Một số kinh nghiệm trong lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội

của Đảng bộ thị xã Móng Cái.

Từ những kết quả đó đạt được và những tồn tại, chạn chế trong quá

trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội trong 15 năm qua của Đảng bộ thị xó Múng

Cỏi, cú thể rỳt ra một vài kinh nghiệm sau:

Một là, Phải quán triệt sâu sắc đường lối chính sách Đảng, pháp luật

của nhà nước và vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa

phương.

Vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Trung ương không phải

là kinh nghiệm riêng của Đảng bộ Móng Cái. Bất cứ Đảng bộ nào lãnh đạo

thành công công cuộc đổi mới ở địa phương đều đúc rút ra kinh nghiệm lãnh

đạo quan trọng là vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Trung ương.

Đối với Đảng bộ thị xã Móng Cái, đây là kinh nghiệm quan trọng đầu tiên.

Muốn vận dụng sáng tạo, trước hết phải đòi hỏi quán triệt sâu sắc đường lối

của Trung ương, bảo đảm cho việc thực hiện ở địa phương không đi chệch

hướng. Đường lối, chính sách của Đảng chỉ thể hiện ở những vấn đề chung

nhất, nhưng mỗi địa phương có những đặc điểm riêng, những điều kiện kinh

tế – xã hội không hoàn toàn giống nhau. Do vậy các Đảng bộ phải biết vận

dụng một cách linh hoạt sáng tạo, phù hợp với từng địa phương. Tuyên

truyền, vận động, giáo dục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của

Đảng và những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện của Đảng bộ, tránh tư

tưởng chủ quan, tự mãn. Chính tư tưởng đó dẫn đến quan liêu, duy ý chí, thủ

tiêu sáng tạo… Trải qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ thị xã

Móng Cái đã xuất phát từ đường lối, chính sách của Trung ương, nhận thức

đầy đủ đặc điểm, điều kiện của địa phương có vị trí địa lý chiến lược, có

nhiều tiềm năng đa dạng có thể khai thác như: Du lịch, kinh tế biển, khai thác

đất đai, tài nguyên khoáng sản để phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp… Đảng bộ thị xã Móng Cái đã đề ra những chủ trương,

giải pháp phù hợp với địa phương, đó chính là sự vận dụng sáng tạo đường

lối, chính sách chung của Đảng bộ thị xã Móng Cái. Thị ủy tổ chức học tập

nghiêm túc các Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh tới toàn bộ hệ thống

tổ chức của Đảng bộ để quán triển đúng đắn, sâu sắc đường lối của cấp trên.

Sau đó Thị ủy đề ra Nghị quyết về chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị

quyết. Ngay sau đó, ủy ban nhân dân thị xã có quyết định triển khai cụ thể ở

địa phương. Nghị quyết của Thị ủy, Quyết định của ủy ban nhân dân đều căn

cứ đường lối, chính sách của Trung ương, Tỉnh và đặc điểm của địa phương

để đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp.

Hai là, Chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý có trình độ năng lực, bản lĩnh, đạo đức, trung thành với sự nghiệp

cách mạng của Đảng, có khả năng quyết đoán, nhiệt tình, nhạy bén với điều

kiện hoàn cảnh mới.

Đội ngũ cán bộ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách

mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là gốc của

mọi công việc” [35,tr.222]. Người luôn đặt cán bộ ở vị trí then chốt: “Cán bộ

là dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ

dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê liệt” [35,tr.222]. Người thường xuyên

chăm lo đến việc đào tạo, rèn luyện để có một đội ngũ cán bộ tốt, Người

khẳng định: “Cán bộ tốt việc gì cũng xong” và “Muôn việc thành công hoặc

thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”

[35,tr.222].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã xác định tiêu chuẩn

chung của cán bộ như sau: “Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ

nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, phấn đấu

thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà

nước. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên

quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực,

không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có

trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính

sách và pháp luật của nhà nước. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng

lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được

giao” [11,tr.79-80]

Qua đó thể hiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn quan tâm

đến công tác cán bộ và đào tạo đội ngũ cán bộ. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi

mới hiện nay, đội ngũ cán bộ phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt

mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.

Đảng bộ thị xã Móng Cái thường xuyên chăm lo công tác xây dựng

Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo phát triển

kinh tế – xã hội của thị xã.

Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng, các chỉ thị Nghị quyết của

Trung ương, của tỉnh ủy, thị ủy được quán triệt nghiêm túc, kịp thời gắn với

chương trình hành động của từng cấp, từng ngành. Công tác giáo dục lý luận

chính trị cho cán bộ, đảng viên được triển khai tích cực góp phần nâng cao

nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, chống những biểu hiện thoái

hóa biến chất trong Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo

của Đảng, với công cuộc đổi mới thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị

của địa phương.

Cơ chế kinh tế mới không chỉ đòi hỏi có sự lãnh đạo đúng đắn kịp thời

của Đảng mà nó còn phải có đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,

có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo và quản lý. Công tác cán bộ

có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng, làm tốt

công tác cán bộ thì hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, kinh tế – xã hội

ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.

Nhận thức đầy đủ về công tác cán bộ, thị xã đã hoàn thành việc tổ chức

sắp xếp lại các phòng, ban chức năng theo Nghị định 172 của Chính Phủ. Đội

ngũ cán bộ quản lí Nhà nước đã có trình độ chuyên môn khá hơn (60/78 đồng

chí có trình độ Đại học, nhiều đồng chí đã có trình độ cao cấp lý luận). Căn cứ

vào yêu cầu nhiệm vụ UBND thị xã đã ban hành quyết định ưu đãi đối với

cán bộ đi học, chính sách ưu đãi tiếp nhận sinh viên có trình độ đại học xuống

cơ sở công tác. Trong thời gian qua Thị uỷ đã thực hiện có hiệu quả công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Một mặt do tích cực thực hiện các chỉ tiêu cử cán

bộ đi học do Tỉnh phân bổ, mặt khác chủ động phối hợp với các Trường của

Tỉnh, của Trung ương để mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ tại Thị xã.

Ba là, Lãnh đạo thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước của chính

quyền các cấp trên địa bàn đối với phát triển kinh tế – xã hội.

Tiềm năng về nguồn lực cho phát triển kinh tế ở Móng Cái còn rất lớn,

nếu có những chính sách thích hợp thì sẽ phát huy được tác dụng trong huy

động nguồn lực cho phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. ở đây

cần nhận thức rằng mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế dù là hữu hình hay

vô hình phải được thừa nhận bằng pháp luật, người sở hữu nó phải được

hưởng thành quả khi đưa vào sản xuất, kinh doanh, phải được thể chế hóa

bằng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của các cơ quan nhà nước

gây cản trở cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị. Tiếp tục

hoàn thiện thể chế, chính sách là một yêu cầu bức thiết đặt ra để phù hợp với

phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế

quốc tế. Để thực hiện được điều này cần phải tiếp tục tạo hành lang pháp lý,

điều kiện môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh tiến

độ cải cách hành chính nhà nước và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế.

Thực hiện chủ trương cải cách hành chính, mà trước mắt là cải cách thủ

tục hành chính có kết quả bước đầu. 100% các xã-phường và Thị xã đã thành

lập phòng đón tiếp, giải quyết các yêu cầu của công dân theo cơ chế "một

cửa", có trang thiết bị, phòng đón tiếp tương đối khang trang.

Bốn là, Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo kinh tế của Đảng bộ địa

phương.

Cũng như ở các thời kỳ cách mạng trước đây, trong công cuộc đổi mới

đất nước, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi. Lãnh đạo

thực hiện phát triển kinh tế – xã hội ở Móng Cái trong những năm vừa qua đạt

được nhiều kết quả, nhân tố hàng đầu là sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã quán

triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là

then chốt”, Đảng bộ thị xã Móng Cái luôn tăng cường vai trò lãnh đạo kinh tế

và đổi mới phương thức lãnh đạo kinh tế, tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo

phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã. Sự lãnh đạo của Đảng bộ không

chỉ là vận dụng Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh để đề ra chủ trương,

giải pháp phù hợp với Móng Cái mà quan trọng là tổ chức thực hiện, đi sâu đi

sát cơ sở nắm bắt tình hình, giải quyết, hỗ trợ kịp thời. Đảng bộ chỉ đạo các

cấp chính quyền tích cực cải cách hành chính theo hướng công khai, minh

bạch, rõ ràng, dễ kiểm tra, kiểm soát và dễ thực hiện. Đây là vấn đề có ý

nghĩa rất quan trọng và luôn được các nhà đầu tư đánh giá cao, thậm chí còn

có hiệu quả cao so với những ưu đãi về tài chính. Để đảm bảo thu hút và khai

thác các nguồn vốn có hiệu quả, việc nâng cao tinh thần và thái độ, trách

nhiệm của các cơ quan chính quyền, các cấp, các ngành là cần thiết. Bên cạnh

việc phân định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ cần có một cơ chế giám sát hữu

hiệu để tránh tình trạng buông lỏng trách nhiệm ở một khau nào đó, gây ảnh

hưởng đến cả hệ thống bộ máy chính quyền. Cần có những biện pháp kịp thời

để xử lý những sai phạm xảy ra, không ngừng tạo điều kiện cho các thành

phần kinh tế cạnh tranh phát triển mạnh mẽ. Phương thức lãnh đạo, điều hành

của các cấp ủy Đảng nói chung và các cấp ủy Đảng trong khối kinh tế nói

riêng phải thường xuyên đổi mới theo tinh thần phát huy dân chủ, tăng cường

đoàn kết, thường xuyên kiểm tra, đảm bảo được sự lãnh đạo thống nhất của

Đảng bộ. Mọi chủ trương, giải pháp lớn của Đảng bộ, về tổ chức và cán bộ

đều được thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra Nghị quyết theo đa số. Tăng

cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo

và trách nhiệm cá nhân. Kiện toàn tổ chức Đảng đồng thời phát huy vai trò,

trách nhiệm của các tổ chức Đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các

đơn vị sản xuất, kinh doanh. Đảng gắn bó với cơ sở gắn bó với quần chúng,

thể hiện ý chí và nguyện vọng của quần chúng…

Những kinh nghiệm trên được Đảng bộ thị xã Móng Cái đúc rút trong

quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội. Những kinh nghiệm đó cần

được phát huy bổ xung để tiếp tục đưa kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển

mạnh thực hiện được mục tiêu mà Đại hội XXI Đảng bộ thị xã đề ra.

Kết luận

Hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006), nhất là từ khi thành lập thị xã (7-

1998) Móng Cái có sự phát triển mạnh mẽ. Vị thế của thị xã đã được khẳng

định. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng, Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX, X, XI, XII và Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ thị xã lần thứ XVIII, XIX, XX, XXI, Đảng bộ thị xã lãnh đạo các

ngành, các xã, phường nắm tình bắt thời cơ, vượt qua thử thách, phát huy các

thế mạnh, khai thác mọi nguồn lực để tập trung phát triển kinh tế – xã hội.

Nhờ sự lãnh đạo sâu sát, năng động của cấp ủy Đảng, chính quyền và sự nỗ

lực của nhân dân các dân tộc, thị xã Móng Cái có những bước phát triển to

lớn về thương mại, du lịch và phát triển kinh tế vùng cửa khẩu với mức tăng

trưởng cao và tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2001

– 2005) tăng 16,1%/năm; bình quân thu nhập trên 1000USD/người/năm. Mỗi

năm bình quân 1 triệu lượt khách du lịch đến Móng Cái. Cơ cấu kinh tế

chuyển dịch tích cực, đúng hướng: Từ nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 80% tỷ

trọng GDP chuyển sang thương mại – du lịch – dịch vụ – công nghiệp – nông

nghiệp, trong đó tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ chiếm trên 70%. Kết

cấu hạ tầng phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội được tăng cường đầu

tư, xây dựng, phát huy hiệu quả làm thay đổi bộ mặt của thị xã. Đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc được cải thiện rõ rệt. Sự nghiệp văn

hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển. Thế trận quốc phòng toàn dân an ninh

nhân dân được củng cố và giữ vững. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng

và phát triển. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được thực hiện có hiệu

quả, hệ thống chính trị được củng cố nâng cao chất lượng hoạt động. Đó là

điều kiện tiên quyết đưa Móng Cái trở thành một địa phương có tốc độ phát

triển kinh tế nhanh và bền vững, là một trong những điểm sáng về kinh tế của

tỉnh và cả nước.

Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, Đảng bộ thị xã Móng Cái luôn

chủ động, sáng tạo tìm tòi cách làm mới, từng bước khai thác tốt tiềm năng,

lợi thế để đưa nền kinh tế thị xã vươn lên giành thắng lợi lớn hơn. Với tiềm

năng, lợi thế và những thắng lợi đã đạt được, cùng với những chủ trương,

chính sách tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội sẽ là yếu tố hấp dẫn

đối với các nhà đầu tư. Sự quan tâm của Trung ương và của Tỉnh, sự năng

động, sáng tạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của lãnh đạo thị xã là một trong

những nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã

hội của thị xã Móng Cái.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu tiến bộ, thị xã Móng Cái cũng

bộc lộ những hạn chế, thiếu sót: kinh tế tăng trưởng cao, song chưa vững

chắc, chưa đều: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn

nhiều bất cập, hiệu quả khai thác tiềm năng đất đai và lao động chưa cao:

công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé. Chất lượng nguồn nhân lực chưa

đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trong chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ

và nhân dân Móng Cái cần phát huy tối đa nội lực, tích cực chủ động tranh

thủ nguồn ngoại lực, tận dụng thời cơ, vận hội thu hút đầu tư trong nước và

nước ngoài, tạo nên sức mạnh tổng hợp đáp ứng yêu cầu của sự phát triển

nhanh và bền vững.

Những kinh nghiệm của Đảng bộ thị xã Móng Cái rút ra trong quá trình

lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội là vô cùng quý báu đối với sự phát triển

của thị xã trong hiện tại và tương lai. Đó là nền tảng vững chắc, là tiền đề tạo

nên sức mạnh mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc thị xã Móng

Cái viết tiếp những trang sử vẻ vang trong chặng đường mới – chặng đường

đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Móng Cái là Thành phố

biên giới cửa khẩu – Trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ hiện đại, văn

minh.

Danh mục Tài liệu tham khảo

1. Phạm Ngọc Anh (2003), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về

kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa

giới các đơn vị hành chính 1945 – 1997, Nxb Văn hóa – Thông tin.

3. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta

trong hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam(1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VII – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên

chủ nghĩa xã hội – Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội

đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia,

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa VI) “Về phương hướng, nhiệm vụ phát

triển kinh tế – xã hội trong ba năm 1988 - 1990 và năm 1988”.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ

(khóa VII) , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương (khóa VIII) , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban

Chấp hành Trung ương (khóa IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) Về phát triển kinh tế – xã hội, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh Quảng Ninh lần thứ IX

16. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1994), Văn kiện Hội nghị Đại biểu Đảng bộ

tỉnh giữa nhiệm kỳ (Khóa IX)

17. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ X

18. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh biểu lần thứ XI

19. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ XII

20. Đảng bộ huyện Hải Ninh (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ

XVIII Đảng bộ huyện Hải Ninh

21. Đảng bộ huyện Hải Ninh (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ

XIX Đảng bộ huyện Hải Ninh

22. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XX

Đảng bộ thị xã Móng Cái

23. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ

XXI Đảng bộ thị xã Móng Cái

24. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2000), Nghị quyết “Về một số chủ trương,

biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội nông thôn trong thời

gian tới”, Số 10/NQ-TU.

25. Đảng bộ thị xã Móng Cái (2001), Nghị quyết “Về việc tổ chức triển

khai các mô hình trình diễn đã thành công vào sản xuất đại trà, thực

hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp” ,

Số 01/NQ-TU.

26. Nguyễn Hữu Đức (2003), Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi

mới đất nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

27. PGS Lê Mậu Hãn – Ths. Nguyễn Huy Cát – Ths. Phạm Hồng

Chương(2006), Biên niên Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 – 2005,

tập I (1945-1954), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

28. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Vững bước trên con đường đã

chọn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Huyện ủy Hải Ninh (1994), Nghị quyết của BCH Đảng bộ huyện về

chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về “Tiếp

tục đổi mới về phát triển kinh tế – xã hội nông thôn” , Số 05/NQ-HU.

30. Huyện ủy Hải Ninh (1995), Nghị quyết của BTV Huyện ủy “Về việc

củng cố và phát triển Du lịch – Dịch vụ trên địa bàn huyện” , Số

05/NQ-HU.

31. Huyện ủy Hải Ninh (1996), Nghị quyết về công tác khuyến nông năm

1996 – 1997, Số 01/NQ-HU.

32. Huyện ủy Hải Ninh (1996), Nghị quyết về chuyển đổi mô hình hợp tác

xã nông nghiệp, Số 03/NQ-HU.

33. Phạm Xuân Nam (2001), “Đổi mới kinh tế – xã hội ở Việt Nam (1986-

2000) – Một cái nhìn tổng quan”, Tạp chí Kinh tế và dự báo(11), tr.25.

34. Vũ Dương Ninh (2001), Quan hệ đối ngoại Việt Nam qua 15 năm đổi

mới (1986 – 2000), Nxb Khoa học Xã hội

35. Niên giám thống kê thị xã Móng Cái năm 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội

– 2004.

36. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.

37. PGS,TS. Trình Mưu – TS. Nguyễn Thế Lực – TS. Nguyễn Hoàng

Giáp (2005), Quá trình triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận Chinh trị, Hà

Nội.

38. Đỗ Mười (1993), Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội. Bài

phát biểu tại Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5 khóa VII.

39. Đinh Xuân Lý (2001), Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Nguyễn Xuân Oánh (2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách

kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Nguyễn Trọng Phúc (1998), Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam

trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Tỉnh ủy Quảng Ninh (2004), Nghị quyết “Về việc xây dựng và phát

triển thị xã Móng Cái trở thành Thành phố biên giới, cửa khẩu”, Số

19-NQ/TU.

43. Thị ủy Móng Cái (2001), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thị xã Móng

Cái – Khóa XX “V/V tổ chức triển khai các mô hình trình diễn đã

thành công vào sản xuất đại trà, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây

trồng, cơ cấu mùa vụ trong nông nghiệp” , Số 01-NQ/TU.

44. Thị ủy Móng Cái (2001), Thông báo kết luận của BTV Thị ủy “Về một

số chủ trương, biện pháp phát triển công nghiệp – tiểu thủ công

nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sản xuất, chế biến

hàng xuất khẩu năm 2001 và những năm tiếp theo”, Số 16-TB/TU.

45. Thị ủy Móng Cái (2002), Thông báo kết luận của BTV Thị ủy “V/V

phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thị xã Móng

Cái trong thời gian tới”, Số 10/TB-TU.

46. Thị ủy Móng Cái (2003), Báo cáo tổng hợp chỉ tiêu phát triển kinh tế –

xã hội thời kỳ 1990 – 2003, Số 215-BC/TU.

47. Thị ủy Móng Cái (2003), Số 13-NQ/TU, Nghị quyết của Ban Thường

vụ Thị ủy “Về phát triển kinh tế thủy sản đến năm 2010”

48. Thị ủy Móng Cái (2004), Nghị quyết của Ban Thường vụ Thị ủy “Về

xây dựng, phát triển thị xã Móng Cái đến 2010” , Số 27-NQ/TU.

49. Thị ủy Móng Cái (2005), Báo cáo kết quả 3 năm (2002 – 2005) triển

khai, thực hiện Chỉ thị 15 – CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng

Ninh “Về tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới,

biển đảo Quảng Ninh trong tình hình mới”, Số 254-BC/TU.

50. Vũ Hồng Tiến (2005), Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà

Nội.

51. Đặng Hữu Toàn (2002), Chủ nghĩa Mác-Lênin và công cuộc đổi mới ở

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Đào Duy Tùng (1996), Quan niệm về Chủ nghĩa xã hội và con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. UBND huyện Hải Ninh (1998), Các báo cáo tình hình kinh tế – xã hội

huyện Hải Ninh từ năm 1991 – 1997, Văn phòng UBND

54. UBND thị xã Móng Cái (2006), Các báo cáo tình hình kinh tế – xã thị

xã Móng Cái từ năm 1998 – 2006, Văn phòng UBND

55. UBND thị xã Móng Cái (1995), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kế hoạch

năm 1991 – 1995, phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 1996 – 2000,

Số 18/BC-UB.

56. UBND thị xã Móng Cái (1998), Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế – xã hội thị xã Móng Cái đến năm 2010, Số 70/BC-

UB.

57. UBND thị xã Móng Cái (2003), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện chỉ thị

15/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường xây dựng và phát

triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh các xã, phường

biên giới, hải đảo, Số 93/BC-UB.

58. UBND thị xã Móng Cái (2004), Báo cáo Về tình hình phát triển đô thị

giai đoạn 1995 – 2004, Số 157/BC-UB.

59. UBND thị xã Móng Cái (2005), Báo cáo Kết quả thực hiện chỉ tiêu

kinh tế – xã hội thời kỳ 2001-2005; định hướng phát triển kinh tế – xã

hội 2006-2010, Số 190/BC-UB.

60. UBND thị xã Móng Cái (2006), Báo cáo tình hình hoạt động trong

thời gian qua và một số đề xuất về cơ chế chính sách cho khu kinh tế

cửa khẩu Móng Cái trong thời gian tới, Số 231/BC-UBND.