ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Thức Hà Nội, 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này do chính tôi thực hiện. Những

số liệu và kết quả đưa ra trong luận văn là trung thực và chính xác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều thầy, cô, gia đình,

bạn bè và các cơ quan đơn vị.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới quý Thầy Cô giáo trong khoa Lịch sử nói

chung, các Thầy Cô trong bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng đã

tận tình dạy dỗ, chỉ bảo, truyền thụ những kiến thức quý báu cho tôi trong quá trình

học cao học.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy, TS. Trần Văn Thức – người

hướng dẫn khoa học. Thầy đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi

nhất cho tôi trong suốt quá trình chuẩn bị đề cương, nghiên cứu và bảo vệ luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định,

Thư viện tỉnh Bình Định, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, Trường

Đại học Quang Trung đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này

Hà Nội, tháng 7 năm 2015.

Học viên

Nguyễn Thị Huyền

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC ................................................................................................................. 1

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ..................................................................... 7

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 8

6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8

7. Bố cục luận văn .................................................................................................. 9

CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” (1965-1968) ........................................................................... 10

1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định .......................................................................... 10

1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. ........................................ 10

1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng. ...................................... 14

1.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh (từ năm 1965 đến năm 1968) ............................................................................... 25

1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử .................................................................................... 25

1.2.2. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện ....................................... 30

1.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 39

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 63

CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1969-1975) .............................. 66

2.1. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần đánh bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ( 1969-1973) ...................................................... 66

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử .................................................................................... 66

2.1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích (từ năm 1969 đến năm 1973) ............................................................................ 69

2.1.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 74

2.2. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1973-1975) ..................................................................................... 88

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử .................................................................................... 88

2.2.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh từ năm 1973 đến năm 1975 ....................................................................... 89

2.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định. ......................................... 95

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................ 102

3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT .............................................................................. 102

3.1.1. Ưu điểm .............................................................................................. 102

3.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 113

3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ....................................................................... 118

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 131

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 137

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 147

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Chiến tranh là một đề tài được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin

quan tâm bàn bạc khá nhiều. Những luận chứng về chiến tranh của các nhà kinh

điển trở thành cơ sở quan trọng cho hầu hết các cuộc chiến tranh vệ quốc từ cuối

thế kỷ XIX.

Việt Nam – một quốc gia mà lịch sử dựng nước luôn luôn gắn liền với lịch sử

giữ nước thì những cơ sở lý luận về chiến tranh càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,

đặc biệt từ cuối thế kỉ XIX khi Việt Nam trực tiếp đương đầu với một kẻ thù hoàn

toàn mới, đó là thực dân Pháp, sang thế kỷ XX là cả Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là

những kẻ xâm lược có sự khác biệt lớn so với Việt Nam về phương thức sản xuất.

Họ mạnh hơn Việt Nam nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quốc phòng. Cuộc chiến

tranh vệ quốc của dân tộc Việt Nam vì thế trở nên khó khăn hơn lúc nào hết. Tiếp

thu, chọn lọc sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân

tộc, kế thừa kinh nghiệm giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, ngay từ những

ngày đầu Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ

trương huy động toàn dân vào cuộc kháng chiến, xây dựng thế trận chiến tranh

nhân dân, toàn dân đánh giặc. Với phương thức chiến tranh nhân dân ở một nước

đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế quốc phòng nhỏ bé như Việt

Nam thì đi từ đánh nhỏ tiến dần lên đánh lớn là giải pháp tối ưu để Việt Nam từng

bước khắc phục được những khó khăn của mình trong cuộc chiến. Và hình thái

chiến tranh du kích trở thành hình thái chiến tranh chủ đạo trong cả kháng chiến

chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam. Chiến tranh du kích là “chiến

tranh được tiến hành theo phương thức đánh du kích với lực lượng nhỏ, lẻ và nòng

cốt là lực lượng vũ trang địa phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về

1

sức mạnh quân sự. Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược

khi so sánh lực lượng ở các nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính

quy. Chiến tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn

phối hợp với chiến tranh chính quy” [135; tr224]. Những lý luận về hình thái chiến

tranh này được Bác Hồ và nhiều nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc của Việt Nam phản

ánh trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói mà điển hình là cuốn “Cách đánh du

kích” của Hồ Chí Minh (1944). Thực tế sinh động, sáng tạo của chiến tranh du kích

được thể hiện rõ nét trong chiến tranh giải phóng ở hầu khắp các tỉnh thành của

Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), chiến tranh giải

phóng ở Bình Định không nằm ngoài phạm vi của hình thái chiến tranh du kích. Là

một tỉnh nằm ở khu vực Nam Trung Bộ, án ngữ tuyến đường từ Bắc vào Nam hơn

100 km, là cửa ngõ lên Tây Nguyên từ biển Đông, là tỉnh thuộc vùng tự do Liên

khu V trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đến kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước Bình Định trở thành vùng do đối phương tạm thời kiểm soát. Suốt 21

năm tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, Mỹ và bọn tay sai đã gây

không biết bao nhiêu đau thương cho mảnh đất, con người Bình Định. Máu, nước

mắt kẻ thù gây ra trở thành động lực to lớn cho đồng bào chiến sĩ nơi đây vùng dậy

tạo ra sự hồi sinh cho mảnh đất này. Ngay từ buổi đầu đánh Mỹ, Đảng bộ tỉnh Bình

Định đã xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, huy động tối đa sức người sức của

của Bình Định phục vụ cho chiến tranh du kích chống lại các chiến lược chiến

tranh của Mỹ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng bào Bình Định đã đi qua song

những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến vẫn có giá trị to lớn trong sự

nghiệp xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Với

mong muốn làm rõ phong trào chiến tranh du kích của đồng bào chiến sĩ Bình Định

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, qua đó

2

chỉ ra những ưu khuyết điểm sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với

phong trào chiến tranh du kích của tỉnh, rút ra một số kinh nghiệm góp phần phục

vụ một số nhiệm vụ quân sự tỉnh Bình Định hiện nay tôi quyết định chọn đề tài

“Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965

đến năm 1975” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam.

2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Gần 40 năm kể từ khi nhân dân Bình Định hoàn thành cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước là một khoảng thời gian dài đủ để chúng ta có cái nhìn khái quát đa

chiều về cuộc kháng chiến này. Đã có không ít công trình nghiên cứu về kháng

chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định của các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh.

Và do đó nhiều vấn đề xung quanh cuộc chiến đã được làm rõ. Tuy nhiên chủ đề

chiến tranh du kích ở Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn chưa

được nghiên cứu một cách hệ thống. Điểm lại các công trình nghiên cứu về chủ đề

này có thể chia thành hai nhóm như sau.

2.1. Các công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh, kháng chiến chống Mỹ,

cứu nƣớc liên quan đến Bình Định và ở Bình Định.

Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), các tập từ tập 1đến tập 9

do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn.

Khu 5- 30 năm chiến tranh giải phóng (tập 2, tập 3) do Bộ tư lệnh Quân khu 5 xuất

bản năm 1989. Công trình nghiên cứu này trình bày quá trình hình thành, phát triển

chiến tranh cách mạng của quân và dân Khu 5, trong đó có Bình Định dưới sự lãnh

đạo của Đảng bộ Khu 5 trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954

– 1975). Chuyên đề: Chống phá bình định giành dân và giữ dân trên địa bàn khu

5,do Trần Quý Cát chủ biên, xuất bản năm 1997. Đây là công trình nghiên cứu đề

cập đến diễn biến quá trình chống phá bình định giành dân ở địa bàn khu 5, trong

3

đó có Bình Định.

Công trình nghiên cứu Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 – 1975) của Viện Lịch

sử Đảng xuất bản năm 1992, trình bày quá trình kháng chiến chống Pháp và chống

Mỹ của quân dân các tỉnh Nam Trung Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ

Tổ quốc do Hoàng Minh Thảo (chủ biên) là công trình này tập hợp những bài

nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, về nghệ thuật quân sự Việt Nam

trong kháng chiến chống Mỹ, quan điểm quân sự của Đảng trong giai đoạn cách

mạng hiện nay.

Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bình Định còn có nhiều

công trình được thực hiện bởi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự các

huyện, thị trên địa bàn tỉnh Bình Định như:

Bình Định lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 -1975) do Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh biên soạn, xuất bản năm 1992. Công trình này tập trung phản ánh

phong trào cách mạng tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Pháp và kháng

chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.

Chiến tranh du kích trên chiến trường Bình Định (1945 – 1975) xuất bản năm

1991 là công trình mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả phong trào

chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1945 đến năm 1975, qua đó rút ra một số

bài học kinh nghiệm từ phong trào chiến tranh này.

Trong công trình Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bình Định

xuất bản năm 1994, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả một cách

sinh động một số trận đánh tiêu biểu của các lực lượng vũ trang tỉnh đồng thời chỉ

ra những đặc điểm nổi bật của các trận đánh đó.

Ngoài những công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng Bình Định do Bộ

chỉ huy quân sự tỉnh biên soạn, còn một số công trình nghiên cứu về phong trào đấu

4

tranh của nhân dân các huyện trên địa bàn tỉnh được thực hiện bởi Ban chỉ huy quân

sự ở các huyện. Ví như công trình Phù Cát lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng

(1945 – 1975, Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hoài Ân (1945 –

2005), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ (1945 – 2005)…

2.2 Những công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ các cấp ở tỉnh Bình Định.

Loại công trình này gồm có:

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (tập 1, tập 2, tập 3) do Ban chấp hành Đảng bộ

tỉnh Bình Định biên soạn và xuất bản năm 1992. Công trình này nghiên cứu về sự

ra đời và phát triển của Đảng bộ tỉnh Bình Định, quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Định

lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định kháng chiến chống thực dân

Pháp, đế quốc Mỹ.

Cùng với đó, hầu hết các huyện của tỉnh Bình Định đều có công trình nghiên

cứu về lịch sử Đảng bộ huyện. Ví như, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Quy

Nhơn có công trình Lịch sử Đảng bộ thành phố Quy Nhơn (1930 – 1975), Ban chấp

hành Đảng bộ huyện Tuy Phước nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy Phước

(1945 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vân Canh nghiên cứu Lịch sử Đảng

bộ huyện Vân Canh (1930 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Ân ra mắt

công trình Lịch sử Đảng bộ huyện Hoài Ân (1930 – 1975), Ban chấp hành huyện

An Nhơn biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện An Nhơn (1930 – 1975), Lịch sử Đảng

Bộ Phù Cát (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát biên soạn

năm 1996; Lịch sử Đảng Bộ Tây Sơn (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ

huyện Tây Sơn biên soạn năm 1999; Lịch sử Đảng Bộ Vĩnh Thạnh (1945 – 1975)

do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh biên soạn năm 1998 v.v. Những

công trình nghiên cứu lịch sử Đảng bộ của các huyện đều tập trung làm rõ quá trình

ra đời, phát triển của Đảng bộ huyện, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân

trong huyện qua các thời kỳ cách mạng.

Nhìn chung có khá nhiều công trình nghiên cứu công bố có đề cập ít nhiều đến

5

phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với

phong trào này trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975.

Những công trình nghiên cứu này chưa làm rõ:

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến

tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975.

- Những ưu điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích ở Bình

Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Những hạn chế và một số kinh nghiệm rút ra từ lãnh đạo phong trào chiến

tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 của Đảng bộ tỉnh Bình Định.

2.3 Những vấn đề luận văn tập trung nghiên cứu.

Nhằm góp phần giải quyết những vấn đề tồn đọng của các công trình đã công

bố. Cụ thể là:

- Trình bày có hệ thống, toàn diện về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ đối với

phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh trong những năm 1965-1975

- Làm sáng rõ quá trình hiện thực hóa chủ trương của Đảng về chiến tranh du kích

của lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định trong những năm 1965-1975

- Phân tích đánh giá những thành công, hạn chế trong quá trình Đảng bộ Bình

Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích.

- Rút ra các kinh nghiệm.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu.

Luận văn nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định

đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1965 đến năm 1975.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Làm rõ chủ trương, đường lối, phương thức chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ tỉnh

Bình Định trong phong trào chiến tranh du kích giai đoạn 1965 – 1975.

- Dựng lại phong trào chiến tranh du kích dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh

6

Bình Định.

- Rút ra một số nhận xét về mặt tích cực, hạn chế trong công tác lãnh đạo phong

trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh giai đoạn 1965-1975. Chỉ ra nguyên nhân

của những tích cực và hạn chế đó.

- Nêu lên một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ

tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975, nhằm góp

phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng phương án tác chiến, sẵn sàng bảo

vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh, huyện hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.

Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích trong kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.

- Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Bộ tỉnh Bình Định

đối với phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975.

- Thời gian, không gian nghiên cứu của luận văn là địa bàn tỉnh Bình Định trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975 bao gồm 10 huyện là

Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy

Phước, Vân Canh, Bình Khê (huyện Tây Sơn ngày nay) và thị xã Quy Nhơn (nay là

thành phố Quy Nhơn).

- Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi có đề cập đến bối cảnh cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào chiến sĩ ở miền Nam Việt Nam và khu 5,

bối cảnh chung ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975, chủ trương của Trung

ương Đảng và Quân ủy khu 5 về chống Mỹ, cứu nước nhằm làm rõ hơn chủ trương,

đường lối lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du

7

kích trên địa bàn tỉnh giai đoạn này.

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tƣ liệu

Nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau:

Các tác phẩm của Mác – Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh viết về chiến tranh nhân

dân, chiến tranh du kích.

Các Văn kiện Đảng về chống Mỹ cứu nước tập 1, tập 2, NXB chính trị quốc gia,

H. 2011, 2012.

Các tư liệu gốc là các bản báo cáo, Nghị quyết của Tỉnh ủy Bình Định. Các báo

cáo, Nghị quyết, tổng kết quân sự, tổng kết chiến tranh du kích của Tỉnh đội Bình

Định từ năm 1965 đến năm 1975.

Công trình nghiên cứu lịch sử của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, Ban chấp

hành Đảng bộ tỉnh Bình Định, Ban chấp hành Đảng bộ của các huyện, thành phố

trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Nhiều công trình nghiên cứu viết về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhà

xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Các công

trình nghiên cứu viết về mảnh đất, con người Bình Định.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn tôi sử dụng hai phương pháp

chính là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng

phương pháp thống kê, phân loại, so sánh và một số phương pháp khác.

6. Đóng góp của luận văn

- Làm rõ quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình

Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975,

trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng, Khu ủy, Quân khu ủy 5.

- Đánh giá khách quan những thành tựu, hạn chế, đưa ra một số kinh nghiệm

lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong kháng

8

chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Góp phần làm sáng tỏ, đầy đủ hơn về lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

trên địa bàn tỉnh Bình Định trong 10 năm cuối ( 1965-1975)

- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về lịch sử

quân sự ở Bình Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến

năm 1975.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bố cục thành 3 chương:

Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp

phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968).

Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bình Định tăng cường lãnh đạo phong trào chiến tranh

du kích góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 – 1975).

9

Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO

CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN

TRANH CỤC BỘ” (1965-1968)

1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định

1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.

Bình Định là tỉnh tương đối lớn, nằm ở khu vực Nam Trung Bộ. Với diện tích khoảng 6.025 km2 trải dài từ vĩ tuyến 130 03‟ đến 140 42‟ bắc (chiều dài 110 km), 108036‟ đến 109022‟ kinh đông (chiều ngang trung bình 55 km). Phía bắc giáp

Quảng Ngãi được phân cách bởi đèo Bình Đê, phía Nam giáp Phú Yên được phân

cách bởi đèo Cù Mông, phía Tây giáp Gia Lai qua đèo Mang Giang và phía Đông

giáp biển Đông.

Theo sử cũ ghi lại, từ xa xưa Bình Định là vùng đất thuộc vương quốc Chăm

Pa, cuối thế kỉ X đầu thế kỉ XI vua Chăm Pa quyết định dời đô từ Quảng Nam về

đóng tại thành Đồ Bàn (thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Trong

khoảng 5 thế kỉ, với vị thế là kinh đô của quốc gia Chăm Pa, những dấu ấn biểu

trưng cho những giá trị văn hóa Chăm còn để lại khá nhiều ở Bình Định mà tiêu

biểu là hệ thống thành quách, đền tháp, bia, tượng.v.v.

Năm 1471 đội quân chinh chiến của vua Lê Thánh Tông đánh bại vương

quốc Vijaya xác lập ranh giới của quốc gia Đại Việt đến núi Thạch Bi (Phú Yên),

từ đây Bình Định trở thành một vùng lãnh thổ của Đại Việt. Cũng từ đây, tên gọi và

lãnh giới của vùng đất này nhiều lần biến thiên theo thời gian. Dưới thời vua Lê

Thánh Tông, Bình Định được gọi là phủ Hoài Nhơn, gồm 3 huyện là Bồng Sơn,

Phù Ly và Tuy Viễn (bao gồm địa phận huyện An Khê và huyện Chư Bang của

tỉnh Gia Lai ngày nay) thuộc tỉnh Quảng Nam (tức đạo Thừa Tuyên lúc bấy giờ).

Dưới thời cai trị của các chúa Nguyễn, tên gọi của tỉnh nhiều lần thay đổi. Vào năm

1602 phủ Hoài Nhơn đổi thành Quy Nhơn. Đến năm 1651 đổi thành Quy Ninh.

10

Năm 1742 chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên Quy Nhơn. Năm 1802, Nguyễn

Ánh – ông vua Nguyễn đầu tiên đã đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định dinh. Năm

1806 đổi thành Bình Định trấn. Phủ Quy Nhơn được gọi từ thời vua Minh Mạng kể

từ năm 1826. Năm 1832 với chính sách bãi bỏ cấp Bắc Thành, Gia Định Thành

thành lập các tỉnh của Minh Mạng, tên gọi tỉnh Bình Định lần đầu tiên xuất hiện.

Năm 1890, tỉnh Bình Định gộp với tỉnh Phú Yên thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là

Quy Nhơn. 8 năm sau, tức năm 1899 hai tỉnh này lại tách ra như cũ. Từ đây cho

đến trước năm 1975, dưới thời thực dân phong kiến và Ngụy quyền Sài Gòn mặc

dù tên gọi tỉnh Bình Định không thay đổi nhưng ranh giới tỉnh có nhiều thay đổi

theo từng thời kỳ, nhiều vùng lãnh thổ của Gia Lai, Kon Tum thuộc địa phận tỉnh

Bình Định. [136; tr269]

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 10 năm 1975 Bình Định và

Quảng Ngãi gộp lại với tên gọi tỉnh Nghĩa Bình. Đến cuối tháng 6 năm 1989 hai

tỉnh này lại tách ra với tên gọi và ranh giới như cũ.

Hiện nay tỉnh Bình Định bao gồm 10 huyện: Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh

Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Vân Canh, Tuy Phước, Tây Sơn và 01

thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Quy Nhơn. Trong 10 huyện này có 3 huyện

miền núi không giáp biển là An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh. Còn lại các huyện

khác đều được phân bố trên khu vực với ba dạng thức địa hình chính là đồng bằng

ven biển, trung du và đồi núi.

Nhìn một cách tổng quan thì Bình Định cũng giống như nhiều tỉnh miền

Trung khác, đó là nơi có kiểu bố trí địa hình phức tạp, cao dần từ đông sang tây với

nhiều đồi núi, sông ngòi, xen kẽ có những đồng bằng nhỏ hẹp, đầm phá ven biển.

Đây là dạng thức địa hình lý tưởng cho việc tiến hành các chiến thuật chiến tranh

du kích.

Đồi núi chiếm hai phần ba diện tích của tỉnh được phân bố rải rác ở tất cả các

huyện và ngay cả trong nội thành thành phố Quy Nhơn. Các núi ở đây có độ cao

11

trung bình từ 700m đến 1000m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1000m, đỉnh cao nhất

1.202m ở xã An Toàn (huyện An Lão) [136; tr12]. Toàn bộ mặt phía Bắc, phía Tây

và phía Nam tỉnh được ôm trọn bởi dãy núi Trường Sơn với những cánh rừng bạt

ngàn. Diện tích rừng của Bình Định khoảng 208.065 ha chủ yếu là rừng kín, mang

đặc trưng của kiểu rừng thứ sinh, thường có 3 đến 4 tầng rõ rệt với nhiều loài thực

vật. Địa thế rừng hiểm trở nối liền với rừng núi của Gia Lai ở phía Tây, Ba Tơ

(Quảng Ngãi) ở phía Bắc và Phú Yên ở phía Nam, hình thành vùng căn cứ địa

kháng chiến liên hoàn giữa các tỉnh, là chỗ đứng chân của nghĩa quân trong hai

cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Cả dải dài phía đông tỉnh Bình Định giáp

biển. Nếu không tính các đường bờ của các hải đảo, bán đảo thì Bình Định có

khoảng 134 km bờ biển. Khu vực bờ biển thềm lục địa tỉnh có diện tích khoảng 36.000km2 lớn gấp 6 lần diện tích tự nhiên của tỉnh. [136; tr101] Ngăn cách giữa

vùng núi và biển là khu vực đồng bằng nhỏ hẹp. Hầu hết các cánh đồng nơi đây

đều bị cắt xẻ mạnh bởi đồi núi và sông suối.

Trên địa bàn tỉnh có nhiều sông suối với hướng chảy chính là hướng tây –

đông. Có một số con sông lớn như: sông Hà Thanh, sông Kôn, sông Lại Giang,

sông La Tinh, còn lại hầu hết các sông đều nhỏ, lòng sông nhiều đoạn gấp khúc bị

cát bồi nên thường cạn vào mùa khô, mùa lũ nước chảy xiết. Mật độ sông suối dày

dẫn đến mật độ cầu đường ở Bình Định cũng dày đặc, trung bình 0,2 đến 0,4 km

đường có một chiếc cầu. Trên địa bàn tỉnh có 204 cầu cống lớn nhỏ. [46; tr21] Điều

này ảnh hưởng trực tiếp đến các kế hoạch cơ động trong thời chiến.

Về khí hậu: Bình Định thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, một

năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa

kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, mưa nhiều nhất trong khoảng 4 tháng, từ

tháng 9 đến tháng 12. Thời tiết ở đây khá ổn định, ít chịu ảnh hưởng của giông bão. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 270C.

Bình Định có hệ thống đường giao thông khá phong phú, bao gồm giao

12

thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không. Hệ

thống đường bộ được xây dựng rộng khắp, dày đặc trên địa bàn tỉnh. Trong đó có

một số tuyến đường quan trọng, như tuyến đường quốc lộ 1A chạy dọc theo chiều

dài tỉnh, tuyến đường quốc lộ 19 chạy từ cảng biển Quy Nhơn nối liền với tỉnh Gia

Lai sang Hạ Lào và đông bắc Campuchia. Hai tuyến đường này Mỹ Ngụy thường

xuyên hoạt động mạnh mẽ trong suốt thời kỳ chúng đánh chiếm ở miền Nam.

Đường số 3 đi từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) đến Kim Sơn (Hoài Ân). Đường số 5 từ

Bồng Sơn đi An Lão. Đường số 6 từ Diêu Trì qua Vân Canh đi Phú Yên v.v.[46;

tr21] Đường sắt xuyên Việt chạy qua tỉnh có chiều dài 135,8 km. Ngoài ra còn hai

nhánh đường sắt: từ Quy Nhơn đi Diêu Trì (10,2 km), từ ga Quy Nhơn đi cảng Quy

Nhơn (3,2 km). [128; tr30] Hàng loạt cửa biển có giá trị giao thông ở Bình Định

được biết đến như cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi, cửa Quy

Nhơn. Trong đó cửa biển Quy Nhơn là lớn nhất có giá trị cao về giao thông và phát

triển kinh tế xã hội của tỉnh. Những tàu nhỏ có thể đến cập bến, hàng hóa nhập cảng

bốc lên xe hơi hoặc tàu hỏa để tiếp tế trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Phú Yên,

Quảng Ngãi, Kon Tum, Pleicu, Phú Bổn. Theo tài liệu của ngụy quyền Sài Gòn nhận

định: “hải cảng Quy Nhơn rất có tương lai nếu để kiến thiết cho các tàu lớn có thể

cập bến được thì hải cảng này sẽ đứng vào bậc nhất Trung Phần”. [128; tr30] Giao

thông đường không cũng sớm được chú trọng xây dựng và vận hành ở đây. Tỉnh có

hai sân bay lớn là sân bay Gò Quánh ở Phù Cát và sân bay Quy Nhơn. Ngoài ra còn

một số sân bay dã chiến ở các huyện do Mỹ Ngụy xây dựng nhằm phục vụ cho kế

hoạch đè bẹp phong trào đấu tranh của quần chúng, ứng phó nhanh chóng với các

chiến lược quân sự của ta.

Được thiên nhiên ưu đãi, nguồn lợi thủy sản biển ở Bình Định khá nhiều và

phong phú về chủng loại. Khu vực ven biển hình thành nhiều đầm phá: đầm Trà Ổ,

đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại,v.v. Các đầm ngăn cách với biển

bởi các dãy núi thấp hoặc các dải cát. Đây là nơi ngư dân nuôi trồng thủy hải sản

13

nước mặn, nước lợ. Bên cạnh nguồn lợi từ khai thác thủy hải sản, trong những năm

gần đây tỉnh Bình Định còn chú trọng phát triển ngành du lịch biển với nhiều dạng

thức du lịch đa dạng, đặc biệt là dự án Quy Nhơn vinper trên bán đảo Phương Mai.

Bình Định cũng được biết đến là tỉnh có tiềm năng phát triển nông nghiệp ở

khu vực miền Trung Tây Nguyên. Mặc dù diện tích đồng bằng ở đây không lớn

nhưng trên toàn tỉnh đã hình thành một hệ thống các đồng bằng lòng chảo xen lẫn

thung lũng nhỏ hẹp được phân bố trên lưu vực các con sông, ven biển. Với chất đất

pha cát, ít màu mỡ, không thực sự thích hợp cho trồng lúa nước song với sự nỗ lực

của người dân, một số cánh đồng trồng lúa lớn đã được hình thành như: cánh đồng

Phù Mỹ, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn,v.v, góp phần cung cấp nguồn

lương thực trực tiếp cho nhu cầu của nhân dân trong tỉnh. Ngoài trồng lúa, trong

nông nghiệp ở đây còn phát triển một số cây thực phẩm ngắn ngày như đỗ, lạc,

ngô, khoai, sắn, rau.v.v, một số cây gia vị như ớt, tỏi, kiệu, nhiều nơi còn trồng mía

xen với diện tích trồng các cây công nghiệp lâu năm. Toàn tỉnh có 322.621 ha diện

tích trồng cây công nghiệp lâu năm: chè, cà phê, điều, tiêu, dừa, ca cao, quế, cao

su,v.v, phân bố ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân và Hoài Nhơn. Ngoài ra

còn một diện tích đáng kể cây ăn quả: xoài, chuối, dứa, cam, quýt, bưởi,v.v.

Tóm lại: với vị trí chiến lược quan trọng cùng cấu tạo địa hình phức tạp, Bình

Định là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển.

1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng.

Bình Định là tỉnh sớm quy tụ người dân từ nhiều địa phương khác nhau đến

sinh sống. Những cư dân đầu tiên trên mảnh đất này là người Chăm. Sau đó cùng

với quá trình “Nam tiến” của quốc gia Đại Việt, người Kinh bắt đầu di cư vào đây

lập nên những làng xóm mới. Quá trình di cư của người Việt vào Bình Định được

đẩy mạnh từ thế kỉ XVI, XVII, kéo dài cả thời cận đại, hiện đại. Trong những đợt

“Nam tiến” của người Việt thì ồ ạt nhất là sau mỗi lần chúa Nguyễn ở Đàng Trong

đánh thắng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Bởi vì sau mỗi lần đánh thắng chúa Trịnh,

14

chúa Nguyễn lại tiến hành bắt tù binh và dân thường, số này được đưa vào khai phá

những vùng đất mới ở Đàng Trong trong đó có Bình Định. Với chính sách chiêu

hiền đãi sĩ, khoan thư sức dân của các chúa Nguyễn, Bình Định đã thu hút được

người dân từ nhiều địa phương khác ở miền Bắc, nhất là nhân dân vùng Thanh –

Nghệ - Tĩnh đến khai hoang lập nghiệp. Sau khoảng gần một thế kỷ, ở vào thời

chúa Nguyễn Phúc Tần, Quy Nhơn đã là một vùng dân cư đông đúc với những xóm

làng trù phú. Hiện nay Bình Định là mảnh đất quần cư của nhiều tộc người sinh sống, như người Kinh, người Chăm, người Ba Na, người H‟ rê, người Hoa. Trong

đó người Kinh chiếm đại đa số, chiếm khoảng 98% dân số toàn tỉnh, sinh sống chủ

yếu ở vùng đồng bằng, ven biển. Người Bana sinh sống chủ yếu ở các huyện miền

núi Vân Canh, Vĩnh Thạnh, An Lão nơi thích hợp cho làm nghề nương rẫy. Người

Chăm cư trú ở vùng đồi núi thấp Vân Canh – nơi thuận lợi cho phát triển nông nghiệp dùng cày. Người H‟rê cư trú ở những vùng núi thấp, trên lưu vực các sông

suối của An Lão. Người Hoa cư trú ở nơi có điều kiện giao thông phát triển, dân cư

đông đúc. [136; tr213]

Những cư dân ở đây theo nhiều tôn giáo khác nhau. Khoảng 70% đồng bào

theo đạo Phật, 8% theo đạo Thiên chúa giáo, 1% theo đạo Cao Đài và đạo Tin

Lành. Hầu hết các gia đình đều lấy việc thờ cúng tổ tiên làm trọng. [128; tr13] Họ

sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh bắt thủy hải sản.

Nhìn chung đại đa số người dân Bình Định đều có nguồn gốc từ những thế

hệ đi mở cõi, do đó họ sớm mang trong mình một ý chí kiên cường, không ngại

khó, không ngại khổ. Người Bình Định thật thà, chất phát, đôn hậu, cần cù trong

lao động, trọng nhân nghĩa khí tiết. Đặc biệt nơi đây sớm có truyền thống thượng

võ. Trong ca dao Bình Định có câu:

“Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định cầm roi đi quyền”

“Roi Thuận Truyền, quyền An Thái”…

15

Chính tinh thần thượng võ đã tôi luyện nên những đức tính quý báu riêng của

người Bình Định, đồng thời rèn luyện người Bình Định có một sức mạnh dẻo

dai, tinh thần quật khởi để đứng lên chống lại ách áp bức của các thế lực cường

quyền, chống lại các thế lực ngoại xâm góp phần bảo vệ quê hương đất nước.

Sự vùng dậy của người dân Bình Định chống cường quyền thực sự nổi lên

mạnh mẽ từ thế kỉ XVIII. Cuối thế kỉ XVII, bộ máy chính quyền Đàng Trong rơi

vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Tệ nạn mua quan bán tước, hách dịch,

cưỡng ép nhân dân xảy ra khắp nơi. Như một quy luật lịch sử “có áp bức có đấu

tranh”, phong trào đấu tranh của nông dân liên tiếp nổ ra từ Bắc chí Nam làm nên

“thế kỉ nông dân khởi nghĩa”. Ở Bình Định đêm trước của phong trào Tây Sơn có

nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Năm 1695 một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng

Phú liên kết với thương nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh

thuyền, vũ khí khởi nghĩa. Tiếp đó năm 1769 cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của

Lía nổ ra ở thôn Phú Lạc. Những cuộc khởi nghĩa này nổ ra nhỏ lẻ nên nhanh

chóng bị đàn áp thất bại. Năm 1771, ba anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa.

Ba anh em Tây Sơn sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân khá giả ở

vùng Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Vào cuối

thế kỉ XVIII, bất bình trước các thế lực cường quyền ở Đàng Trong cưỡng bức

nhân dân, anh em Tây Sơn đứng lên hô hào nhân dân phất cờ khởi nghĩa. Năm

1773 nghĩa quân chiếm được phủ thành Quy Nhơn. Năm 1774 phong trào Tây Sơn

đánh chiếm ra tới Quảng Nam. Năm 1775 Nguyễn Nhạc giảng hòa với Hoàng Ngũ

Phúc. Mặt Bắc tạm yên, quân Tây Sơn có điều kiện đẩy mạnh tiêu diệt tập đoàn

chúa Nguyễn ở mặt Nam. Cũng từ đây nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp giành được

những thắng lợi mang tính quyết định: năm 1775 nghĩa quân làm chủ toàn tỉnh Phú

Yên. Năm 1777 cơ đồ của chúa Nguyễn về cơ bản bị đánh sập. Năm 1785 Nguyễn

Huệ chỉ huy quân đánh tan âm mưu xâm lược của 5 vạn quân Xiêm, dẹp yên bờ cõi

phía nam Đại Việt. Đến đây phần đất Đàng Trong từ đèo Hải Vân đến Hà Tiên

16

thuộc quyền kiểm soát của đội quân Tây Sơn. Thừa thắng ở mặt trận phía Nam,

năm 1786 nghĩa quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ tấn công ra Bắc

tiêu diệt quân Trịnh, xóa bỏ ranh giới Đàng Trong – Đàng Ngoài tồn tại suốt hơn 2

thế kỉ trên đất nước ta. Tiếp đó vào năm 1789 quân Tây Sơn tiêu diệt 29 vạn quân

Thanh, thống nhất giang sơn về một mối dưới sự trị vì của anh em Tây Sơn.

Tiếng vang của phong trào Tây Sơn và tên tuổi của anh em Tây Sơn được

ghi vào những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, thể hiện niềm tự hào, khát

vọng và ý chí quật cường của nhân dân Bình Định.

Phát huy truyền thống đấu tranh của ông cha, đến thời cận, hiện đại, trước

âm mưu, hành động xâm lược và bành trướng của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, một

lần nữa các thế hệ nhân dân Bình Định lại kiên cường đứng lên.

Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1884 phái chủ hòa

trong triều đình nhà Nguyễn kí điều ước Patơnôt, dâng nước ta cho thực dân Pháp.

Năm 1885, tại Tân Sở (Quảng Trị), vua Hàm Nghi ra chiếu Cần vương, kêu gọi văn

thân, sĩ phu giúp vua cứu nước. Từ giữa tháng 8 năm 1885, hưởng ứng lời kêu gọi

của vua Hàm Nghi quần chúng nổi dậy ở các huyện Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Tuy

Phước, An Nhơn.v.v, sau đó phong trào Cần Vương ở đây còn đẩy mạnh phối hợp

với nhân dân ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Đầu 1887, thực

dân Pháp và bọn phản động triều Huế phải huy động một lực lượng lớn (khoảng

7000 quân) để đàn áp. Nhiều thủ lĩnh Cần Vương ở Bình Định bị bắt và bị giết, như

Mai Xuân Thưởng, Phạm Toản…song phong trào Cần Vương ở Bình Định vẫn

phát triển mạnh mẽ. Một số thủ lĩnh như Nguyễn Đa, Tăng Bạt Hổ, Trần Cao Vân

chạy đến các tỉnh khác tiếp tục xây dựng lực lượng đánh Pháp. [9; tr22, 23]

Bước sang những năm 20 của thế kỉ XX, hòa chung với bầu không khí của

luồng tư tưởng mới – luồng tư tưởng cách mạng vô sản, ngay từ năm 1926 ở Bình

Định đã có một bộ phận thanh niên hướng về Maxcơva. Tháng 2 năm 1928 Kỳ bộ

thanh niên cách mạng đồng chí hội Nam kỳ phái đồng chí Phan Trọng Quảng đến

17

Cửu Lợi (Tam Quan nam, Hoài Nhơn) để giúp địa phương lập tổ chức Việt Nam

thanh niên cách mạng đồng chí hội. Từ chi hội thanh niên cách mạng đồng chí hội

đầu tiên được thành lập ở Cửu Lợi vào tháng 2 năm 1928 (thành lập tại nhà đồng chí

Tôn Chất, thôn Cửu Lợi. Lúc đầu hội có 3 đồng chí là Nguyễn Trân, Tôn Chất và

Huỳnh Triếp), cơ sở của hội Thanh niên nhanh chóng lan ra nhiều vùng trong toàn

tỉnh. Khoảng giữa năm 1928 đồng chí Nguyễn Trân lập chi hội Thanh niên ở An Đỗ

(Hoài Sơn) và Tài Lương (Hoài Thanh). Sau đó hàng loạt vùng xây dựng được hội

Thanh niên như Hy Văn, Tường Sơn, Chương Hòa, Châu Đê, Huân Công, Dĩnh

Thạnh, An Thái, Đại Hóa, Cự Tài, Cự Lễ, Hội Phú, Tấn Thạnh, Thạnh Xuân, Trung

Lương,v.v. Cũng trong thời gian này, chi hội Thanh niên Hoài Nhơn đã bắt liên lạc

được với Kỳ hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ

Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội Quảng Ngãi.[9; tr32,33]

Sự thành lập nhanh chóng các tổ chức Thanh niên ở Bình Định từ năm 1928

là một trong những điều kiện cơ bản để đưa phong trào đấu tranh ở tỉnh đi theo con

đường cách mạng vô sản, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập các cơ sở Đảng ở

tỉnh Bình Định.

Tháng 2 năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Đầu tháng 3 năm 1930

chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Định – chi bộ cộng sản tại nhà máy đèn Quy

Nhơn được thành lập gồm 5 đồng chí do đồng chí Lê Xuân Trữ làm bí thư.[9; tr41]

Tháng 8 năm 1930 chi bộ cộng sản Cửu Lợi được thành lập do đồng chí Nguyễn

Trân làm bí thư. Tiếp đó là sự ra đời của hàng loạt các chi bộ Đảng ở các thôn của

huyện Hoài Nhơn rồi Đảng bộ huyện Hoài Nhơn cũng trên cơ sở đó được thành

lập. Cuối năm 1936 chi bộ Hồng Lĩnh được ra đời. Các Đảng bộ trên địa bàn tỉnh

được thành lập đã nhanh chóng bắt liên lạc với nhau và bắt liên lạc với Đảng bộ các

tỉnh bạn. Năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập. Đến tháng 7 năm 1945 để

chuẩn bị tốt hơn cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, xứ ủy Trung Kỳ cử

đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến Bình Định chỉ đạo thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh

18

Bình Định trên cơ sở Tỉnh ủy lâm thời cũ.

Từ khi ra đời, các chi bộ Đảng, Đảng bộ các huyện và Ban cán sự Đảng tỉnh

Bình Định đảm đương sứ mệnh trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân

dân trong tỉnh đi theo xu hướng cách mạng mới của dân tộc và thời đại, làm nên

những cao trào cách mạng sôi nổi quyết liệt chống lại thực dân Pháp và bọn tay sai.

Ngày 23 tháng 8 năm 1945 nhân dân Bình Định giành được chính quyền, Ủy

ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ được thành lập. Ngày 3 tháng 9

năm 1945 Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời mới quyết định lấy tên tỉnh là tỉnh

Tăng Bạt Hổ.

Ngay sau khi nhân dân ta làm Cách mạng tháng Tám thành công, từ vĩ tuyến

16 trở ra Bắc có 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc dưới danh nghĩa quân Đồng

minh vào Đông Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, theo sau quân Trung

Hoa dân quốc là bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có

4 vạn quân Anh kéo vào Việt Nam, theo sau quân Anh là quân đội Pháp vào nước

ta một cách bất hợp pháp.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, chính thức

thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta lần thứ hai. Được sự hậu thuẫn của quân Anh,

chỉ trong một thời gian ngắn quân Pháp nhanh chóng chiếm được hầu hết các thành

phố, thị xã quan trọng ở Nam Bộ. Ngày 10 tháng 12 năm 1945 phái bộ quân Anh ở

Nha Trang cho một tàu chiến chở 150 lính Nhật vào đảo Cù Lao Xanh, âm mưu

phối hợp với bọn Nhật ở nhà băng Đông Dương tiến công chiếm thị xã Quy Nhơn

lập đầu cầu cho quân Pháp đổ bộ đánh chiếm các nơi khác. [45; tr43] Tuy nhiên âm

mưu này của chúng không thực hiện được. Ngày 12 tháng 12 năm 1945 đại đội

Phan Đình Phùng bao vây tiêu diệt gọn quân Nhật ở nhà băng Đông Dương, uy

hiếp tàu chiến Nhật ở Cù Lao Xanh, buộc chúng phải chạy vào phía Nam.

Trong suốt 9 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp luôn tìm

cách đánh chiếm Bình Định hòng triệt tiêu vùng hậu phương kháng chiến của ta.

19

Song quân dân Bình Định kiên quyết đứng lên đấu tranh chặn đứng âm mưu và

hành động của Pháp, bảo vệ vững chắc vùng tự do của ta ở đây. Mãi đến tháng 2

năm 1954 thực dân Pháp mới đánh chiếm được thị xã Quy Nhơn.

Tháng 5 năm 1954 quân dân ta giành thắng lợi vang dội trong trận Điện Biên

Phủ làm chấn động năm châu địa cầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ vang lên như hồi

chuông cảnh tỉnh các thế lực đế quốc, dõng dạc tuyên bố đặt dấu chấm hết cho mọi

cố gắng của Pháp có sự giúp đỡ của Mỹ trên đất nước ta. Ngày 20 tháng 7 năm

1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây

dựng chủ nghĩa xã hội.

Khát khao hòa bình độc lập, nhân dân Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của hiệp định Giơnevơ,

trong khi đó thực dân Pháp vẫn ngoan cố tìm mọi cách phá hoại hiệp định này, tìm

cách dọn đường cho Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam.

Sau thế chiến hai Mỹ vươn lên đứng đầu trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, trở

thành tên sen đầm quốc tế. Với tiềm lực kinh tế, quốc phòng lớn mạnh, đế quốc Mỹ

âm mưu bá chủ toàn cầu. Để thực hiện tham vọng này, Mỹ đưa ra hàng loạt các

chiến lược chiến tranh áp dụng trên nhiều vùng lãnh thổ khác nhau ở hầu khắp các

châu lục trên thế giới. Từ năm 1950 Mỹ bắt đầu can thiệp gián tiếp vào vấn đề

chiến tranh Việt Nam, thông qua việc tăng cường viện trợ cho Pháp để Pháp tiếp

tục kéo dài, mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Sau thất bại của Pháp ở Điện Biên

Phủ (tháng 5 năm 1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mỹ nhanh chóng tìm

cách hất cẳng Pháp ở Việt Nam, nhảy vào miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến

lược chiến tranh thực dân kiểu mới. Mỹ đưa tay sai Ngô Đình Diệm về nước lập

chính phủ bù nhìn phản động thân Mỹ, công khai viện trợ vũ khí, đô la cho chính

phủ này, đưa lực lượng cố vấn quân sự hùng hậu vào miền Nam Việt Nam giúp

chính phủ bù nhìn của Mỹ ở đây huấn luyện quân đội, đề ra kế hoạch và trực tiếp

tham mưu kế hoạch tiêu diệt lực lượng đối phương. Năm 1960 Mỹ đã đưa vào miền

20

Nam 2000 cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ. [54; tr137]

Ngày 8 tháng 9 năm 1954 Mỹ lôi kéo Anh, Pháp, Thái Lan, Philippin và một

số nước tay sai lập tổ chức quân sự SEATO và đặt miền Nam Việt Nam, Lào,

Campuchia dưới sự bảo hộ của khối này.

Âm mưu cơ bản của Mỹ là “tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta,

thôn tính miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt

Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn

chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á. Đồng thời lấy miền Nam làm

căn cứ để tiến công miền Bắc – tiền đồn của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Đông

Nam châu Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy

hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”. [64; tr17] “Mục tiêu lâu dài của Mỹ là tiêu

diệt ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Dương tới mức tối đa và đưa Đông Dương

vào quỹ đạo của Phương Tây”. [54; tr126]

Để thực hiện những tham vọng này, Mỹ đề ra hàng loạt các biện pháp, trong

đó biện pháp chủ yếu mà chúng áp dụng là chính sách “tố cộng, diệt cộng” nhằm

tiêu diệt lực lượng lãnh đạo cách mạng, xóa bỏ mọi ảnh hưởng của Đảng trong

quần chúng. Bộ máy chỉ đạo “tố cộng” được thành lập từ trung ương đến địa

phương. Với phương châm „lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam”, “giết nhầm

còn hơn bỏ sót”.

Khu 5 – địa bàn chiến lược quan trọng ở Trung Đông Dương được chúng

chọn làm nơi thí điểm chính sách “tố cộng, diệt cộng” mà trọng điểm là vùng tự

do cũ gồm các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và nửa phía Nam tỉnh

Quảng Nam. [64; tr18]

Bình Định – một trong những tỉnh có phong trào cách mạng mạnh nhất ở Liên

Khu 5. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp nơi đây hoàn toàn nằm trong

vùng tự do của ta. Các tổ chức Đảng, lực lượng cách mạng từ kháng chiến chống

Pháp đều hoạt động công khai, hợp pháp. Bởi vậy, khi Mỹ - Diệm nhảy vào miền

21

Nam, hầu hết cán bộ, các tổ chức cách mạng của Bình Định đều bị nhận diện. Để đè

bẹp phong trào cách mạng ở đây tạo đòn đánh phủ đầu ở miền Nam Việt Nam, Mỹ

đã sớm đặt Bình Định vào mục tiêu cần tiêu diệt của chúng. Hàng loạt những biện

pháp về chính trị, quân sự được thiết lập nhằm kìm kẹp, đánh phá, tiêu diệt các lực

lượng, tổ chức cách mạng, đồng thời răn đe uy hiếp tinh thần quần chúng nhân dân.

Năm 1957, Mỹ - Diệm mở chiến dịch “tố cộng” mang tên Đoàn Đức Thoan

tại Bình Định, đánh phá ác liệt phong trào cách mạng toàn tỉnh.

Với những âm mưu và hành động thâm độc của kẻ thù, các lực lượng cách

mạng, tổ chức Đảng ở Bình Định bị thiệt hại nặng nề. Từ tháng 5 năm 1955 đến

tháng 6 năm 1956 chúng bắt gần 20.000 người giam trong các nhà tù từ tỉnh đến xã.

Đến cuối năm 1955 hầu hết cán bộ hoạt động bất hợp pháp xã đều bị bắt. Sự liên

lạc giữa tỉnh và huyện bị gián đoạn, nhất là các huyện phía Nam. Tổn thất cán bộ ở

Bình Định cao hơn mức trung bình của Liên khu 5. Trên toàn Liên khu, cán bộ tỉnh

bị tổn thất 40%, cán bộ huyện 60%, cán bộ xã 70%. Ở Bình Định, cuối năm 1957

toàn tỉnh có 115 cán bộ bất hợp pháp bị bắt, trong đó cấp tỉnh có 13 đồng chí chiếm

40,6% tổng số cán bộ tỉnh, cán bộ huyện 61 đồng chí chiếm 70% tổng số cán bộ

huyện, cán bộ xã 81 đồng chí chiếm 70,9% tổng số cán bộ xã. [11; tr19, 20]

Tuy nhiên, bất chấp âm mưu và thủ đoạn hiểm ác của kẻ thù, những cán bộ,

đảng viên Bình Định vẫn trung kiên bám đất, bám dân để duy trì phát triển các tổ

chức cơ sở đảng, kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch. Dưới sự chỉ

đạo, lãnh đạo sâu sát của đảng bộ địa phương, phong trào đấu tranh của các tầng

lớp nhân dân Bình Định nhanh chóng lan rộng từ miền núi xuống đồng bằng, tấn

công trực diện vào bộ máy tay sai ngụy quyền Ngô Đình Diệm. Địch càng hung

hăng bao nhiêu thì cuộc đấu tranh của quân dân Bình Định nói riêng, quân dân

miền Nam nói chung càng bền bỉ quyết liệt bấy nhiêu.

Ở Bình Định, không thể tiếp tục cam chịu trước súng đạn, lưỡi lê và đòn roi

của kẻ thù, từ tháng 1 năm 1959 mặc dù chưa nhận được Nghị quyết 15 của Đảng,

22

song Đảng bộ Bình Định quyết định lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh. Ngày 6

tháng 2 năm 1959 nhân dân 2 xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo thuộc huyện Vĩnh Thạnh

huy động nhân dân của 11 làng khác nổi dậy cắm chông rào làng, gài mang cung

bẫy đá, xây dựng tuyến chiến đấu chính thức tuyên bố đánh địch. Cuộc đấu tranh

của nhân dân Vĩnh Thạnh đã mở đầu cho thời kỳ đồng khởi của nhân dân Bình

Định. Cuộc khởi nghĩa này còn được xem là một trong những “cuộc khởi nghĩa

từng phần đầu tiên của Liên khu V và toàn miền Nam”.[11; tr46]

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ V (tháng 6 năm

1960), phong trào đấu tranh của quần chúng và các lực lượng vũ trang trên địa bàn

tỉnh đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Cuối năm 1960 hầu hết huyện Vĩnh

Thạnh, vùng cao của An Lão và ba xã vùng cao huyện Vân Canh đã được giải

phóng, trở thành vùng giải phóng đầu tiên của tỉnh Bình Định. Đồng thời những địa

bàn này cũng trở thành căn cứ địa cách mạng của tỉnh trong suốt thời kỳ kháng chiến

chống Mỹ.

Sau khi thất bại trong chiến lược chiến tranh đơn phương, Mỹ chuyển sang

thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt. Tăng cường lực lượng và tăng cường

trang bị vũ khí cho quân lực Việt Nam cộng hòa, biến đội quân này trở thành

xương sống của chiến tranh đặc biệt. Đồng thời chúng đẩy mạnh dồn dân lập ấp

chiến lược, sử dụng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, coi đây là quốc

sách hàng đầu của chiến lược chiến tranh mới. Theo kế hoạch Xtalây – Taylo, Mỹ

định dồn 10 triệu dân vào 16.000 ấp chiến lược trong số 17.000 ấp chiến lược trên

toàn miền Nam. Thực ra ấp chiến lược giống như các trại giam trá hình nhằm phục

vụ cho mưu đồ “tát nước bắt cá” của Mỹ - Diệm. Chúng biến “ấp chiến lược” thành

điểm tựa phòng thủ chống cộng. Kiên quyết lập ấp chiến lược, Mỹ - Diệm thẳng tay

đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh ở miền Nam. Ở những vùng chúng nắm được

quyền kiểm soát, chúng dựa vào bộ máy quân sự, chính trị cưỡng ép nhân dân vào ấp

chiến lược. Còn ở những vùng mà chúng chưa nắm được quyền kiểm soát thì chúng

23

dùng sức mạnh của quân đội để đàn áp, bắn giết, bao vây, cô lập buộc dân chạy vào

vùng chúng kiểm soát. [93; tr181] Đàn áp về quân sự, cưỡng chế về tinh thần, Mỹ -

Diệm đã đẩy nhân dân miền Nam vào cuộc sống cùng quẫn, buộc quần chúng phải

đứng lên đấu tranh giải phóng chính mình.

Ở Bình Định, đầu năm 1961 địch mở “chiến dịch tiến công Việt cộng”.

Chúng đẩy mạnh càn quét vào vùng căn cứ, vùng giáp ranh để phá bàn đạp và hành

lang của ta. Ở đồng bằng địch thực hiện luật “quân dịch” nhằm bắt lính tăng quân,

xây dựng mạng lưới điệp ngầm ở cơ sở, củng cố tổ chức liên gia và thanh niên

cộng hòa. Xây dựng hệ thống phòng thủ (công sự, đồn trại) tại các quận lỵ, ở vùng

giáp ranh và trục đường giao thông chúng lập nên các chốt để kiểm soát. Chúng bắt

dân phát quang bụi rậm, rào một số vùng giáp ranh, cắm chông, gài mìn các đường

hẻm vào núi, dồn dân những xóm lẻ v.v.[11; tr57]

Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Bộ chính trị và Nghị quyết của Liên

khu V về đẩy mạnh kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, vận dụng vào

tình hình cụ thể địa phương, Tỉnh ủy Bình Định nhanh chóng đưa ra chủ trương

đấu tranh ở mỗi vùng trên địa bàn tỉnh đem lại nhiều thắng lợi quan trọng. Đến cuối

năm 1963 phía cách mạng làm chủ hoàn toàn ở 70 thôn, 31 thôn ở thế tranh chấp

cài răng lược. Mảng liên hoàn từ tây sông An Lão sang tây sông Kim Sơn dài 30km

được giải phóng. Cuối 1963 kế hoạch Stalây – Taylo bị phá sản hoàn toàn.

Sau thất bại kế hoạch Stalây – Taylo, Mỹ chuyển sang thực hiện kế hoạch

mới mang tên kế hoạch Mácnamana, vẫn với nội dung chủ đạo là dồn dân lập ấp

chiến lược nhằm bình định có trọng tâm trọng điểm miền Nam trong vòng 2 năm.

Tuy nhiên kế hoạch mới này của kẻ thù nhanh chóng bị đổ bể tại Bình Định. Sau

những đòn tấn công dồn dập của quân dân tỉnh Bình Định, đến tháng 6 năm 1965

các vùng nông thôn, đồng bằng trong tỉnh cơ bản được giải phóng, tạo thành vùng

hậu cứ vững chắc an toàn cho quân và dân Bình Định trong cuộc đấu tranh chống

Mỹ và tay sai giai đoạn tiếp theo.

24

Tóm lại, trải qua gần 10 năm đấu tranh gian khổ và ác liệt nhân dân Bình

Định dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh đã giành được nhiều thắng lợi vẻ

vang. Đến năm 1963 chúng ta đã giành được quyền làm chủ ở một vùng rộng lớn

cả ở miền núi và một phần đồng bằng của tỉnh tạo ra bước đệm vững chắc cho ta

tiến lên giành thắng lợi trong thời kỳ tiếp theo. Một trong những cách đánh điển

hình đem lại hiệu quả tiêu diệt địch cao trong giai đoạn này là sự phối hợp khéo léo

giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và công tác binh vận, điển hình là sự

phát huy sáng tạo cách đánh du kích.

1.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ

tỉnh (từ năm 1965 đến năm 1968)

1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

10 năm (1954 – 1964) đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ,

nhân dân ta ở miền Nam có sự thay đổi rõ rệt về cả cách nhìn nhận lẫn hành động

đối với kẻ thù. Từ chỗ chúng ta chưa xác định rõ kẻ thù nên có phản ứng chưa

mạnh mẽ đến chỗ chúng ta xác định được kẻ thù chính của nhân dân cách mạng

miền Nam là đế quốc Mỹ và bọn tay sai để từ đó quần chúng chĩa mũi nhọn đấu

tranh và tấn công dồn dập vào Mỹ cùng với bọn tay sai của chúng. Kể từ sau Nghị

quyết trung ương 15 (1/1959), phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam bùng

lên báo hiệu đồng thời đánh dấu một chặng đường đấu tranh mới ở đây – chặng

đường cách mạng miền Nam phát huy thế chủ động tiến công địch, sẵn sàng chống

lại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Bằng sức mạnh to lớn của tinh thần

đoàn kết với ý chí sắt đá, dưới sự lãnh đạo sâu sát của Đảng, trực tiếp dưới sự lãnh

đạo của trung ương cục miền Nam Việt Nam nhân dân miền Nam đã lần lượt đánh

bại chiến lược chiến tranh đơn phương và chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ,

đẩy địch vào thế lúng túng bị động trên chiến trường. Góp phần củng cố niềm tin

của nhân dân vào Đảng, vào Bác, vào sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước.

25

Cùng với thắng lợi của đồng bào chiến sĩ miền Nam nói chung, quân và dân

Bình Định cũng lập nhiều thành tích đáng khích lệ. Đến thời điểm Mỹ trực tiếp đưa

quân đổ bộ vào miền Nam Việt Nam thì Bình Định đã có một vùng giải phóng khá

rộng lớn. Ở đồng bằng ta đã giải phóng và làm chủ 506 thôn trong tổng số 640 thôn

toàn tỉnh, chiếm 70,8%, giải phóng hoàn toàn 56 xã trong tổng số 86 xã, chiếm

63,9%, giải phóng 564.500 dân chiếm 76,7%. Ta đã làm chủ một vùng rộng lớn

liên hoàn từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam tỉnh nối liền với vùng giải phóng của

các tỉnh Gia Lai, Kon Tum ở phía Tây, Quảng Ngãi ở phía Bắc, Phú Yên ở phía

Nam. Ở phía Đông ta làm chủ 130km đường bờ biển kéo dài từ Tam Quan bắc

(Hoài Nhơn) đến Phước Hải (Tuy Phước). Ở miền núi, ta giải phóng hoàn toàn 3

huyện và 3 quận lỵ bao gồm: An Lão, Vân Canh và Vĩnh Thạnh. Ở những vùng

giải phóng Đảng bộ đã chỉ đạo chia ruộng đất cho nông dân, phát triển kinh tế, văn

hóa giáo dục, y tế nhằm đem lại đời sống mới thiết thực cho nhân dân. Theo bản

báo cáo trong Nghị quyết hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 7 năm 1965, trên địa bàn

tỉnh đã “chia 16.797 mẫu 2 sào công điền cho 276.417 nhân khẩu. Cấp 552 mẫu 7

sào ruộng vắng chủ cho 2.932 nông dân thiếu ruộng cày. Tiến hành giảm tô được

gần 20 tấn lúa…Mở 8 lớp phổ thông cấp II sỹ số 370 học sinh, 308 lớp văn hóa cấp

1 sỹ số 24.454 học sinh và 439 lớp bình dân học vụ với sỹ số 7.944 học viên”.

[105; tr4] Một không khí mới phấn khởi, tin tưởng vào Đảng vào Bác đang lan tỏa

trong các khu giải phóng của Bình Định. Thanh thiếu niên, phụ nữ náo nức tham gia

các tổ chức đoàn thể. Tính đến tháng 7 năm 1965 có 39.364 hội viên nông hội, 7.056

hội viên phụ nữ, 3.193 hội viên thanh niên. Số người giác ngộ cách mạng, kiên định

đi theo Đảng trên địa bàn tỉnh cũng không ngừng tăng lên. Cuối năm 1960 toàn

Đảng bộ có 200 đảng viên, đến cuối năm 1965 tăng lên 5.453 đảng viên. “chỉ trong

năm 1965, số đảng viên kết nạp và phục hồi có tới 2.183 đồng chí, bằng 77,7% số

đảng viên phát triển trong 4 năm từ 1961 đến 1964. Số xã có chi bộ Đảng ở đồng

bằng đạt 20,4% số xã năm 1963, đến 1965 đạt 80,5%. Nếu tính cả 34 chi bộ Đảng ở

26

miền núi thì toàn tỉnh có 108 xã có chi bộ Đảng, chiếm tỉ lệ gần 90%”. [11; tr112]

Trong lúc cuộc kháng chiến ở miền Nam giành được nhiều thắng lợi lớn thì

cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng. Miền

Bắc đã xác lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đang tiếp tục xây dựng cơ

sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Diện mạo miền Bắc như được thay da đổi

thịt. Tại Hội nghị chính trị đặc biệt năm 1964 Hồ Chí Minh đánh giá: “miền Bắc

nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, con

người, xã hội đều đổi mới”.[96; tr666] Với những thành quả to lớn này, miền Bắc

đảm đương ngày càng tốt hơn vai trò của hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến

miền Nam.

Về phía Mỹ, tay sai, sau thất bại liên tiếp ở chiến lược chiến tranh đơn

phương và chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ - tên sen đầm quốc tế lúc bấy giờ

choáng váng, bị động chuyển sang thực hiện chiến lược chiến tranh mới – chiến

lược chiến tranh cục bộ. Ồ ạt đưa quân đội Mỹ, quân đội các nước đồng minh của

Mỹ vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Đồng thời gia tăng một cách đột biến số

lượng vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam. Đến tháng 7 năm

1965 số quân Mỹ và đồng minh đổ vào miền Nam đã lên tới 72.800 quân. Riêng ở

Quân khu V, chúng đưa vào 12/16 tiểu đoàn chiếm 70% số quân Mỹ và đồng minh

trong toàn miền Nam. [46; tr276]

Cùng với đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam ở một mức độ

mới, có thể nói là cao nhất kể từ khi Mỹ nhảy vào miền Nam cho tới thời điểm này,

thì đồng thời Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn cản sự chi viện của miền Bắc cho

miền Nam, và theo những nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ thì ném bom

miền Bắc Việt Nam sẽ “là đòn bẩy làm cho chính quyền Sài Gòn ổn định, nâng

cao tinh thần cho quân đội Việt Nam cộng hòa tiếp tục cuộc chiến tranh”.[55; tr14]

Như vậy tiến hành chiến tranh cục bộ, Mỹ đã tăng thêm một cấp độ mới trong

27

chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cấp độ chiến tranh càng cao thì tính khốc liệt càng

lớn. Việc Mỹ đưa quân đội Mỹ, quân đội các nước đồng minh vào miền Nam Việt

Nam đã chứng tỏ rằng trên thực tế Mỹ đã quốc tế hóa cuộc chiến ở miền Nam Việt

Nam. Lúc này 20 triệu nhân dân ta ở miền Nam không những phải đương đầu trực

tiếp với khoảng hơn 40 vạn quân viễn chinh Mỹ, 50 vạn quân lực của Việt Nam

cộng hòa mà còn đương đầu với những đội quân thiện chiến từ nhiều nước khác

như Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Tân Tây Lan, Australia…

Ngày 17 tháng 7 năm 1965 tổng thống Mỹ L. Giônxơn phê chuẩn kế hoạch

tăng quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 44 tiểu đoàn và kế hoạch “tìm và diệt”

của tướng Oétmolen . Theo quan niệm của Oétmolen, ““tìm và diệt” là dùng bộ

binh tiến công, phát hiện cộng sản, tìm cách đưa lực lượng Việt cộng và Bắc Việt

ra giao chiến rồi tiêu diệt hoặc buộc địch phải đầu hàng. Trong quá trình này,

quân Mỹ phải tìm cho được các căn cứ của Việt cộng, tiêu diệt nó cùng với những

hầm cất giấu đồ tiếp tế, vũ khí. Do đó, hủy bỏ được những vùng đất thánh của Việt

cộng”.[55; tr22] Kế hoạch của Oétmolen được bộ quốc phòng Mỹ đồng cảm và

đánh giá cao. Họ cho rằng bản kế hoạch này được thực hiện sẽ “đưa cuộc chiến

tranh đến tận xứ sở của địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi

nào trên đất nước…giáng cho địch những đòn thật nặng nề”.[55;tr23]

Ngày 8 tháng 3 năm 1965 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ 2/3 (Tiểu đoàn 2 –

Trung đoàn lính thủy đánh bộ số 3) đặt chân đến Đà Nẵng đã mở đầu cho thời kỳ

Mỹ “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên đất liền ở châu Á”. Đến

tháng 7 năm 1965 sau quyết định đưa 44 tiểu đoàn lính Mỹ vào miền Nam của tổng

thống Giônxơn, quân đội Mỹ ồ ạt đổ vào nước ta.

Bình Định, một trong những tỉnh tiên phong đồng khởi tiêu diệt Mỹ - quân

đội Việt Nam cộng hòa những năm 1959 – 1960. Đến giai đoạn 1961 – 1965 khi

Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt, tăng cường dồn dân lập ấp chiến lược

và mở hàng loạt các cuộc càn quét để tìm diệt, quân dân Bình Định dưới sự lãnh

28

đạo sâu sát của Đảng bộ tỉnh một lần nữa anh dũng kiên cường đứng lên chiến đấu

bẻ gãy từng đòn tấn công của địch bảo vệ dân, bảo vệ cán bộ chiến sĩ. Đồng thời

kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị từng bước phá vỡ hệ thống ấp

chiến lược chúng lập nên ở đây.

Là một trong những tỉnh gây ra thiệt hại nặng nề nhất cho Mỹ, quân lực Việt

Nam cộng hòa trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Khi chuyển sang thực hiện

chiến lược “chiến tranh cục bộ”, với kế hoạch “tìm diệt” tàn bạo, Mỹ quyết định

đưa Bình Định vào trọng tâm của kế hoạch này. Ngay từ tháng 4 năm 1965, có

2000 lính Mỹ đổ bộ vào Quy Nhơn. Tháng 5 năm 1965 Lữ đoàn dù 173 – đơn vị cơ

động chiến lược của quân đội Mỹ vào đóng tại Bồng Sơn (sau đó vào Biên Hòa).

Tháng 9 năm 1965, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 vào An Khê chiếm đóng dọc

đường 19 xuống đến Quy Nhơn. Cuối tháng 7 năm 1965 Sư đoàn Mãnh Hổ của

Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) đến lập căn cứ ở Phước Thành (Tuy Phước), chúng rải

quân dọc tuyến quốc lộ 1 từ trục đường 19 đến sông La Tinh ở Phù Cát, kết hợp với

2 tiểu đoàn của Sư đoàn Bạch Mã của Nam Triều Tiên từ Phú Yên ra nhằm khống

chế các huyện phía Nam của Bình Định (từ huyện Phù Cát trở vào đến đèo Cù

Mông).[46; tr277] Đến cuối năm 1965 tổng số quân Mỹ và đồng minh vào đóng tại

Bình Định lên tới 25.000 quân. Lực lượng quân hùng hậu này nhanh chóng đóng ở

những vị trí then chốt xung quanh thị xã Quy Nhơn như cụm núi xã Phước An,

Phước Sơn, núi Xương Cá của Phước Thuận, tháp Bánh Ít .v.v. Quân đội Việt Nam

cộng hòa hoạt động thường xuyên ở Bình Định từ 7 tiểu đoàn đến 13 tiểu đoàn chủ

lực bao gồm 7 tiểu đoàn của Trung đoàn 40, 41 thuộc Sư đoàn 22; 6 tiểu đoàn dù và

biệt động, lực lượng tổng dự bị. Ngoài ra còn 20 đại đội bảo an và biệt kích, hơn 100

trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu, thanh niên chống du kích. Lực lượng quân

đội Việt Nam cộng hòa được chỉ định đóng ở các huyện phía Bắc của Bình Định.

Như vậy lực lượng địch được bố trí liên hoàn trên khắp các địa bàn từ Bắc

vào Nam của tỉnh, trực tiếp uy hiếp các vùng giải phóng của ta ở đây.

29

Có thể nói, chưa bao giờ tính mạng và tài sản của nhân dân ta ở cả hai miền

Nam, Bắc bị đe dọa nghiêm trọng như vậy. Tình huống lúc này hết sức khẩn cấp.

Trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân lúc này bắt đầu xuất

hiện tư tưởng lừng khừng, do dự: làm thế nào để đánh Mỹ và thắng Mỹ, liệu chúng

ta có đánh được Mỹ không. Trong bối cảnh đó Đảng ta nhanh chóng triệu tập Hội

nghị trung ương Đảng lần thứ 11 vào tháng 3 năm 1965. Trên cơ sở phân tích một

cách kỹ lưỡng đặc điểm kẻ thù, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch, Đảng khẳng

định, mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào mấy chục vạn quân nhưng chúng cũng buộc phải

phân tán lực lượng trên khắp các chiến trường và ngày càng lâm vào thế bị động,

càng sa lầy và thất bại, so sánh lực lượng trên chiến trường vẫn không thay đổi. Từ

đó Đảng chủ trương: “tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu

tranh chính trị và binh vận” nhằm “kiềm chế và thắng địch trong chiến tranh đặc

biệt ở mức cao nhất, đồng thời sẵn sàng và quyết thắng trong chiến tranh cục

bộ…”. Đến Hội nghị trung ương 12 (12/1965), Ban chấp hành trung ương Đảng lại

nhấn mạnh: “Tuy cuộc chiến tranh càng trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta

có cơ sở chắc chắn để giữ vững và giành thế chủ động trên chiến trường, có lực

lượng và điều kiện để đánh bại mọi âm mưu trước mắt và lâu dài của địch”.

Những chủ trương trên của Ban chấp hành trung ương Đảng là cơ sở cho các

cấp ủy Đảng vạch ra đường lối đánh Mỹ phù hợp với tình hình cụ thể địa phương.

1.2.2. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện

Trực tiếp đương đầu với quân đội Mỹ và đồng minh, Khu ủy 5 và Ủy ban

Mặt trận dân tộc giải phóng Trung Trung Bộ mở cuộc vận động “Nhà nhà đón thư

Đảng, bàn việc đánh Mỹ cứu nước cứu nhà”. Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu

5 phát động phong trào thi đua “tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”. Phong danh

hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ” nhằm khuyến khích toàn dân thi đua diệt giặc . [11; tr120]

Trước không khí thi đua diệt Mỹ trong toàn Quân khu, Tỉnh ủy Bình Định

liên tiếp triệu tập Hội nghị tỉnh ủy mở rộng (ngày 16 tháng 7 năm 1965) và họp ban

30

cán sự mở rộng trong hai ngày 29 và 30 tháng 9 năm 1965. Hội nghị đánh giá kết

quả, phân tích chỉ ra hạn chế yếu kém của các mặt công tác trong tỉnh, nhận định

âm mưu và hành động của địch từ đó đề ra nhiệm vụ cụ thể, chỉ ra cách thức thực

hiện nhiệm vụ cho các vùng miền trong thời gian tới. Từ nhận định: Địch cố sức

tập trung quân cơ động càn quét mạnh ở những vùng giải phóng, nhất là vùng xung

quanh thị trấn, thị xã, đặc biệt xung quanh thị xã Quy Nhơn và vùng ven các trục

giao thông chiến lược là đường số 1 và đường 19. Song song với việc tăng cường

lực lượng lính Mỹ và đồng minh vào Bình Định, chúng cũng gia tăng một cách đột

biến phương tiện chiến tranh hiện đại vào đây, như phi cơ, các loại thiết xa, xe lội

nước, rải chất độc hóa học, thậm chí dùng cả bom hơi ngạt, vũ khí vi trùng... Mở

rộng các sân bay, bến cảng, nhất là sân bay Gò Quánh (sân bay Phù Cát) và sân bay

Quy Nhơn, hải cảng Quy Nhơn. Vùng ven biển địch đẩy mạnh phong tỏa, uy hiếp,

dùng tàu thủy, hải thuyền càn quét. Tăng cường hoạt động gián điệp, do thám, biệt

kích, tập kích, đưa người vào nội bộ của ta để phá từ bên trong. Lợi dụng các tôn

giáo, đảng phái phản động để chống lại ta. Bắt lính tăng quân, uy hiếp nhân dân

hòng đè bẹp ý chí đấu tranh của quần chúng...Hội nghị tỉnh ủy mở rộng (7/1965)

chủ trương“ động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân tập trung lực lượng tiêu

diệt lớn sinh lực địch, giành toàn bộ nông thôn, tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa

thành phố, khẩn trương tiến hành cách mạng ruộng đất, xây dựng hậu phương và

lực lượng ta thật vững mạnh, nhanh làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch,

cùng miền Nam tiến lên giành một bước thắng lợi quyết định”,“ra sức tiến công

địch bằng 3 mũi giáp công ở 3 vùng chiến lược, nhằm đập tan kế hoạch phản công

của địch, kiên quyết giữ vững vùng giải phóng, động viên đến mức cao nhất nhân

tài vật lực phục vụ tiền tuyến” [105; tr17, 18]

Tỉnh ủy cũng chỉ rõ, lực lượng vũ trang địa phương phải đánh cả quân Mỹ,

ngụy và chư hầu. Phải phát huy mạnh mẽ phong trào thi đua “tìm Mỹ mà đánh,

tìm ngụy mà diệt”, kiên quyết đấu tranh chính trị và binh vận với quân Mỹ và

31

Nam Triều Tiên.

Để thực hiện được nhiệm vụ này, một trong những công tác quan trọng phải

làm là “đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh thật rộng rãi, mạnh

mẽ, đều khắp, liên tục…du kích thôn xã phải thực sự chiến đấu tiêu hao tiêu diệt

địch, bảo vệ vùng giải phóng. Xây dựng tinh thần bám làng, bám công sự tác chiến

chống càn trong mọi trường hợp. Trong thôn xã chiến đấu phải có hầm bí mật cho

du kích…đối với vùng còn bị địch kìm kẹp đặc biệt là thị xã, thị trấn khẩn trương

xây dựng du kích bí mật phục vụ cho khởi nghĩa thị xã thị trấn sau này….Ở đồng

bằng cần xây dựng du kích đạt 5% số dân, trong đó nữ du kích đạt tỷ lệ từ 35 đến

50% tổng số du kích, miền núi đạt tỷ lệ 10% số dân”.[105; tr21, 22]

Từ cuối năm 1965 địch bắt đầu triển khai giai đoạn 2 của kế hoạch

Oétmolen: mở các cuộc tiến công lớn nhằm tiêu diệt chủ lực của ta, phá chiến tranh

du kích, giành quyền chủ động chiến lược và tiến hành “bình định”. Để thực hiện

kế hoạch này, chúng tiến hành hai chiến lược tấn công vào mùa khô. Cuộc tấn công

mùa khô 1 (cuối 1965 – 1966) và cuộc tấn công mùa khô 2 (1966 – 1967). Thực

hiện kế hoạch mùa khô 1965 - 1966, Mỹ sử dụng 72 vạn quân, trong đó có 18 vạn

quân Mỹ, gồm 14 sư đoàn, 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ, ngụy và các nước

đồng minh Mỹ, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 xe tăng, xe bọc thép, 2.288 máy bay

các loại, 541 ca nô, tàu chiến…[55; tr73] Với lực lượng hùng hậu, địch nhằm vào 5

hướng đánh, trong đó 3 hướng đánh vào các tỉnh Phú Yên, Bình Định và Quảng

Ngãi của Liên khu 5. Đặc biệt chúng coi hướng đánh vào bắc Bình Định là hướng

tấn công trọng điểm trong chiến lược mùa khô 1965 – 1966.

Trong khi Mỹ và đồng minh đang gấp rút thực hiện kế hoạch mùa khô 1965 -

1966, theo tinh thần nghị quyết số 268/NQ của Ban cán sự tỉnh (9/1965) chỉ rõ: đi

đôi với lực lượng tập trung tỉnh, huyện phải “đẩy mạnh phong trào du kích chiến

tranh cao nhất. Tích cực nống ra hoạt động phía trước. Phát triển đúng tỉ lệ, tăng

thành phần nữ, đặc biệt chú ý xây dựng lực lượng tự vệ ở thị trấn, thị xã”.[102; tr5]

32

Nghị quyết đồng thời đặt ra yêu cầu cần xây dựng lực lượng du kích ở một số địa

phương cụ thể như ở Tuy Phước, đông An Nhơn.

Những đợt tấn công mang tính hủy diệt của kẻ thù vào mảnh đất kiên cường

Bình Định cuối cùng bị thất bại nặng nề. Kina, sư đoàn trưởng của Sư đoàn kỵ binh

không vận đảm trách chỉ huy những cuộc hành quân này, mặc dù đã sử dụng mọi

chiêu thức hủy diệt bằng cả những vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất

song chúng vẫn không thực hiện được mục tiêu “tìm diệt”. Tuy nhiên sau mùa khô

1965 - 1966, vùng giải phóng của chúng ta bị thu hẹp, địch đã mở rộng lấn chiếm

một số nơi nhất là ba huyện phía nam Hoài Nhơn; xã Phước Lý, Phước Sơn, Phước

Hiệp của huyện Tuy Phước; xã Bình Giang của huyện Bình Khê.v.v, vùng quân

Mỹ và quân Nam Triều Tiên đóng chốt lấn chiếm là một vùng đất trống không

người, đại bộ phận quần chúng chạy vào các khu tập trung dân của địch.

Trước tình hình trên, từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 5 năm 1966 Hội nghị tỉnh

ủy mở rộng được triệu tập. Sau khi nhận định tình hình của ta và địch, Hội nghị đề

ra một số công tác cụ thể trong phá kẹp giành dân mở rộng vùng giải phóng; về

hoạt động vũ trang và xây dựng thôn xã chiến đấu; tăng cường công tác lãnh đạo

tư tưởng của Đảng. Trong hoạt động vũ trang và xây dựng thôn xã chiến đấu, đi

đôi với nhấn mạnh vai trò nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, Hội

nghị luôn quán triệt tinh thần cần phối hợp đấu tranh giữa các lực lượng vũ trang

này với lực lượng du kích, tự vệ: “lực lượng vũ trang tỉnh huyện và du kích phải

tích cực tiêu diệt địch trong càn quét…đối với các thị trấn, quận lỵ và vùng địch

kiểm soát cần đẩy mạnh hơn nữa tác chiến từ ngoài vào của các lực lượng (đặc

công, bộ đội địa phương, du kích) bằng pháo kích, tập kích, phục kích, đồng thời

nâng cao hoạt động vũ trang và vũ trang tuyên truyền diệt tề, trừ gian, phá hoại

của du kích và tự vệ bí mật bên trong làm cho địch thường xuyên rối loạn, lúng

túng và bị động hơn nữa”. [44; tr4] Đặc biệt trong bối cảnh địch ráo riết tìm cách

phá hoại phong trào chiến tranh du kích, Đảng bộ tỉnh cũng ra nghị quyết khẳng

33

định “ra sức kiện toàn du kích xã về mọi mặt, đồng thời phải đặc biệt chú ý xây

dựng tổ chức du kích thôn, xây dựng cho du kích thôn bám vào quần chúng đánh

địch bằng lựu đạn, hầm chông, đạp lôi…xây dựng làng chiến đấu kiên cố vững

chắc không cho địch vào địa hình làng thì tránh được sự tàn sát hàng loạt của bọn

Nam Triều Tiên”.[44; tr5]

Sau khi Mỹ không thực hiện được tham vọng của mình trong mùa khô

1965 - 1966, cuối năm 1966 Mỹ chuyển sang thực hiện kế hoạch mùa khô 1966 -

1967, dự tính kéo dài từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 6 năm 1967. [55; tr203]

Với chiến lược này Mỹ hy vọng sẽ giành một thắng lợi lớn trên chiến trường tiến

tới giành những thắng lợi quyết định. Nếu ở mùa khô 1965 – 1966 Mỹ mở 5

hướng tấn công nhằm mục tiêu “tìm diệt”, thì sang kế hoạch mùa khô 1966 –

1967 chúng không phân tán lực lượng ra đánh nhiều hướng mà tập trung đánh

vào khu vực Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và một

bộ phận chủ lực của ta đồng thời thiết lập vành đai an ninh quanh Sài Gòn. “Tìm

diệt” và “bình định” được Mỹ, chính quyền Việt Nam cộng hòa và đồng minh

triển khai thực hiện song song trong mùa khô 1966 – 1967.

Để thực hiện kế hoạch này, một lần nữa Mỹ tăng quân và phương tiện chiến

tranh vào miền Nam. Cuối năm 1966 Mỹ đưa thêm Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9

vào miền Nam nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở miền Nam cho đến thời điểm này

lên 389.000 quân. Cuối năm 1967 có tới 542.588 quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, Philippin, Guam tham gia vào chiến

tranh ở Việt Nam thì tổng số quân địch tham chiến lên tới 1.200.000 quân, trong đó

quân Mỹ có 60 vạn. [55; tr204, 205] Phương tiện chiến tranh tăng 1,5 lần so với

mùa khô 1965 - 1966, tính đến tháng 5 năm 1967 Mỹ đã huy động vào Việt Nam

4.300 chiếc máy bay, thậm chí sử dụng cả những máy bay hiện đại nhất lúc bấy giờ

như B52; Có 2.500 xe tăng, xe thiết giáp, 2.540 khẩu pháo v.v.

Bình Định – trọng điểm tấn công của Mỹ trong mùa khô 1965 - 1966, tiếp

34

tục là nơi Mỹ triển khai các cuộc càn quét nhằm thực hiện những mục tiêu của

chúng bị quân dân nơi đây đập tan trước đó. Ở phía Bắc tỉnh, nơi phong trào cách

mạng mạnh địch chú trọng “tìm diệt” kết hợp với “bình định”. Còn ở phía Nam

tỉnh địch tập trung “bình định”. Đông – Xuân 1966 – 1967 địch mở 100 trận càn

quét lớn, có 2 trận trên 1 sư đoàn kết hợp với các phương tiện chiến tranh hiện đại

kể cả B52 tấn công vào căn cứ Núi Bà và vùng Đông Bắc Phù Cát, Đông Nam Phù

Mỹ. Chúng bố trí đội hình vòng trong vòng ngoài phối hợp gây rất nhiều khó khăn

cho cách mạng tỉnh. Cùng với những hành động khốc liệt trong “tìm diệt”, địch

cũng sử dụng mọi chiêu thức thâm độc để thực hiện cho được “bình định”. Điển

hình là biện pháp phá hủy tận gốc cơ sở kinh tế, triệt nguồn sống của dân, kết hợp

với sử dụng phi pháo, chất hóa học san bằng các làng mạc, thôn xóm hòng lùa dân

vào các khu dồn. Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy khẳng định: “nhiệm vụ chống càn

quét, chống xúc tát dân, giữ vững phong trào phía Bắc, khôi phục phong trào phía

Nam là nhiệm vụ trọng tâm số một của Đảng bộ”.[11; tr142] Trên cơ sở nhiệm vụ

trọng tâm này, Tỉnh ủy cũng vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể đối với các

huyện, các lực lượng của tỉnh.

Trong lúc địch đang triển khai mạnh mẽ kế hoạch mùa khô 1966 - 1967 ở

Bình Định, từ ngày 9 đến ngày 21 tháng 5 năm 1967 Hội nghị đại biểu tỉnh Đảng

bộ được tổ chức. Hội nghị nhận định những âm mưu, thủ đoạn và thất bại của địch,

chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của ta, từ đó đề ra nhiệm vụ và phương châm

chung: “Tập trung lực lượng toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, đạp bằng mọi

khó khăn trở ngại xông lên tấn công và phản công địch quyết liệt, quyết đánh bại

âm mưu “bình định” lấn chiếm cả tỉnh ta của địch, quyết giữ vững vùng giải

phóng, nông thôn đồng bằng và miền núi, khôi phục nhanh chóng phong trào phía

nam, chuyển mạnh phong trào thị xã, thị trấn và vùng xung yếu, tích cực tham gia

sản xuất và động viên nhân tài vật lực, bảo đảm yêu cầu cao nhất cho mọi hoạt

động của Đảng. Gấp rút tăng cường thực lực vũ trang, chính trị, kinh tế của ta,

35

quyết tâm đẩy mạnh đấu tranh 2 chân, giáp công 3 mũi tiêu diệt và tiêu hao một bộ

phận sinh lực quan trọng của Mỹ, chư hầu Nam Triều Tiên và quân ngụy, nhanh

chóng chuyển biến thật mạnh mẽ về tư tưởng và tổ chức, chuyển mạnh lên thế tấn

công đều khắp nhằm tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ phối hợp cùng toàn khu

toàn miền, tiến lên giành thắng lợi to lớn nhất trong thời gian tới, đồng thời vẫn

chuẩn bị cơ sở và điều kiện đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo

dài”.[132; tr11]

Để thực hiện được mục tiêu trên, trong các mặt công tác cụ thể, Tỉnh ủy đề

ra những mục tiêu và yêu cầu cụ thể. Chiến tranh du kích tiếp tục được xem trọng.

Nghị quyết nhấn mạnh cần: “kết hợp tác chiến tập trung với tác chiến du kích…đẩy

mạnh chiến tranh du kích đều khắp trên các khu vực, đặc biệt khu vực có căn cứ,

sau lưng địch, ngay ở những vùng xung yếu như đường số 1, 6, 19”.[132; tr13]

Với tinh thần này của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh, rõ ràng chiến tranh du kích

đã và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong tiêu diệt địch. Nghị quyết cũng

đặt ra yêu cầu phong trào chiến tranh du kích cần đạt được trong thời gian tới: “tổ

chức và phát triển phong trào thi đua bắn máy bay và diệt cơ giới địch thật rộng

rãi trong du kích và bộ đội địa phương. Thường xuyên mở từng chiến dịch của du

kích trong từng địa bàn hoặc chung trong cả tỉnh nhằm đạt cho được 4 cao điểm

của phong trào du kích là: bắn rơi nhiều máy bay địch; đánh giao thông diệt nhiều

cơ giới địch; đánh thọc sâu phá rối liên tục hậu phương địch (diệt nhiều lực lượng

trực tiếp kèm kẹp quần chúng); đánh và diệt nhiều biệt kích…phát huy vai trò của

du kích mật và du kích đặc công”.[132; tr13, 14]

Về xây dựng lực lượng du kích, Tỉnh ủy chỉ đạo: “ra sức phát triển và tăng

cường lực lượng du kích đạt tỷ lệ 6% dân số đồng bằng và 12% dân số miền núi,

tăng thành phần nữ du kích lên 50% ở đồng bằng và 24% ở miền núi”.[132; tr15]

Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967 trên cơ sở đánh giá toàn diện

về địch và ta, trước những hành động tàn bạo, hung hăng của địch, Hội nghị dự

36

đoán địch có thể tiếp tục mở kế hoạch mùa khô 1967 - 1968. Vì vậy nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu lúc này vẫn là: công kích và khởi nghĩa trên toàn chiến trường bằng

3 mũi giáp công phối hợp với toàn khu và toàn miền hoàn thành nhiệm vụ trong

Xuân 1968. Trong công tác cụ thể về mặt đấu tranh vũ trang nhằm tiêu diệt tối đa

lực lượng địch, Nghị quyết đặc biệt quan tâm chú trọng tới phát triển phong trào du

kích. “Đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh đến mức cao hơn bao

giờ hết và xây dựng thôn xã chiến đấu rộng khắp thành thế liên hoàn vững chắc sát

nách thị xã, thị trấn, xung quanh căn cứ, dọc trục giao thông và các địa bàn cơ

động nhằm liên tục tấn công bao vây địch phục vụ cho tiêu diệt lớn”. [133; tr11]

Theo tinh thần của nghị quyết tháng 11 năm 1967, chiến tranh du kích trở thành mắt

khâu quan trọng trong tiêu diệt sinh lực địch. Đóng vai trò mở đường cho các lực

lượng vũ trang tiến lên tiêu diệt địch quy mô lớn. Tuy nhiên, để đẩy mạnh phong trào

du kích thì ngoài việc nâng cao ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân về

chiến tranh toàn dân, cũng cần chú trọng tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào du

kích. Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967 cũng đặt ra yêu cầu cho các chi

bộ du kích – lực lượng lãnh đạo nòng cốt phong trào chiến tranh du kích cần tổ chức

học tập kinh nghiệm đấu tranh du kích của toàn quân khu để về chỉ đạo cụ thể du

kích chiến tranh tại Bình Định. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ

trang địa phương nhằm nâng cao hiệu quả diệt địch, đồng thời bảo vệ lực lượng tốt

nhất trong quá trình đấu tranh.

Công tác xây dựng lực lượng du kích tiếp tục được nhấn mạnh lại trong Nghị

quyết tháng 11 năm 1967 với những đòi hỏi cấp bách hơn: “khẩn trương xây dựng

lực lượng tập trung, du kích xã thôn, du kích mật và hợp pháp, các đội quyết tử mau

lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng kịp phục vụ cho công kích và khởi nghĩa”.

[133; tr11] Trong vùng địch kiểm soát cần xây dựng du kích mật, tự vệ mật. Ở vùng

ta làm chủ ngoài phát triển du kích cần phát triển rộng rãi dân quân. Cần coi trọng

trang bị cho du kích “xây dựng cơ sở sản xuất vũ khí thô sơ cho du kích đến tận xã

37

thôn hoặc cướp vũ khí của địch trang bị cho ta, củng cố cơ sở sản xuất của tỉnh để

kịp phục vụ yêu cầu cho phong trào du kích chiến tranh”.[133; tr18]

Bên cạnh việc quan tâm tới số lượng, trang bị cho du kích, Tỉnh ủy cũng đề

cao việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ du kích bằng cách đẩy mạnh giáo dục tư

tưởng, chính trị cho đội ngũ du kích, tăng tỷ lệ đoàn viên, đảng viên trong du kích

nhất là ở các địa bàn xung yếu.

Cuối năm 1967 đánh dấu sự thất bại thê thảm của quân Mỹ và đồng minh. Sau

2 kế hoạch mùa khô của địch chứng tỏ rằng, địch càng hung hăng, tàn bạo bao nhiêu

thì chúng gánh chịu hậu quả càng thảm hại bấy nhiêu. Dù đã dốc một lực lượng quân

thiện chiến đông đảo với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, Mỹ vẫn bị

động, lúng túng trên chiến trường miền Nam Việt Nam, còn quân đội Việt Nam cộng

hòa lúc này thực sự bi đát, hoài nghi về sức mạnh Mỹ. Ngược lại với chiều hướng

ảm đạm của Mỹ, cách mạng miền Nam đến thời điểm này đã có sự trưởng thành

vượt bậc. Chúng ta vẫn nắm quyền chủ động trên toàn miền Nam Việt Nam.

Trước những thắng lợi to lớn giành được trong đợt phản kích 2 kế hoạch

mùa khô của Mỹ, Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tấn công nổi dậy Xuân

1968 với chủ trương “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn

quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam Bắc, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên

bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa

để giành thắng lợi quyết định”.

Ở Bình Định, lớp chỉnh huấn chủ trương của Trung ương, Khu ủy và Tỉnh

ủy được tổ chức, công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công nổi dậy tết Mậu Thân

1968 cũng gấp rút triển khai. Theo đó, Ban chỉ đạo Mặt trận Bình Định do đồng chí

Nguyễn Xuân Hữu - ủy viên thường vụ Khu ủy làm Trưởng ban và Ban chỉ đạo

Quy Nhơn được thành lập do đồng chí Tô Đình Cơ – Phó bí thư Tỉnh ủy làm

Trưởng ban.

Tại cuộc họp Ban cán sự ngày 7, 8 tháng 6 năm 1968, trên cơ sở phân tích

38

động thái của địch, Nghị quyết của Tỉnh ủy tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ cần phải

làm là: “công kích liên tục, ngày càng mạnh mẽ (kết hợp với khởi nghĩa vũ trang

quần chúng và binh vận), tiêu diệt và làm tan rã cơ bản ngụy quân, ngụy quyền,

gây thiệt hại nặng cho quân Mỹ…đi đôi với tác chiến liên tục phải hết sức chú ý

xây dựng ba thứ quân lớn mạnh nhanh chóng”.[101; tr3]

Trên tinh thần chỉ đạo chung này của Tỉnh ủy, việc xây dựng, phát triển lực

lượng du kích và chiến tranh du kích là một trong những nội dung quan trọng của

tỉnh trong giai đoạn hiện tại để thực hiện mục tiêu tiêu diệt địch.

Tóm lại, tương ứng với sự thay đổi của tình hình cụ thể, căn cứ vào sự chỉ

đạo của Trung ương Đảng, Khu ủy khu V, Đảng bộ tỉnh Bình Định nhanh chóng

đưa ra những chủ trương phù hợp để giải quyết nhiệm vụ trước mắt từng bước

hướng tới giải quyết nhiệm vụ lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trong cuộc chiến chống lại một đội quân xâm lược nhà nghề có lực lượng thiện

chiến đông đảo, trang bị vũ khí hiện đại với những âm mưu xảo quyệt mà lực lượng

của chúng ta còn nhỏ bé, trang bị thiếu thốn, vũ khí thô sơ thì việc triệt để sử dụng

chiến thuật chiến tranh du kích có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thực sự cần thiết.

Vì vậy ở hầu hết các chủ trương Đảng bộ tỉnh đều đề cập đến và có những nội dung

chỉ đạo cụ thể về chiến tranh du kích ở những mức độ khác nhau làm bùng lên

phong trào chiến tranh du kích rộng lớn, mạnh mẽ trên khắp các địa bàn tỉnh trong

suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

1.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về đẩy mạnh phong trào chiến tranh du

kích, công tác chuẩn bị cho hoạt động du kích được triển khai một cách khẩn

trương. Lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng được xây dựng, tổ chức và

từng bước kiện toàn. Tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh được bổ sung quân số, trang bị vũ

khí theo quy định, trở thành tiểu đoàn chủ lực mạnh của tỉnh. Ngày 19 tháng 5 năm

1965 Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định rút 3 đại đội trực thuộc tỉnh hợp nhất với đại

39

đội hỏa lực trợ chiến của Quân khu, thành lập Tiểu đoàn 52. Tiểu đoàn 52 do đồng

chí Thái Sơn làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đinh Bá Lộc làm chính trị viên. Đại

đội đặc công Đ10 được phiên chế thành 5 trung đội. Ở các huyện đồng bằng, mỗi

huyện xây dựng một đại đội tập trung. Ở các huyện miền núi, mỗi huyện xây dựng

2 trung đội. Mỗi xã có 1 trung đội du kích. Từ giữa năm 1965 tất cả các đơn vị đều

ổn định tổ chức, biên chế, huấn luyện bổ sung. Các đại đội, tổ, đội chuyên môn

gồm công binh, trinh sát, đặc công nước, săn máy bay được kiện toàn. [46; tr279]

Lực lượng dân quân du kích Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

được hình thành khá sớm và không ngừng tăng lên về mặt số lượng và chất lượng.

Từ một lực lượng du kích nhỏ bé đầu tiên là du kích làng Tơlok, Tơlek của huyện

Vĩnh Thạnh được thành lập năm 1959, đến năm 1965 toàn tỉnh có 16.347 du kích,

tự vệ. Trong đó vùng đồng bằng có 14.269 du kích chiếm 3,3% dân số đồng bằng,

miền núi có 2.079 du kích chiếm 11,5% dân số miền núi. Du kích cấp xã có 3.919

người, du kích cấp thôn có 11.709 người, du kích mật có 719 người. Nữ du kích có

3.048 người chiếm 18,7 % tổng du kích. 382 du kích là đảng viên chiếm 2,3% tổng

du kích. 483 du kích là đoàn viên chiếm 6,0% tổng du kích. [38; 4] Đội du kích thiếu

niên bắt đầu được quan tâm xây dựng, thành lập sớm nhất là đội du kích thiếu niên

thôn ở huyện Phù Cát gồm có 129 em.

Lực lượng nòng cốt lãnh đạo trong du kích cũng ngày càng được xem trọng.

Ở miền núi trung bình 1 đoàn viên lãnh đạo 23 quần chúng. Ở đồng bằng trung

bình 1 đoàn viên lãnh đạo 28 quần chúng.

Công tác giáo dục đào tạo cán bộ du kích được quan tâm thường xuyên. Năm

1965 tỉnh và huyện đã mở 279 lớp bồi dưỡng đào tạo cho cán bộ xã, thôn và du

kích xã thôn (trong đó tỉnh mở 2 lớp, tỉnh phối hợp với huyện mở 13 lớp, huyện mở

35 khóa, các xã trong 10 huyện mở 261 lớp). Thông qua các lớp huấn luyện, cán bộ

và du kích thấy được vai trò quan trọng của chiến tranh du kích, được tập huấn các

chiến thuật du kích và cách sử dụng vũ khí.v.v.

40

Trang bị vũ khí cho du kích là một trong những nội dung không thể thiếu trong

công tác chuẩn bị chiến tranh. Ngay từ đầu cuộc chiến Tỉnh đội đã quán triệt phương

châm tiêu diệt địch lấy vũ khí trang bị cho mình, khuyến khích nhân dân, du kích tự vệ

tự sáng tạo vũ khí. Bên cạnh đó, cách mạng Bình Định cũng nhận được sự chi viện vũ

khí từ miền Bắc qua các con đường 559 trên bộ và 559 trên biển. Để tăng cường sức

chiến đấu cho các lực lượng vũ trang ở Bình Định trong cuộc đọ sức trực tiếp với bọn

lính Mỹ và đồng minh, cuối năm 1964 chuyến hàng chi viện vũ khí đầu tiên của miền

Bắc với hơn 30 tấn vũ khí đã cập bến Lộ Diêu (Hoài Mỹ, Hoài Nhơn). Năm 1965 tính

trung bình 6 du kích có 1 khẩu súng.

Về xây dựng thôn xã chiến đấu: chấp hành chỉ thị của Thường vụ Tỉnh ủy và

Hội nghị du kích chiến tranh của tỉnh tháng 6 năm 1965, học tập Chỉ thị phát động

phong trào du kích chiến tranh tháng 2 năm 1965, phong trào du kích nói chung,

công tác xây dựng thôn xã chiến đấu nói riêng có chuyển biến hơn trước. Căn cứ

vào 6 tiêu chuẩn của 1 xã chiến đấu, nhiều thôn, xã ở các huyện đều chú trọng rào

làng chiến đấu, cải biến địa hình, dựng chướng ngại vật, đào giao thông hào v.v.

đảm bảo cho du kích có điều kiện độc lập tác chiến.

Cuối năm 1965 đầu năm 1966 địch triển khai kế hoạch mùa khô 1965 –

1966, thực hiện Nghị quyết số 268/NQ của cuộc họp ban cán sự mở rộng và Nghị

quyết Hội nghị tỉnh ủy mở rộng (tháng 5 năm 1966) quân và dân tỉnh Bình Định

dốc sức lao vào cuộc chiến tiêu diệt kẻ thù bảo vệ quê hương. Ba cuộc hành quân

“tìm diệt” lớn của địch cùng hàng loạt các cuộc hành quân, lùng sục khác của

chúng đã gây nhiều thiệt hại lớn cho nhân dân Bình Định. Từ giữa năm 1965 đến

giữa năm 1966, địch đã mở 1.412 cuộc càn, hàng ngàn cuộc ném bom, bắn pháo,

giết hại 6.148 người, đốt cháy 37.512 nóc nhà, cướp, đốt 3.505 tấn gạo, phá hàng

ngàn tấn hoa màu, hàng vạn cây ăn quả, bắt 150.000 người vào các khu dồn dân.

[55; tr115] Một số nơi cách mạng đã mất quyền kiểm soát. Tình hình này ảnh

hưởng trực tiếp tới lực lượng du kích và hoạt động của du kích trên địa bàn tỉnh.

41

Cùng với sự thu hẹp vùng giải phóng của ta thì lực lượng du kích cũng thu hẹp lại.

Năm 1966 toàn tỉnh Bình Định còn khoảng 11.314 du kích, tự vệ. Trong đó lực

lượng du kích ở đồng bằng có 9.233 người chiếm 3,44% dân số đồng bằng, lực

lượng du kích ở miền núi 2.081 người chiếm 11,5% dân số miền núi. Du kích xã có

3.084 người. Du kích thôn có 7.509 người. Du kích mật có 721 người. Nữ du kích

có 2.750 người, chiếm 24,3% tổng du kích. Có 671 du kích là đảng viên, chiếm

5,9% tổng du kích. 1.481 du kích là đoàn viên, chiếm 13,1% tổng du kích.

Như vậy, so với năm 1965 thì sang năm 1966 lực lượng du kích giảm, song tỉ

lệ du kích trong tổng số dân vùng ta làm chủ thì không hề giảm sút. Điều đáng chú

ý là năm 1966 lực lượng du kích vùng nông thôn, lực lượng du kích nữ và chất

lượng du kích tăng lên đáng kể. Điều này chứng tỏ những chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh

trong xây dựng lực lượng du kích trên địa bàn dần được hiện thực hóa nhằm đáp

ứng tốt hơn yêu cầu của cuộc kháng chiến.

Thắng lợi trong phá kế hoạch mùa khô 1965 - 1966 của địch, sang mùa khô

1966 - 1967 toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Định tiếp tục vùng lên với khí thế

mới. Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967,

phong trào du kích chiến tranh phát triển khá, trong điều kiện địch đánh phá liên

tục và ác liệt, số lượng du kích có giảm nhưng chất lượng tăng. Tuy nhiên sự ngoan

cố, tàn bạo của kẻ thù đã gây không ít khó khăn, tổn thất cho phong trào đấu tranh

của tỉnh. Lực lượng vũ trang ba thứ quân giảm sút nghiêm trọng. Trung đoàn chủ lực

chỉ còn vài trăm đồng chí, có tiểu đoàn còn chưa đầy 100 người. Cán bộ huyện xã và

du kích các xã ở đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước còn rất ít, có xã như Phước

Quang chỉ còn 1 du kích. Năm 1967 toàn tỉnh chỉ có 5.788 du kích, giảm hơn một

nửa so với năm 1966. Mùa hè năm 1967, Tỉnh ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn 3 chủ

trương lấy một bộ phận của sư đoàn lập những đơn vị nhỏ cỡ đại đội, luồn xuống

khu vực đông Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ cùng các lực lượng địa phương chống “bình

định”, hỗ trợ công tác xây dựng vùng yếu, phát triển mạng lưới hậu cần, tuyển quân

42

tại chỗ, góp phần trực tiếp vào giải quyết những khó khăn trước mắt.

Sau mùa khô 1966 – 1967 tình hình chuyển biến có lợi cho phía cách mạng ở

miền Nam. Tháng 12 năm 1967 Bộ chính trị quyết định mở cuộc tổng công kích,

tổng khởi nghĩa xuân 1968. Theo sự chỉ đạo của Quân khu, thị xã Quy Nhơn được

chọn làm một trong những trọng điểm của Khu 5 trong đợt nổi dậy lần này. Vì vậy,

lúc này công tác xây dựng lực lượng, xây dựng thôn xã chiến đấu, huy động nhân

dân đóng góp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến đối với tỉnh trở nên cấp thiết

hơn lúc nào hết. Trong công tác hậu cần phục vụ chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở

Bình Định thì hậu cần tại chỗ luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Năm 1968

Tỉnh ủy đã chỉ đạo thu mua được 3.985 tấn lương thực. Ở vùng tranh chấp, hầu hết

mỗi gia đình đều dự trữ sẵn 15 – 20 kg gạo, 5-10 kg muối.

Sau Mậu Thân 1968 được sự chỉ đạo của cuộc họp Ban cán sự ngày 7, 8 tháng

6 năm 1968 việc xây dựng, phát triển lực lượng du kích và chiến tranh du kích tiếp tục

là một trong những nội dung quan trọng của tỉnh trong giai đoạn hiện tại.

Theo Báo cáo tổng kết tình hình phong trào du kích chiến tranh từ tháng 1

đến 31 tháng 12 năm 1968 của Tỉnh đội Bình Định số 2/BC, tháng 10 năm 1967

Tỉnh đội tổ chức Hội nghị du kích chiến tranh thông qua kế hoạch cụ thể, giao chỉ

tiêu phát triển lực lượng xuống các huyện. Tiếp đó, vào tháng 8 Tỉnh đội tổ chức

Hội nghị cán bộ để kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết đồng thời bổ sung phương

hướng nhiệm vụ cuối năm, cử cán bộ xuống địa phương nhằm tháo gỡ những khó

khăn ở huyện, xã. Nhờ những việc làm cụ thể của Tỉnh đội đã góp phần đưa phong

trào chiến tranh du kích trong tỉnh đạt được một số thành tích đáng kể: Năm 1968

tổng số du kích tự vệ đạt 7.319 người, tăng gần 2.000 người so với năm 1967.

Trong đó vùng đồng bằng có 2.400 du kích chiếm 3,25% dân số đồng bằng, du kích

miền núi có 2.113 người, chiếm 11,7%. Lực lượng du kích mật tăng mạnh trong

năm 1968, đây cũng là năm lực lượng du kích mật cao nhất trong suốt thời kỳ

kháng chiến chống Mỹ ở Bình Định, có tới 2.048 người. Ngoài du kích tập trung,

43

du kích bán tập trung, du kích mật, đến 1968 ở Bình Định đã tổ chức được các đội

du kích chuyên môn như du kích đặc công, du kích công binh, du kích chuyên bắn.

Sau năm 1968 Tỉnh đội Bình Định còn được bổ sung tiểu đoàn đặc công 405.

Các lớp đào tạo, huấn luyện được mở ra ở hầu khắp các cấp:

Cấp tỉnh mở 5 khóa xã đội và trợ lý dân quân huyện đội 110 ngày, có 125

đồng chí tham dự. 1 khóa bồi dưỡng 5 ngày có 16 đồng chí dự. Ngoài ra tỉnh còn

cử 10 đồng chí xuống các huyện để triển khai Nghị quyết 4, 5.

Cấp huyện, mở 10 khóa 72 ngày để bồi dưỡng cho cán bộ xã đội và trợ lý dân

quân huyện đội, có 123 đồng chí tham dự. Mở 4 lớp đặc công 36 ngày cho 66 đồng

chí. 3 lớp bộc phá phóng 20 ngày có 29 đồng chí dự. 1 lớp văn thư 1 ngày 1 đêm có

7 đồng chí dự. 1 lớp cứu thương xã có 3 đồng chí dự.

Xã mở 52 lớp huấn luyện khoảng 455 ngày cho 1.980 du kích xã, du kích thôn

và du kích mật.

Các lớp huấn luyện này nhằm bồi dưỡng công tác tổ chức, chỉ huy, lãnh đạo

cho các cán bộ du kích, nâng cao nghiệp vụ, tư tưởng chiến thuật, cách sử dụng một

số vũ khí cải tiến, phương thức tác chiến cho học viên.

Công tác xây dựng thôn, xã chiến đấu cũng được đặc biệt chú trọng: năm 1968

đã xây dựng được 46 xã chiến đấu. Trong đó có 3 xã đạt loại khá được Đại hội chiến

sĩ thi đua của tỉnh lần thứ 5 tặng cờ khen là xã Hoài Châu (Hoài Nhơn), xã An Mỹ (An

Lão), xã Nhơn Hậu (An Nhơn). 6 xã đạt loại trung bình bao gồm xã Cát Hanh (Phù

Cát), xã Mỹ Tho (Phù Mỹ), xã An Thạnh (Hoài Ân), xã Phước Thắng (Tuy Phước), xã

Bình Giang (Bình Khê) và xã Kongkring (Vĩnh Thạnh). 37 xã đang trong quá trình

xây dựng. [123; tr14] Một số xã ở Hoài Nhơn và Phù Mỹ đã xây dựng được công sự

bí mật, thường xuyên nuôi dấu và bảo vệ hàng trăm cán bộ, thương binh.

Như vậy các chủ trương của Tỉnh ủy và Tỉnh đội Bình Định về chỉ đạo, lãnh

đạo chiến tranh du kích giai đoạn 1965 – 1968 từng bước được hiện thực hóa là

điều kiện tiên quyết đưa phong trào du kích chiến tranh ở Bình Định giành được

44

những thắng lợi quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Từ mùa thu năm 1965 khi địch đang gấp rút thực hiện kế hoạch mùa khô

1965 - 1966, theo tinh thần nghị quyết số 268/NQ của cuộc họp ban cán sự mở

rộng “quán triệt tư tưởng tiêu diệt, nắm vững phương châm đánh địch ngoài công

sự là chính”.[102; tr5] Trên cơ sở các lực lượng vũ trang được kiện toàn, thực hiện

chủ trương của Hội nghị du kích chiến tranh toàn Khu 5 về “tổ chức vành đai diệt

Mỹ ở những vùng Mỹ bắt đầu chiếm đóng”, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội

nhanh chóng tổ chức kế hoạch bố trí quân liên hoàn hòng hỗ trợ nhau trong tiêu

diệt lực lượng địch:

Hướng thứ nhất, Tiểu đoàn 50, 1 đại đội đặc công phối hợp với bộ đội huyện

Tuy Phước và du kích các địa phương hoạt động ở vùng đông Tuy Phước, nam Phù

Cát, cơ động đánh địch ven Quy Nhơn.

Hướng thứ hai, Tiểu đoàn 52 cùng với bộ đội huyện và du kích địa phương

hoạt động từ tây An Nhơn đến bắc Bình Khê và bắc Phù Cát.

Trên cả hai hướng đánh này lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đều cần có sự

phối hợp đấu tranh của du kích địa phương.

Phản kích lại kế hoạch chuẩn bị mùa khô 1965 - 1966 của địch, hàng loạt

những trận đánh của các lực lượng vũ trang chính quy liên tục diễn ra nhằm tiêu diệt,

tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ vùng giải phóng, đập tan mưu đồ “phá chiến tranh du

kích” của kẻ thù. Ngày 2 tháng 7 năm 1965 địch dùng 1 tiểu đoàn lính bảo an và 1

trung đội dân vệ càn vào Hòa Phong, Tân Kiều (Nhơn Mỹ, An Nhơn) bị du kích và

bộ đội địa phương chặn đánh, diệt 50 tên, thu được 50 súng. Tiếp đó, ngày 5 tháng 8

năm 1965 du kích xã Nhơn Mỹ phục kích một đại đội lính bảo an tại thôn Đại Bình,

diệt được 45 tên, thu 37 súng các loại. Cùng ngày, tại Nhơn Phong (An Nhơn), du

kích địa phương phối hợp với Tiểu đoàn 50 diệt gọn 1 đại đội lính bảo an, 1 trung

đội dân vệ, đánh sập trụ sở xã Nhơn Phong. 100 tên lính Nam Triều Tiên bị du kích

ấp Kiên Mỹ phối hợp với Tiểu đoàn 52 loại khỏi vòng chiến vào ngày 10 tháng 8

45

năm 1965.

Sau chiến thắng có ý nghĩa chiến lược của Sư đoàn 3 có sự phối hợp của

quân dân Bình Định tại Thuận Ninh và khu vực suối La Tinh, từ ngày 10 tháng 10

năm 1965 các lực lượng vũ trang trong tỉnh vùng lên tấn công địch theo hiệu lệnh

của Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Trên khắp các địa bàn tỉnh, lực lượng du kích địa

phương liên tục phối hợp với bộ đội tỉnh, huyện tổ chức phục kích, tập kích tiêu

diệt địch. Mở màn là sự phối hợp giữa du kích địa phương với Tiểu đoàn 50 tấn

công tiêu diệt địch ở thị trấn Đập Đá ngày 6 tháng 11 năm 1965, diệt được 1 đại đội

lính bảo an. 1 đại đội lính Nam Triều Tiên bị Tiểu đoàn 52 tập kích tiêu diệt tại Tân

Giảng (Phước Hòa, Tuy Phước) ngày 22 tháng 11. Ngày 3 tháng 12 năm 1965 du

kích xã Bình Thành (Bình Khê) phục kích diệt hàng chục tên lính Nam Triều Tiên.

Trong tháng 12 năm 1965 du kích và bộ đội địa phương toàn tỉnh liên tục tổ chức

phục kích, tập kích diệt hàng trăm tên lính Mỹ, Ngụy, Nam Triều Tiên. Một tiểu

đội du kích Hoài Ân diệt gọn một trung đội dân vệ. Du kích Bình Khê tổ chức đánh

địch trên đường 19. Du kích Hoài Nhơn, Tuy Phước tổ chức chống càn.v.v.

Bên cạnh phong trào đấu tranh quân sự sôi nổi trên khắp các địa bàn tỉnh,

phong trào đấu tranh chính trị và binh vận cũng có bước tiến đáng kể. 6 tháng cuối

năm 1965 toàn tỉnh có hơn 1500 cuộc đấu tranh chính trị thu hút hơn 160.000

người tham gia nhằm tố cáo tội ác của lính Mỹ, Nam Triều Tiên. Tiêu biểu là cuộc

đấu tranh của hơn 20.000 đồng bào huyện Hoài Nhơn kéo về thị trấn Bồng Sơn,

bao vây chặt các đồn bảo an, dân vệ, đòi yêu sách, kêu gọi binh lính trở về với vợ

con. Trước khí thế đấu tranh cuồn cuộn của quần chúng, bọn ác ôn phải chùn bước.

Tên quận trưởng đứng ra nhận tội, chấp nhận mọi yêu sách của nhân dân, bồi

thường những người thiệt mạng.

Nhân dân còn rải truyền đơn kêu gọi được 3.554 binh lính về với vợ con, 18

trung đội ngụy rã ngũ tập thể, 25 trung đội làm nội ứng, nộp cho cách mạng 1.045

súng các loại. Ngày 10 tháng 11 năm 1965 có 50.000 lượt người kéo vào thị xã Quy

46

Nhơn, các thị trấn, đồn bốt địch hô vang khẩu hiệu “đả đảo đế quốc Mỹ và tay sai”.

Kết hợp với đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, nhân dân còn tham gia

vào bố phòng làng mạc chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Ở những nơi đã giải

phóng, công tác xây dựng làng chiến đấu được triển khai nhanh chóng, thu hút

đông đảo người dân tham gia. Ở những nơi bị địch kìm kẹp, nhân dân phối hợp với

du kích địa phương tiếp tục nổi dậy phá kèm. Trong thu – đông năm 1965 nhân dân

đã phá được 15 ấp chiến lược, giải phóng được 15 thôn của 5 xã thuộc huyện Vân

Canh với 15.000 dân.

Như vậy trong khoảng nửa năm trực tiếp đọ sức với đội quân thiện chiến Mỹ

và Nam Triều Tiên, chúng ta với những vũ khí thô sơ, tự tạo bằng tinh thần nhiệt

huyết, mưu trí, dũng cảm đã bẻ gãy hàng loạt cuộc hành quân càn quét của kẻ thù.

Đặc biệt bằng lối đánh phục kích, tập kích của bộ đội địa phương phối hợp với lực

lượng du kích đã diệt hàng ngàn tên địch, đẩy chúng vào thế lúng túng bị động, mất

tinh thần. Một bầu không khí quyết chiến quyết thắng đang lan rộng trong từng con

tim khối óc của đồng bào Bình Định yêu nước. Đây là nguồn lực tinh thần quý giá

để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Định quyết tâm hơn nữa trong cuộc chiến

đập tan hai kế hoạch mùa khô của địch.

Bị đánh phủ đầu ở Vạn Tường, Thuận Ninh, Pleime, Mỹ quyết định đánh

một đòn giáng trả. Cuối năm 1965 đầu năm 1966 địch huy động toàn bộ lực lượng

quân Mỹ, quân lực Việt Nam cộng hòa và đồng minh ồ ạt mở cuộc phản công mùa

khô hòng “tìm diệt” bộ đội chủ lực của ta.

Bình Định, nơi đứng chân của Sư đoàn 3, nơi có phong trào cách mạng

mạnh, là cầu nối từ từ biển lên các tỉnh Tây Nguyên, là nơi có vùng giải phóng

rộng nhất khu 5, trở thành địa bàn “tìm diệt” lớn nhất của Mỹ trong đợt phản công

này. Địch huy động hơn 20.000 quân chưa kể quân địa phương, dưới sự chỉ huy

của Kina - Sư trưởng sư đoàn kỵ binh không vận số 1, mở hơn 600 cuộc hành quân

càn quét trên khắp các địa bàn tỉnh Bình Định. Địch bố trí: ở phía Bắc tỉnh quân

47

Mỹ trực tiếp “tìm diệt”, các huyện phía Nam tỉnh do quân đội Việt Nam cộng hòa

và quân Nam Triều Tiên thực hiện kìm kẹp dân, giữ yên phía Nam để tiện cho quân

Mỹ “tìm diệt”. Như vậy địch kết hợp giữa “tìm diệt” và “bình định”, tấn công mạnh

mẽ về mặt quân sự đồng thời đẩy mạnh chiến tranh tâm lý để hù dọa nhân dân.

Những hành động không thương tiếc của kẻ thù đã gây thiệt hại vô cùng lớn về

người và của ở Bình Định.

Theo chủ trương của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu: nơi nào địch chưa tấn

công thì ta tiếp tục chuẩn bị và giữ chủ động, nơi nào địch ra quân tấn công thì ta

chủ động phản công tiêu diệt địch chống càn, cứu dân, lấy ngày xuất quân đánh

càn là ngày mở màn cho chiến dịch mùa Xuân.

Tại Bình Định, trong lúc Sư đoàn 3 đang chuẩn bị cho chiến dịch mùa

Xuân, sư đoàn vẫn bố trí đội hình phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh và dân

quân du kích chuẩn bị phản công địch. Các đơn vị chiến đấu của Sư đoàn 3 được

bố trí ở các huyện phía Bắc tỉnh Bình Định – nơi địch mở cuộc phản công lớn

nhất mùa khô 1965 - 1966. Theo đó, Trung đoàn 2 đóng ở bắc Phù Cát đến đông

Phù Mỹ, Trung đoàn 12 đóng ở bắc Phù Mỹ đến nam Hoài Ân, Trung đoàn 22

đóng ở bắc Hoài Nhơn. Tháng 1 năm 1966 Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định được

thành lập do đồng chí Giáp Văn Cương làm chỉ huy trưởng, đồng chí Trần Quang

Khanh, Bí thư Tỉnh ủy làm chính ủy.

Bước sang năm 1966, trong khi quân Mỹ đang cố “tìm diệt” ở phía Bắc tỉnh

thì ở phía Nam tỉnh Bình Định quân Nam Triều Tiên vẫn tiếp tục mở các trận càn

hòng “bình định”. Để tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện có

thời gian chuẩn bị cho công tác chống càn quy mô lớn, nhiều nơi du kích đã tổ

chức những trận đánh độc lập. Trong số những trận đánh độc lập của du kích đầu

năm 1966 thì trận đánh của lực lượng du kích xã Bình An (huyện Bình Khê) diễn ra

ngày 23 tháng 1 năm 1966 được xem là một trong những trận đánh điển hình.

Ngày 23 tháng 1 năm 1966 quân Nam Triều Tiên huy động lực lượng mở

48

cuộc càn quét vào xã Bình An. Xã Bình An là một xã đồng bằng của huyện Bình

Khê (nay là huyện Tây Sơn). Đây là nơi tiếp giáp giữa 3 huyện Bình Khê, An Nhơn

và Phù Cát, nằm gần sân bay Gò Quánh. Đối với địch, Bình An là một trong những

nơi cần làm trắng để bảo vệ sân bay của chúng. Còn đối với ta, Bình An là một địa

bàn đứng chân quan trọng trong việc cơ động diệt địch. Do đó các cơ quan của

huyện Bình Khê thường đứng chân ở đây để chỉ đạo phong trào đấu tranh của các

xã. Tháng 2 năm 1965 Bình An đã được giải phóng. Ở đây nhân dân và du kích địa

phương đã xây dựng làng xã chiến đấu. Hầu hết các thôn đều có hệ thống hố chiến

đấu cá nhân, giao thông hào ngang dọc, hầm tránh bom pháo, xung quanh

thôn có lũy tre bao bọc.

Để mở rộng vành đai an toàn cho sân bay Gò Quánh, địch huy động 2 đại đội

lính Nam Triều Tiên với khoảng hơn 200 tên, được trang bị súng bộ binh, có hỏa

lực đi cùng mạnh, được không quân và pháo binh yểm trợ tấn công vào càn quét

Bình An.

Ở Bình An, chúng ta có một đơn vị du kích. Đơn vị này được phát triển lên

từ đội công tác, vào năm 1961. Đến năm 1966, trung đội du kích Bình An có 15

đồng chí, trong đó có 4 nữ du kích. Trung đội du kích này được trang bị 3 khẩu

súng trường mas, 4 khẩu trung chính, 1 khẩu garăn, 8 khẩu cacpin M1, 1 khẩu tiểu

liên tuyn. Mỗi du kích được trang bị từ 2 đến 3 quả lựu đạn. Khi địch mở cuộc càn

quét vào đây, lực lượng du kích của Bình An được tăng cường thêm 5 du kích của

thôn Nhơn Thuận. Như vậy bước vào cuộc chiến, đội du kích Bình An có 20 đồng

chí, trong đó đồng chí Bùi Minh Kiệt là xã đội trưởng. Ngoài du kích xã, các thôn

còn có du kích thôn phối hợp đánh địch. Với lực lượng này đội biên chế thành 3

tiểu đội, dàn bố trí các tiểu đội theo hướng phối hợp đánh địch. Có dự kiến tình

huống và công tác hiệp đồng. Trước khi bước vào trận chống càn, ban chỉ huy xã

đội triển khai bố trí địa hình, củng cố công sự, ngụy trang, bố phòng các bãi chông,

hầm chông ở khu vực rìa làng, cử người cảnh giới.

49

3 giờ sáng ngày 23 tháng 1 năm 1966, 2 đại đội lính Nam Triều Tiên lợi dụng

đêm tối bí mật đánh úp vào các làng An Chánh, Mỹ Thuận, bị du kích hai thôn này nổ

súng ngăn chặn. Sau đó chúng tổ chức 2 đợt tấn công: đợt 1 lúc 7 giờ 30, đợt 2 khoảng

9 giờ. Mặc dù địch có số lượng quân đông áp đảo với trang bị phương tiện chiến tranh

hiện đại, trong điều kiện du kích Bình An chưa từng đánh độc lập với quân Mỹ, quân

đội Việt Nam cộng hòa, quân Nam Triều Tiên, nhưng nhờ mưu trí, dũng cảm lực

lượng du kích nơi đây đã đẩy lùi các cuộc tấn công của địch, loại khỏi vòng chiến 27

tên, làm thương 16 tên và 1 máy bay.

Chiến thắng của du kích Bình An đã góp phần cổ vũ, động viên lớn đối với

nhân dân và du kích địa phương. Từ đây tư tưởng dám đánh, quyết đánh và đánh

thắng của du kích Bình An càng khẳng định một cách chắc chắn.

Ở phía Bắc tỉnh, sau khi đưa quân Nam Triều Tiên và quân lực Việt Nam

cộng hòa ra án ngữ đường số 1 để đảm bảo hành lang an toàn từ Quy Nhơn đến

Bồng Sơn. Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1966 sau loạt bom do B52 thả để dọn đường,

hàng loạt máy bay lên thẳng chở Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn không vận số 1 Mỹ đổ

bộ xuống Chợ Cát (Hoài Hảo), Cửu Lợi (Tam Quan Nam), Trường Xuân, An Thái

(Tam Quan Bắc), Tài Lương (Hoài Thanh) với cuộc hành quân mang tên “Kẻ

nghiền nát” đã chính thức mở màn cho cuộc phản công mùa khô 1965 - 1966 vào

mũi tên lớn nhất của Mỹ trên vùng đất Hoài Nhơn của Bình Định.

Ngay từ những ngày đầu Mỹ đổ quân xuống đây, du kích địa phương đã phối

hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và quân chủ lực dựa vào các làng chiến đấu

đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch. Ngày đầu tiên ra quân, các lực lượng vũ trang

ở Bình Định đã diệt được 500 tên Mỹ, bắn rơi 20 máy bay lên thẳng. Tại chợ Cát,

quân Mỹ chết nhiều đến nỗi chúng phải dùng trực thanh phóng loa yêu cầu chúng

ta tạm ngừng cuộc chiến để chúng thu lượm xác đồng đội. [11; tr131] Ở An Thái,

Chương Hòa, Cửu Lợi, với cách đánh bất ngờ của du kích, lúc ẩn lúc hiện, địch

lùng sục đuổi theo quân chủ lực nhưng vấp phải rào càn của hầm chông, bẫy đá,

50

mang cung v.v chết hàng loạt. Số còn lại phải quần nhau với quân ta theo hình thức

đánh giáp lá cà, khiến chúng không thể nhận được sự hỗ trợ của phi pháo. Theo lời

của phóng viên thời báo Nữu ước của Mỹ: “ở gần làng An Thái, tiểu đoàn lính Mỹ

đã phải sống những giờ phút hãi hùng nhất trong đời họ…”[45; tr137]

Ngày 7 tháng 2 năm 1966 phán đoán chủ lực ta ở An Lão, địch mở cuộc

hành quân mang tên “Cánh trắng I”. Chúng huy động 3 tiểu đoàn kỵ binh không

vận, 1 tiểu đoàn dù quân đội Việt Nam cộng hòa, điều 5000 lính Mỹ đang càn quét

ở Nam Quảng Ngãi vào tăng viện nhằm bao vây chặt An Lão. Tại thung lũng An

Lão tham vọng tìm thấy và tiêu diệt chủ lực ta không thành, địch còn bị sa vào lưới

chiến tranh du kích. Những bãi chông, mìn, cạm bẫy giăng dày đặc khắp núi, rừng,

khe suối. Ngày đêm lính Mỹ sống trong nỗi sợ hãi. 1 trung đội lính biệt kích Mỹ bị

du kích địa phương tiêu diệt gần hết. Máy bay lên thẳng Mỹ bị bắn tỉa rơi rụng

đáng kể. Chỉ riêng ngày 11 tháng 2 du kích đã hạ 8 máy bay lên thẳng.

Ra khỏi An Lão, Mỹ phán đoán chủ lực của ta đang ở Hoài Ân, ngày 14

tháng 2 địch mở cuộc hành quân “Cánh trắng II”, hùng hục đổ quân vào Nhơn

Tịnh, Xóm Đèo, Hội Văn, Kim Sơn, dốc Bà Bơi của nam Hoài Ân. Tại đây cuộc

đối đầu giữa Trung đoàn 12, 2, bộ đội huyện Hoài Ân, du kích các xã của huyện

Hoài Ân với quân Mỹ, quân lực Việt Nam cộng hòa diễn ra vô cùng ác liệt. Tính từ

ngày 6 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 năm 1966 các lực lượng vũ trang Hoài Ân đã

tiêu diệt được 1.500 tên Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa, bắn cháy 16 máy bay

lên thẳng, thu được một số phương tiện chiến tranh (5 đại liên, 44 trung liên, 6 cối

cá nhân M79, 7 máy thông tin 15W).

Về phía ta, với mục tiêu giãn địch ra để tiêu diệt, ở Hoài Nhơn, sau khi chấn

chỉnh lại đội hình, Trung đoàn 22 tiếp tục phối hợp với bộ đội huyện và du kích địa

phương bẻ gãy cuộc hành quân của 2 Trung đoàn 41, 42 Việt Nam cộng hòa. Trận

đánh tại Hy Văn (Hoài Châu) ta diệt 420 tên ngụy. Tiếp đó, trận đánh ở Tam Quan

ta diệt 250 tên. Du kích các xã Hoài Hảo, Cự Lễ cũng ra sức tập kích tiêu diệt địch.

51

17 du kích xã Hoài Hảo tiêu diệt 30 tên Mỹ vào đêm 28 tháng 2. Ở Cự Lễ, đêm 5

tháng 2, 2 tổ du kích tập kích tiêu diệt 20 tên Mỹ. Trong khi quân dân Bình Định ở

phía Bắc đang dốc sức cùng các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 3 diệt Mỹ, thì ở mặt

trận phía Nam và phía Tây tỉnh, bộ đội tỉnh, huyện, du kích địa phương cũng nỗ lực

tổ chức chống quân đội Việt Nam cộng hòa, quân Nam Triều Tiên càn quét, đồng

thời tích cực chủ động tấn công tiêu diệt địch không cho chúng tăng viện quân cho

phía Bắc tỉnh. Tiêu biểu là hoạt động của du kích các xã dọc quốc lộ 1 từ Phù Cát

đi Phù Mỹ đã liên tục nổi dậy phá đường, làm cho quốc lộ 1 bị đứt gãy nhiều đoạn.

Du kích Vĩnh Thạnh chặn đánh lính Mỹ từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 3 năm 1966

đã tiêu diệt được 25 lính Mỹ, làm 105 tên khác bị thương. Du kích xã Bình An

cùng hai đơn vị của Tiểu đoàn 52 giết và làm thương 530 tên lính Nam Triều Tiên

vào ngày 26 tháng 3. Du kích và bộ đội địa phương các huyện phía Nam tỉnh như

Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước chặn đánh hai trung đoàn quân Nam Triều Tiên diệt

hơn 600 tên.

Các huyện phía Tây tỉnh, nhất là các huyện miền núi như Vân Canh, An Lão,

Vĩnh Thạnh – nơi có vùng giải phóng rộng lớn, việc xây dựng các làng chiến đấu đã

phát huy hiệu quả rõ rệt trong góp phần chặn đánh thọc sâu của địch.

Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang và nhân dân Bình

Định với các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 3 đã làm nên nhiều chiến công vang dội

bẻ gãy mũi phản công lớn nhất của Mỹ vào Bắc Bình Định. Sau 40 ngày đêm chiến

đấu, hơn 8000 tên địch chiếm gần 1/2 số quân Mỹ huy động vào càn quét ở đây bị

loại khỏi cuộc chiến, gần 300 máy bay lên thẳng chiếm khoảng 3/5 tổng số máy

bay của Sư đoàn không vận số 1 Mỹ bị bắn cháy hoặc bắn hỏng. Riêng các lực

lượng vũ trang tỉnh, huyện, du kích và nhân dân Bình Định đã diệt được 2.284 địch,

trong đó có 485 tên Mỹ và 400 tên Nam Triều Tiên, bắn rơi 49 máy bay, thu 85

súng các loại. Sự thiệt hại nặng nề về người và phương tiện chiến tranh cũng như

sự suy giảm đáng kể danh dự của Mỹ cũng không đổi được mục tiêu chúng đề ra

52

trong mùa khô 1965 - 1966. Ngày 7 tháng 3 năm 1966 Oetmolen buộc phải ra lệnh

chấm dứt hướng phản công lớn nhất ở Bắc Bình Định. Kina – Sư trưởng sư đoàn

không vận số 1 Mỹ bị cách chức.

Không thể tin quân, dân ở một nước nhỏ như Việt Nam có thể thắng được

đội quân nhà nghề, giới quan chức Mỹ điên đảo dốc sức đẩy nhanh hơn nữa mục

tiêu “tìm diệt”. Một lần nữa quân số và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ lại

ùn ùn đổ vào miền Nam Việt Nam. Cuối năm 1966 có 389.000 lính Mỹ có mặt ở

đây, số này tăng lên 542.588 vào cuối năm 1967. Quân số đông, binh khí mạnh, Mỹ

ráo riết mở cuộc phản công mùa khô 1966 - 1967 nhằm vào hướng chính là Đông

Nam Bộ.

Sau mùa khô 1965 - 1966, Bình Định tiếp tục trở thành địa bàn để Mỹ thí

điểm chiến lược hai gọng kìm “bình định” và “tìm diệt” ở khu V. Để trả thù những

người đã hy sinh bản thân mình dũng cảm đứng lên đấu tranh vì quê hương, đất

nước, Mỹ và bọn tay sai tiếp tục thi hành những chính sách cực kỳ tàn bạo ở đây.

Chúng kết hợp đánh phá ác liệt về quân sự với sử dụng chiến tranh tâm lý, chiêu

hồi, chiêu hàng, gián điệp, lùa xúc dân, dùng chất độc hóa học, máy móc triệt hạ

làng mạc ruộng vườn, giết hại gia súc gia cầm dồn nhân dân Bình Định vào con

đường cùng trong các ấp chiến lược. Ở nhiều làng mạc không còn một bóng người,

trở thành những vùng đất trắng. Đặc biệt ở vùng giải phóng, vùng căn cứ của ta và

vùng giáp ranh như Hoài Nhơn, Hoài Ân, Tây Vĩnh Thạnh, Tây Phù Cát v.v, địch

liên tục tổ chức càn quét, đánh phá. Chúng gây ra nhiều vụ tàn sát đẫm máu ở nhiều

huyện phía Nam tỉnh. Ở An Nhơn chúng sát hại 600 người dân vô tội, giết và làm

thương 150 người ở Kim Tài (Gò Quánh). Hơn 100 đồng bào chủ yếu là người già,

phụ nữ và trẻ em ở Am Xác Luyến Nho Lâm (Phước Hưng, Tuy Phước), bị bọn

lính Nam Triều Tiên lùa vào hầm rồi dùng súng và lựu đạn tàn sát, sau đó chúng

dùng rơm rạ phủ lên xác người rưới xăng đốt. Hàng loạt vụ tàn sát man rợ khác liên

tục diễn ra ở Bình An, Kiên Mỹ, Phú Lạc (Bình Khê).

53

Tuy nhiên, sự tàn bạo của kẻ thù không làm nhân dân Bình Định khuất phục.

Chúng càng tàn ác bao nhiêu thì tinh thần đấu tranh của các lực lượng vũ trang và

nhân dân tỉnh càng mạnh mẽ, quyết liệt bấy nhiêu. Do đó, ở trong vòng vây của kẻ

thù, nhưng nhân dân vẫn bí mật nuôi dấu cán bộ, bộ đội. Nhân dân tự động đào

hầm hào cất dấu lương thực, súng đạn, thuốc men, bảo đảm cung cấp liên tục, dài

ngày cho bộ đội chiến đấu. Ở Quy Thuận, nhân dân đặt thương binh vào trong

chum rồi đổ khoai trùm lên trên khiêng qua trạm kiểm soát của địch đến nơi cứu

chữa. Thương binh ở Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu (Hoài Nhơn) được nhân

dân che chở, chuyển đến các trạm y tế an toàn.

Trên cơ sở thắng lợi trong đập tan cuộc phản kích mùa khô 1965 - 1966 của

Mỹ, Quân khu ủy chủ trương mở chiến dịch Hè – Thu 1966 nhằm phá kế hoạch

chuẩn bị mùa khô 1966 - 1967 của địch. Theo chủ trương này, các đơn vị của Sư

đoàn 3 vẫn tiếp tục phối hợp với bộ đội tỉnh, huyện và du kích các huyện phía Bắc

tỉnh Bình Định chủ động chống càn, tiêu diệt địch. Ở nhiều nơi, các đơn vị chủ lực

sẽ đánh dọn đường, sau đó là lượt đánh của bộ đội tỉnh, huyện và du kích địa

phương. Hoài Nhơn tiếp tục trở thành điểm nóng trong kế hoạch Hè – Thu. Tại

đây, các đơn vị của Sư đoàn 3 phối hợp chặt chẽ với bộ đội và du kích địa phương

làm nên những chiến thắng giòn giã ở Hoài Sơn, Tam Quan, Hoài Hảo diệt hàng

trăm tên Mỹ. Ở các huyện phía Nam, Tiểu đoàn 50, 52 của tỉnh được sự hỗ trợ đắc

lực của du kích địa phương cũng dốc sức chặn đánh các cuộc càn quét của địch,

ngăn chặn không cho chúng tăng viện cho mặt trận phía Bắc tỉnh. Nhiều trận phục

kích, pháo kích của ta diễn ra ở Phù Cát, Phù Mỹ giành thắng lợi lớn như trận pháo

kích vào đồi Núi Một ta diệt gần 500 lính Mỹ, 70 xe quân sự và 60 trực thăng bị

phá hủy. Trận tập kích ở thôn Vạn Định (Mỹ Lộc) diệt 300 tên của Việt Nam cộng

hòa. Tiêu biểu nhất là trận đánh diễn ra ở thôn Thuận Hạnh (Bình Thuận, Bình

Khê). Ở đây chỉ có Đại đội 2 của Tiểu đoàn 52 phối hợp với du kích và nhân dân

địa phương dựa vào làng chiến đấu đã bẻ gãy nhiều hướng tấn công bao vây của

54

1500 lính Mỹ có trực thăng, hỏa lực yểm trợ. Sau nhiều giờ chiến đấu ác liệt quân

dân ở đây đã loại khỏi vòng chiến hơn 200 địch, bắn rơi 4 trực thăng buộc chúng

phải lui quân vào ngày 22 tháng 8 năm 1966. Sau chiến thắng hợp đồng giữa bộ đội

địa phương với dân quân du kích ở Thuận Hạnh, là chiến thắng vang dội ở Long

Giang, Lộc Giang, Xuân Sơn trong Đông – Xuân 1966 – 1967. Ở Hoài Ân, bộ đội

huyện và du kích các xã Ân Hảo, Ân Nghĩa v.v, tập kích địch ở Gò Loi, Vạn

Trung, Vạn Tín, Bình Hòa, Nhơn Tịnh diệt hàng trăm địch. Riêng trận đánh ở

Nhơn Tịnh ta loại khỏi vòng chiến 100 tên với 2 trực thăng.

Tháng 8 năm 1966 Bộ tư lệnh Quân khu ra chỉ thị phát động cuộc vận động:

“luyện quân lập công quyết đánh quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”. Trong khi các

lực lượng vũ trang tỉnh, huyện ra sức luyện tập thì lúc này trên khắp các địa bàn

tỉnh, du kích đóng vai trò chủ đạo trong đánh địch càn quét và đã giành được nhiều

thắng lợi quan trọng. Ở Tam Quan Nam, du kích dựa vào làng chiến đấu chặn đánh

cuộc càn quét của hàng trăm giặc Mỹ, diệt được 9 tên, bắn rơi 1 trực thăng và làm

thương 2 trực thăng khác vào ngày 8 tháng 12 năm 1966. Trong cùng ngày, 6 du

kích ở Cửu Lợi (Hoài Nhơn) tập kích diệt 38 giặc Mỹ, làm thương 12 tên khác.

Tính đến cuối năm 1966, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và dân quân du kích

Bình Định đã đánh 1500 trận, diệt được 21.789 địch, trong đó có 8.353 giặc Mỹ,

4.487 lính Nam Triều Tiên, bắt 170 tên, thu được 717 súng các loại, bắn rơi 197 máy

bay, bắn cháy 169 xe quân sự, phá hàng chục tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh,

giải phóng và giành quyền làm chủ cho 286.000 dân. Những kết quả này có sự đóng

góp một phần rất lớn của lực lượng du kích địa phương. Theo số liệu thống kê, riêng

năm 1966 du kích tỉnh Bình Định đã đánh 1.153 trận độc lập, giết được 4.314 giặc.

Bước sang năm 1967, phong trào chiến tranh du kích trên khắp các địa bàn

tỉnh tiếp tục phát triển. Mở đầu bằng chiến thắng vang đội của du kích xã Cát Hanh

(Phù Cát) trong trận đánh độc lập chống càn của bọn lính Nam Triều Tiên vào ngày

17 tháng 1 năm 1967. Nổi bật là tấm gương chiến đấu hy sinh của em Lê Đức

55

Cường 16 tuổi, một mình quần nhau với địch từ sáng đến chiều, chỉ bằng một khẩu

súng các bin em đã diệt được 13 tên Nam Triều Tiên, sau đó dùng lựu đạn quyết tử

diệt thêm một số tên khác. Ở các huyện phía Bắc tỉnh, du kích phối hợp với bộ đội

tỉnh, huyện và chủ lực liên tục giết giặc lập công. Từ ngày 9 đến ngày 17 tháng 2

năm 1967 Mỹ, tay sai mở cuộc hành quân “phong tỏa 3” vào khu vực từ Hoài Ân

đến An Lão. Tại đây địch phải đương đầu với lực lượng vũ trang 3 thứ quân của ta,

1.000 địch bị loại khỏi vòng chiến, 75 trực thăng bị phá hủy. Các chiến sĩ của đội đặc

công Đ10 tập kích giết chết 300 lính Mỹ ở Đệ Đức, đốt cháy 2 kho xăng, phá hủy 50

máy bay vào ngày 6 tháng 2 năm 1967. Tiếp đó vào sáng 1 tháng 1 tết âm lịch năm

1967, Đ10 phục kích diệt gọn 1 đại đội Mỹ, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác, thu

75 súng các loại.

Ở Hoài Nhơn, các đội du kích ở Tam Quan, Hoài Châu liên tục nổi dậy giết

giặc. Ngày 9 tháng 2 năm 1967, 9 du kích Tam Quan đánh phủ đầu loại khỏi vòng

chiến 16 lính Mỹ và 2 trực thăng tại Chòm Rừng (Cửu Lợi). Một tuần sau, vào

ngày 16 tháng 2, 4 đồng chí du kích ở Hoài Châu tập kích giết chết 35 lính Mỹ ở

núi Vàng.

Ở Phù Mỹ, sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang 3 thứ quân ở đây đã

diệt gần hết 1 tiểu đoàn Mỹ tại thôn Châu Trúc (Mỹ Đức) vào ngày 6 tháng 3 năm

1967. Vào tháng 4 năm 1967, Đại đội 19 công binh tỉnh dùng bom cải tiến diệt gọn

ban chỉ huy tiểu đoàn Mỹ tại đồi Vạn Thứ (Mỹ Đức).

Ở Vân Canh, năm 1967 trong khi lực lượng vũ trang huyện 23 lần tổ chức

chống càn thì riêng lực lượng du kích cũng đã tổ chức 19 trận đánh, có trận phối

hợp giữa du kích và bộ đội huyện gài mìn diệt 74 tên địch.

Trên cơ sở những thắng lợi trong chiến dịch Đông – Xuân 1966 – 1967,

Quân khu ủy chủ trương triển khai chiến dịch Hè – Thu 1967, thực hiện triệt để “ba

bám” (cán bộ bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang 3 thứ quân bám đánh địch)

nhằm đánh vào mục tiêu của địch là tiêu diệt các lực lượng vũ trang địa phương,

56

dân quân du kích, đè bẹp phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang của ta.

Nổi bật trong chiến dịch Hè – Thu là hiệu quả diệt địch thu được từ hoạt động

phối hợp đấu tranh giữa các đơn vị vũ trang của tỉnh với du kích, giữa bộ đội chủ lực

với bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong tháng 5 năm 1967 Đại đội đặc

công Đ10 đột nhập vào đốt cháy hơn 10 triệu lít xăng tại kho xăng Quy Nhơn. Tiếp

đó, Đại đội đặc công Đ40 tập kích vào khu hậu cần của Sư đoàn không vận số 1 Mỹ,

Trung đoàn 40 Ngụy ở khu nhà thờ Dốc, giết toàn bộ ban chỉ huy Mỹ và 600 lính,

phá hủy 21 trực thăng, 20 khẩu pháo, 4 nhà kho. Sang tháng 8, trên địa bàn Phù Mỹ,

Phù Cát bộ đội địa phương phối hợp với dân quân du kích thường xuyên tổ chức tập

kích, chặn đánh địch. Tiêu biểu là trận tập kích ở thôn 10 (Mỹ Thắng, Phù Mỹ) diệt

50 lính Mỹ; trận ở Cát Sơn (Phù Cát) diệt gần 200 tên Mỹ, riêng du kích bắn cháy 2

xe M113. Ở nhiều nơi, du kích mật giết được bọn đầu sỏ ở nông thôn.

Tiêu biểu nhất của phong trào du kích tỉnh năm 1967 phải kể đến phong trào

đấu tranh của lực lượng du kích xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân diễn ra từ ngày 12

đến ngày 15 tháng 9 năm 1967 tại An Thường .

An Thường là một thôn nhỏ thuộc vùng trung du, được bao bọc bởi đồi núi và

sông suối. Phía đông thôn An Thường là nơi tranh chấp giữa ta và địch. Nơi đây

được xem là vòng ngoài bảo vệ quận lỵ Hoài Ân. Địch đã sử dụng một đại đội lính

bảo an chốt giữ đồi Chanh và đồi Dê trong khu vực này.

Hòng “tìm diệt” bộ đội chủ lực của ta, phá phong trào chiến tranh du kích địa

phương, lấn chiếm vùng giải phóng tạo vành đai an toàn phía bắc quận lỵ Hoài Ân,

ngày 12 tháng 9 địch huy động 1 tiểu đoàn lính Mỹ được không quân, pháo binh

yểm trợ tiến hành càn quét An Thường.

Khi địch tấn công vào đây thì ở Ân Thạnh có lực lượng du kích xã gồm 25

đồng chí, ngoài ra mỗi thôn trong xã có một tiểu đội du kích cùng tham gia chiến

đấu dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Giữ - xã đội trưởng.

Suốt ba ngày chiến đấu giằng co với địch, ta đã đẩy lùi hàng chục đợt tấn

57

công vào làng An Thường của địch, diệt 39 lính Mỹ, làm 30 tên khác bị thương,

bắn rơi 1 trực thăng. Trong khi đó lực lượng du kích xã, thôn được sự hậu thuẫn

của nhân dân vẫn bảo toàn được lực lượng.

Chiến thắng ở An Thường đã chứng tỏ, dù chúng ta có lực lượng ít, vũ khí

thô sơ nhưng biết phát huy thế mạnh của làng chiến đấu, biết dựa vào nhân dân, với

tinh thần chiến đấu dũng cảm hoàn toàn có thể đánh bại được giặc Mỹ, dù chúng có

lực lượng đông có trang bị hiện đại.

Cùng với An Thường, phong trào đấu tranh của các lực lượng vũ trang tỉnh,

huyện và phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân cũng bắt đầu sôi động trở lại

từ tháng 9 năm 1967. Đây là sự chuẩn bị cần thiết để bước vào cuộc tổng tấn công

nổi dậy tết Mậu Thân 1968 theo chủ trương của Trung ương Đảng.

Trong cuộc tổng tấn công nổi dậy Xuân 1968, Bình Định nói chung, thị xã

Quy Nhơn nói riêng được xác định là chiến trường trọng điểm của Khu V. Vì vậy, ở

Bình Định công tác chuẩn bị cho chủ trương lớn này của Trung ương được gấp rút

triển khai. Bộ chỉ huy mặt trận Bình Định được thành lập do đồng chí Nguyễn Chánh

– Phó Tư lệnh Quân khu 5 làm Tư lệnh, đồng chí Đoàn Khuê – Phó chính ủy Quân

khu 5 làm Chính ủy. Ở các huyện phía Nam tỉnh, Khu ủy quyết định thành lập Mặt

trận Quy Nhơn do đồng chí Nguyễn Văn Hữu – Thường vụ Khu ủy phụ trách, đồng

chí Đặng Thành Chơn, Võ Văn Đồng, Trương Huấn, Võ Hải Ninh, Nguyễn Đình

Trọng là phái viên Khu ủy. Đồng chí Nguyễn Xương – Tỉnh đội trưởng Bình Định là

chỉ huy chính các lực lượng vũ trang tấn công vào thị xã Quy Nhơn.

Theo kế hoạch của Quân khu 5 thì du kích Bình Định có nhiệm vụ cắt giao

thông địch trên đường số 1, hỗ trợ quần chúng nổi dậy đấu tranh chính trị giành

chính quyền đồng thời hỗ trợ các lực lượng chủ lực, các lực lượng vũ trang của

tỉnh, huyện trên địa bàn. Quân ủy khu 5 chủ trương phía cách mạng sẽ đánh vào 2

địa bàn chính ở Bình Định là thị xã Quy Nhơn và quận lỵ Phù Mỹ.

Ngày 30 tháng 1 năm 1968 lực lượng du kích, thanh niên thôn Hưng Thạnh

58

(xã Phước Hậu, Tuy Phước) dùng thuyền đưa Tiểu đoàn 50 và Đại đội đặc công

Đ10 qua cầu Thị Nại đột nhập vào thị xã Quy Nhơn giải thoát đồng chí Biên

Cương và một số đồng chí khác, sau đó tấn công đài phát thanh, dinh Tỉnh trưởng,

nhà ga, đồn cảnh sát Bạch Đằng, Ty cảnh sát, Ty thông tin và chiêu hồi v.v, mở đầu

cho cuộc tổng tấn công nổi dậy ở Bình Định.

Trong khi quân ta đột nhập vào thị xã, thì trên các hướng phối hợp vùng

xung quanh thị xã, bộ đội chủ lực cùng bộ đội địa phương có sự phối hợp của dân

quân du kích liên tục tấn công kìm chế địch, giãn địch ra để đánh không cho chúng

tăng viện về Quy Nhơn và quận lỵ Phù Mỹ. Do đó, trong khi các đại đội đặc công

10, Trung đội 117, 598 và Tiểu đoàn 50 đột nhập vào thị xã Quy Nhơn thì ở vòng

ngoài các chiến sĩ đặc công Đ20, phối hợp với Tiểu đoàn 405 tập kích địch ở Phú

Tài, phía tây Quy Nhơn diệt hàng trăm địch. Tiểu đoàn 52 tấn công quân lực Việt

Nam cộng hòa ở Tây Định (Phước Hậu, Tuy Phước) và quân Tân Tây Lan ở Lộc

Trung (Phước Sơn, Tuy Phước).

Ở quận lỵ Phù Mỹ, lệnh hoãn tấn công đến nơi thì các chiến sĩ của Tiểu đoàn

12 đã triển khai đội hình chiến đấu. Nên khi quân ta rút đi thì bị đội quân của Việt

Nam cộng hòa phát hiện và cuộc chiến giữa hai bên diễn ra phía ngoài công sự.

Trong khi đó, ở hướng phối hợp cuộc chiến đấu của các đại đội đặc công ở Hoài

Nhơn diễn ra liên tục. Các căn cứ của địch ở Đệ Đức, Tài Lương thường xuyên bị

các chiến sĩ của ta tập kích tiêu diệt hàng trăm tên.

Cùng với đấu tranh quân sự, hầu khắp các huyện trong tỉnh như Hoài Nhơn,

Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê, quần chúng náo nức xuống

đường bao vây các vị trí đóng quân của địch biểu tình, kêu gọi binh lính đào dã

ngũ. Mặc dù có nơi địch đã sử dụng súng đạn để đàn áp song chúng không thể dập

tắt được khí thế đấu tranh quyết liệt của đồng bào Bình Định. Từ trong biểu tình bắt

đầu xuất hiện những tấm gương dũng cảm kiên quyết đấu tranh chống kẻ thù, như

ở Hoài Châu, anh Ngô Bàu lấy thân mình đè lên lựu đạn khi địch ném vào đoàn

59

biểu tình, chị Liên giật súng địch bắn ngược lại vào chúng, mẹ Ngung xông lên

cầm nòng súng địch giơ lên cao.

Sự nổi dậy đấu tranh đồng loạt của các chiến sĩ đồng bào tỉnh Bình Định

trong khoảng 1 tháng đầu Xuân 1968 đã diệt được 3.029 địch, giải phóng 49 thôn

với 60.000 dân. Chiến thắng này của Bình Định góp phần cùng đồng bào chiến sĩ

miền Nam giáng một đòn quyết định vào chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc

Mỹ. Những kẻ chủ mưu, đặt tham vọng lớn trong chiến lược chiến tranh này phải

gánh chịu hậu quả đích đáng. Tổng thống Giônxơn từ chức. Oétmolen bị cách

chức, đánh dấu sự phá sản của biện pháp “tìm diệt” và “bình định”. Thay cho vị trí

của Oétmolen, Abram đưa ra biện pháp mới “quét” và “giữ”.

Để phù hợp với biện pháp chiến lược mới, nhằm ứng phó lại các kế hoạch

của ta, ở Bình Định, địch có một số thay đổi về cách bố trí lực lượng. Sư đoàn

không vận số 1 chuyển ra chiến trường Trị - Thiên, thay vào đó là Lữ đoàn kỵ binh

thiết giáp 173 được điều ở Phú Yên ra. Điều này cũng có nghĩa là chiến thuật địch

sử dụng ở Bình Định từ sau Xuân 1968 sẽ là trực thăng vận - thiết xa vận hòng đạt

mục tiêu “quét” và “giữ”.

Sau Xuân 1968, thực hiện chủ trương của Bộ chính trị và Quân khu ủy, Bộ

tư lệnh Quân khu 5, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội Bình Định quyết định mở

chiến dịch Hè 1968 nhằm tiêu diệt một bộ phận lớn ngụy quân, ngụy quyền, mở

rộng vùng giải phóng ở nông thôn, làm chủ từng phần trong thành thị.

Mở đầu chiến dịch Hè là những chiến thắng vang dội từ lối đánh phục kích,

tập kích của các lực lượng vũ trang. Điển hình là những trận tập kích diệt địch của

các chiến sĩ thuộc các đại đội đặc công của tỉnh, như: đầu tháng 5 năm 1968 một đại

đội đặc công của Tiểu đoàn 405 đột nhập vào khu Phú Tài, Phước Thành giết được

26 địch, phá hủy 1 kho xăng, 1 kho đạn, 2 xe M113, 2 xe GMC, đánh sập 13 nhà, 2

lô cốt và 1 nhà máy điện. Tiếp đó đại đội đặc công Đ10 tập kích một đơn vị lính Mỹ

thuộc Lữ đoàn 173, diệt gọn 1 đại đội, giết được 130 địch tại Đồi Thường; Đại đội

60

đặc công Đ10 tập kích vào sở chỉ huy sư bộ Sư đoàn 22 ngụy diệt 30 tên, đánh sập 2

lô cốt, đốt cháy 2 kho xăng ở tháp Bánh Ít (Tuy Phước) vào ngày 5 tháng 5.

Hè 1968 là mùa hè quân ta ở Bình Định đạt nhiều chiến công trong tiêu diệt

xe thiết giáp địch. Trong 20 ngày từ ngày 5 đến ngày 25 tháng 5 năm 1968 bộ đội

tỉnh huyện, du kích địa phương phối hợp với các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 3 tổ

chức trận đánh diệt tăng tại đường số 1 khu vực Phù Mỹ, cánh đồng Mỹ Lộc, Trịnh

Vân (Mỹ Trinh, Phù Mỹ), Đèo Nhông, Mồ Côi, Gò Loi (Hoài Ân) diệt 76/100

chiếc xe tăng và xe bọc thép của Lữ đoàn 173 Mỹ. Chiến thắng này đã góp phần

đánh bại chiến thuật trực thăng vận – thiết xa vận của Mỹ trong Hè 1968.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Ban chấp hành Tỉnh đội về tiêu diệt

địch, các đơn vị vũ trang của tỉnh phối hợp với du kích tổ chức tấn công, phục kích,

tập kích địch tại nhiều vị trí trên khắp các địa bàn tỉnh, đặc biệt là tại các huyện phía

Bắc tỉnh. Ở Hoài Nhơn, trong cả mùa hè, mùa thu và mùa đông đều có những trận

đánh diệt nhiều địch. Mở đầu là trận tập kích của du kích xã Hoài Châu diệt 1 trung

đội lính bảo an canh gác cầu Ông Tự vào ngày 6 tháng 5. Tiếp đó, sang tháng 7 Tiểu

đoàn 53 phối hợp với du kích các xã Hoài Hảo, Tam Quan Nam phục kích trên

đường 1 đoạn từ cầu Nước Mặn đi thị trấn Tam Quan diệt 1 đại đội cộng hòa, 2

trung đội công binh Mỹ, loại khỏi vòng chiến 205 địch, bắn cháy 15 xe quân sự, bắn

rơi 20 trực thăng. Ngày 9 tháng 10 năm 1968 Tiểu đoàn 53 phục kích diệt 1 đại đội

lính cộng hòa, 1 trung đội pháo binh, giết chết 154 tên, bắt sống 3 tên, bắn rơi 7 trực

thăng, bắn cháy 2 xe bọc thép, phá hủy 2 pháo 105mm, thu được 21 súng các loại.

Ở Hoài Ân, du kích xã Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Hảo tổ chức nhiều đợt phục

kích diệt địch. Ở Ân Tường, du kích xã đẩy lùi cuộc càn quét của 1 tiểu đoàn địch

vào Lộc Giang, diệt 17 tên, làm thương 21 tên khác, bắn rơi 1 trực thăng vào tháng

7 năm 1968. Tiếp đó, tháng 10 năm 1968 du kích nơi đây tiến hành tập kích 1 đại

đội biệt kích của Mỹ, giết chết 59 tên, bắn rơi 1 trực thăng.

Ở huyện miền núi Vĩnh Thạnh, du kích xã Vĩnh Hiệp kiên quyết chống địch

61

càn quét, giết chết 20 tên, bắn rơi 3 trực thăng. Cùng với lực lượng du kích của các

thôn xã, du kích mật cũng hoạt động mạnh mẽ, diệt được nhiều ác ôn, đầu sỏ ở địa

phương. Tiêu biểu là du kích mật ở An Nhơn, trong tháng 8 năm 1968 đã diệt được

165 địch.

Tính chung trong năm 1968, bộ đội tỉnh huyện và du kích địa phương đã

đánh 2.060 trận, diệt được 16.436 địch, trong đó có 4.600 lính Mỹ, 1.278 lính Nam

Triều Tiên, bắt sống 625 tên, thu 779 súng, bắn cháy và bắn hỏng 132 máy bay,

493 xe quân sự, đốt cháy 100 triệu lít xăng. Riêng du kích đã đánh 1.228 trận, loại

khỏi vòng chiến 10.792 địch (trong đó có 2.652 lính Mỹ, 363 lính Nam Triều Tiên,

2.546 bảo an, 2.528 cộng hòa, 1.939 dân vệ, 738 binh định, 519 tề điệp ác ôn).

Trong các đợt cao điểm tháng 2, 5, 8 năm 1968 du kích đã trực tiếp tham gia tác

chiến và đưa ra phía trước từ 2/3 đến 3/4 tổng số. Du kích và bộ đội địa phương đã

tấn công đồng loạt đều khắp ở thị xã, quận lỵ và các ấp chiến lược gấp 2,3 lần lực

bình thường. Hiệu suất diệt địch ngày càng cao. Trong chiến dịch Xuân năm 1968

du kích diệt được 1.668 địch; đến chiến dịch thu (10/8 đến 10/10) du kích diệt được

1.199 địch trong tổng số 3.378 địch bị giết. Riêng du kích Hoài Nhơn diệt được 379

tên, du kích Phù Mỹ diệt được 287 tên; chiến dịch đông (kí hiệu là chiến dịch K) từ

16 tháng 11 năm 1968 đến tháng 1 năm 1969 du kích diệt được 1.442 địch trong

tổng số 3.454 tên, tiêu biểu nhất là Phù Mỹ diệt 626 tên, Hoài Nhơn diệt 296 tên,

Vĩnh Thạnh diệt 156 tên, bắn rơi và bắn hỏng 7 trực thăng. Từ sau đợt tổng tấn

công nổi dậy tết Mậu Thân phong trào du kích đã phát triển ngay trong thị trấn, thị

xã, quận lỵ và vùng ven. Số trận đánh so với năm 1967 tăng gấp 8 lần, có nơi tăng

10 lần. Ví như năm 1967 du kích đánh vào nội thị Quy Nhơn 5 lần, đến năm 1968

đánh 34 lần diệt được 546 địch.

Trong các cách đánh địch thì hình thức phục kích, tập kích, đánh giao thông

chiếm 1/2 tổng số trận đánh. Ngoài ra còn du kích còn sử dụng nhiều cách thức

đánh khác như lót sẵn bên trong; hóa trang, đánh hợp pháp như du kích ở An Nhơn,

62

Hoài Hảo chặn đường đánh giữa ban ngày; đánh địch bằng mưu mẹo, thậm chí sử

dụng tay không hoặc vũ khí thô sơ để diệt địch, cướp đoạt vũ khí địch như thiếu

niên ở Mỹ Thắng, du kích Hoài Châu, nữ du kích Bình Giang; đánh vào kho tàng

hậu cứ của địch.v.v.

Như vậy, đến năm 1968 với những chiến thắng vang dội của lực lượng du kích

và các lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh Bình Định đã góp phần quan trọng vào việc

làm phá sản hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở Bình Định,

đồng thời tạo bước đệm vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của phong trào chiến

tranh du kích tỉnh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tiểu kết chƣơng 1

Suốt gần 4 năm tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ Mỹ đã huy động đến

mức tối đa các tiềm lực kinh tế quốc phòng, với những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo

hòng thực hiện biện pháp “bình định” và “tìm diệt” tạo nấc thang để Mỹ tiến xa

hơn trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam.

Bình Định trở thành hướng tấn công lớn nhất của Mỹ trong mùa khô 1965 -

1966, đến mùa khô 1966 - 1967 Mỹ tiếp tục đặt Bình Định vào trọng điểm “bình

định” và “tìm diệt” ở khu V. Tiếp đó Quy Nhơn, Bình Định được Bộ tư lệnh Quân

khu V chọn làm chiến trường trọng điểm trong cuộc tổng tiến công nổi dậy tết Mậu

Thân 1968. Vì vậy, trong suốt gần 4 năm, khói lửa không lúc nào tắt ở Bình Định.

Bằng ý chí, nghị lực phi thường dưới sự lãnh đạo sâu sát của Đảng bộ tỉnh, các tầng

lớp nhân dân Bình Định nhất loạt đứng lên đạp bằng khó khăn thử thách giành

nhiều thắng lợi vẻ vang, góp phần quan trọng cùng quân dân cả nước đánh bại

chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.

Trong 4 năm đấu tranh chống chiến tranh cục bộ của Mỹ, Đảng bộ tỉnh đã

xây dựng và phát triển được thế trận chiến tranh nhân dân, huy động được toàn dân

từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị tham gia kháng chiến.

Bằng những tấm gương chiến đấu hy sinh dũng cảm của các cán bộ đảng viên đã

63

tạo được niềm tin của dân vào Đảng và cách mạng. Con em nhân dân thế hệ này

sang thế hệ khác nô nức tham gia các lực lượng cách mạng trong tỉnh. Đến năm

1968 Tỉnh ủy đã thành lập được nhiều tiểu đoàn vũ trang như Tiểu đoàn 50, Tiểu

đoàn 51, Tiểu đoàn đặc công 405 v.v. Lực lượng dân quân du kích mặc dù có thay

đổi về mặt số lượng theo từng năm, tùy ở mức độ ác liệt của chiến tranh, tùy ở mức

độ vùng làm chủ của cách mạng mà số lượng du kích tăng hay giảm, song chất

lượng du kích luôn ở chiều hướng tăng, nhiều lực lượng du kích khác nhau được ra

đời phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Qua đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn đấu

tranh và qua các lớp huấn luyện đào tạo của Tỉnh đội, Huyện đội, chiến thuật du

kích của du kích trên địa bàn tỉnh ngày càng thuần thục, linh hoạt, đem lại hiệu suất

diệt địch cao. Xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm với tinh thần “quyết

tử cho tổ quốc quyết sinh” như: anh Phạm Tường – du kích Hoài Nhơn được xem

là người hùng đâm lê. Trong trận đánh giáp lá cà với quân Mỹ ở Bồng Sơn năm

1966, đồng chí dùng lưỡi lê, báng súng diệt 7 tên Mỹ, bắn chết 28 tên khác, bắn rơi

1 trực thăng. Hai lần đồng chí được phong tặng danh diệu “dũng sĩ diệt Mỹ” cấp ưu

tú và “dũng sĩ diệt máy bay”. Nữ du kích Nguyễn Thị Danh, xã đội phó xã Phước

Thắng (Tuy Phước) đi đầu trong bám đánh địch. Đồng chí Lê Long Định chiến đấu

dũng cảm đến hơi thở cuối cùng. ở Hoài Ân, trong bẻ gãy cuộc hành quân mùa khô

1965 - 1966 của Mỹ nổi lên tên tuổi đồng chí Võ Giữ (Võ Văn Sơn) – xã đội

trưởng Ân Thạnh, người trực tiếp kiên cường chỉ huy du kích xã đánh nhiều trận

diệt nhiều địch. Năm 1995 liệt sĩ Võ Văn Sơn được tuyên dương anh hùng các lực

lượng vũ trang. Du kích Trần Thị Kỷ, là y tá đội du kích xã Nhơn Mỹ, trong lúc

làm nhiệm vụ không may bị rơi vào tay giặc (5/1966). Chúng dùng đủ mọi cực

hình để tra tấn, thậm chí dùng xăng thiêu sống nhưng chị không khai nửa lời. Sự

chiến đấu hy sinh dũng cảm của các anh, các chị du kích đã góp phần tô thắm thêm

cho truyền thống cách mạng của du kích Bình Định.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Quân khu 5, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp

64

thời, sáng suốt của Tỉnh ủy (trong quá trình chỉ đạo Tỉnh ủy có quan tâm hơn đến

tình trạng thiếu cân đối giữa các loại quân; có chỉ đạo cụ thể cho chiến trường trọng

điểm và chiến trường phối hợp, giữa 3 vùng chiến lược; đi sâu sát chỉ đạo biện

pháp trụ bám diệt ác phá kèm xây dựng thực lực bên trong, Tỉnh ủy và các cấp ủy

cơ sở thường xuyên tổ chức các đợt chỉnh huấn, kiểm điểm sau mỗi chiến dịch v.v.)

phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh có sự chuyển biến rõ rệt qua từng

chiến dịch, từng kế hoạch và từng năm, tạo cơ sở điều kiện cho sự phát triển phong

65

trào cách mạng ở Bình Định trong những năm sau.

CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO

PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN KẾT THÚC CUỘC

KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1969-1975)

2.1. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần đánh bại về cơ bản

chiến lƣợc Việt Nam hóa chiến tranh ( 1969-1973)

2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Sau 4 năm trực tiếp đương đầu với quân xâm lược nhà nghề Mỹ và đồng

minh, quân và dân ta ở miền Nam tin tưởng hơn vào sức mạnh của chính mình, sức

mạnh của tinh thần đại đoàn kết, tin tưởng vào sự toàn thắng của sự nghiệp kháng

chiến chống Mỹ cứu nước. Mậu Thân 1968 càng làm sáng tỏ hơn nữa điều này.

Xuân năm 1968, lần đầu tiên quân dân ta ở miền Nam đồng loạt nổi dậy tấn công

vào tận hang ổ, sào huyệt của kẻ thù. Mặc dù chúng ta không giành được thắng lợi

trọn vẹn như dự kiến, song qua sự kiện này cùng với những chiến thắng vang dội

của quân dân miền Bắc trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của Mỹ đã

chính thức đánh dấu sự phá sản chiến lược chiến tranh cục bộ. Hàng chục nghìn

lính Mỹ và đồng minh phải bỏ mạng trên chiến trường miền Nam. Hàng loạt kế

hoạch của kẻ chủ mưu bị thất bại. Hàng nghìn cuộc càn quét quy mô lớn của chúng

ở miền Nam nói chung, ở Bình Định nói riêng bị phá banh. Đây là cơ sở tiền đề

quan trọng cho đồng bào chiến sĩ miền Nam, đồng bào Bình Định tiến lên tiêu diệt

kẻ thù trong thời gian tới.

Với Mỹ, sau 4 năm dốc toàn tâm, toàn lực vào miền Nam Việt Nam Mỹ vẫn

không thực hiện được tham vọng của mình. Với sứ mệnh đến Việt Nam vực dậy

tinh thần bọn tay sai Ngụy quyền, tiêu diệt chủ lực đối phương, cuối cùng cái mà

Mỹ đón nhận lại là sự sa sút mãnh liệt về tinh thần, sự rụng rời của niềm tin, còn

quân lực Việt Nam cộng hòa mất lý trí, hụt hẫng trước cái mà họ thần tượng là “sức

mạnh Mỹ”. Tuy nhiên, khi tham vọng chưa hoàn toàn bị dập tắt, thì Mỹ vẫn cúi đầu

66

tiến vào con đường hầm trong cuộc chiến ở Việt Nam. Năm 1969 lên làm tổng

thống Mỹ, Nichsơn tuyên bố tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Nội

dung cơ bản của chiến lược này là Mỹ sẽ rút dần lính Mỹ về nước giao dần nhiệm

vụ “quét” và “giữ” cho quân đội Việt Nam cộng hòa. Và đương nhiên, quân lực

Việt Nam cộng hòa sẽ trở thành kẻ tiên phong thực hiện tham vọng của Mỹ ở miền

Nam, dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, được Mỹ giúp đỡ tối đa về tiền và phương

tiện chiến tranh.

Nếu trong những chiến lược chiến tranh trước kia “tìm diệt” và “bình định”

được thực hiện song song. Tức là cùng với đẩy mạnh hoạt động càn quét tiêu diệt

lực lượng cách mạng đối phương, càn quét đến đâu Mỹ, tay sai tiến hành rào làng

hoặc dồn dân lập ấp chiến lược tới đó, thì đến chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh

chúng xem biện pháp quân sự chỉ có ý nghĩa quan trọng lúc đầu, còn biện pháp

chiến lược là phát triển mạng lưới tình báo, mật vụ nhằm phát hiện cơ sở chính trị

của đối phương. Theo đó, “Ủy ban Phượng Hoàng” – tổ chức chỉ huy thống nhất cơ

quan tình báo, mật vụ được hình thành. Chúng xem việc tiêu diệt cơ sở chính trị

của đối phương là biện pháp quân sự quan trọng hàng đầu nhằm dập tắt phong trào

chiến tranh du kích để tạo thế ổn định lâu dài cho quốc sách “bình định”.

Thực hiện chiến lược chiến tranh mới này, ở Bình Định lực lượng quân Việt

Nam cộng hòa tăng nhanh chóng. So với năm 1968, năm 1969 quân địa phương

tăng 10 đại đội, 142 trung đội. Phòng vệ dân sự tăng từ 900 tên (cuối năm 1968) lên

9.000 tên vào tháng 11 năm 1969, dự kiến phát triển khoảng 93.000 nhân dân tự vệ.

[11; tr173] Ngoài quân ngụy, lúc này ở Bình Định vẫn còn một lực lượng đáng kể

quân Mỹ và Nam Triều Tiên. Về phía quân Mỹ có Lữ dù 173, 2 trung đoàn của Sư

đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên. Tổng số Mỹ và tay sai ở Bình Định vào năm 1969

khoảng 56.000 quân. Bước vào thực hiện kế hoạch “bình định nông thôn” địch điều

thêm 2 tiểu đoàn của Sư đoàn 4 Mỹ từ Gia Lai xuống, 1 trung đoàn thiếu của Sư

đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên từ Phú Yên ra.

67

Từ cuối năm 1968 đầu năm 1969 Việt Nam hóa chiến tranh được Mỹ và tay

sai đưa ra áp dụng tại Bình Định với nhiều kế hoạch mới. Ở thị xã, thị trấn, quận lỵ,

vùng hậu cứ, địch ra sức phòng thủ. Song song với đó chúng tiến hành giải tỏa vùng

ven bàn đạp, các trục đường giao thông chiến lược là quốc lộ số 1 và quốc lộ 19. Đây

chính là địa bàn phong trào du kích chiến tranh ở Bình Định đã được nhen lửa từ

Xuân 1968. Do vậy những biện pháp phòng thủ và giải tỏa của địch có ảnh hưởng

trực tiếp tới phong trào chiến tranh du kích ở đây.

Trong khi ra sức phòng thủ ở những địa bàn trọng điểm từ trước, Mỹ và tay

sai vẫn ra sức đánh phá vùng căn cứ miền núi nhằm lấn vào vùng giải phóng của ta.

Từ tháng 11 năm 1968 Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa lấy 3 xã thuộc vùng giải

phóng ở phía Bắc tỉnh là Ân Thạnh, Hoài Mỹ, Mỹ Tài làm thí điểm kế hoạch “bình

định cấp tốc”. Để dễ dàng khống chế và quản lý, chúng chia Hoài Nhơn thành hai

quận: quận Tam Quan gồm 6 xã phía Bắc, quận Hoài Nhơn gồm 6 xã phía Nam.

Song song với hoạt động quân sự, địch tiếp tục sử dụng những thủ đoạn bỉ ổi

để triệt hại xóm làng, ruộng đồng bằng cách rải thảm bom (kể cả dùng B52), rải chất

độc hóa học ở hầu khắp các địa phương trong tỉnh nhất là ở các huyện phía Bắc,

vùng quanh Núi Bà, vùng giáp ranh v.v, cướp phá kinh tế tài sản của dân, tăng cường

biệt kích ở miền núi, phát triển do thám gián điệp, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý.

Tuy nhiên, địch càng đẩy mạnh tốc độ chiến tranh bao nhiêu thì mâu thuẫn nội

bộ của chúng càng đẩy đến mức cao trào bấy nhiêu. Sự bất đồng giữa các phe phái

trong nhà trắng, cùng đó là sự hiềm khích mất niềm tin giữa Mỹ với quân lực Việt

Nam cộng hòa, giữa quân đội Mỹ với chính phủ Mỹ, giữa Mỹ và đồng minh trên

chiến trường miền Nam v.v, làm cho viễn cảnh của Mỹ về cuộc chiến ở Việt Nam

ngày càng ảm đạm.

Trong khi địch đang lún sâu vào thất bại thì quân và dân Bình Định tiếp tục

phát triển thế tiến công liên tục giành nhiều thắng lợi to lớn từ Xuân 1968. Ta đã

duy trì trụ bám, hình thành thế tiến công ở ngoài vùng ven và trong lòng thị xã, thị

68

trấn. Thực lực vũ trang được củng cố và phát triển. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và

nhân dân đoàn kết phấn khởi, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng.

Nhưng thực tế cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan là địch vẫn còn

mạnh và chúng vẫn ra sức dùng sức mạnh quân sự một cách ồ ạt ở nhiều nơi gây nên

nhiều thiệt hại cho cách mạng tỉnh. Việc tìm kiếm cơ sở chính trị ở nông thôn của

chúng thông qua đội ngũ mật thám, chỉ điểm làm cho phong trào cách mạng du kích

gặp nhiều khó khăn. Trong lòng thị trấn, thị xã, vùng ven và vùng địch kìm kẹp, ở

nhiều nơi phong trào du kích lắng xuống. Đặc biệt, trong khi phong trào cách mạng

tỉnh nói chung, phong trào du kích chiến tranh nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn như

quân số giảm sút, số lượng vũ khí, lương thực chưa đáp ứng đủ nhu cầu v.v thì đội

ngũ cán bộ, đảng viên và cả nhân dân vẫn còn một bộ phận có tư tưởng e ngại gian

khổ, sợ chết, gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho sự nghiệp cách mạng.

Tình hình này đòi hỏi Đảng bộ tỉnh cần nhanh chóng nắm bắt để đưa ra chủ

trương, biện pháp phù hợp đưa phong trào cách mạng tỉnh nói chung, phong trào

chiến tranh du kích nói riêng tiếp tục phát triển hướng vào mục tiêu đánh bại chiến

lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ.

2.1.2.Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích

(từ năm 1969 đến năm 1973)

Đáp ứng yêu cầu cách mạng tỉnh, thực hiện Nghị quyết số 188 – NQ/TW của

Bộ chính trị (10/5/1969) về: ra sức phát huy thắng lợi đã đạt được, đẩy mạnh tấn

công toàn diện liên tục, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị và ngoai giao

để giành thắng lợi cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, đánh cho Mỹ rút hết

quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, Nghị quyết của Khu ủy khu V, theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (11/1968), tháng 1 năm 1969 Thường

vụ Tỉnh ủy Bình Định họp xác định nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng bộ là “Ra

sức tiêu diệt sinh lực địch, đánh mạnh phương tiện chiến tranh và giao thông. Tiêu

diệt lực lượng kẹp, đẩy mạnh phong trào quần chúng nổi dậy giải phóng nông

69

thôn, đồng thời liên tục tiến công địch ở thị xã bằng cả quân sự và chính trị”. [11;

tr176] Nghị quyết này của Tỉnh ủy trở thành động lực đưa đến những thắng lợi to

lớn trong chiến dịch Xuân, Hè của tỉnh năm 1969.

Đến tháng 5 năm 1969 trong Nghị quyết số 06/NQ của Tỉnh ủy, Đảng bộ

tỉnh lại một lần nữa nhấn mạnh đến nhiệm vụ diệt địch phá kèm: “Động viên sự nỗ

lực cao nhất của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân, phát huy thắng lợi thực hiện

vừa qua, nhanh chóng khắc phục khuyết điểm, nhược điểm. Ra sức diệt kẹp phá

kèm giành dân mở rộng vùng làm chủ ở nông thôn, củng cố, giữ vững và phát triển

vùng giải phóng. Ra sức phát triển thực lực bên trong, đẩy mạnh phong trào thành

phố…” [106; tr14] Đảng bộ Tỉnh cũng chỉ đạo cần phân loại địch để đánh: “Trên

chiến trường tỉnh ta cả 2 loại đều đánh…Đối với Mỹ, phải tiêu diệt một bộ phận

sinh lực nhất là sinh lực cao cấp và ra sức đánh thiệt hại nặng phương tiện chiến

tranh. Đối với Ngụy phải ra sức tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận, nhất là lực

lượng kèm, ác ôn đầu sỏ”.[106; tr18]

Như vậy với chỉ đạo này, mũi nhọn của chiến tranh du kích nói riêng của các

lực lượng vũ trang tỉnh huyện nói chung cần hướng đến trước hết là bọn lính Mỹ cao

cấp và bọn đầu sỏ, bọn kìm kẹp ở nông thôn nhằm thực hiện phá kèm giành dân.

Để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản này, trong phần nhiệm vụ cụ thể về mặt

quân sự, Tỉnh ủy đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chiến tranh du kích:

“Du kích chiến tranh có một vị trí quan trọng nhất, cơ bản nhất trong cả quá trình

chiến tranh đánh Mỹ và còn giữ vị trí lớn sau khi chiến tranh kết thúc ở cả 3 vùng,

nhất là thị xã, vùng ven, mảng trọng điểm phía Nam”. [10; tr17] Vì vậy trong chỉ

đạo tác chiến, cũng trên cơ sở nhấn mạnh chiến tranh du kích, Tỉnh ủy xác định

hình thức tác chiến cơ bản cả ở trong và ngoài thị xã là vận dụng cách đánh vừa và

nhỏ một cách phổ biến, có thể đánh ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào miễn là diệt được

nhiều địch còn ta tổn thất ít như đặc công, công binh, cối, biệt động, du kích, tự vệ

mật, an ninh vũ trang, các mũi nhọn bộ binh v.v. “Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác

70

chiến lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, đánh lớn bằng lực lượng nhỏ, tiêu diệt

gọn, hiệu suất chiến đấu cao, thương vong ít”. [106; tr18]

Trong điều kiện chiến tranh du kích có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là thực

hiện nhiệm vụ phá kèm giành dân thì số lượng du kích của tỉnh vẫn chưa đảm bảo

được yêu cầu. Nghị quyết Tỉnh ủy tháng 5 năm 1969 nêu rõ cần: “ra sức phát triển

du kích hợp pháp trong thị xã phải có hàng trăm. Các huyện phía Nam phải phát

triển 50% trong tổng số cơ sở. Ở vùng tranh chấp, lỏng kẹp, vùng giải phóng và làm

chủ phải thực hiện quân sự hóa các đoàn thể quần chúng và vũ trang toàn dân, phải

bảo đảm tỉ lệ 1/2 đến 2/3 đảng viên và hầu hết đoàn viên tham gia du kích. Tất cả du

kích đều sinh hoạt trong các tổ chức quần chúng. Trong đội ngũ du kích xã thôn phải

có 40% là nữ, từ 10% đến 15% là thiếu niên. Phấn đấu đạt tỉ lệ 6% du kích ở vùng

giải phóng đồng bằng, 12% ở miền núi. Trong đó 2/3 chiến đấu được…các đoàn thể

quần chúng nhất là thanh niên, phụ nữ, nông hội và các cơ quan tổ chức, an

ninh…phải phát huy trách nhiệm đối với phong trào du kích chiến tranh”.[106; tr19]

Từ tháng 5 năm 1969 địch đẩy mạnh chương trình “bình định cấp tốc” ra sức

đánh phá dai dẳng, khốc liệt và toàn diện cả về kinh tế, quân sự, chính trị, tình báo,

chiến tranh tâm lý.v.v. Đảng bộ tỉnh xác định: việc giành, giữ và nắm dân nông

thôn là “vấn đề gốc, là cái trục của toàn bộ phong trào hiện nay”. [11; tr180]

Nhiệm vụ nòng cốt này tiếp tục được nhấn mạnh ở các cuộc họp tháng 11 năm

1969, cuộc họp tháng 7 năm 1970 của Tỉnh ủy. Đến tháng 9 năm 1970 trước những

diễn biến phức tạp của thủ đoạn “tam giác chiến” cùng những thiệt hại do thủ đoạn

này gây ra ở Bình Định, Thường vụ tỉnh ủy ra “Chỉ thị về chống tam giác chiến”.

Chỉ thị này đặt ra yêu cầu cần kiện toàn, điều chỉnh và bố trí các lực lượng vũ trang

địa phương. Các lực lượng kể cả du kích xã thôn đều phải tinh nhuệ hóa, có thể

đánh sâu và diệt phá hệ thống chốt điểm và lực lượng ứng chiến địa phương.

Cuối năm 1970 địch ráo riết mở rộng chiến tranh xâm lược Lào và Campuchia

thực hiện chủ trương của Bộ chính trị về tình hình và nhiệm vụ mùa khô năm 1970

71

– 1971, Thường vụ Tỉnh ủy họp mở rộng từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 1970

nhằm đề ra nhiệm vụ cho cách mạng Tỉnh đầu năm 1971. Trên cơ sở đó, Hội nghị

chủ trương chỉ đạo và tổ chức 5 phong trào lớn: chống bình định; chống bắt lính

đôn quân; đẩy mạnh chiến tranh du kích; đẩy mạnh phong trào thị trấn và thị xã;

xây dựng vùng ta, tiếp tục cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở xã thôn đợt 3.

Những chủ trương này của Tỉnh ủy góp phần quan trọng định hướng cho Hội

nghị du kích chiến tranh tháng 11 năm 1970. Ngày 01 tháng 11 năm 1970 Hội nghị

du kích chiến tranh được tổ chức. Trên cơ sở đánh giá phong trào du kích hai năm

1969, 1970, hội nghị đi vào phân tích âm mưu, hành động của địch và khả năng

mới của phong trào chiến tranh du kích trong thời gian tới, xác định vai trò trọng

tâm của phong trào chiến tranh du kích trong giai đoạn hiện tại là giành và giữ dân,

phát động một cao trào toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đứng lên đánh giặc bằng

mọi hình thức góp phần tích cực đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của

địch. Nghị quyết cũng nêu rõ: điều quan trọng trước hết là phải tăng cường sự lãnh

đạo, chỉ đạo phong trào du kích chiến tranh của các cấp ủy Đảng, làm cho đảng

viên, đoàn viên cơ sở, quần chúng và các đơn vị, các huyện, xã đội thấy trách

nhiệm phải góp sức vào phát động quần chúng, xây dựng phong trào trên cơ sở

giành dân và xây dựng thực lực. Nghị quyết cũng đề ra nhiều biện pháp và chỉ tiêu

phấn đấu cụ thể.

Đối với vùng giải phóng, mỗi xã phải có từ 25 đến 30 du kích xã. 1 đến 2 đội

du kích đặc công và công binh. Mỗi thôn có 3 tổ du kích mật, từ 1 đến 2a du kích

thôn, phát triển du kích đạt 6% dân số.

Đối với vùng tranh chấp và làm chủ yếu có 1 tổ du kích mật và 1a du kích

bất hợp pháp, phát triển du kích đạt 4% dân số.

Đối với vùng lỏng kẹp cần tổ chức du kích thành tổ (trừ 1 số du kích mật cần

thiết để đơn tuyến). Du kích xã có 1 số hợp pháp, 1 số bất hợp pháp. Cán bộ xã đội

có 1/3 hợp pháp. Phát triển lực lượng nữ và thiếu niên trong du kích. Kiên quyết

72

đưa 60 đến 70% đảng viên và 100% đoàn viên vào du kích.

Như vậy, Hội nghị du kích chiến tranh ngoài việc đưa ra những chỉ tiêu phấn

đấu cụ thể về số lượng và chất lượng du kích, hội nghị đặc biệt nhấn mạnh đến vai

trò của các cấp ủy đảng đối với sự phát triển của phong trào du kích chiến tranh và

sự cần thiết phải xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống

Mỹ cứu nước ở Bình Định.

Năm 1971 đánh dấu sự thất bại thê thảm của Mỹ trên toàn chiến trường Đông

Dương. Sau sự cố gắng vực quân đội Việt Nam cộng hòa lần cuối thông qua cuộc

hành quân Lam Sơn 719, các chiến dịch ở vùng Ba biên giới và Đông bắc

Campuchia không thành, quân đội Mỹ và đồng minh trên chiến trường miền Nam

“bất lực” rút một cách cơ bản về nước. Ta đang trong thế thắng, thế chủ động, địch

đang ở thế thua thế bị động, Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến

lược năm 1972 nhằm “giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ

phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng

chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo

dài”. [11; tr212]

Tại Bình Định, tính đến ngày 19 tháng 8 năm 1971 gần như toàn bộ lính Mỹ

và đồng minh rút đi. Trong không khí hân hoan của niềm vui chiến thắng, Đại hội

đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước) được tổ chức tại làng Tà Lăng, xã BokBang,

huyện Vĩnh Thạnh từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 9 năm 1971. Đại hội bầu đồng chí

Đặng Thành Chơn làm Bí thư Tỉnh ủy. Trong nhiệm kỳ mới, Đại hội xác định

nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ là “Kiên quyết đánh bại về cơ bản “kế hoạch bình

định” của địch, giải phóng và giành quyền làm chủ, tranh chấp đại bộ phận nông

thôn, ra sức giữ vững và xây dựng vùng ta lớn mạnh”.[11; tr211] Trên cơ sở đánh

giá tình hình, dự kiến khả năng phát triển của năm 1972 là năm có thời cơ chiến lược

chung xuất hiện, Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho toàn Đảng bộ năm 1972, 1973:

73

“ra sức động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh tăng cường đoàn

kết nhất trí, trên cơ sở đánh lâu dài nỗ lực phát huy thắng lợi, kiên quyết khắc phục

khó khăn và khuyết nhược điểm tồn tại tranh thủ thời gian, tạo thời cơ trực tiếp, nắm

lấy thời cơ (chung) lớn phát triển thế tiến công mới khắp ba vùng chiến lược bằng 3

mũi giáp công, phát động 3 cao trào quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” .[40; tr37]

Tiến lên theo tinh thần Nghị quyết lần VIII của Đảng bộ tỉnh, từ ngày 14 đến

ngày 16 tháng 12 năm 1971 Ban cán sự Tỉnh họp mở rộng, sau khi kiểm tra rà soát

các phương án quyết tâm cho nhiệm vụ năm 1972, 1973, hội nghị nhấn mạnh: “tiếp

tục nâng cao chất lượng bộ đội nhất là trong du kích, công tác bảo đảm vật chất

nhất là khâu vận chuyển…công tác tham mưu chính trị, hậu cần giúp cho chỉ đạo

chiến dịch cần khẩn trương có kế hoạch bảo đảm cho chiến đấu liên tục và lực

lượng phát triển mở ra rộng. Tất cả phải hoàn thành chuẩn bị cho chiến dịch cả

phía trước và phía sau trong tháng 12 xong”. [40; tr38]

Như vậy, trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương Đảng và Quân ủy khu 5,

Đảng bộ tỉnh Bình Định đã nhanh chóng vận dụng vào tình hình địa phương, kịp

thời đưa ra những chủ trương để chỉ đạo, lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần

chúng nhân dân nói chung, phong trào đấu tranh của các lực lượng vũ trang trong

tỉnh nói riêng tích cực chuẩn bị hướng đến thực hiện mục tiêu tiêu diệt địch, giải

phóng quê hương.

2.1.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định

Thực hiện các chủ trương của Đảng bộ tỉnh về chiến tranh nói chung về đẩy

mạnh chiến tranh du kích nói riêng, từ năm 1969 đến năm 1973 công tác chuẩn bị

cho chiến tranh du kích tiếp tục được coi trọng. Tuy nhiên, để đẩy mạnh chiến

tranh du kích trên cả ba vùng, nhất là trên những địa bàn trọng yếu của cả ta và địch

thì điều kiện tiên quyết là phải tăng cường lực lượng du kích. Thực tế cho thấy, sau

năm 1968 đến giữa năm 1969 cùng với sự giảm sút lực lượng dân số vùng giải

phóng, cùng với những thủ đoạn tàn ác của kẻ thù trong quyết tâm phá phong trào

74

chiến tranh du kích, hoặc do chủ trương tăng cường du kích cho bộ đội tỉnh, huyện

nên lực lượng du kích của Bình Định cũng giảm sút theo. Theo Nghị quyết về du

kích chiến tranh tháng 6 năm 1969, sau cuộc tổng tấn công nổi dậy tết Mậu Thân

1968 có 579 du kích bổ sung cho bộ đội tỉnh, huyện do đó lực lượng du kích giảm từ

6.650 đồng chí xuống còn 5.500 đồng chí. Đến thời điểm tháng 6 năm 1969 toàn tỉnh

có 7.939 du kích các loại. Trong đó có 268 xã đội, 309 thôn đội, 1.433 du kích xã,

2.020 du kích thôn, 908 du kích mật, 3.001 du kích thiếu niên. Trong từng loại có

1.914 nữ, ngoài ra có 3.699 dân quân tự vệ, thành lập 46 tổ đặc công, 32 tổ công

binh. Ở các huyện phía Nam du kích xã có giảm hơn trước, bên cạnh đó lực lượng du

kích mật lại tăng lên.

Cũng theo Nghị quyết về du kích chiến tranh này, lực lượng du kích trên các

địa bàn của tỉnh phân bố không đều. Ở phía Bắc tỉnh du kích tập trung đông hơn.

Theo số liệu thống kê, Hoài Nhơn là huyện có lực lượng du kích đông đảo nhất

toàn tỉnh với 1.192 du kích (xã Hoài Châu có tới 557 du kích). Tiếp đó là huyện

Phù Mỹ có 1.446 du kích các loại (xã Mỹ Đức có 180 du kích). Tuy nhiên có huyện

chỉ có 7 cán bộ xã đội, 7 du kích xã, 85 du kích mật.

Tại cuộc họp Tỉnh ủy tháng 5 năm 1969 Đảng bộ tỉnh đã thực sự kêu gọi cần

phải tăng cường hơn nữa lực lượng du kích, xây dựng thế trận chiến tranh nhân

dân, toàn dân phục vụ chiến tranh du kích.

Về nâng cao chất lượng cho đội ngũ du kích đã được Đảng bộ nhấn mạnh từ

những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong giai đoạn hiện tại ngoài việc

tiếp tục mở các lớp huấn luyện để nâng cao kỹ năng cho lực lượng du kích, tăng tỉ

lệ đảng viên, đoàn viên cho du kích, Tỉnh ủy còn đề cập đến nhiệm vụ cần tăng

cường chỉ đạo lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng đối với việc kiện toàn bộ

máy du kích, đồng thời cần đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng cho du kích.

Công tác đảm bảo nguồn lực vật chất bao gồm cả lương thực, thực phẩm và

vũ khí cho du kích cũng được Đảng bộ quan tâm. Đứng trước những khó khăn của

75

việc vận chuyển lương thực, súng đạn, thuốc men, Đảng bộ chủ trương khai thác khả

năng hậu cần tại chỗ, tức là dựa vào dân. Đồng thời khuyến khích phát triển các loại

vũ khí tự tạo trang bị cho du kích.

Bên cạnh việc tăng cường chất và lượng cho lực lượng dân quân du kích, các

lực lượng bộ đội tập trung của tỉnh, huyện cũng được quan tâm phát triển. Theo

Báo cáo quân sự năm 1968 của Tỉnh đội Bình Định, trước tết Mậu Thân năm 1968,

lực lượng tập trung của tỉnh gồm 16 đơn vị với 1.284 người đến cuối tháng 11 năm

1968 tăng lên 1.774 người. Bộ đội địa phương huyện cũng tăng từ 865 người lên

1.186 người. Số quân này thường xuyên được huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn. Cụ thể, có 14 lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ và chuyên môn, ngoài ra

tỉnh đội còn tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ tác chiến. Tính trung bình năm

1968 các đơn vị tập trung của tỉnh học 2 tháng, bộ đội huyện học 1,5 tháng, các

binh chủng chuyên môn học 40 ngày, còn các đơn vị trợ chiến đặc công, trinh sát,

thông tin học nhiều hơn.

Qua các khóa huấn luyện bồi dưỡng đã góp phần quan trọng vào việc nâng

cao chất lượng đội ngũ lực lượng vũ trang trong tỉnh nói chung, lực lượng dân quân

du kích trong tỉnh nói riêng.

Sang năm 1969, địch bắt đầu triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến

tranh”. Chúng đẩy mạnh kế hoạch “bình định nông thôn”, triệt hạ cơ sở của phong

trào chiến tranh du kích trong khi phía cách mạng chưa chuyển trọng tâm hoạt động

về nông thôn, do đó lực lượng vũ trang ở Bình Định bị giảm sút nghiêm trọng. Kể cả

1.520 tân binh (533 tân binh miền Bắc) bổ sung cho bộ đội tỉnh huyện thì lực lượng

tập trung của tỉnh cuối năm 1969 có 1.509 người, lực lượng huyện có 966 người, cán

bộ huyện đội chỉ còn 33 đồng chí. Những chỉ tiêu về số lượng du kích mà Tỉnh ủy

đặt ra trong năm 1969 đã không đạt được kết quả như mong đợi. Đến cuối năm 1969

ở Bình Định có 4.148 du kích, chiếm 2,6% so với dân số ở đồng bằng và chiếm

12,7% so với dân số miền núi. Với số lượng này, năm 1969 là năm Bình Định có số

76

lượng du kích ít nhất trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mặc dù số

lượng giảm sút, song điểm nổi bật của lực lượng du kích ở Bình Định trong năm này

là tỉ lệ du kích nữ, tỉ lệ đảng viên, đoàn viên trong du kích tăng hơn trước, chiếm tỉ lệ

cao nhất tính từ năm 1965 đến năm 1975. Tỉ lệ du kích nữ đạt 30,7%, tỉ lệ đảng viên

trong du kích đạt 13% và tỉ lệ đoàn viên trong du kích đạt 25,8%. Ở mỗi huyện đã tổ

chức được các tổ đội chuyên môn như, tổ đặc công, tổ công binh, tổ bắn máy bay, tổ

sản xuất vũ khí tự tạo.

Công tác huấn luyện du kích vẫn tiếp tục được quan tâm. Các lớp đào tạo bồi

dưỡng cho cán bộ xã đội, huyện đội, lực lượng đặc công, du kích mật và tự vệ

thường xuyên được tổ chức. Trang bị vũ khí cho du kích cũng được chú trọng hơn.

Tính đến cuối năm 1969 du kích tỉnh được trang bị 1.550 súng các loại, trung bình

4 du kích có 1 súng. Ngoài súng, du kích còn được cấp một số loại chất nổ như lựu

đạn, mìn, bộc phá v.v.

Thực hiện Nghị quyết tháng 5 năm 1969 của Tỉnh ủy về phát triển chất và

lượng của du kích chiến tranh. Năm 1970 mặc dù phong trào cách mạng tỉnh gặp

nhiều khó khăn do những thủ đoạn tàn bạo Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa thực

hiện trong các kế hoạch “bình định nông thôn” song lực lượng vũ trang trên địa bàn

tỉnh tiếp tục tăng. Cuối tháng 6 năm 1970, Thường vụ tỉnh ủy và ban chỉ huy tỉnh

đội chủ trương bổ sung quân số theo nguyên tắc tăng cường huấn luyện cho bộ đội

và du kích đủ sức phá bộ máy kẹp dân, tiêu diệt quân địa phương của địch. Thực

hiện chủ trương này, các đơn vị tập trung của tỉnh được đẩy mạnh xây dựng. Bên

cạnh đó, ở mỗi huyện cũng xây dựng từ 2 đến 3 đại đội có 1 trung đội trinh sát và 1

đại đội đặc công từ 12 đến 14 đồng chí, được huấn luyện và trang bị tốt, đủ sức tiêu

diệt chốt điểm cỡ trung đội địch. [45; tr174] Tính đến cuối năm 1970 tổng quân số

tập trung là 2.895 người, trong đó quân của các huyện có 724 người. Lực lượng du

kích và tự vệ có 4.304 người, trong đó có 526 du kích là đảng viên chiếm 12%, 777

du kích là đoàn viên chiếm 17%, tỉ lệ du kích nữ đạt 18%, tỉ lệ du kích thiếu nhi đạt

77

9%. Trong du kích đã xây dựng được 17 đội, 11 tổ tinh nhuệ. Các tổ tinh nhuệ này

tập trung nhiều ở các huyện phía Bắc tỉnh như Hoài Nhơn, Phù Mỹ và Phù Cát.

Với những kết quả này của phong trào du kích chiến tranh là cơ sở để Hội

nghị du kích chiến tranh tháng 11 năm 1970 đề ra phương hướng, nhiệm vụ, chỉ

tiêu cụ thể của phong trào này trong thời gian tới.

Phát triển số lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích là một trong

những nội dung được quan tâm hàng đầu của công tác chuẩn bị chiến tranh du kích.

Theo đó, thực hiện Nghị quyết Hội nghị tỉnh ủy và Nghị quyết Hội nghị du kích

chiến tranh, trong 2 năm 1971, 1972 đội ngũ dân quân tự vệ tiếp tục tăng. Năm

1971 có 5.475 người, con số này tăng lên 5.996 người vào năm 1972.

Công tác chuẩn bị lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược luôn được xem

trọng. Từ tháng 11 năm 1971 Thường vụ Tỉnh ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 mở

“chiến dịch gạo”. Để đảm bảo cho cuộc tấn công chiến lược năm 1972 diễn ra có

nhiều thuận lợi. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch được gấp rút triển khai. Nhân

dân đóng góp 31.000.000 đồng, thu mua được 7.500 tấn lương thực và 250 tấn

muối, huy động được 600.000 ngày công phục vụ chiến trường. Đến giữa tháng 3

năm 1972 số gạo dự trữ ở phía Bắc tỉnh đảm bảo đủ cho Sư đoàn 3 và Tỉnh đội

hoạt động đến tháng 6/1972. Vũ khí, đan dược dự trữ trong kho chiến dịch được

102 tấn v.v. Tỉnh ủy phát động quần chúng rào được 1,6 triệu mét rào làng chiến

đấu, đào 2,1 triệu mét giao thông hào, 131.000 hầm trú ẩn, 735 hầm tránh phi pháo,

15.000 hầm bảo vệ gia súc, xây dựng 1.560 công sự và 2.300 ổ tác chiến.

Sự chuẩn bị công phu, toàn diện mọi mặt phục vụ chiến tranh là điều kiện

cần thiết để Tỉnh ủy, Tỉnh đội Bình Định thực hiện mục tiêu đẩy mạnh phong trào

du kích chiến tranh nhằm giành dân phá kèm, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa

chiến tranh” của Mỹ tại Bình Định.

Nếu ngay từ đầu cuộc chiến, chúng ta coi dân là gốc rễ của mọi vấn đề, việc

giải phóng dân, đem lại lợi ích cho quần chúng nhân dân là mục tiêu, động lực cho

78

nhân dân Việt Nam đứng lên đánh Mỹ thì đối với Mỹ và tay sai, điểm mấu chốt

trong mọi chiến lược chiến tranh của chúng cũng là giành dân. Nhiều chương trình

“bình định” với nhiều tên gọi khác nhau được chúng đưa ra thực hiện xuyên suốt

trong các chiến lược chiến tranh. Đến “Việt Nam hóa chiến tranh”, “bình định nông

thôn” được Mỹ coi là chiếc “chìa khóa” mang tính quyết định đến sự thắng lợi của

chiến lược này.

Ở Bình Định, Đảng bộ tỉnh cũng sớm xác định nhiệm vụ “diệt kẹp giành

dân” là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Định. Đây

đồng thời cũng là nhiệm vụ cơ bản xuyên suốt của phong trào du kích chiến tranh

trên địa bàn tỉnh từ năm 1969 đến năm 1973. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn, tùy

điều kiện cụ thể mà Đảng bộ tỉnh, Tỉnh đội lãnh đạo phong trào du kích chiến tranh

thực hiện những nhiệm vụ riêng nhằm hướng đến mục tiêu giành và giữ dân.

Trong năm 1969 (tính đến tháng 11 năm 1969) quân và dân Bình Định thực

hiện 4 chiến dịch lớn của Quân khu 5, ngoài ra tỉnh còn mở 2 đợt hoạt động vào

tháng 7 và tháng 10. Tổng số ngày nằm trong chiến dịch là 235 ngày. Trong 235

ngày khói lửa, các lực lượng vũ trang và bán vũ trang trong tỉnh đã đánh 1.672 trận

(gồm 780 trận tập kích, 141 trận phục kích, 82 pháo kích, 64 phản phục kích, 264

đánh càn, 146 đánh mìn, 30 phóng bộc phá, 97 bắn tỉa, 11 đánh giao thông, 55 đánh

cải trang, 12 bắn máy bay). Loại khỏi vòng chiến 21.735 địch. Riêng du kích đã tổ

chức 871 trận đánh gồm: 366 trận tập kích, 59 trận phục kích, 1 pháo kích, 21 phản

phục kích, 165 đánh càn, 116 đánh mìn và lựu đạn, 2 trận phóng bộc phá, 93 bắn

bia, 40 cải trang, 8 bắn máy bay. Loại khỏi vòng chiến 5.496 địch. Thu 202 súng

các loại với 24.500 viên đạn, 133 quả lựu đạn, 8 quả mìn, thiêu cháy 2 kho xăng

với 6,1 triệu lít xăng, đánh cháy 100 xe quân sự, bắn rơi 39 máy bay. [120; tr10]

Tiêu biểu nhất trong tiêu diệt địch trong năm 1969 là thành tích chiến đấu của các

chiến sĩ đặc công tỉnh. Với một lực lượng không lớn, trong năm 1969 các binh

chủng đặc công đã tổ chức được 365 trận đánh lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến 7.750

79

địch, thu 115 súng, phá hủy 92 kho thiêu cháy 110,2 triệu lít xăng với nhiều cơ sở

vật chất khác của địch. Làm hỏng 140 xe quân sự, 1 tàu thủy, đánh sập 2 cầu, 141

nhà, 12 nhà máy điện, 96 lô cốt, giải thoát 1 nhà lao ở Phù Cát với 20 người. Ngay

những ngày đầu của chiến dịch Xuân, các chiến sĩ của đội đặc công đã tổ chức tấn

công vào nhiều vị trí trong và xung quanh thị xã Quy Nhơn như, sân bay Quy

Nhơn, khu I, khu kho Đèo Son, Miếu Lở, Phú Hòa v.v cùng đó là hàng loạt trận tập

kích, phục kích của các Tiểu đoàn 50, 52 vào các địa bàn vùng ven trụ sở xã Phước

Long, ga Diêu Trì (Tuy Phước), cầu Phụ Đạo (Nhơn Khánh) phá hủy nhiều cơ sở

vật chất, tiêu diệt nhiều địch.

Tác chiến của du kích cũng đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững và

phát triển thế tiến công chiến lược, nhất là trong các chiến dịch lớn. Ở nhiều nơi du

kích đã phát huy được khả năng tác chiến của lực lượng hợp pháp nhất là du kích ở

Phù Cát, An Nhơn và thị xã Quy Nhơn. Hầu hết các huyện du kích đều phối hợp

với bộ đội tỉnh, huyện tấn công tiêu diệt địch đạt hiệu suất cao.

Ở Hoài Nhơn, du kích phối hợp với lực lượng vũ trang huyện đánh địch ở

Bồng Sơn, Tam Quan, tập kích căn cứ Đệ Đức. Nổi bật là du kích xã Tam Quan

Nam nhiều lần tổ chức tập kích diệt địch. Ví như ngày 20 tháng 3 năm 1969 du

kích Tam Quan Nam tập kích diệt một trung đội cộng hòa ở Chòm Chùa (Cửu Lợi

Đông). Tiếp đó ngày 14 tháng 6 du kích nơi đây tổ chức phục kích địch ở Chòm

Cát (thôn Tăng Long). Ngày 22 tháng 7 phục kích diệt 1 đại đội địch. Cùng với du

kích Tam Quan Nam, du kích các xã Hoài Thanh, Hoài Châu, Hoài Hảo v.v nhiều

lần tổ chức đánh địch càn quét, diệt nhiều đoàn “bình định” của địch.

Du kích huyện Hoài Ân phối hợp với bộ đội huyện tổ chức đánh thọc sâu, diệt

lực lượng địch kìm kẹp ở Gò Cấm, Thế Thạnh, Long Mỹ, Ân Thạnh, Thanh Tú.

Ở Phù Mỹ ngay từ chiến dịch Xuân, du kích đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội

huyện nhiều lần tổ chức tấn công tiêu diệt địch. Tiêu biểu là cuộc tấn công ở ấp

Trung Tường (Mỹ Chánh). Sang tháng 5, du kích ở hầu khắp các xã trên địa bàn

80

huyện đều sôi nổi diệt địch. Điển hình là du kích xã Mỹ Hiệp phục kích tiêu diệt 1

toán ác ôn. Du kích xã Bình Thuận phục kích diệt 1 trung đội lính bảo an. Du kích

Bình Quang, Mỹ Trinh, Mỹ Thắng liên tục nổi dậy đánh địch càn quét.

Du kích ở Phù Cát phối hợp với bộ đội huyện tổ chức tập kích, phục kích

nhiều đợt diệt lính Nam Triều Tiên và bọn ác ôn. Ngày 15 tháng 4 du kích xã Cát

Nhơn phục kích đoạn đường Đại Ân diệt được 9 lính Nam Triều Tiên. Tiếp đó,

ngày 16 tháng 5 du kích cùng Đại đội 1 huyện Phù Cát tập kích diệt gọn 1 trung đội

dân vệ ở thôn Thái Phú. Cùng với hoạt động quân sự, lực lượng du kích mật của

huyện tiến hành diệt ác ôn, hỗ trợ quần chúng phá kèm. Tiêu biểu là du kích mật xã

Cát Hanh cải trang vào khu dồn Hòa Hội diệt tên mật vụ Phạm Ngọc Quỳ, sau đó

đột nhập vào hồ Núi Một diệt 2 lính Mỹ. Ngày 23 tháng 9, 2 nữ du kích mật là

Định và Long đột nhập vào chợ Tân Dân dùng lựu đạn diệt 28 tên lính bảo an và

bọn “bình định”.

Ở Tuy Phước, hoạt động của du kích sôi nổi trong cả năm 1969. Mở đầu là

vào ngày 10 tháng 4 năm 1969, 7 du kích xã Phước Sơn tập kích đánh thiệt hại

nặng 1 đoàn “bình định” diệt được 10 địch. Sau tuần tang Bác, du kích Tuy Phước

tiếp tục trỗi dậy cùng bộ đội địa phương liên tục tấn công địch. Ngày 11 tháng 9 du

kích tấn công vào khu nhân viên kỹ thuật Mỹ ở Ngọc Châu đánh sập 4 nhà, diệt

nhiều lính Mỹ. Cùng ngày, du kích tấn công vào Long Vân (Phước Long) diệt bọn

ác ôn ”bình định”. Sau đợt tập kích của du kích xã Phước Hậu cùng Tiểu đoàn 405

vào kho xăng Phú Hòa làm cháy hàng chục triệu lít xăng, sang tháng 10, du kích xã

Phước Hậu phục kích trên đầm Thị Nại đánh chìm 5 bo bo tuần tiễu của địch. Đêm

4 tháng 11 tập kích vào Suối Tiên. Ngày 14 tháng 12 tập kích vào khu hậu cần của

lính Nam Triều Tiên. Ngày 17 tháng 12 tấn công địch ở Phú Tài.

Tại các huyện đồng bằng du kích sôi nổi tổ chức diệt địch, phá kèm còn ở các

huyện miền núi như An Lão, Vĩnh Thạnh du kích tích cực tổ chức chống càn, đánh

biệt kích, bắn máy bay địch, xây dựng làng chiến đấu, bảo vệ vùng giải phóng.

81

Bên cạnh đấu tranh quân sự, các lực lượng vũ trang trong tỉnh cũng đạt

nhiều thành tích trong việc phát động quần chúng diệt kẹp giành dân. Năm 1969 ở

nhiều nơi như Mỹ Hiệp, Cát Hanh, Nhơn Mỹ, Bình An, Ân Tín, Phước Hưng đã đưa

dân trở về làng cũ. Nhiều xã thôn khác thuộc các huyện Phù Cát, Hoài Ân, Tuy

Phước, An Nhơn, Bình Khê, Phù Mỹ đã đưa dân lên mức làm chủ và làm lỏng kẹp.

Ta đã phá được dứt điểm 10 ấp chiến lược, làm hỏng 19 ấp khác trong tổng số 29 ấp

địch xây dựng trong toàn tỉnh. 8 khu dồn dân cũng bị du kích và nhân dân phá sạch.

13.000 tên kìm kẹp đã bị diệt, tăng 60% số tên kìm kẹp bị diệt so với trước.

Phong trào đấu tranh chính trị được giữ vững và nâng cao hơn về mặt chất

lượng, nhất là trong đấu tranh trực diện ở nông thôn và đồng bằng. Có 2.250 cuộc

đấu tranh huy động 580.000 lượt người tham gia nhằm chống bình định cấp tốc,

chống bầu cử hội đồng xã thôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ, đưa yêu sách

đòi trở về làng cũ. Ở thành thị quần chúng tham gia treo cờ, rải truyền đơn. Nhân

ngày lễ Phật đản gần 5 vạn quần chúng nội ngoại thành tổ chức đấu tranh chống

Thiệu Kỳ dưới hình thức công khai hợp pháp buộc địch huy động hàng ngàn cảnh

sát, lính cộng hòa và bọn lính Nam Triều Tiên đến trấn an. Hầu hết các cuộc đấu

tranh đòi đắp đập sản xuất đều thu được thắng lợi. Thậm chí có nơi quần chúng đã

bạo động đánh địch. Ví như nhân dân ở Mỹ Thắng, Mỹ An, Mỹ Thọ, Mỹ Đức,

Bình Giang tay không dùng gậy guộc, cuốc xẻng chống xe tăng địch đi càn. Nhân

dân Cát Hanh đuổi bọn Nam Triều Tiên tháo chạy.

Công tác binh địch vận tiếp tục phát triển, nhiều vụ binh biến nổ ra thắng lợi.

Trong năm 1969 có 3.953 địch các loại đào rã ngũ (bao gồm cả lính Mỹ và lính đánh

thuê). Rã ngũ tập thể 4 trung đội phòng vệ dân sự, 2 trung đội dân vệ, 3 trung đội

thanh niên chiến đấu, 1 trung đội biệt kích, 2 đoàn bình định nông thôn. Ở Hoài Nhơn,

Phù Mỹ nội ứng 6 lần diệt được 99 tên, làm thương 19 tên khác, tiêu hao nặng 1 đại

đội cộng hòa, đánh cháy 2 kho thuốc bồi, phá hỏng 1 xe jeep, thu 27 súng.

Công tác xây dựng thôn xã chiến đấu vẫn tiếp tục được quan tâm. Năm 1969

82

dân quân du kích và tự vệ hỗ trợ nhân dân đào 1.857 hầm chông, 3.921 mang cung,

2.567 hầm trú ẩn, 30.783m rào, 13.975m giao thông hào, gài 180 quả lựu đạn, 380

quả pháo cải tiến, 137 bom bi, 35 phòng tuyến chiến đấu, 39 bãi chông. Bố phòng

chặt 25 đồi, 300 công sự, phát triển 118 công sự mật, vót và cắm 2.600.000 cây

chông. [120; tr13]

Như vậy ba mũi giáp công quân sự, chính trị và binh vận đã được các lực lượng

vũ trang trong tỉnh vận dụng một cách thành thạo đem lại hiệu suất diệt địch cao, góp

phần quan trọng vào đập tan kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ và tay sai.

Sang năm 1970 địch đẩy mạnh một bước kế hoạch “bình định cấp tốc” ở

Bình Định. Một mặt chúng tăng cường phòng thủ, thiết quân luật, thanh lọc quần

chúng v.v ở thị xã, thị trấn, đồng thời tăng cường giải tỏa vùng ven, vùng bàn đạp,

các trục đường giao thông chiến lược. Mặt khác, ra sức càn quét quy mô lớn vào

vùng căn cứ, giáp ranh, nống lấn vùng giải phóng của ta với nhiều hình thức, thủ

đoạn gian ác. Đặc biệt từ tháng 7 năm 1970 khi chuyển sang kế hoạch “bình định

đặc biệt” thì những thủ đoạn thâm độc càng được tăng cường sử dụng. Song song

với lấn đất giành dân, địch dùng hệ thống chốt điểm hòng kẹp chặt dân tại chỗ. Số

chốt điểm không ngừng tăng lên theo thời gian từ 165 chốt cuối năm 1968 tăng lên

439 chốt điểm năm 1970.

Trước âm mưu và hành động của địch, Khu ủy nêu rõ: “động viên sự nỗ lực

cao nhất của 3 thứ quân kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, đẩy mạnh du kích

chiến tranh…”[40; tr19]

Được sự chỉ đạo của Khu ủy, Thường vụ Tỉnh ủy nhanh chóng tổ chức họp mở

rộng vào ngày 30 tháng 1 năm 1970 nhằm đánh giá lại tình hình và đề ra chủ trương

mới, quyết tâm đánh bại kế hoạch “bình định” của địch, giữ thế chiến trường.

Theo số liệu chưa đầy đủ, từ ngày 25 tháng 12 năm 1969 đến ngày 10 tháng 12

năm 1970 Bình Định cùng với toàn Khu tổ chức 3 chiến dịch lớn với tổng số 185

ngày. Bên cạnh đó tỉnh còn tổ chức 2 đợt hoạt động kéo dài 63 ngày.

83

248 ngày nằm trong chiến dịch, 3 thứ quân của tỉnh đã đánh 2.183 trận gồm

424 trận tập kích, 195 trận phục kích, 141 phản kích, 46 pháo kích, 216 đột kích,

504 đánh càn, 41 đánh lót, 93 đánh cải trang, 109 đánh mìn, 97 đánh lựu đạn, 29

đánh thuốc, 68 bắn máy bay, 145 pháo cải tiến, 125 trận bắn bia. Hầu hết các khu

kho lớn, các sân bay, quận lỵ thị trấn trên địa bàn tỉnh đều bị ta tấn công. Hoạt động

đều, liên tục trên khắp các địa bàn của tỉnh là thành quả của lực lượng dân quân du

kích. Với 1.248 trận đánh bao gồm: 146 trận tập kích, 99 trận phục kích, 38 trận

phản phục kích, 1 trận pháo kích, 152 trận đột kích, 300 trận đánh càn, 14 trận đánh

lót, 27 đánh cải trang, 68 đánh mìn, 89 đánh lựu đạn, 25 đánh thuốc, 127 đánh pháo

cải tiến, 120 bắn bia, 42 bắn máy bay. Lực lượng du kích tự vệ đã loại khỏi vòng

chiến 6.291 địch chiếm 37% tổng số địch bị tiêu diệt trong tỉnh, thu 178 súng với

10.750 viên đạn, đánh sập 3 nhà, 4 lô cốt, 7 cầu, phá hỏng 200m ống dẫn dầu, phá

hủy 165 xe quân sự, bắn rơi 50 máy bay, đốt cháy 2 bồn xăng với hơn 10 triệu lít.

[121; tr7] Sôi nổi nhất là hoạt động của du kích ở các huyện phía Bắc tỉnh. Ở Hoài

Nhơn, du kích đánh 355 trận, loại khỏi vòng chiến 1.624 tên địch, đánh sập 4 cầu,

phá hủy 80 xe quân sự, bắn rơi 8 máy bay. Du kích huyện Phù Mỹ đánh 293 trận,

loại khỏi vòng chiến 1.447 địch, phá hủy 38 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay. Ở Hoài

Ân hoạt động của du kích lắng dịu hơn, với 31 trận đánh du kích đã loại khỏi vòng

chiến 1.434 địch, thu được 39 súng, phá hủy 6 xe quân sự. Ở Phù Cát, du kích đánh

99 trận loại khỏi vòng chiến 493 địch. Ở các huyện phía Nam tỉnh, hoạt động của

du kích ít sôi nổi, hiệu suất diệt địch cũng ít hơn các huyện phía Bắc tỉnh. Du kích

huyện Tuy Phước đánh 33 trận loại khỏi vòng chiến 75 địch. Du kích huyện An

Nhơn đánh 68 trận, loại khỏi vòng chiến 224 địch. Du kích Bình Khê đánh 36 trận

loại được 516 địch. Ở thị xã Quy Nhơn, du kích đánh 46 trận loại được 307 địch. Ở

các huyện miền núi du kích chủ yếu chống càn. Tiêu biểu là du kích Vĩnh Thạnh

đánh 258 trận trong đó có 146 trận đánh càn, loại khỏi vòng chiến 1.305 địch, bắn

rơi 29 máy bay.

84

Ngoài diệt địch, lực lượng du kích còn hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá kèm

giành dân làm chủ. Năm 1970 du kích đã phát động nhân dân của 53 xã trong toàn

tỉnh, huy động 480.725 lượt người tham gia bắt cải tạo tề điệp, phá 4 khu dồn, 3 ấp

chiến lược, đào đường, đắp ụ, cải biến địa hình v.v. Có 61 thôn, 34 xóm với 90.938

dân đã giành được quyền làm chủ; 79 thôn, 42 xóm với hơn 72.000 dân đang trong

tình trạng tranh chấp; 76 thôn với khoảng 60.000 dân trong tình trạng lỏng kẹp.

Song song với hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt kẹp giành quyền làm chủ phong

trào đấu tranh chính trị của quần chúng cũng được phát động dưới nhiều hình thức

như đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống phản kích, chống bình định, chống bắt

lính gom dân v.v. Theo số liệu thống kê, đã có 781 cuộc đấu tranh tại chỗ huy động

300.530 lượt người tham gia. Có 404 cuộc nổi dậy huy động 293.215 lượt người, rải

15.020 truyền đơn, treo 391 cờ, 6000 khẩu hiệu, 4.540 báo lệnh trấn áp.

Công tác binh vận cũng được chú trọng. Với hơn 20.000 lượt người tham gia

binh vận dưới nhiều hình thức đã làm nổ ra 15 vụ binh biến, làm rã ngũ 35 trung đội

thanh niên chiến đấu và phòng vệ dân sự (tổng cộng 3.500 người). Tổ chức 16 lần nội

ứng diệt được 57 tên, làm thương 36 tên khác, thu được 23 súng. [121; tr25]

Những thành tích cũng như hạn chế của phong trào du kích chiến tranh năm

1970 là bài học kinh nghiệm quý giá cho phong trào này trong năm 1971.

Thất bại nhục nhã ở Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và vùng Ba biên giới

đánh dấu sự khủng hoảng, yếu thế của địch. Mọi cố gắng của Mỹ trước thời điểm

rút cơ bản quân về nước đều không thành. Chớp cơ hội này, quân và dân Bình Định

tiếp tục vùng lên theo tinh thần cuộc họp Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng và Hội nghị

du kích chiến tranh cuối năm 1970 với mục tiêu giành và giữ dân. 1.621 trận đánh,

3 thứ quân của tỉnh đã loại khỏi vòng chiến 8.843 địch. Thu 581 súng các loại.

Đánh sập 172 cầu cống. Bắn cháy 296 xe quân sự. Bắn rơi 23 máy bay. Bắn chìm 3

tàu thủy. Phá hủy 142 kho bom đạn, 9 đầu máy và 42 toa tàu. Giải phóng 60 thôn

với 32.750 dân, chưa tính 3 huyện miền núi. Làm chủ 78 thôn với 81.882 dân, tranh

85

chấp 83 thôn có 67.551 dân, lỏng kẹp 71 thôn có 43.405 dân. [45; tr183] Trong nửa

đầu năm 1971 bộ đội tỉnh huyện và các đơn vị binh chủng đặc công, công binh hoạt

động mạnh ở khu vực hậu cần của địch và các chốt điểm Mỹ Trang, Vạn Thiết (Mỹ

Châu), Vạn Định, Tân Ốc, Vạn Phúc (Mỹ Lộc), Tam Quan, Bồng Sơn v.v. Ở nửa

sau năm 1971 hoạt động diệt địch chủ yếu giao cho bộ đội huyện và dân quân du

kích. Nhìn chung hoạt động của lực lượng dân quân du kích tỉnh năm 1971 lắng dịu

hơn năm 1970. Với 483 trận đánh độc lập, năm 1971 là năm lực lượng du kích tỉnh

tổ chức ít trận đánh nhất kể từ năm 1965 cho đến thời điểm này. Chủ yếu các trận

đánh của du kích đều có sự phối hợp với bộ đội tỉnh, huyện hoặc chủ lực khu nhằm

hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung.

Như vậy sự phối hợp đấu tranh của 3 thứ quân tỉnh Bình Định đã giáng một

đòn mạnh mẽ vào kẻ thù Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa, góp phần quan trọng

trong việc phá vỡ những chương trình “bình định nông thôn” của chúng. Từ phía kẻ

thù của chúng ta, chính tờ Diễn đàn thông tin quốc tế của Mỹ số ra ngày 18, 19

tháng 9 năm 1971 nói về sự thất bại của Mỹ ở Bình Định như sau: “Tỉnh Bình Định

là một chiến lũy của cộng sản. Đứng về góc độ “bình định”, tỉnh này được xếp vào

hàng 44 trong số 44 tỉnh ở miền Nam Việt Nam”.[45; tr183]

Chiến thắng quân dân Bình Định giành được cho đến thời điểm năm 1971 là

tiền đề quan trọng cho các lực lượng vũ trang trong tỉnh tiến lên thực hiện những

nhiệm vụ chiến lược mà Trung ương Đảng, Quân khu và Tỉnh ủy đặt ra trong cuộc

tấn công chiến lược năm 1972 tại đây.

Cuối năm 1971 Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến

công chiến lược năm 1972. Theo sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh Quân khu 5, Bắc Bình

Định sẽ cùng với Bắc Kom Tum và Quảng Nam trở thành địa bàn tiến công trọng

điểm của bộ đội chủ lực Quân khu.

Tại chiến trường Bình Định được chia làm hai trọng điểm: trọng điểm phía

Bắc tỉnh gồm huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và 7 xã phía Bắc huyện Phù Mỹ. Trọng

86

điểm phía Nam tỉnh gồm huyện Phù Cát, An Nhơn, Bình Khê, Tuy Phước và các xã

phía Nam của huyện Phù Mỹ, địa bàn chủ yếu nhất là thị trấn Đập Đá và Đông Tuy

Phước. Tất cả các chiến trường trọng điểm của tỉnh và Quân khu đều hướng đến mục

tiêu tiêu diệt địch, giải phóng nông thôn đồng bằng.

Theo tiếng gọi của Đảng, các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định vùng lên

mạnh mẽ trên khắp các địa bàn. Theo số liệu thống kê, từ 25/12/1971 đến

25/12/1972 ba loại quân trong tỉnh đã đánh 2.514 trận gồm 410 trận tập kích, 310

trận phục kích, 120 trận phản kích, 206 trận pháo kích, 19 trận lót tập kích, 211 trận

lót phục kích, 504 trận đánh càn, 27 trận đánh mìn, 85 trận đánh bằng lựu đạn, 26

trận đánh cải trang, 31 trận đánh bằng thuốc nổ. Loại khỏi vòng chiến 23.688 địch.

Thu 1.547 súng các loại. Phá hủy 217 nhà, 296 lô cốt, 236 xe quân sự, 4 kho xăng.

Đánh sập 65 cầu. Đánh chìm 5 tàu thủy. Bắn rơi 33 máy bay, làm hỏng 11 chiếc

khác. [119; tr7] Trong suốt chiến dịch Xuân Hè năm 1972, 3 thứ quân của tỉnh phối

hợp chặt chẽ với nhau, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 3

Quân khu quần nhau với địch ở nhiều hướng đánh: Hoài Ân, chi khu Tam Quan và

căn cứ Đệ Đức (Hoài Nhơn) ở phía Bắc. Ở phía Nam tỉnh, lực lượng vũ trang tỉnh,

huyện cùng du kích đồng loạt tấn công tiêu diệt hàng loạt chốt điểm giải phóng

hoàn toàn 5 xã thuộc huyện Bình Khê, 30 thôn của huyện Tuy Phước, bao vây quận

lỵ An Nhơn, tấn công kho Phú Tài, cảng Quy Nhơn. Mạnh mẽ nhất ở phía Nam

tỉnh là đòn tấn công của Tiểu đoàn 50, 52, 8, các đại đội: đặc công Đ10, pháo ĐKB,

công binh, 2 đại đội huyện An Nhơn, du kích vào thị trấn Đập Đá ngày 7 tháng 6.

Sang chiến dịch Thu các lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức thế trận phòng thủ bảo vệ

vùng giải phóng.

Theo số liệu thống kê của Ban tổng kết chiến tranh du kích Quảng Ngãi,

Bình Định, năm 1972 du kích tỉnh Bình Định tổ chức 1.487 trận đánh độc lập, loại

khỏi vòng chiến 9.007 địch. Với gần 1.500 trận đánh, du kích đã góp phần quan

trọng cùng với bộ đội chủ lực Quân khu, bộ đội tỉnh, huyện trong giải phóng huyện

87

Hoài Ân và 7 xã phía Bắc huyện Phù Mỹ, hoàn thành nhiều mục tiêu lớn mà Quân

khu đề ra trong đợt tấn công chiến lược năm 1972.

Như vậy 4 năm đương đầu với những âm mưu, thủ đoạn và hành động tàn

bạo của Mỹ trong chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, chiến tranh du kích ở Bình

Định từng bước trưởng thành lớn mạnh đã giáng một đòn quyết định vào chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của kẻ thù ở đây đồng thời tạo ra thực lực cho các

lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục chiến đấu trong cuộc chiến đánh bọn Việt Nam

cộng hòa, đuổi Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

2.2. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần kết thúc thắng lợi

cuộc kháng chiến (1973-1975)

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

Tính đến thời điểm đầu năm 1973 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của

dân tộc ta đã có sự chuyển mình mạnh mẽ và giành được thắng lợi mang tính quyết

định. Sau cuộc tấn công chiến lược năm 1972 của quân dân miền Nam, chúng ta

không những khai thông được tuyến đường chi viện Bắc – Nam mà còn giáng một

đòn chí mạng vào kẻ thù ở hầu khắp các mặt trận trên toàn miền Nam, kéo địch đến

gần hơn bàn đàm phán ở Hội nghị Pari.

Trong lúc quân dân miền Nam đang giành được những thắng lợi to lớn ấy thì

ở miền Bắc, bằng sự nỗ lực phi thường, quân và dân miền Bắc không những gặt hái

được nhiều thành công trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà còn lập chiến

công vang dội trong cuộc chiến đập tan âm mưu phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Điên cuồng trong cơn giãy chết, suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972 Mỹ đã huy động

một khối lượng bom đạn khổng lồ cùng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất

như máy bay B52 đánh phá thủ đô Hà Nội và Hải Phòng. Mỹ hy vọng sự cố gắng

cuối cùng này của chúng sẽ giúp Mỹ xoay chuyển được tình thế tại bàn đàm phán ở

Pari. Tuy nhiên, 12 ngày đêm trong máu và lửa, quân dân miền Bắc đã dũng cảm

kiên cường lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” đập tan mọi tham vọng của Mỹ

88

buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán ký hiệp định Pari về Việt Nam. Từ đây thế

và lực ở miền Nam nghiêng hẳn về phía cách mạng, tạo ra những thuận lợi căn bản

cho cách mạng miền Nam tiến lên giành những thắng lợi mới.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Pari được ký kết. Theo những quy định

trong hiệp định này, quân Mỹ và đồng minh sẽ rút hết về nước. Ở miền Nam quân

đội Việt Nam cộng hòa chơ vơ, suy sụp và khủng hoảng song chúng vẫn liều

mạng xung đột tấn công quân ta ở nhiều nơi.

Trong bối cảnh đó, tháng 10 năm 1973 Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 21

được tổ chức. Hội nghị ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới”.

Nghị quyết khẳng định: “con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực

cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững

đường lối chiến lược tiến công….phải kiên quyết tiến công và phản công, giữ vững

và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta nhằm đánh bại kế hoạch “bình định” và

lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh” [46; tr418]

Nghị quyết này của Trung ương dẫn lối chỉ đường đưa đến sự chuyển biến

căn bản cục diện, tình hình của cách mạng miền Nam.

Ở Bình Định, hiệp định Pari được kí kết nhưng Bình Định chưa một ngày

nguôi tiếng súng. Với âm mưu khôi phục địa bàn lấn chiếm như tình trạng trước

năm 1972, đồng thời xóa thế da báo, trước ngày ngừng bắn có hiệu lực, Mỹ, quân

đội Việt Nam cộng hòa tập trung lực lượng tiếp tục đánh phá quyết liệt vào vùng

giải phóng của ta, nhất là vào quận lỵ Hoài Ân. Sáng ngày 28 tháng 1 Thiệu ra lệnh

cho quân đội Việt Nam cộng hòa thực hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, tiếp tục

thực hiện chương trình “bình định” ồ ạt tấn công vào những địa bàn trọng yếu, khu

vực đông dân nhiều của của Bình Định.

2.2.2.Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ

tỉnh từ năm 1973 đến năm 1975

89

Trước âm mưu và hành động của Việt Nam cộng hòa, được sự soi sáng của

Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 21 và Nghị quyết của Quân ủy trung

ương trong cuộc họp ngày 1 tháng 6 năm 1973 về “Giữ vững và phát triển chiến

tranh nhân dân địa phương ở những vùng địch tiếp tục hành động lấn chiếm, chủ

yếu là đồng bằng khu 5…Tập trung lực lượng, chuẩn bị tốt đánh địch những đòn

tương đối giòn giã ở những nơi có điều kiện. Những địa phương khác thì duy trì và

phát triển tác chiến du kích”, tháng 11 năm 1973 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Bình Định lần thứ IX (Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ V trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước) được tổ chức tại Bình Sơn, Ân Nghĩa, Hoài Ân.

Trên cơ sở đánh giá phong trào cách mạng tỉnh từ 1971 đến 1973 Đại hội đề ra

nhiệm vụ nhiệm kỳ tới: “ra sức đánh bại chiến lược “bình định”, giành dân, giữ

dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển lực lượng ta”… cần “ra sức xây dựng

củng cố ba thứ quân ngày càng vững mạnh làm hậu thuẫn cho quần chúng đấu

tranh, tham gia xây dựng căn cứ, vận động quần chúng làm kinh tế, đồng thời đánh

bại địch nếu chúng liều lĩnh gây chiến tranh trở lại”. [46; tr419]

Cuộc chiến giành và giữ dân vẫn tiếp tục ác liệt trong năm 1973. Ngày 28

tháng 1 năm 1974 Tỉnh ủy Bình Định họp đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong năm

1974. Về lãnh đạo quân sự, Nghị quyết Tỉnh ủy nêu rõ: “Đẩy mạnh phong trào du

kích chiến tranh lên một bước mới. Tấn công và phản công địch, diệt một bộ phận

sinh lực và phương tiện chiến tranh, nhất là diệt các đơn vị đi càn quét lấn chiếm

“bình định” đánh phá vùng ta, diệt bức rã, bức rút một số đồn bốt; tích cực hỗ trợ

phong trào quần chúng nổi dậy ở các vùng có điều kiện, hỗ trợ cho phong trào quần

chúng đấu tranh chính trị, binh vận ở vùng địch kiểm soát. [45; tr194]

Qua hàng loạt các hoạt động quân sự trong năm 1974 quân dân Bình Định

phối hợp chặt chẽ với các đơn vị của Sư đoàn 3 thực hiện căng kéo địch ra để đánh.

Giành dân được đến đâu, Tỉnh ủy giao cho một số đơn vị của huyện và du kích

cùng đặc công phối hợp giữ dân, giữ thế chiến trường đến đó.

90

Bình định, lấn chiếm bằng biện pháp quân sự là hoạt động chủ yếu và cơ bản

nhất của địch trong năm 1974. Tuy nhiên trước đòn tấn mạnh mẽ của quân dân miền

Nam địch đã chuyển sang thế bị động đối phó. Hai lực lượng chiến lược của chúng là

bọn cộng hòa, biệt động và bảo an, dân vệ bước đầu bị chặn đứng ở nhiều nơi. Sau

khi mất một loạt các căn cứ quan trọng, nhất là sau khi mất tỉnh Phước Long quân

đội Việt Nam cộng hòa tỏ ra yếu thế hơn hẳn. Chúng không còn đủ sức mở những

cuộc càn quét lớn để chiếm lại những vùng đã mất mà co vào cố thủ những nơi đã

giành được. Trong khi đó, kẻ đứng sau Việt Nam cộng hòa, quyết định sự tồn vong

của Việt Nam cộng hòa ở miền Nam là Mỹ thì không còn hào hứng ủng hộ Việt

Nam cộng hòa nữa.

Tình hình ở miền Nam chuyển biến ngày càng có lợi cho phía cách mạng. Đây

là cơ sở quan trọng để Trung ương Đảng đẩy mạnh quyết tâm giải phóng miền Nam.

Tại các cuộc họp tháng 10 năm 1974 và cuộc họp tháng 12 năm 1974 trên cơ

sở nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến gần, Bộ chính trị quyết định:

“Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền trong

thời gian 1975 – 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp

với đấu tranh ngoại giao, tiến hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa tiêu diệt và

làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương giành

chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam….Nếu thời cơ đến vào đầu

hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. [94; tr281]

Quyết tâm của Bộ chính trị truyền lửa đến với Đảng bộ tỉnh Bình Định. Xác

định vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của chiến tranh du kích trong sự nghiệp giải

phóng tỉnh nhà, từ cuối tháng 12 năm 1974 đầu tháng 1 năm 1975 Hội nghị du kích

chiến tranh được tổ chức. Hội nghị đi sâu vào đánh giá những ưu, khuyết điểm của

phong trào chiến tranh du kích năm 1974, âm mưu và động thái của địch, từ đó

xác định nhiệm vụ của phong trào này trong năm 1975 là: “Ra sức phát huy hết

khả năng thực lực chính trị vũ trang thôn, xã, đẩy mạnh phong trào nhân dân du

91

kích chiến tranh mạnh mẽ, đều khắp, nhằm thực hiện nhiệm vụ trung tâm đánh

bại một bước quan trọng bình định lấn chiếm của địch, giành giữ dân, mở rộng

và củng cố vùng giải phóng ở nông thôn đồng bằng đến sát vùng ven. Tích cực

phát triển phong trào vũ trang ở thị xã, đồng thời củng cố lực lượng du kích,

vùng căn cứ miền núi”.[122; tr11] Để thực hiện được nhiệm vụ này, Hội nghị

cũng nhấn mạnh một số yêu cầu cho phong trào chiến tranh du kích cần làm là:

“kết hợp đòn tấn công của chủ lực, với phong trào đấu tranh chính trị của quần

chúng, đẩy mạnh và làm nòng cốt của 3 mũi giáp công ở cơ sở…Giữ vững mở rộng

và xây dựng vùng giải phóng củng cố phong trào du kích ở miền núi…đẩy mạnh

phong trào du kích chiến tranh ở thành thị, ở vùng sâu vùng yếu giành quyền làm

chủ ở nhiều mức độ…Ra sức xây dựng phát triển du kích, tự vệ đông đủ về quân số,

vững mạnh về chất lượng có các đội chuyên trách, đồng thời ra sức xây dựng bộ

đội địa phương lớn mạnh, tinh nhuệ, sắc gọn có nề nếp, nâng từng bước đạt tỉ lệ

cân đối giữa các loại quân, các địa phương, các vùng”.[122; tr11] Theo Nghị

quyết này, khẩn trương phát triển số lượng và nâng cao chất lượng trong các loại du

kích là một yêu cầu bức thiết và có tính chất quyết định làm thay đổi tương quan

lực lượng, thay đổi trạng thái chiến trường trong tỉnh có lợi cho ta. Trên tinh thần

ấy, Nghị quyết đưa ra chỉ tiêu phấn đấu số lượng du kích cần đạt là 8.000 du kích

các loại bao gồm cả du kích mới và du kích cũ. Ở miền núi phấn đấu đạt 12%, ở

đồng bằng 6% so với dân số giải phóng, 4% dân số vùng tranh chấp, các xã vùng

địch đều có đội vũ trang công tác, các thôn tổ chức 1 đến 2 tổ và 1 số đơn tuyến của

du kích mật.

Yêu cầu về kiện toàn tổ chức cơ quan quân sự các cấp; tăng cường trang bị

vũ khí cho dân quân du kích, đội vũ trang công tác; huấn luyện chiến đấu cho các

lực lượng vũ trang cũng được quan tâm.

Với những chỉ đạo cụ thể, sâu sát này, Nghị quyết Hội nghị du kích chiến

tranh tháng 12 năm 1974 có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của phong trào

92

du kích chiến tranh ở Bình Định đối với công cuộc giải phóng tỉnh.

Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình

Định, công tác chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến thuận lợi hơn. Chỉ trong khoảng

gần 1 năm trước khi Bình Định kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước, Đảng bộ tỉnh đã huy động được một khối lượng lớn sức của bao

gồm lương thực thực phẩm, vũ khí đạn dược và một lực lượng đông đảo sức người

phục vụ sự nghiệp giải phóng tỉnh. Theo số liệu thống kê, đến cuối năm 1974, bộ

đội tỉnh có 10 tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng, một số đại đội độc lập.

Các huyện đều có từ 1 – 4 đại đội bộ binh và các đơn vị chuyên môn, các đơn vị

đều đủ quân số. Du kích và tự vệ xã thôn đồng bằng có khoảng 5.100 người.

Cuối năm 1974, tuyến đường vận tải cơ giới chiến dịch từ An Lão đến bắc

đường 19 được thông suốt, vận chuyển được 6.000 tấn hàng hóa phục vụ chiến đấu.

Hàng ngàn tấn hàng chi viện được đưa về các kho dự trữ ở Hóc Đèn, dốc Bà Bơi

(Hoài Ân). Tuyến dọc sông Kôn xuống bắc đường 19 cùng các đường nhánh được

mở nhằm chuẩn bị cho kế hoạch cắt đường 19.

Từ năm 1973 đến năm 1975, quá trình hiện thực hóa chủ trương của các

Nghị quyết Trung ương Đảng, Quân ủy khu 5, Tỉnh ủy Bình Định trong phong trào

du kích chiến tranh ở đây diễn ra hết sức mau lẹ. Bước ra từ khí thế đánh thắng Mỹ,

mục tiêu diệt quân lực Việt Nam cộng hòa giải phóng tỉnh Bình Định được từng

cán bộ, chiến sĩ và nhân dân xác định rõ. Do vậy công tác chuẩn bị cho phong trào

du kích chiến tranh chưa khi nào sôi động như năm 1973. Tình hình bố trí lực

lượng đánh địch được gấp rút triển khai ngay từ trước và sau khi hiệp định Pari

được kí kết. Các lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện nhanh chóng được phân công

phối hợp với du kích địa phương trên từng địa bàn cụ thể (vùng giải phóng, vùng

tranh chấp, vùng lỏng kẹp) thực hiện nhiệm vụ riêng nhằm mục tiêu đánh chống lại

kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” và âm mưu “bình định, lấn chiếm” của bọn Việt

Nam cộng hòa.

93

Giáo dục, huấn luyện và đào tạo cho 3 thứ quân của tỉnh, nhất là cho dân

quân du kích có kế hoạch cụ thể và triển khai rộng khắp ở các cấp. Theo số liệu

chưa đầy đủ, trong 2 năm 1973, 1974 các lực lượng vũ trang được huấn luyện

41.231 ngày, trong đó khoa mục chung là 3.192 ngày, chiến thuật 21.432 ngày, kỹ

thuật 16.195 ngày. Riêng năm 1974 Tiểu ban dân quân đã mở 75 lớp đào tạo bồi

dưỡng và huấn luyện cho 2.805 cán bộ du kích xã thôn với thời gian 1.915 ngày. Có

60% du kích được huấn luyện; tiểu ban đặc công mở 3 lớp tập trung 140 ngày; Tiểu

ban huấn luyện mở 5 lớp. Tỉnh mở lớp bồi dưỡng đào tạo huấn luyện cho 49 biệt

động thị trấn thị xã. Ngoài huấn luyện tập trung, Tỉnh còn tổ chức huấn huấn luyện

từng khu vực cho bộ binh, binh chủng. Đặc biệt quá trình tự huấn luyện, rèn luyện

của cán bộ, du kích còn được thể hiện trên thực tế qua từng trận đọ sức với địch.

Công tác hậu cần đã đảm bảo được những mặt hàng thiết yếu như lương

thực, vũ khí, đạn dược, đảm bảo cho bộ đội đủ no, đủ ấm.

Tình quân dân thắm thiết hơn qua quá trình chiến đấu và trưởng thành của bộ

đội, du kích tỉnh Bình Định. Dân tin, yêu, đùm bọc, chăm sóc bộ đội, cho con em

gia nhập các lực lượng vũ trang. Ngược lại bộ đội luôn quán triệt tư tưởng vừa

chiến đấu vừa bảo vệ dân. Song song với chiến đấu, bộ đội du kích còn giúp dân

xây dựng nhà cửa, cuốc ruộng, trồng cây v.v. Ví như du kích Hoài Ân giúp dân

2.245 ngày công. Đại đội 1 An Lão cuốc 3 sào ruộng 20 công và đào 20 hầm pháo

38 công giúp dân. Riêng năm 1974 đại đội này đã sản xuất được 1 tấn lúa và nhiều

hoa màu khác.

Chuẩn bị về lực lượng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Năm 1973

toàn tỉnh có 4.234 du kích tự vệ. Năm 1974 thực hiện phương hướng xây dựng theo

nghị quyết của Quân khu và Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang tăng so với năm 1973 đạt

17%, tỉ lệ du kích đạt 3% so với dân số giải phóng và tranh chấp. Một số huyện tỉ lệ

du kích cao so với dân số giải phóng là Bình Khê 4,4%, Hoài Ân 3,4%, thấp nhất là

Tuy Phước 0,570%.

94

Tóm lại, ở vào giai đoạn nước rút của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,

Trung ương Đảng, Quân khu ủy khu 5 và Đảng bộ tỉnh Bình Định ngày càng thể

hiện được bản lĩnh, trí tuệ của mình. Với những chủ trương đúng đắn của các cấp

ủy Đảng là cơ sở nguồn cội đưa đến thắng lợi của phong trào du kích chiến tranh ở

Bình Định giai đoạn 1973 - 1975.

2.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định.

Phát huy những thắng lợi to lớn giành được trong chiến đấu đánh lại chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, trên tinh thần vừa xây vừa chống, từ năm

1973 đến 1975 phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định tiếp tục bùng phát ở

vùng căn cứ giải phóng, vùng tranh chấp, vùng lỏng kẹp. Lực lượng du kích tự vệ

thực sự trở thành công cụ bạo lực chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền cách mạng và

nhân dân ở thôn xã.

Ngay sau khi hiệp định Pari được kí kết, mặc dù không được sự đồng ý của

Khu ủy khu 5 về tiếp tục tấn công địch, song các đồng chí trong Ban cán sự Tỉnh

đội vẫn quyết định “kiên quyết đánh trả mọi sự nống lấn, khiêu khích của địch, bảo

vệ và giữ vững vùng ta..”. Vì vậy, đáp trả động thái khiêu khích, phá hoại hiệp định

Pari của địch là hành động phản kích của Tiểu đoàn 50 diễn ra ở khu vực Đề Gi

ngày 6 tháng 2, ở Mỹ Tài (Phù Mỹ) ngày 22 tháng 5. Tiếp đó, Tiểu đoàn 53 bộ đội

huyện phối hợp với du kích địa phương đánh địch phản kích ở vùng ven quốc lộ 1.

Cùng với đấu tranh quân sự, trong nửa đầu năm 1973 các lực lượng vũ trang trong

tỉnh còn hỗ trợ nhân dân tiến hành đấu tranh chính trị, binh vận với địch đòi thi

hành hiệp định Pari. Từ tháng 9 trở đi, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

lần thứ IX, phong trào du kích chiến tranh diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ở phía Bắc

tỉnh, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của bộ đội huyện và du kích địa phương thôn Quy

Thuận, Gia An (xã Hoài Châu). Với tinh thần “một tấc không đi một ly không rời”,

bộ đội và du kích nơi đây kiên trì trụ bám thành công trước lực lượng khổng lồ quân

đội Việt Nam cộng hòa. Ở phía Nam tỉnh, nổi bật là các trận tập kích vào trụ sở xã

95

Nhơn An, Trung Lý (An Nhơn) của các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 50. Cùng với hành

động của các đơn vị tập trung, du kích hầu hết các địa phương trong toàn tỉnh thi

nhau chủ động tấn công diệt địch. Ngày 23 tháng 10 du kích thôn Ngọc Sơn đánh

bọn thám báo ở đồi 192. Đầu tháng 11 du kích tập kích một trung đội bảo an ở ga

Ngọc An v.v.

Tính chung năm 1973, lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 1.693 trận lớn nhỏ,

loại khỏi vòng chiến 12.800 quân địch. Riêng lực lượng du kích tự vệ đánh 870

trận, loại khỏi vòng chiến 4.619 địch.

Năm 1974, thực hiện Nghị quyết ngày 28 tháng 1 năm 1974 của Tỉnh ủy

Bình Định, phong trào du kích chiến tranh bùng lên rộng khắp. Mở đầu là trận đột

nhập vào cảng Quy Nhơn của đại đội đặc công nước 598 vào ngày 22 tháng 3 và

liền sau đó trong suốt tháng 3 hàng loạt trận phục kích, tập kích của Đại đội 1 (Phù

Cát), Tiểu đoàn 19, Đặc công Đ30, du kích xã Mỹ Chánh, du kích xã Hoài Hảo diệt

nhiều địch.

Sang chiến dịch Hè Thu bộ đội chủ lực thực hiện căng kéo địch ra hai đầu

Nam Bắc tỉnh phối hợp, bội đội địa phương và du kích đánh vào khu vực trọng

điểm. Khu vực tác chiến trọng điểm của lực lượng vũ trang tỉnh là đông bắc Phù

Mỹ và bắc Phù Cát. Còn khu vực Bình Khê, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước,

Vân Canh, thị xã Quy Nhơn là khu tác chiến phối hợp.

Sau hiệu lệnh tấn công của Sư đoàn 3 kéo địch về đông bắc Bình Khê, uy hiếp

sân bay Gò Quánh thì tại nhiều vị trí ở đông bắc Phù Mỹ quân đội Việt Nam cộng

hòa liên tiếp phải hứng chịu những đòn tấn công dồn dập của các Tiểu đoàn 50, 55

tỉnh và Đại đội 2, Đại đội 3 huyện. Đêm 14 tháng 5 Tiểu đoàn 50 tập kích chốt điểm

Gò Dông (Mỹ Tài), Đại đội 3 của huyện tập kích địch ở núi Mun, Tiểu đoàn 55 bao

vây tấn công địch ở Đồi Tranh, Trung Thứ. Sang ngày 25, Tiểu đoàn 55 tấn công bộ

máy ngụy quyền ở Mỹ Chánh sau đó phát triển lực lượng sang Thái An, Chánh An,

Núi Dài.

96

Ở Phù Cát, các chốt điểm Hòa Hiệp, Thái Thuận nhanh chóng bị hạ. Sau đó

các đơn vị vũ trang huyện là Đại đội 1, 2 tấn công trụ sở xã Cát Tài. Khi địch kéo

quân từ chợ Gồm về phản kích thì bị Tiểu đoàn 50 phục kích diệt gọn.

Sang tháng 6, tháng 7 địch ra sức phản kích hòng chiếm lại những vị trí đã

mất ở đông bắc Phù Mỹ và bắc Phù Cát nhưng những đòn phản kích của chúng đều

bị các đơn vị vũ trang của ta ở đây bẻ gãy.

Song song với những cuộc tấn công tại khu vực trọng điểm, ở địa bàn phối

hợp bằng lối đánh du kích, hầu hết các vị trí quan trọng đều bị lực lượng ta tấn công

như ở Đồng Phó, Vườn Xoài (Bình Giang), Phú Xuân (Bình Phú), Huỳnh Giảng

(Tuy Phước), sân bay Quy Nhơn, kho xăng Phú Hòa, Nhơn Lộc (An Nhơn) v.v.

Nhiều khu vực khác của tỉnh, du kích và bộ đội địa phương cũng phối hợp diệt địch

đẩy chúng vào tình thế bị động đối phó trên hầu khắp các địa bàn. Từ phản kích

quyết liệt, địch chuyển sang phản kích yếu ớt dần, những cuộc phản kích quy mô lớn

theo đó cũng dần biến mất, co cụm là động thái chính của quân đội Việt Nam cộng

hòa ở hàng loạt chốt điểm lúc này. Vì vậy sang giai đoạn 2 của chiến dịch Hè Thu

các đơn vị vũ trang của ta tấn công hạ nhanh chóng các vị trí quan trọng khác ở khu

vực trọng điểm như cao điểm 338, Cát Minh, Trinh Khánh, An Mỹ, Cát Tài (Phù

Cát). 7 xã phía đông Phù Mỹ và phía bắc Phù Cát được giải phóng.

Tính chung trong năm 1974 các lực lượng vũ trang tỉnh đánh 2.172 trận gồm

298 trận tập kích bí mật, 13 trận tập kích hiệp đồng binh chủng, 8 trận bao vây tấn

công liên tục, 124 trận phục kích, 163 trận vận động tấn công, 356 trận phản kích

giải tỏa, 17 trận đánh giao thông, 264 pháo kích, 305 đánh cầu, 24 đánh bằng pháo

cối cải tiến, 8 đánh pháo bệ, 17 trận đánh mìn, 206 trận bắn bia tỉa, 9 trận đánh

phục kích, 1 trận đánh phản tập kích, 8 trận đánh thọc sâu, 65 trận diệt ác ôn, 15

đánh cải trang, 7 đánh tàu, 1 truy lùng biệt kích, 12 trận đánh cầu cống, 15 trận bắn

máy bay. Loại khỏi vòng chiến 15.131 địch. Thu 1.275 súng các loại. Đánh sập 164

nhà lính, 285 lô cốt, 13 cầu, 20 cống. Đánh cháy, hỏng 266 xe quân sự, 5 kho, bắn

97

rơi 18 máy bay, làm hỏng 7 chiếc khác. Riêng du kích đánh 1.048 trận. Loại khỏi

vòng chiến 4.836 địch. Thu 261 súng các loại. Đánh cháy và đánh hỏng 32 xe

quân sự. Bắn rơi 3 máy bay. [127; tr3, 5]

Với những chiến công vang dội ở Bình Định năm 1974 đã giáng một đòn

nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và tay sai, đẩy quân

đội Việt Nam cộng hòa rơi vào tình trạng lung túng, khủng hoảng khắp nơi. Đây là

điều kiện thuận lợi và cần thiết để quân dân Bình Định đẩy mạnh chiến tranh du

kích sang thế tiến công nổi dậy giải phóng tỉnh nhà.

Sang năm 1975 thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị, Quân ủy khu 5, Tỉnh

ủy Bình Định phát động toàn bộ các lực lượng vũ trang tỉnh đồng loạt tấn công theo

kế hoạch:

Trọng điểm 1, từ nam Phù Cát, đông An Nhơn đến đông bắc Tuy Phước giao

cho Tiểu đoàn bộ binh 50,8; Tiểu đoàn trợ chiến 73; Đặc công Đ10, 598 phối hợp

cùng bộ đội và du kích địa phương.

Trọng điểm 2, từ đông bắc Bình Khê đến tây An Nhơn giao cho Tiểu đoàn

bộ binh 51; Đặc công Đ20, 2 đại đội bộ binh của 2 huyện, du kích địa phương.

Khu vực phối hợp là Hoài Nhơn (Tiểu đoàn 53); Phù Mỹ (Tiểu đoàn 55);

nam Tuy Phước, Vân Canh (Đặc công Đ30, 405, bộ đội và du kích địa phương)

Trên trục đường chiến lược 19, Tiểu đoàn 19 cùng các đơn vị vũ trang huyện

Bình Khê có nhiệm vụ phối hợp với Sư đoàn 3 cắt đứt tuyến đường này.

Mở màn chiến dịch Xuân 1975 là tiếng súng của Sư đoàn 3 vang lên ở chốt

cây Rui và nhiều chốt điểm ven trục đường 19 vào ngày 4 tháng 3. Tiếp đó tại khu

vực trọng điểm 2 từ đêm ngày 5 đến ngày 13 tháng 3 các lực lượng vũ trang đảm

trách ở đây bằng những chiến thuật du kích kết hợp với nổ súng tấn công đồng loạt

vào nhiều vị trí như Núi Thơm, Kiên Thạnh, Mỹ Yên, Vĩnh Lộc, đồng thời chặn

đánh thành công các cuộc giải tỏa của địch. Đến ngày 7 tháng 3, 3 xã Bình An và

Bình Hòa, Bình Tân của huyện Bình Khê hoàn toàn giải phóng.

98

Ngày 8 tháng 3, nhận định thời cơ mở rộng vùng giải phóng đã đến, Thường

vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định phát triển vùng giải phóng sang tây

An Nhơn. Nhiều vị trí địch ở huyện An Nhơn như Nhơn Phúc, Nhơn Khánh, Cây

Bông, Nhơn Mỹ v.v trong thế giằng co giữa ta và địch, ta tấn công, địch tổ chức

phản công. Ngày 10 tháng 3 ta giải phóng Nhơn Phúc.

Từ ngày 9 tháng 3 khu vực trọng điểm 1 của tỉnh nổ súng. Các đơn vị vũ trang

của ta tập kích diệt địch ở Núi Đất, Thanh Giang, Cát Tường, khu dồn Hòa Đại.

Trong 2 ngày, ngày 9 và ngày 10 tháng 3, 5 xã Nhơn An, Nhơn Phong, Cát Nhơn,

Cát Thắng, Cát Tường được giải phóng. Ngày 11 tháng 3 địch điều quân đến giải

tỏa, bị lực lượng huyện phục kích diệt gọn tại Cát Tường. Trên thế thắng, du kích 2

xã Cát Hanh và Cát Hiệp tấn công địch ở khu dồn Hòa Đại, nhà thờ, ép địch sát

đường 1, sau đó địch điều 1 đại đội đi giải tỏa 3 xã phía Nam bị bộ đội huyện Phù

Cát diệt gọn.

Thất bại mọi hướng cả trong giữ và chiếm lại, địch hoang mang trước đòn

tấn công dồn dập của quân ta. Từ ngày 16 tháng 3, ở Tuy Phước lực lượng vũ trang

tỉnh huyện đồng loạt tấn công diệt nhiều vị trí như Lộc Ngãi (Phước Hiệp), Định

Thiện (Phước Quang), quận lỵ Tuy Phước, Gò Bồi, tháp Bánh Ít, Trường Úc, trụ sở

xã Phước Hiệp, thôn Xuân Mỹ (Phước Sơn), xã Phước Hiệp được giải phóng. Đến

đây vùng giải phóng của tỉnh liên hoàn từ Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát.

Ở các huyện phía Bắc tỉnh: du kích căng mình phối hợp với các đơn vị vũ

trang tỉnh và bộ đội địa phương bằng lối đánh tập kích tấn công địch ở chốt Đồi

Miếu, trụ sở xã Mỹ Chánh, cầu Suối Xen (Mỹ Bình). Du kích các xã có đường số 1

chạy qua rầm rộ tổ chức diệt địch, hỗ trợ hàng ngàn đồng bào các xã Mỹ Chánh,

Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Lộc bao vây bức rút các chốt điểm trên địa bàn xã.

Ở Hoài Nhơn, 3 lực lượng vũ trang thi đua giết giặc lập công. Mở đầu là

tiếng súng điệt địch của Tiểu đoàn 53 vang lên tại xóm 5 Tấn Thạnh, máy gạo

ông Tuận. Tiếp đó đại đội công binh huyện diệt chốt Cây Lê (Hoài Thanh), du

99

kích Hoài Thanh tập kích địch ở xóm 8 Ngọc An đồng thời hỗ trợ quần chúng

bức rút chốt điểm Đồi Ấm, Đồi Tùng, Đồi A, Cống Trường, Trụ Bồ, Trường Xuân

Cự Tài, Gò Ông Ninh, v.v.

Đợt 1 chiến dịch Xuân Hè 1975 kết thúc thắng lợi. Tin thắng lợi của ta trên

toàn miền Nam cũng dồn dập dội về. Thực hiện mệnh lệnh của Quân khu về tranh

thủ thời cơ chung, tạo thời cơ trực tiếp giải phóng hoàn toàn Khu 5 trong thời gian

ngắn nhất. Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết tâm giải phóng tỉnh

bằng lực lượng hiện có. Theo kế hoạch, chúng ta sẽ chiếm lĩnh vị trí xuất phát

(Phước Hậu) để tiến vào thị xã Quy Nhơn. Vị trí này do Trung đoàn 93 đảm nhiệm.

Các lực lượng vũ trang, Tiểu đoàn 51, 405 đánh chiếm Phước Long, Phước An,

Tây An Nhơn làm cánh vu hồi cho Trung đoàn 93; Trung đoàn 92 có nhiệm vụ

chiếm Đèo Nhông, Núi Nùng, cắt đường 1 không cho địch điều quân ứng cứu từ

phía Bắc tỉnh về; Phối hợp với các đơn vị tập trung của tỉnh, bộ đội huyện và du

kích hỗ trợ nhân dân tấn công tiêu diệt địch khắp các địa bàn.

Theo đó, trong đợt 2 các lực lượng vũ trang tỉnh sử dụng lối đánh du kích kết

hợp với nổi dậy đồng loạt tấn công các vị trí của địch từ Hoài Nhơn về Phù Mỹ,

Phù Cát. Tấn công đến đâu chúng ta giải phóng các huyện tới đó. Sư đoàn 3 phối

hợp với một số đơn vị vũ trang tỉnh, đánh đón đầu đường rút quân của địch ở sân

bay Gò Quánh, tây Bình Khê. Địch thua bỏ chạy đến đâu, nhân dân và du kích nổi

dậy truy bắt tàn quân, chiếm đồn bốt đến đó. Đến 6 giờ sáng ngày 30 Đại đội đặc

công Đ30 phục kích diệt 1 trung đội dân vệ tại Tây Định (Phước Hậu). Bàn đạp để

tiến vào giải phóng thị xã Quy Nhơn đã mở, thời cơ giải phóng tỉnh đã xuất hiện,

Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh đội phát lệnh giải phóng Quy Nhơn. 12

giờ 30 phút ngày 31 tháng 3 tiếng súng giải phóng Quy Nhơn bắt đầu, các đơn vị

vũ trang đồng loạt tấn công các cứ điểm trong và xung quanh thị xã Quy Nhơn.

Đến 24 giờ ngày 31 tháng 3 cờ cách mạng tung bay trên nóc nhà dinh tỉnh trưởng.

6 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1975 cờ giải phóng tung bay trên khắp các căn cứ, công

100

sở, cơ quan đầu não của địch. Tàn quân địch bị ta tấn công vây quét dứt điểm lúc

16 giờ ngày 1 tháng 4 năm 1975.

Tiểu kết chƣơng 2

Dưới sự lãnh đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, đặc biệt dưới sự lãnh đạo chỉ

đạo trực tiếp, sáng suốt của Đảng bộ tỉnh Bình Định đã đưa phong trào du kích

chiến tranh trong tỉnh phát triển ngày càng mạnh mẽ trở thành đòn bẩy trực tiếp

đánh bại từng bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ tại Bình Định.

Trong giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975, Đảng bộ tỉnh đã thể hiện rõ khả năng,

trí tuệ của mình trong lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích. Đặc biệt đến chiến

dịch tổng hợp Xuân Hè năm 1975, trên cơ sở tạo thời cơ, xác định đúng thời cơ

chín muồi, Đảng bộ tỉnh đã phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Định ra

101

quân chớp thời cơ giải phóng hoàn toàn tỉnh nhanh chóng trọn vẹn.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

3.1.1. Ưu điểm

Ngay từ năm 1954 khi Mỹ thực hiện mưu đồ chiến tranh xâm lược thực dân

kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, chúng đã nhanh chóng thiết lập bộ máy tay sai

phản động ở Bình Định. Hàng loạt chiến lược chiến tranh với những thủ đoạn tàn

bạo của Mỹ, Việt Nam cộng hòa không làm quân dân Bình Định khiếp sợ. Suốt

cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo sáng suốt, bản lĩnh, trí tuệ của Đảng bộ tỉnh,

quân và dân Bình Định đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần vào

thắng lợi chung của cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Trong 10

năm lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975, Đảng bộ

tỉnh Bình Định có rất nhiều ưu điểm, nổi lên là:

Thứ nhất:Vận dụng một cách sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng,

khu ủy, Quân khu ủy Quân khu V đưa phong trào chiến tranh du kích từng bước

giành được những thắng lợi quan trọng.

Cũng như các địa phương khác ở miền Nam và Quân khu V ngay từ những

ngày đầu đánh Mỹ, theo tiếng gọi của Trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh,

Tỉnh ủy Bình Định xác định con đường duy nhất ở Bình Định thời điểm đó là phát

động nhân dân trong tỉnh đứng lên đấu tranh chống Mỹ và tay sai để giải phóng

tỉnh nhà. Phương thức chiến tranh duy nhất lúc đó là chiến tranh du kích. Về

phương thức chung của loại chiến tranh này đã được Đảng, Bác tổng kết ngay từ

khi dân tộc ta chống Pháp. Tuy nhiên, ở mỗi vùng miền khác nhau có đặc trưng

khác nhau về đặc điểm địa hình, tình hình dân cư v.v. do đó hình thái chiến tranh

du kích ở các địa phương cũng có điểm khác nhau.

Trong 10 năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định,

Đảng bộ tỉnh đã khéo léo lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích trong tỉnh thực

102

hiện hiệu lệnh của Quân khu, đồng thời từng bước giải quyết những yêu cầu, nhiệm

vụ cụ thể của cách mạng tỉnh. Quân khu 5 là một trong những địa bàn chiến lược

của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bình Định là

một trong những tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng của Quân khu 5. Vì vậy, từ năm

1965 khi Mỹ trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh vào miền Nam

Việt Nam, theo chỉ đạo của Trung ương, Bộ quốc phòng và khu ủy Quân khu 5 đã

chỉ đạo thành lập Sư đoàn 3 (9/1965) tại khu rừng Bà Bơi (Hoài Ân, Bình Định).

Các Trung đoàn 2, 12, 22 của Sư đoàn 3 luôn thường trực chiến đấu trên địa bàn

tỉnh Bình Định. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định, cuộc đấu tranh

của đồng bào chiến sĩ tỉnh Bình Định luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát

của Khu ủy Quân khu 5. Mọi chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của khu ủy

Quân khu 5 đều nhanh chóng được Đảng bộ tỉnh Bình Định vận dụng triển khai

thực hiện. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là, trong quá trình lãnh đạo nhân dân

trong tỉnh tiến hành chiến tranh du kích chống chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay

sai, Đảng bộ tỉnh Bình Định không dừng lại ở việc vận dụng chủ trương, đường lối

của Trung ương Đảng và Khu ủy Quân khu 5 mà vận dụng những chủ trương

đường lối đó một cách sáng tạo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cách

mạng tỉnh nhà. Thực tế 10 năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình

Định thể hiện rõ điều này. Ví như, trong 2 cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và

1966 – 1967 của Mỹ, Mỹ và đồng minh mở hàng loạt cuộc càn quét hòng tiêu diệt

lực lượng cách mạng của ta (đặc biệt là lực lượng chủ lực của ta). Để đối phó lại

âm mưu, hành động này của Mỹ, Quân ủy khu 5 chủ trương mở hàng loạt chiến

dịch trước, trong và sau những cuộc phản công mùa khô của Mỹ hòng tiêu diệt lớn

sinh lực địch, thực hiện khẩu hiệu “tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”. Trước sự

chỉ đạo đó của Quân khu 5, Đảng bộ tỉnh Bình Định tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo các

lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh (nhất là ở các huyện phía Bắc tỉnh) vừa

phối hợp với lực lượng của Sư đoàn 3 tổ chức diệt địch, vừa chỉ đạo các lực lượng

103

vũ trang trong tỉnh tổ chức các trận đánh độc lập hòng căng kéo địch ra để đánh,

thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt quân Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa và quân Nam

Triều Tiên, bảo vệ vùng giải phóng, chống địch càn quét, khôi phục phong trào

cách mạng các huyện phía Nam tỉnh. Năm 1969, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo

các lực lượng vũ trang tỉnh thực hiện 4 chiến dịch lớn do Quân khu 5 tổ chức đồng

thời Tỉnh ủy còn mở thêm 2 chiến dịch hòng giành và giữ dân. Ở chiến dịch năm

1972 theo Nghị quyết của Trung ương về mở cuộc tấn công chiến lược nhằm giành

thắng lợi quyết định. Tại Bình Định, Đảng bộ tỉnh đặt ra yêu cầu: giải phóng và

giành quyền làm chủ, tranh chấp đại bộ phận nông thôn…Nghị quyết này của tỉnh

trở thành đòn bẩy vững chắc đưa quân dân trong tỉnh tiến lên giải phóng một vùng

rộng lớn liên hoàn ở các xã đông, tây An Nhơn đến đông bắc Bình Khê. Cả một địa

bàn chiến lược lớn phía Bắc tỉnh bao gồm địa phận hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân

và 7 xã phía Bắc huyện Phù Mỹ hoàn toàn giải phóng trở thành bàn đạp vững chắc

cho quân dân trong tỉnh thọc sâu xuống giải phóng các huyện phía Nam tỉnh. Cuối

năm 1974, Trung ương Đảng ra Nghị quyết về giải phóng miền Nam. Trên tinh thần

chỉ đạo này, qua hoạt động tổng hợp Xuân Hè năm 1975 thăm dò thế và lực của quân

đội Việt Nam cộng hòa tại Bình Định, Đảng bộ tỉnh nhanh chóng hạ quyết tâm giải

phóng tỉnh trong Xuân 1975. 31 tháng 3 năm 1975 thị xã Quy Nhơn hoàn toàn giải

phóng đã đánh dấu sự toàn thắng của quân dân Bình Định trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước. Bình Định trở thành một trong những địa phương hoàn thành

cách mạng giải phóng sớm ở miền Nam Việt Nam.

Thứ hai: Từng bước kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo phong trào du kích

chiến tranh; phát huy được năng lực, trí tuệ của các cấp ủy địa phương đối với

phong trào chiến tranh du kích.

Bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp phong trào chiến tranh du kích ở Bình

Định là bộ máy chỉ huy quân sự các cấp. Thực tế cho thấy, việc xây dựng, kiện toàn

bộ máy chỉ huy quân sự các cấp ở Bình Định được thực hiện song song với quá

104

trình đẩy mạnh xây dựng 3 lực lượng vũ trang của tỉnh. Tháng 6 năm 1960, tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Định lần thứ III, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thành lập Ban

quân sự tỉnh. Sự kiện này đã đánh dấu mốc cho việc hình thành hoàn chỉnh bộ máy

chỉ huy quân sự các cấp ở Bình Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước. Các lực lượng vũ trang theo đó cũng được thành lập trở thành đội quân tiên

phong phát động phong trào du kích chiến tranh ở Bình Định. Tính đến năm 1965,

Tỉnh đội Bình Định đã thành lập được 2 tiểu đoàn bộ binh là Tiểu đoàn 50(thành

lập năm 1963) và Tiểu đoàn 52 (thành lập năm 1965), ngoài ra còn các đại đội,

trung đội vũ trang. Từ các lực lượng vũ trang tập trung dần phiên chế thành các

phân đội chuyên môn như đặc công, công binh, trinh sát, bắn máy bay v.v. Lực

lượng dân quân du kích cũng không nằm ngoài cách thức tổ chức này. Lúc đầu dân

quân du kích được biết đến bởi hai cách thức tổ chức là du kích tập trung và du

kích bán tập trung, đến năm 1968 ở Bình Định đã tổ chức được du kích đặc công,

du kích công binh, du kích chuyên bắn, du kích mật v.v.

Tuy nhiên, các đơn vị lực lượng vũ trang ở Bình Định giai đoạn này chủ yếu mang

tính nhỏ lẻ, phổ biến là trung đội và đại đội, cơ quan chính trị chưa hoàn chỉnh.

Trong mỗi đơn vị vũ trang địa phương đều có 2 người quản lý ở 2 mảng khác nhau:

một người chịu trách nhiệm về mặt quân sự còn một người chịu trách nhiệm về

công tác chính trị tư tưởng của đơn vị trong xây dựng cũng như trong chiến đấu.

Cấp ủy Đảng địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng

chính trị cho các chiến sĩ, đồng thời xây dựng, củng cố tổ chức lãnh đạo chỉ huy và

trực tiếp chỉ huy tác chiến của các lực lượng vũ trang theo yêu cầu nhiệm vụ chính

trị của địa phương. Việc phát huy vai trò của cấp ủy Đảng địa phương trong bộ máy

chỉ huy quân sự tỉnh là một sáng tạo lớn của Đảng bộ Bình Định. Nó không những

phát huy được năng lực, trí tuệ của cấp ủy Đảng địa phương, mà còn đảm bảo được

vai trò lãnh đạo của bộ máy chỉ huy quân sự trong bối cảnh thiếu thốn về cán bộ

lãnh đạo. Bên cạnh sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng địa phương, các lực

105

lượng vũ trang ở Bình Định còn nhận được sự chỉ đạo sâu sát của Quân khu ủy và

Bộ quốc phòng về mặt quân sự.

Với bộ máy quản lý quân sự tinh nhanh, chặt chẽ, quy củ giúp cho Tỉnh Đội,

Ban thường vụ Tỉnh ủy Bình Định dễ dàng huy động được sự hiệp đồng của 3 lực

lượng: bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du kích trong hỗ trợ, phát động quần

chúng diệt giặc phá kèm, cũng như trong đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Từ năm

1965, khi Mỹ trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và đồng minh vào Bình Định, cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân Bình Định gặp nhiều khó khăn hơn.

Trong quá trình tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, kẻ thù bằng nhiều thủ

đoạn thâm độc đã gây nên nhiều thiệt hại nghiêm trọng về sức người ở Bình Định.

Bên cạnh sự hy sinh của quân dân Bình Định nói chung còn có một bộ phận không

nhỏ các cán bộ chủ chốt đã ngã xuống. Khi kẻ thù tiến hành chiến lược “Việt Nam

hóa chiến tranh”, sự tồn tại phát triển mạnh mẽ, rộng khắp mạng lưới Ủy ban

Phượng Hoàng, hệ thống gián điệp, mật vụ, cùng với đó là phân loại gia đình quần

chúng mà kẻ thù áp dụng đều nhằm mục tiêu triệt phá cơ sở chính trị của ta ở nông

thôn. Bất chấp thủ đoạn, những hành động tàn ác của địch có lúc cũng gây ra những

thiệt hại nghiêm trọng cho phía cách mạng Bình Định ở nhiều nơi. Bộ máy quân sự

vốn tinh gọn gặp phải không ít trở ngại khi bị hao hụt về cán bộ lãnh đạo. Ví như sau

chiến dịch Mậu Thân năm 1968, ở Bình Định có tới 744 cán bộ đảng viên hy sinh.

Nhiều xã không có cán bộ lãnh đạo. Tuy nhiên trong 10 năm cuối của cuộc kháng

chiến chống Mỹ ở Bình Định, nhờ việc đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư

tưởng, huấn luyện bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên và chiến

sĩ của các cấp ủy Đảng nên việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh và

Quân ủy khu 5 luôn được thông suốt. Sự thiếu hụt cán bộ được bổ sung kịp thời, hơn

nữa quân dân trong tỉnh chiến đấu hy sinh theo tinh thần tự nguyện, tự giác là một

trong những điều kiện thuận lợi cơ bản đảm bảo cho bộ máy chỉ huy quân sự các cấp

hoạt động có hiệu quả rõ rệt.

106

Thứ ba: Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, phát triển chiến tranh du

kích rộng rãi trên cả 3 vùng chiến lược.

Nắm vững quan điểm của Đảng về kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa

vào sức mình là chính, 21 năm lãnh đạo nhân dân trong tỉnh tiến hành kháng chiến

chống Mỹ cứu nước, đặc biệt trong 10 năm cuối của cuộc kháng chiến khi Mỹ đẩy

cuộc chiến xâm lược ở miền Nam Việt Nam lên một mức độ cao, ác liệt nhất chưa

từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của Mỹ, Đảng bộ tỉnh luôn xác định: kháng

chiến là vì dân và vì dân phải kháng chiến, giành và giữ dân là chiếc chìa khóa giải

quyết mọi vấn đề. Do đó, Đảng bộ sớm tập hợp, lôi kéo được nhân dân trong tỉnh đi

theo mình tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, làm cho quân đội

Mỹ, bọn lính Nam Triều Tiên vốn binh hùng lực hậu song luôn bị rơi vào mạng lưới

thiên la địa võng dân giăng.

Huy động toàn dân vào cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh xây dựng thế trận

đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược: nông thôn, thành thị và miền núi. Dựa vào địa

hình, tình hình địch ở mỗi vùng mà phong trào chiến tranh du kích phát triển có

khác nhau.

Ở miền núi: dựa vào địa thế hiểm trở, địa hình phức tạp, truyền thống yêu

nước trung thành của đồng bào các dân tộc ít người mà ở giai đoạn đầu của cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh phát triển phong

trào chiến tranh du kích ở đây. Với vũ khí thô sơ, đồng bào các dân tộc thiểu số ở

các huyện miền núi như An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh chủ yếu bố phòng, rào

làng, đào hầm, hào, bẫy địch, dùng tên, ná, mang cung diệt địch. Đến năm 1965

quân dân tỉnh đã giải phóng được một vùng rộng lớn ở miền núi, 2 quận lỵ An Lão

và Vĩnh Thạnh cũng được giải phóng trở thành căn cứ, bàn đạp vững chắc trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975

Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa thường xuyên tăng cường càn quét, biệt kích vào

các khu vực miền núi giải phóng do cách mạng làm chủ hòng lấn chiếm và phá

107

hoại vùng hậu phương của ta nhưng không thành. Hàng loạt các trận chống càn

quyết liệt diễn ra ở An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh trong suốt quá trình quân Mỹ

và đồng minh trực tiếp chiến đấu trên đất Bình Định. Trận chống càn của quân dân

An Lão năm 1966 trở thành nỗi ám ảnh lính Mỹ. Bằng những thứ vũ khí thô sơ tự

tạo, các đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Định đã tổ chức những cuộc đánh chiếm,

càn quét thực sự có hiệu quả. Vĩnh Thạnh là một trong những huyện miền núi có

phong trào du kích phát triển mạnh. Từ những năm 1965 trở đi, Mỹ và quân đội

Việt Nam cộng hòa thường xuyên tổ chức các cuộc đánh chiếm vào khu vực miền

núi Vĩnh Thạnh. Tuy nhiên kẻ thù luôn vấp phải sự kháng sự quyết liệt của đồng

bào nơi đây. Hầm chông, mang cung, tên, nỏ, bẫy v.v, được đồng bào ngày đêm

chế tạo để sẵn sàng tấn công cũng như phản công kẻ thù. Năm 1970 các lực lượng

vũ trang và nhân dân Vĩnh Thạnh tổ chức tới 258 trận đánh địch, trong đó có 14

trận đánh càn. Nhìn chung, mặc dù Mỹ trực tiếp đưa một đội quân thiện chiến hùng

hậu vào Bình Định nhưng kể cả khi kẻ thù đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên đến

mức cao nhất chúng cũng không chiếm được khu vực miền núi rộng lớn nơi đây.

Ở nông thôn đồng bằng: đây là nơi đông dân nhiều của, là địa bàn chính địch

tập trung thực hiện kế hoạch giành dân. Vì vậy cuộc chiến đấu giữa hai bên diễn ra

chủ yếu ở vùng đồng bằng. Từ năm 1960 địch thực hiện chương trình “bình định”

dồn dân lập “ấp chiến lược”, kẹp dân, cũng từ đây Đảng bộ tỉnh đặt nhiệm vụ diệt

kẹp, phá kèm, giành và giữ dân lên hàng đầu. 10 năm cuối của cuộc chiến, chính

sách “bình định” và “tìm diệt” được Mỹ, tay sai triển khai quyết liệt hơn. Cục diện

giằng co diễn ra ở hầu khắp các thôn xã trên toàn địa bàn tỉnh Bình Định. Để kiểm

soát, cơ động đối phó với dân chúng và sự di chuyển của các lực lượng vũ trang ta,

địch tập trung phần lớn lực lượng trong thị xã Quy Nhơn, các quận lỵ, thị trấn, trên

các trục đường giao thông chiến lược là đường số 1 và đường 19. Đây là địa bàn

dân cư tập trung đông đúc nhất ở vùng đồng bằng. Nắm rõ tình hình địch, Đảng bộ

tỉnh chủ trương phát động các lực lượng vũ trang hỗ trợ quần chúng tiến hành chiến

108

tranh du kích giành quyền làm chủ cho dân ở những nơi nào mắt khâu của địch yếu

trước. Vì vậy sau khi có chỗ đứng chân vững chắc ở miền núi, phong trào du kích

đã được nhen lửa phát triển trong các vùng đồng bằng. Ở các huyện đồng bằng phía

Bắc tỉnh như Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, nơi nhân dân có lòng yêu nước thiết

tha, có tinh thần cách mạng quật cường, Đảng bộ tỉnh nhanh chóng xây dựng được

thế trận chiến tranh nhân dân, do đó phong trào chiến tranh du kích ở khu vực này

diễn ra mạnh mẽ, đều khắp và liên tục. Những cuộc hành quân càn quét tìm diệt

quy mô lớn của Mỹ và đồng minh trong quá trình chúng tiến hành chiến tranh cục

bộ chủ yếu nhằm vào khu vực này. Ở các huyện đồng bằng phía Nam tỉnh như Tuy

Phước, Tây Sơn, An Nhơn, Phù Cát, từ năm 1965 đến năm 1968 đội lính Việt Nam

cộng hòa và lính Nam Triều Tiên bằng nhiều chiêu thức và thủ đoạn kẹp dân đã

gây ra những khó khăn nhất định cho phong trào du kích ở đây. Tuy nhiên, sự tàn

ác của kẻ thù không ngăn cản được tinh thần đấu tranh của quần chúng. Hàng loạt

quần chúng các huyện phía Nam kiên trung đi theo Đảng, đứng vào hàng ngũ của

Đảng, trở thành lực lượng nòng cốt phát động quần chúng đứng lên đấu tranh

chống Mỹ, Việt Nam cộng hòa.

Cuộc chiến giành giật giữa ra đi và ở lại ngôi nhà, mảnh vườn, nơi chôn nhau

cắt rốn của mình trở thành hiện trạng chung ở khắp các vùng đồng bằng của Bình

Định trong những năm tháng trực tiếp đương đầu với quân chiến đấu Mỹ. Do đó

các ấp chiến lược (kể cả ấp chiến lược kiểu mẫu Mỹ lập nên tại Mỹ Tài (Phù Mỹ)),

các khu dồn dân, kẹp dân dù kẻ thù có cố gắng xây dựng kiên cố đến mấy cũng bị

quần chúng lần lượt phá sạch. Bất chấp súng ống, đại bác, bom đạn, máy bay của

Mỹ nhiều đến đâu, hiện đại tới mức nào, đại đa số nhân dân Bình Định vẫn một

lòng một dạ đi theo Đảng bộ tỉnh chiến đấu tới cùng. Từ năm 1965 trở đi vùng

đồng bằng Bình Định có hiện trạng tồn tại đan xen giữa vùng giải phóng với vùng

tạm chiếm, vùng tranh chấp và vùng lỏng kẹp. Ở hầu hết các huyện đồng bằng đều

có thôn, xã được giải phóng trước ngày 31 tháng 3 năm 1975. Vùng giải phóng trở

109

thành căn cứ địa, là hậu phương trực tiếp, là bàn đạp cho phong trào chiến tranh du

kích phát triển. Một số căn cứ phía trước của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ như

căn cứ Núi Bà (Phù Cát), nam Vân Canh, đông Phù Mỹ, tây bắc Hoài Nhơn là nơi

các cơ quan tiền phương của tỉnh đứng chân chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích

trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Thành thị là nơi đóng giữ cơ quan đầu não của địch. Chúng tổ chức chốt giữ

và phòng thủ chặt chẽ ở thị xã Quy Nhơn và hầu hết các thị trấn, quận lỵ gây khó

khăn cho hoạt động chiến tranh du kích. Trước năm 1968 sự luồn nách hoạt động

của các cán bộ đảng viên ở khu vực này chủ yếu nhằm xây dựng niềm tin trong dân

chúng, vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chính trị. Sau cuộc tấn công nổi

dậy Xuân 1968 trở đi ở thị xã Quy Nhơn và hầu hết các thị trấn, quận lỵ đều có một

lực lượng đáng kể du kích mật và biệt động hoạt động. Đây là lực lượng chính hô

hào, phát động và hỗ trợ quần chúng thành thị đứng lên đấu tranh, làm cầu nối quan

trọng đưa phong trào du kích phát triển ở cả trong và ngoài thị xã, quận lỵ. Nếu

trước năm 1968 quân Mỹ, quân Việt Nam cộng hòa được sống những giờ phút yên

bình ở khu vực thành thị thì những năm tháng về sau kể từ sự kiện Mậu Thân 1968,

chúng phải thấp thỏm lo âu ngay giữ sào huyệt của mình, mặc dù có thể cả binh và

lực dồn về đây mạnh hơn thời gian trước đó. Hàng loạt các kho tàng, bến bãi lớn

mang tính kiên cố lần lượt bị các lực lượng vũ trang của tỉnh tấn công đánh sập.

Hàng loạt tên ác ôn bị giết ngay trên đường phố hoặc tại nơi ở. Quần chúng thành

thị được sự hướng dẫn, hỗ trợ của các cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trung kiên sôi nổi

tham gia đấu tranh chính trị khi có điều kiện.

Nhìn chung sự phát triển mạnh mẽ phong trào chiến tranh du kích ở cả 3 vùng

chiến lược với thế trận chiến tranh nhân dân đẩy kẻ thù vào tình trạng hoang mang

giữa phe đối lập, dần yếu thế, bị động, co cụm và cuối cùng bị tiêu diệt.

Thứ tư: Đảng bộ tỉnh và các cấp ủy địa phương lãnh đạo, chỉ đạo phong

trào chiến tranh du kích một cách linh hoạt, sáng tạo.

110

Bản thân chiến tranh du kích đã mang tính linh hoạt, sáng tạo. Tuy nhiên

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và các cấp ủy địa phương sự sáng tạo này được thể

hiện rõ qua từng kế hoạch, từng chiến dịch, từng địa bàn chiến đấu và qua từng

năm đấu tranh. Ở Bình Định, chiến tranh du kích được tiến hành bởi ba lực lượng

vũ trang là bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du kích. Mỗi lực lượng này có

những nhiệm vụ đặc thù riêng nhằm hướng tới thực hiện nhiệm vụ cách mạng

chung của tỉnh. Theo đó:

Dân quân du kích tổ chức đánh nhỏ lẻ như: phục kích, tập kích, cải trang,

đánh bằng mưu mẹo, bắn tỉa, đánh phá giao thông, bến bãi, kho tàng v.v, với những

phương tiện chiến tranh phong phú, từ những vũ khí thô sơ, tự tạo như gậy gộc,

mang cung, tên tẩm thuốc độc, hố chông v.v đến những loại vũ khí hiện đại hơn

như súng ngắn, súng trường, lựu đạn, thuốc nổ v.v, du kích có thể đánh liên tục cả

ngày lẫn đêm, bất biến trong mọi loại hình thời tiết. Đối tượng chính mà dân quân

du kích hướng đến tiêu diệt là bọn ngụy quân, ngụy quyền, đầu sỏ ác ôn ở thôn xã,

bọn lính Mỹ và đội quân Nam Triều Tiên cũng là những đối tượng rất kinh sợ dân

quân du kích Bình Định. Từ tổ chức đánh nhỏ lẻ để diệt một lực lượng nhỏ địch, du

kích có thể đánh để tiêu diệt từng tiểu đội, đại đội, trung đội địch. Bên cạnh nhiệm

vụ diệt địch, du kích còn hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, đấu tranh

chính trị, binh vận.

Bộ đội huyện, tỉnh: tổ chức chiến đấu ở quy mô khác nhau theo nhiệm vụ

chính trị của từng chiến dịch, từng thời kỳ. Được tổ chức và trang bị, huấn luyện

bài bản, bộ đội tỉnh huyện có thể tác chiến tiêu diệt những đơn vị địch như tiểu đội,

trung đội, đại đội đến tiểu đoàn địch. Với phương thức tác chiến là quần bám chiến

trường bằng những chiến thuật tập kích, phục kích, vận động tiến công kết hợp

chốt, bao vây đánh lấn, có thể đánh địch ở trong hay ngoài công sự.

Trên cơ sở những đặc trưng riêng của từng lực lượng vũ trang, tùy theo

nhiệm vụ chính trị đề ra trong mỗi chiến dịch, mỗi năm, mỗi thời kỳ, tùy theo địa

111

bàn tác chiến mà Đảng bộ và các cấp ủy địa phương của tỉnh có phương án, kế

hoạch tiến hành chiến tranh cho phù hợp. Để tiêu hao, tiêu diệt những đơn vị nhỏ

địch, phá cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh của chúng thì các lực lượng vũ

trang được chỉ đạo tổ chức độc lập tác chiến bằng nhiều chiến thuật khác nhau tùy

theo tình hình cụ thể. Còn trong những chiến dịch tổng hợp như chiến dịch Xuân

1968, chiến dịch Xuân Hè 1972, chiến dịch Hè Thu 1974, đỉnh cao là chiến dịch

Xuân 1975, các lực lượng vũ trang địa phương ngoài tổ chức độc lập tác chiến trên

một vài hướng nhất định nhằm căng kéo địch ra cho bộ đội chủ lực dễ dàng hoạt

động (như trong Xuân 1968, Xuân Hè 1972), nhằm tiêu diệt địch giải phóng thôn

xã (Xuân Hè 1972, Hè Thu 1974, Xuân 1975), lực lượng vũ trang địa phương còn

tổ chức phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực để thực hiện nhiệm vụ chung của

Quân khu.

Sự sáng tạo của phong trào chiến tranh du kích Bình Định còn thể hiện trong

việc thực hiện nhiệm vụ của phong trào này ở mỗi địa bàn cụ thể.

Ở vùng giải phóng: các lực lượng vũ trang của tỉnh nòng cốt là lực lượng dân

quân du kích có nhiệm vụ giúp dân xây dựng làng chiến đấu, bố phòng làng mạc, tổ

chức tuần tra canh gác, thám thính tình hình địch, bảo vệ dân, bảo vệ vùng giải

phóng. Xây dựng các đơn vị du kích tập trung, các đội du kích hợp pháp. Phát triển

lực lượng cho phong trào chiến tranh du kích.

Ở vùng tranh chấp và vùng lỏng kẹp: Lập ra các đội du kích mật hoạt động

hợp pháp ở bên trong kết hợp với các đội vũ trang tuyên truyền hoạt động bất hợp

pháp ở bên ngoài để hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, đẩy mạnh đấu

tranh chính trị và binh vận, làm tan rã từng bộ phận ngụy quân, ngụy quyền tiến tới

giành chính quyền về tay nhân dân.

Ở vùng địch kiểm soát: Đảng bộ và các cấp ủy địa phương chỉ đạo xây dựng

vùng lõm (vùng lõm là địa bàn nằm sâu trong vùng địch kiểm soát nhưng ta nắm

được dân). Căn cứ lõm là nơi ta đứng chân chỉ đạo phong trào ở vùng địch kiểm

112

soát (kể cả trong thị xã). Đây đồng thời là bàn đạp cho ta đưa lực lượng vào hậu

phương địch. Phước Hậu (nay là khu vực phường Nhơn Bình và phường Nhơn Phú

nằm dọc theo quốc lộ 19, thuộc thành phố Quy Nhơn) là cửa ngõ án ngữ vào thị xã

Quy Nhơn từ phía Bắc, Tây Bắc. Nơi đây là vùng lõm của cách mạng trong suốt

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Như vậy, nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, phong trào chiến tranh du

kích được phát triển mạnh mẽ trên khắp các vùng chiến lược, khắp các địa bàn trong

tỉnh, là mối đe dọa quyết định trực tiếp sự tồn vong của bọn Mỹ và bọn Việt Nam

cộng hòa ở đây.

3.1.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, trong quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 Đảng bộ tỉnh

còn một số hạn chế sau:

Một là:Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích chưa thật đồng đều, liên tục

trên toàn địa bàn, có biểu hiện thiếu nhạy bén với tình hình.

Nhìn một cách tổng thể, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước Bình Định

được xem là một trong những tỉnh có phong trào chiến tranh du kích mạnh ở Quân

khu 5. Từ năm 1965 đến năm 1975 song song với tính chất ác liệt của cuộc chiến,

phong trào này cũng được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên sự phát triển của phong trào

này có sự khác biệt giữa các huyện, giữa các xã trong huyện và giữa các năm. Ở

các huyện phía Bắc tỉnh bao gồm huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, phong trào

chiến tranh du kích diễn ra mạnh mẽ ngay từ những năm 1959, 1960 cho đến khi

kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ. Còn các huyện phía Nam tỉnh bao gồm Vân

Canh, Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê, Phù Cát phong trào chiến tranh du kích

cũng sớm được quan tâm phát triển nhưng cho đến trước năm 1971, với chính sách

“bình định” đặt dưới sự quản lý của lính Nam Triều Tiên, quân đội Việt Nam cộng

hòa thì phong trào ở các huyện này trầm lắng. Sau năm 1971, lính Mỹ và lính Nam

113

Triều Tiên dần rút khỏi Bình Định, thế cách mạng mạnh hơn, phong trào chiến

tranh du kích cũng được châm ngòi phát triển ở khu vực này. Còn các huyện miền

núi như Vân Canh, An Lão, Vĩnh Thạnh từ năm 1965 chiến tranh du kích nổi lên

chủ yếu với hoạt động chống càn. Ở An Lão và Vĩnh Thạnh địch càn quét mạnh

nên hai huyện này phong trào chống càn, xây dựng thôn xã chiến đấu cũng diễn ra

mạnh. Còn huyện Vân Canh phong trào du kích diễn ra nhỏ lẻ, rời rạc.

Sự phát triển không đều của phong trào chiến tranh du kích còn thể hiện

ngay trong nội bộ các huyện. Ví như, trước năm 1968 ở thị xã Quy Nhơn, các thị

trấn, quận lỵ trong huyện (trừ An Lão và Vĩnh Thạnh) phong trào du kích khó có

điều kiện phát triển. Ở đây tồn tại một lực lượng rất nhỏ du kích của ta, chủ yếu là

du kích mật, hoạt động hợp pháp. Sau cuộc tấn công nổi dậy tết Mậu Thân 1968

chúng ta đã dần xây dựng được cơ sở bên trong những khu vực thành thị này. Cũng

từ đây phong trào du kích bắt đầu có điều kiện phát triển. Trong mỗi huyện, những

thôn xã được giải phóng sớm phong trào du kích mạnh hơn những thôn xã còn bị

tranh chấp, còn bị địch chiếm.

Vào năm 1966 khi địch phát hiện ra căn cứ Núi Bà (Phù Cát), chúng tập

trung lực lượng phong tỏa, bao vây, triệt phá, tàn sát ở khu vực này thì Đảng bộ đã

không nhanh chóng đưa ra được giải pháp sơ tán lực lượng vũ trang và nhân dân ra

khỏi đây mà chuyển vào thế co cụm. Đảng bộ cũng không chủ trương tổ chức đánh

địch ở vòng ngoài để kéo địch đánh ra mở đường sống cho lực lượng ta ở Núi Bà.

Vì vậy cách mạng bị tổn thất nặng nề ở Núi Bà mà theo đánh giá: đây là cuộc tàn

sát lớn nhất của kẻ thù đối với đồng bào Bình Định. Lực lượng cách mạng và nhân

dân các huyện phía Đông Nam tỉnh chịu một tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử

chiến tranh nhân dân 30 năm. [45; tr145] Sau tết Mậu Thân, Đảng bộ tỉnh chậm đưa

ra phương án bảo vệ lực lượng vũ trang, chưa kịp thời chuyển trọng tâm đấu tranh về

nông thôn, miền núi. Bởi vậy, từ cuối năm 1968 khi địch tổ chức hành quân càn quét

trên diện rộng một cách ác liệt thì lực lượng cách mạng Bình Định bị tổn thất nặng

114

nề. Sau cuộc tấn công nổi dậy tết Mậu Thân 1968, trung bình mỗi đại đội tỉnh,

huyện chỉ còn khoảng 15 chiến sĩ. Chưa linh hoạt của Đảng bộ còn thể hiện ở chiến

dịch Xuân Hè năm 1972. Hậu quả là chúng ta để địch chiếm lại Bồng Sơn, Tam

Quan, đánh chiếm Hoài Ân ngay sau khi Sư đoàn 3 được điều ra Quảng Ngãi.

Hai là: Còn có tư tưởng chủ quan, đánh giá phiếm diện về âm mưu, thủ đoạn

của kẻ thù.

Đánh giá đúng kẻ thù về cả lực lượng, bản chất và âm mưu thủ đoạn của

chúng là một trong những cơ sở quan trọng đầu tiên quyết định việc đánh bại kẻ

thù. Ông cha ta thường nói “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Vì vậy tìm hiểu

chính xác về số lượng quân Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa có mặt ở Bình Định,

âm mưu và kế hoạch của chúng trong quá trình lấn đất giành dân có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng đối với Đảng bộ tỉnh. Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (từ năm 1954 đến năm 1964), kẻ thù trực tiếp mà quân dân

tỉnh Bình Định đối diện là bọn quân lực Việt Nam cộng hòa, tức là bộ phận người

Việt Nam bán nước theo Mỹ. Đối tượng này lúc đầu cũng gây choáng váng cho lực

lượng cách mạng tỉnh Bình Định bởi những hành động tàn ác mà chúng gây ra ở

đây. Tuy nhiên xét cho cùng thì lực lượng phản động trong nước bao giờ cũng dễ

đối phó hơn kẻ thù bên ngoài. Bởi lẽ, số lượng của chúng cách mạng có thể kiểm

soát được, bản chất của chúng cách mạng có thể nắm rõ được. Do đó, âm mưu và

sức mạnh của chúng cách mạng sẽ giải quyết được. Từ cuối năm 1964 đầu năm

1965 quân đội Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam

(cao điểm là giai đoạn cuối năm 1966 đầu năm 1967 có khoảng 1,2 triệu quân thiện

chiến nước ngoài có mặt ở miền Nam Việt Nam. Riêng Mỹ có khoảng 60 vạn

quân). Ở Bình Định, cuối năm 1966 đầu năm 1967 có tới 60.000 quân đội nước

ngoài). Đứng trước đội quân xâm lược hùng hậu hoàn toàn mới này Đảng bộ tỉnh

Bình Định gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc đưa ra chủ trương, chính sách đối

phó với chúng. Khi mới bước vào “chiến tranh cục bộ” do không lường hết âm

115

mưu của kẻ thù, lúng túng giữa chuẩn bị khởi nghĩa ở thị xã với chống càn quét lấn

chiếm của địch mà Đảng bộ không chuẩn bị phương châm, phương thức đối phó

kịp thời hậu quả là lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng. Sau cuộc đọ đầu quy mô

lớn đầu tiên với địch ở mùa khô 1965 – 1966 giành thắng lợi, đại đa số cán bộ đảng

viên của Đảng bộ chủ quan khinh địch, đánh giá sai sức mạnh địch, lơi lỏng trong

việc thực hiện 4 bám (trên bám dưới, chi bộ bám dân, quần chúng bám đất, du kích

bám địch). Vì vậy khi địch đẩy mạnh kế hoạch “bình định”, “tìm diệt” với những âm

mưu, thủ đoạn tàn bạo làm cho cách mạng tỉnh tổn thất nặng nề. Ở phía Bắc tỉnh,

hàng trăm thôn xóm trù phú ở bắc Phù Mỹ, đông Hoài Nhơn, tây bắc Hoài Ân trở

thành vùng trắng. Ở phía Nam tỉnh, nhiều nơi huyện ủy, xã ủy, lực lượng vũ trang bị

đánh bật khỏi dân. Vùng giải phóng của Bình Định bị thu hẹp, gần 35 vạn dân đồng

bằng rơi vào vùng địch kiểm soát.

Sự chủ quan của Đảng bộ tỉnh còn thể hiện rõ sau cuộc tấn công nổi dậy tết

Mậu Thân 1968. Do đánh giá không đúng tình hình, Đảng bộ tỉnh kiên quyết khẳng

định cách mạng tỉnh đã giành được thắng lợi quyết định trong tết Mậu Thân 1968.

Vì vậy chủ quan trong đề ra kế hoạch công kích địch giai đoạn tiếp theo, kiên trì

bám trụ thị trấn, thị xã trong khi địch đang dồn sức phản kích. Kết quả là cách

mạng Bình Định bị mất một bộ phận lớn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ưu tú và quần

chúng cốt cán. Có 1.838 cán bộ đảng viên chiến sĩ hy sinh trong cuộc tấn công nổi

dậy tết Mậu Thân 1968 ở Bình Định. Riêng đảng viên hy sinh 744 đồng chí. Đây là

năm có số đảng viên hy sinh nhiều nhất tính từ năm 1961 đến năm 1968. Trong

cuộc tiến công chiến lược năm 1972, sau chiến dịch tổng hợp Xuân – Hè, một vùng

lớn ở phía Bắc và phía Nam tỉnh Bình Định được giải phóng. Bốn huyện bao gồm

An Lão, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, Hoài Nhơn, 10 xã phía Bắc huyện Phù Mỹ, 18 xã

thuộc 4 huyện phía Nam hoàn toàn được giải phóng. “Bình Định là tỉnh giành dân

đông nhất trên toàn miền Nam trong cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè

1972”.[11; tr225] Đứng trước những thắng lợi to lớn giành được trong chiến dịch

116

Xuân – Hè năm 1972, Đảng bộ tỉnh Bình Định chủ quan khinh địch, chậm đưa ra

phương án bảo vệ vùng giải phóng. Vì vậy, khi Sư đoàn 3 chuyển sang tỉnh Quảng

Ngãi hoạt động thì Mỹ, Việt Nam cộng hòa nhanh chóng tập hợp lực lượng tấn

công lấn chiếm vùng giải phóng ở Bình Định. Hàng loạt các vị trí then chốt của

tỉnh từ Bồng Sơn đến Tam Quan, Đệ Đức đều bị địch đánh chiếm. Một nửa số dân

vùng giải phóng và làm chủ trong chiến dịch Xuân – Hè năm 1972 ở các huyện

phía Nam tỉnh bị dồn lại vào các khu dồn.v.v.

Ba là: Một bộ phận cán bộ, đảng viên hoạt động cầm chừng, có biểu hiện

ngại khó, ngại khổ.

Tình trạng sợ giặc của quần chúng nhân dân và cả đội ngũ cán bộ, đảng viên,

chiến sĩ ở tỉnh thể hiện rõ trong những ngày đầu quân đội Mỹ và đồng minh đến

Bình Định. Khi đối diện với đội quân xâm lược nhà nghề mạnh hơn cách mạng về

mọi mặt (trừ tinh thần) thì phản ứng đầu tiên của nhiều cán bộ đảng viên là sợ giặc.

Tâm lý này còn diễn ra trong quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình

Định mỗi khi địch tăng cường lực lượng, phương tiện chiến tranh, mức độ đánh

phá hoặc khi cách mạng bị thất bại, bị tổn thất nặng nề. Từ sợ giặc, sợ chết dẫn đến

hiện trạng là có nhiều cán bộ đảng viên không dám đương đầu với địch, không thực

hiện triệt để nhiệm vụ mà các cấp ủy Đảng phân công, thậm chí có cán bộ đảng

viên chạy về phía địch, đầu hàng địch. Sự giảm sút tinh thần, ý chí chiến đấu của

bộ phận cán bộ đảng viên phản bội này ít nhiều ảnh hưởng không tốt tới phong trào

cách mạng trong tỉnh. Nó không chỉ làm giảm sút uy tín của các cấp ủy Đảng Bình

Định trước quần chúng nhân dân mà còn gây ra những tổn thất nhất định cho phong

trào cách mạng tỉnh.

Bên cạnh tình trạng sợ giặc, trong Đảng bộ tỉnh Bình Định còn tồn tại một bộ

phận cán bộ, đảng viên ảo tưởng vào kẻ thù. Nguyên nhân của hiện trạng này xuất

phát từ sự thiếu hiểu biết về âm mưu, bản chất kẻ thù. Thực tế cho thấy, trong quá

trình xâm lược miền Nam Việt Nam nói chung, xâm lược Bình Định nói riêng, bọn

117

Mỹ và đồng minh đã sử dụng không ít những chiêu thức lừa bịp cán bộ và nhân dân

ta. Tại Bình Định, lính Mỹ và lính Nam Triều Tiên mặc áo bà ba, đi dép cao su ra

đồng giải giúp dân để thực hiện cái mà bọn chúng gọi là “3 cùng”. Hành động này

của địch đã làm cho một số cán bộ, đảng viên, đặc biệt là quần chúng nhân dân lầm

tưởng về thái độ gần dân của địch. Ngay sau khi hiệp định Pari được ký kết, tư

tưởng hòa bình, tin vào việc kẻ thù sẽ thực hiện hòa bình ở Bình Định nói riêng ở

miền Nam nói chung xuất hiện trong một bộ phận không nhỏ đảng viên và chiến sĩ

ở Bình Định. Hậu quả của hiện trạng này là trong đội ngũ cán bộ, bộ đội xuất hiện

tâm lý muốn nghỉ ngơi, lơi lỏng tay súng, ý thức cảnh giác kém trong khi kẻ thù

vẫn tìm mọi cách hòng phá hoại hiệp định Pari, xóa thế da báo, khôi phục vùng lấn

chiếm của chúng như hiện trạng trước năm 1972.

Tóm lại, những sai lầm hạn chế mà Đảng bộ tỉnh Bình Định mắc phải trong

quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích chống lại đế quốc Mỹ và tay sai

mang tính tất yếu. Vì trong cuộc đụng đầu lần đầu tiên với kẻ thù mạnh hơn mình,

những sai lầm trong đánh địch không thể không có. Điều quan trọng là từ những sai

lầm này, Đảng bộ tỉnh đã sớm nhận ra và nhanh chóng khắc phục, đúc rút kinh

nghiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo quần chúng đấu tranh ở giai đoạn tiếp theo để tiếp

tục đem lại những thành công trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và

xây dựng Tổ quốc.

3.2. KINH NGHIỆM

Qua quá trình lãnh đạo quân dân trong tỉnh tiến hành chiến tranh du kích

chống lại chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh đã

để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các cấp ủy Đảng ở Bình Định.

Một là: Kiên định đường lối của Đảng, giữ vững lập trường giai cấp để tiến

lên theo con đường cách mạng bạo lực.

Ngay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung ương Đảng

đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giải phóng miền Nam, bảo vệ

118

miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, tiến tới

hòa bình thống nhất nước nhà. Tại Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 11 (3/1965)

và Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 12 (12/1965) trong bối cảnh Mỹ ồ ạt đưa

quân đội Mỹ và quân đồng minh vào miền Nam, Trung ương Đảng tiếp tục nhấn

mạnh lại mục tiêu của cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng định một cách sắt đá

rằng: Dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết

chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.[95; tr131]

Chủ trương của Đảng đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc, phù hợp với

nguyện vọng của đại đa số nhân dân Việt Nam. Đối với đồng bào chiến sĩ ở Bình

Định, đi theo ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh là con đường duy nhất để cứu dân, giải phóng tỉnh nhà. Do đó, từ năm 1959

theo tinh thần Nghị quyết 15 (1/1959) của Trung ương Đảng, Đảng bộ Bình Định

nhanh chóng triển khai xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân đánh Mỹ và tay sai.

Từng bước xây dựng, củng cố bộ máy lãnh đạo của Đảng bộ và các cấp ủy địa

phương; Xây dựng hoàn thiện bộ máy chỉ huy quân sự các cấp; Đẩy mạnh xây dựng

lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang 3 thứ quân (bao gồm bộ đội tỉnh, bộ đội

huyện và dân quân tự vệ); Giữ vững, mở rộng hậu phương kháng chiến sẵn sàng bước

vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau phong trào đồng khởi năm 1960,

những cơ sở đầu tiên để tiến hành cách mạng bạo lực chống lại thế lực phản cách

mạng Mỹ và tay sai đã bước đầu được hình thành ở Bình Định.

Vào thời điểm năm 1965 khi Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”,

ở Bình Định tâm lý sợ Mỹ, sợ chết, thỏa hiệp xuất hiện trong một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, đứng vững trên lập trường giai cấp

công nhân để có cái nhìn khoa học biện chứng, Đảng bộ tỉnh từng bước phân tích

chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của kẻ thù, âm mưu và thủ đoạn của chúng trên địa bàn

tỉnh, từ đó chỉ rõ: lực lượng vũ trang địa phương phải đánh cả Mỹ, Việt Nam cộng

hòa và chư hầu. Phát huy mạnh mẽ phong trào “tìm Mỹ mà đánh tìm ngụy mà

119

diệt”. Đối với thanh niên, lực lượng xung kích đi đầu trong diệt Mỹ, Đảng bộ tỉnh

phát động phong trào “thanh niên xông lên hàng đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ”, thực

hiện khẩu hiệu của Quân ủy khu 5 “bám thắt lưng địch mà đánh”. Đối với cán bộ,

đảng viên, Tỉnh ủy Bình Định mở các đợt hoạt động chính trị giáo dục 4 quan điểm

cách mạng (cách mạng không ngừng, cách mạng bạo lực, đấu tranh lâu dài, cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng). Đối với quần chúng nhân dân, phát động

phong trào đọc thư Đảng, thư Mặt trận. Chủ trương đấu tranh không khoan nhượng

với kẻ thù, không ảo tưởng vào kẻ thù là một trong những nội dung cơ bản được

giáo dục thường xuyên trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân ở Bình Định.

Thực tế cho thấy, 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định, đặc

biệt trong 10 năm (từ năm 1965 đến năm 1975) cách mạng Bình Định gặp phải

không ít khó khăn nhất là trong những năm có ý nghĩa quyết định đến chiều hướng

phát triển của cách mạng như năm 1965 – 1966, 1966 – 1967, 1968, 1972, 1975.

Trong bối cảnh ấy việc lựa chọn hướng đi của cách mạng thể hiện rõ quan điểm lập

trường của Đảng bộ tỉnh Bình Định. Từ những thành công cũng như từ những thất

bại của phong trào cách mạng Bình Định đã chứng minh rằng, đường lối, chủ

trương, chính sách của Trung ương Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có

ảnh hưởng to lớn đến chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Bình Định, quyết

định đến chiều hướng phát triển của cách mạng tỉnh.

Hai là: Tin tưởng dân, dựa vào dân, sớm xây dựng thế trận chiến tranh

nhân dân.

Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng

nhân dân, quần chúng nhân dân là lực lượng làm nên lịch sử. Hồ Chí Minh cũng

chỉ rõ: việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác

một phần trách nhiệm. Và chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân

đánh giặc là biểu hiện sinh động chủ trương lấy dân làm gốc của Đảng ta. Vận

dụng chủ trương của Trung ương Đảng vào tình hình thực tế tỉnh Bình Định, từ khi

120

mới thành lập, Đảng bộ tỉnh Bình Định luôn quán triệt quan điểm “vì dân”. Trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước “giành và giữ dân” được Đảng bộ tỉnh Bình Định

coi là chiếc chìa khóa quyết định sự thành bại của cách mạng tỉnh. Vì vậy, giải

phóng dân trở thành mục tiêu hàng đầu mà trong suốt 21 năm kháng chiến chống

Mỹ Đảng bộ tỉnh hướng đến thực hiện. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là ai có thể đảm

đương nhiệm vụ giải phóng dân, giành quyền làm chủ cho dân? Theo các nhà kinh

điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhân dân làm nên lịch sử, chỉ có nhân dân dưới sự

lãnh đạo của giai cấp công nhân mới có thể giải phóng được chính mình. Do đó, sự

nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bình Định có thành công hay không

phụ thuộc vào khả năng cách mạng của nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ tỉnh. Để phát huy vai trò, sức mạnh của dân trong sự nghiệp kháng chiến

chống Mỹ cứu nước, ngay từ rất sớm Đảng bộ tỉnh Bình Định đã quan tâm phát

triển đội ngũ cán bộ đảng viên gương mẫu, có đức, có tài, sẵn sàng chiến đấu hy

sinh bản thân mình vì lợi ích của nhân dân trong tỉnh làm lực lượng đi đầu nhằm

huy động sức dân. Mặc dù cuộc kháng chiến diễn ra ngày càng khó khăn, ác liệt

song đội ngũ đảng viên – những người đi tiên phong trong cuộc kháng chiến gian

khổ này không ngừng tăng lên. Vào thời điểm năm 1960, toàn Đảng bộ có 200

đảng viên, trong đó có 150 đảng viên ở các huyện miền núi và căn cứ, hơn 30 đảng

viên ở đồng bằng. Đến tháng 11 năm 1973 theo số liệu thống kê của Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 9, toàn Đảng bộ có 6.419 đảng viên. Phần lớn các đảng

viên này được phân công hoạt động trong phong trào quần chúng, lắng nghe tâm tư

nguyện vọng của quần chúng, phát động quần chúng đấu tranh giải phóng chính

mình. Thông qua những tấm gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của đội ngũ

cán bộ, đảng viên, chiến sĩ của Đảng bộ mà Đảng bộ tỉnh Bình Định đã tập hợp

được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trên cả ba vùng chiến lược vào trận

tuyến đánh địch bằng “3 mũi giáp công”, đẩy chiến tranh nhân dân trong tỉnh lên

đến đỉnh cao. Quần chúng nhân dân nô nức tham gia kháng chiến bằng nhiều hình

121

thức như cho chồng, con, em tham gia các lực lượng vũ trang, đóng góp tiền bạc,

thóc gạo cho cách mạng, che dấu cán bộ, chiến sĩ, trực tiếp chiến đấu bảo vệ quê

hương. Đây là nguyên do lý giải vì sao hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, ở Bình Định thế hệ này ngã xuống thế hệ sau tiếp bước đứng lên. Lực lượng

vũ trang 3 thứ quân của tỉnh thường xuyên được bổ sung trở thành lực lượng chính

chiến đấu bảo vệ tỉnh nhà. Dù kẻ thù dùng biện pháp hiểm độc để triệt hại sức

người sức của đến đâu chăng nữa thì đội ngũ cán bộ đảng viên ở Bình Định vẫn

được dân che chở, nuôi dấu. Theo số liệu thống kê, từ năm 1961 đến năm 1975 ở

Bình Định có hơn 50.000 thanh niên thoát ly và tòng quân. Trong kháng chiến

chống Mỹ cứu nước ở tỉnh, xuất hiện nhiều quần chúng kiên trung, bất chấp mọi

gian khổ, sẵn sàng đóng góp công sức, tài sản, hy sinh bản thân, hy sinh người thân

vì lợi ích tối cao của cách mạng. Từ những tấm gương nhỏ tuổi như em Cường 16

tuổi ở Cát Hanh (Phù Cát), một mình giết chết 16 lính Nam Triều Tiên khi chúng

hành quân vào Cát Hanh. Khi súng hết đạn em đặt lựu đạn ở lưng giả chết lừa địch

lại gần để giết thêm một số tên khác. Em Phạm Thị Đào ở xã Hoài Thanh, bị địch

bắt sau khi em dùng súng ngắn diệt tên đầu sỏ ác ôn Huân. Mặc dù địch dùng nhiều

thủ đoạn để mua chuộc, dụ dỗ, tra trấn dã man nhưng em không khai báo, trước khi

chết em còn hô vang “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai

bán nước”. Má Ngung cầm cờ đi đầu xông thẳng vào quân địch, cầm nòng súng

địch đẩy lên cao để đạn khỏi trúng đồng bào. Một cụ già ở Hoài Thanh bị địch bắn

trước khi chết còn hô lên “tất cả hãy xông lên đòi nợ máu”. Xơ nữ y tá ở khu căn

cứ Núi Bà một mình đánh trả hàng chục tên lính Nam Triều Tiên. Y tá Trần Thị Kỷ

bị địch dùng mọi cực hình tra tấn, thậm chí dùng xăng thiêu sống nhưng quyết

không khai báo để cứu sống 20 du kích, thương binh và lãnh đạo huyện An Nhơn.

Trong mùa khô 1965 – 1966 hàng trăm thương binh được nhân dân Hoài Nhơn che

chở cứu chữa. Điển hình là tấm gương chị Hai Nhân, chị vắt kiệt hai bầu sữa của

mình ra mảnh sọ dừa rồi đổ cho một chiến sĩ đang kiệt sức vì mất máu và đói khát.

122

Quần chúng Quy Thuận đặt thương binh vào chum đổ khoai lên khiêng qua trạm

kiểm soát của địch về trạm phẫu thuật an toàn. Nhân dân Hoài Thanh, Hoài Hảo,

Hoài Châu, Tam Quan Nam ngày đêm bám trụ dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù

trong mùa khô 1965 – 1966 để cất dấu, nuôi dưỡng hàng trăm cán bộ, thương binh .

Trong mùa khô 1966 – 1967 nhiều xã như Ân Tín (Hoài Ân), Hoài Châu, Hoài Hảo

(Hoài Nhơn), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), Cát Hanh (Phù Cát) v.v, địch dội xuống hàng

trăm tấn bom đạn, nhưng đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh “một tấc không đi,

một ly không rời”.v.v.

Thực tế cho thấy, để có những thắng lợi vang dội trong sự nghiệp kháng

chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định, để các tầng lớp nhân dân trong tỉnh kiên

trung đi theo Đảng, theo cách mạng đến cùng thì điều kiện tiên quyết là mọi chủ

trương chính sách của Đảng bộ tỉnh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả

năng thực tế của nhân dân, phải được nhân dân đồng tình và hăng hái ủng hộ.

Ba là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng

viên và nhân dân.

Giáo dục chủ trương chính sách của Đảng, lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng giúp cho cán bộ, đảng viên

nhận thức rõ mục tiêu của cách mạng, phương hướng, nhiệm vụ chính trị của từng

giai đoạn. Trên cơ sở đó giúp cán bộ đảng viên tin tưởng hơn vào cách mạng, để họ

sẵn sàng cống hiến tài năng, trí tuệ, thậm chí cả tính mạng cho sự nghiệp kháng

chiến chống Mỹ cứu nước. Trong 10 năm từ năm 1965 đến năm 1975 công tác giáo

dục chính trị tư tưởng được Đảng bộ tỉnh Bình Định đặc biệt quan tâm. Các lớp bồi

dưỡng chính trị tư tưởng được mở ra ở hầu khắp các cấp ủy Đảng trong tỉnh. Ở cấp

tỉnh, các lớp bồi dưỡng chính trị tư tưởng do tỉnh ủy tổ chức. Ở cấp huyện, các lớp

bồi dưỡng chính trị tư tưởng do huyện ủy tổ chức. Ở cấp xã, các lớp bồi dưỡng

chính trị tư tưởng do cấp ủy xã tổ chức. Tùy theo hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể của

các giai đoạn cách mạng mà nội dung các lớp bồi dưỡng có khác nhau. Tuy nhiên,

123

mục tiêu chung mà các lớp bồi dưỡng chính trị tư tưởng này hướng tới là xây dựng

niềm tin tuyệt đối của cán bộ, đảng viên vào đường lối chủ trương, sự lãnh đạo của

Trung ương Đảng, Khu ủy khu 5 và Đảng bộ tỉnh Bình Định. Đồng thời sớm phát

hiện những tư tưởng lệch lạc trong cán bộ, đảng viên để kịp thời chấn chỉnh. Đối

với lực lượng vũ trang 3 thứ quân trong tỉnh, các lớp bồi dưỡng trình độ chuyên

môn được Tỉnh đội, Huyện đội hay Xã đội thường xuyên và liên tục tổ chức. Trong

các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các lực lượng vũ trang, bên cạnh việc

huấn luyện cho các chiến sĩ về chiến thuật, cách sử dụng vũ khí, còn một nội dung

quan trọng mà hầu hết khóa huấn luyện nào cũng đề cập tới, đó là nhấn mạnh đến

vai trò quan trọng của chiến tranh du kích, quán triệt nhiệm vụ, chủ trương, đường

lối nhiệm vụ trung tâm từng thời kỳ của Đảng bộ, trên cơ sở đó nâng cao giác ngộ

giai cấp, lập trường, ý chí quyết tâm, xây dựng niềm tin cho các chiến sĩ vào sự

nghiệp cách mạng của quê hương, đất nước.

Trong quá trình kháng chiến, mặc dù luôn phải trực tiếp lãnh đạo các lực

lượng vũ trang và quần chúng nhân dân chống trả lại âm mưu và hành động thâm

độc của kẻ thù. Những ngày sục sôi chiến đấu của quân dân ở Bình Định trong mỗi

năm luôn ở mức cao, năm 1969 có 233 ngày nằm trong chiến dịch, năm 1970 có

248 ngày nằm trong chiến dịch.v.v Song Đảng bộ tỉnh vẫn dành thời gian nhất định

tổ chức Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân

dân giải phóng (tính đến tháng 3 năm 1975 Đảng bộ tỉnh đã tổ chức 11 Đại hội liên

hoan chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng trong

kháng chiến chống Mỹ cứu nước) nhằm đánh giá những thành tựu, hạn chế của các

lực lượng vũ trang, kịp thời vinh danh, khen thưởng những cá nhân tổ chức đạt

thành tích xuất sắc trong chiến đấu, qua đó góp phần động viên, khuyến khích tinh

thần giết giặc lập công của cá nhân, tập thể. Hoạt động thi đua khen thưởng này của

Đảng bộ tỉnh còn có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng niềm tin vào sự thành

công của cách mạng cho cán bộ chiến sĩ trong tỉnh.

124

Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên và chiến sĩ có lập trường tư tưởng chính

trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng bộ là điều kiện tiên quyết lôi kéo quần

chúng đi theo cách mạng. Thực tế cho thấy, nhân dân chỉ có thể hiểu Đảng, tin

Đảng dựa trên sự hiểu biết của họ về những người thực hiện sứ mệnh của Đảng mà

không ai khác chính là cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Nhân dân Bình Định có

truyền thống yêu nước nồng nàn, có tinh thần đấu tranh quật khởi. Tuy nhiên để

phát huy sức mạnh to lớn này của quần chúng thì Đảng bộ tỉnh phải biết tập hợp, tổ

chức quần chúng, giáo dục cho quần chúng thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,

mục tiêu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đảng, nhiệm vụ

chủ trương của Đảng bộ tỉnh trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ đó đưa dần quần

chúng vào trận địa đấu tranh. Đấu tranh từ hình thức thấp lên hình thức cao, từ đấu

tranh chính trị đòi quyền dân sinh dân chủ tiến lên phát động khởi nghĩa vũ trang,

tiến hành 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) để từng bước tập dượt và

tập hợp đông đảo quần chúng đi theo cách mạng. Đi đôi với giáo dục quần chúng,

Đảng bộ tỉnh phải thường xuyên bồi dưỡng sức dân thông qua việc xây dựng mô

hình chính quyền tự quản ở những vùng giải phóng, thực hiện chia ruộng đất, miễn

giảm thuế cho nông dân, tổ chức khắc phục thiên tai, địch họa cho dân v.v.

Bốn là: Gắn liền tác chiến với xây dựng.

Tác chiến để xây dựng, xây dựng để tác chiến là một vòng tuần hoàn tất yếu

của chiến tranh. Khi bước vào cuộc chiến cần thiết phải có những cơ sở nhất định

như đường lối, lực lượng lãnh đạo, lực lượng đấu tranh, lương thực thực phẩm, vũ

khí đạn dược, thuốc men v.v. Những cơ sở này trở thành đối tượng triệt phá tiêu

diệt của đối phương trong quá trình tác chiến. Ta càng cố gắng xây bao nhiêu thì

địch càng tăng cường phá hoại bấy nhiêu và ngược lại. Bởi vậy, tác chiến phải gắn

liền với xây dựng. Thực tế cho thấy, trong quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu

nước ở Bình Định, khi nào Đảng bộ tỉnh chỉ đạo xây dựng mọi mặt phục vụ kháng

chiến song song với tác chiến khi đó cách mạng có thực lực, phục vụ hiệu quả cho

125

tác chiến và tác chiến thành công. Những thắng lợi của cách mạng Bình Định trong

2 mùa khô 1965 – 1966, 1966 – 1967, trong chiến dịch tổng hợp Xuân Hè năm

1972, chiến dịch tổng hợp Xuân 1975 không chỉ là thắng lợi về mặt tác chiến mà

đó còn lại kết quả của sự chuẩn bị công phu mọi mặt công tác phục vụ tác chiến.

Tuy nhiên, có những lúc Đảng bộ tỉnh mắc phải một số sai lầm, chủ quan, không

quan tâm một cách đúng mức tới xây dựng thực lực. Ví như sau cuộc tấn công nổi

dậy tết Mậu Thân năm 1968, Đảng bộ tỉnh không kịp thời đưa ra phương án bảo vệ

lực lượng, bảo vệ tài sản tính mạng của nhân dân. Điều này dẫn đến hiện trạng lực

lượng cách mạng Bình Định bị tổn thất nặng nề, nhiều làng mạc ở các huyện phía

Bắc tỉnh trở thành vùng trắng. Ở Hoài Nhơn nhiều nơi trong phạm vi 10 km không

có vật gì che khuất. Năm 1969 bộ đội Bình Định nhiều ngày phải chiến đấu trong

cảnh đói cơm, lạt muối.v.v. Sự yếu kém về mặt xây dựng đưa đến những hạn chế

trong việc tiêu diệt địch, bảo vệ dân, bảo vệ vùng giải phóng.

Năm là: xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang lớn mạnh tạo

bước đi hiệu quả cho chiến tranh du kích.

Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang được xem là hai chân của kháng

chiến, là hai lực lượng chủ đạo tiến hành kháng chiến.

Lực lượng chính trị bao gồm toàn bộ quần chúng có cảm tình với cách mạng.

Đây là lực lượng có số lượng đông đảo và là lực lượng to lớn tiến hành cuộc kháng

chiến chống Mỹ ở Bình Định. Tính đến cuối năm 1967, Bình Định đã xây dựng

được đội quân chính trị gồm 590 đội với 272.000 người. Là quần chúng nhân dân,

lực lượng chính trị tồn tại ở cả 3 vùng chiến lược, trên tất cả các địa bàn của tỉnh

bao gồm cả ở vùng giải phóng, vùng địch hậu, vùng tranh chấp v.v. Trong kháng

chiến, quần chúng tham gia đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau. Quần chúng

đấu tranh chính trị chống đôn quân bắt lính, chống địch đàn áp, cướp bóc, chống

phá hoại nhà cửa, ruộng vườn, chống dồn dân lập ấp chiến lược v.v. Tùy từng điều

kiện cụ thể mà Đảng bộ huy động quần chúng đấu tranh nhằm thực hiện những

126

nhiệm vụ chính trị nhất định. Trong mỗi phong trào đấu tranh của quần chúng đều

có những đảng viên cốt cán của Đảng bộ ở địa phương tham gia nhằm phát động

quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh đồng thời bảo vệ quần chúng. Phong

trào đấu tranh chính trị diễn ra đều khắp, liên tục trong suốt quá trình kháng chiến

chống Mỹ. Có phong trào huy động hàng chục nghìn người tham gia gây lên tình

hình chính trị rối loạn, bất ổn ở địa phương làm cho địch khó kiểm soát khiến nội

bộ địch bất ổn theo.

Lực lượng chính trị ở Bình Định cũng tham gia đấu tranh binh vận mạnh mẽ

làm tan rã lẻ tẻ từng đơn vị địch, tiến lên phá rã hàng chục đơn vị địch cùng một

lúc, kết hợp vận động binh lính làm nội ứng, binh biến, diệt ác, phá dồn. Tin theo

Đảng bộ, nghe theo Đảng bộ và làm theo Đảng bộ nói, phương châm đánh địch ở

mọi lúc, mọi nơi dường như ăn sâu vào trong tư tưởng mỗi người dân Bình Định

yêu nước. Vì vậy trong kháng chiến chống Mỹ ở Bình Định đấu tranh binh vận

không chỉ là nhiệm vụ của các tổ chức, tập thể mà từng cá nhân cũng có thể làm.

Điển hình cho cá nhân tiêu biểu làm công tác binh vận có thể kể đến tấm gương của

mẹ Đề ở thôn Thiện Đức, xã Hoài Hương, huyện Hoài Nhơn. Vào ngày 2 tháng 5

năm 1972 quân giải phóng đánh vào căn cứ Đệ Đức, khi thấy một số bộ binh địch

cùng 10 xe M.113 tháo chạy về phía Đông. Quân địch hớt hải, tinh thần suy sụp,

má Đề đứng ra dùng lời lẽ khéo léo thuyết phục lôi kéo được cả một trung đội cộng

hòa 36 tên với 31 súng trở về với nhân dân.

Tuy nhiên để phát động quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận có hiệu

quả, Đảng bộ tỉnh đã cho thành lập các binh chủng đặc biệt đó là các đội quân

chính trị thường trực và binh vận chuyên trách, bao gồm những phần tử trung kiên

của các hội đoàn giải phóng. Những tổ nội tuyến, tổ bám chốt, bám đường và các

đội “kéo, cứu lính”. Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận, lực lượng

chính trị ở Bình Định còn hoạt động có hiệu quả trong việc bố phòng, xây dựng

làng chiến đấu, trong nhiều trường hợp lực lượng chính trị được huy động trang bị

127

gậy gộc cùng du kích và bộ đội địa phương bao vây bức rút đồn bốt địch.

Lực lượng vũ trang là nòng cốt trong chiến tranh nhân dân chống chiến tranh

xâm lược của đế quốc Mỹ. Từ năm 1959 Đảng bộ tỉnh Bình Định xúc tiến xây dựng

lực lượng vũ trang 3 thứ quân bao gồm bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du

kích trên cả 3 vùng chiến lược nhằm tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh du

kích chống chiến tranh xâm lược của Mỹ giải phóng tỉnh nhà. Quân từ dân mà ra.

Đảng bộ tỉnh Bình Định sớm xây dựng được niềm tin trong dân, bởi vậy các tầng lớp

nhân dân trong tỉnh hăng hái cho con em gia nhập các lực lượng vũ trang. Trong

kháng chiến chống Mỹ, lực lượng vũ trang của tỉnh lúc cao nhất có 2 trung đoàn,

hàng chục tiểu đoàn, đại đội bộ binh tỉnh, huyện và những đơn vị binh chủng cùng

lực lượng du kích xã thôn, tự vệ mật hàng vạn chiến sĩ với nhiều lứa tuổi khác nhau

như du kích thiếu niên, nữ du kích, lão du kích .v. v, trên cả 3 vùng chiến lược.

Lực lượng vũ trang 3 thứ quân của tỉnh được dân tin, dân yêu, dân đùm bọc,

che chở từ khi mới thành lập, được Đảng bộ tỉnh lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, bởi

vậy lực lượng này không ngừng lớn mạnh và trưởng thành trong quá trình kháng

chiến chống Mỹ. Lực lượng vũ trang Bình Định đã đảm đương tốt vai trò của mình

trong tiến công, căng kéo, bao vây, tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh

lực địch. Theo số liệu thống kê, tính từ năm 1965 đến cuối tháng 11 năm 1974, lực

lượng vũ trang 3 thứ quân của tỉnh đã đánh 18.758 trận, diệt được 134.871 tên, loại

khỏi vòng chiến 190.572 địch các loại (có khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng số địch bị

loại). Chống phá địch càn quét lấn chiếm có hiệu quả, bảo vệ vùng giải phóng và

làm chủ của ta. Các lực lượng vũ trang của tỉnh từ mở các đợt hoạt động và các

chiến dịch tấn công độc lập mang tính địa phương để hợp đồng với các tỉnh trong

Khu tiến tới đảm nhiệm các hướng đánh độc lập trong các chiến dịch tổng hợp. Từ

tiêu diệt vài trung đội phụ quân và chốt điểm nhỏ đến tiêu diệt đại đội, tiểu đoàn

địch và một số chi khu quận lỵ, thị trấn, tiến lên giải phóng thành phố tỉnh lỵ và các

chi khu quận lỵ trong chiến dịch tổng hợp Xuân 1975.

128

Như vậy thắng lợi từng bước của kháng chiến chống Mỹ ở Bình Định gắn

liền với sự trưởng thành lớn mạnh của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở đây.

Sáu là: Chú trọng xây dựng hậu phương chiến tranh du kích trên cả 3 vùng

chiến lược.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, hậu phương là yếu

tố thường xuyên quyết định thắng lợi của tiền tuyến. Nắm vững quan điểm này

Đảng bộ tỉnh Bình Định đã sớm quan tâm xây dựng hậu phương một cách toàn diện

phục vụ cho quá trình kháng chiến. Từ năm 1965 cách mạng Bình Định bắt đầu

nhận được sự viện trợ về sức người sức của của hậu phương lớn miền Bắc xã hội

chủ nghĩa. Tuy nhiên, hậu phương tại chỗ là chủ yếu và mang tính quyết định đến

thành quả tác chiến ở Bình Định. Nhận thức được vai trò quan trọng của hậu

phương tại chỗ, Đảng bộ tỉnh Bình Định nhanh chóng triển khai xây dựng hậu

phương kháng chiến ở cả miền núi, đồng bằng và vùng ven đô thị. Năm 1960 cách

mạng tỉnh đã giải phóng được một vùng rộng lớn ở miền núi bao gồm hầu hết

huyện Vĩnh Thạnh, toàn bộ vùng cao huyện An Lão và 3 xã vùng cao huyện Vân

Canh. Vùng giải phóng đầu tiên này của tỉnh trở thành căn cứ địa, hậu phương trực

tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Bình Định. Tại vùng giải phóng này, Đảng

bộ tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh công tác bố phòng, xây dựng làng chiến đấu để chống càn

và biệt kích, làm bàn đạp bảo vệ hành lang cho cách mạng tiến xuống phát triển ở

vùng đồng bằng và đô thị. Đây cũng là nơi hình thành nên đội ngũ cán bộ đảng

viên, lực lượng chính trị quần chúng đầu tiên của tỉnh. Vùng đồng bằng là nơi đông

dân nhiều của, là địa bàn giằng co quyết liệt giữa ta và địch trong suốt thời kỳ

kháng chiến. Phải nắm được vùng đồng bằng cách mạng Bình Định mới có thế và

lực mạnh cho kháng chiến. Đi theo phương châm tranh thủ sức dân, ở các huyện

phía Bắc tỉnh là nơi phong trào cách mạng bùng nổ mạnh mẽ từ năm 1960. Tại đây,

Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang tích cực hỗ trợ

quần chúng diệt ác, phá kèm, xây dựng làng chiến đấu, đưa quần chúng lên làm chủ

129

ở những nơi giải phóng. Những vùng giải phóng này trở thành hậu phương tại chỗ

cho cuộc kháng chiến. Xây dựng căn cứ lõm ở vùng ven thị trấn, thị xã làm bàn đạp

đẩy mạnh phong trào ở đô thị.

Nhìn chung, hậu phương kháng chiến chống Mỹ ở Bình Định được Đảng bộ

tỉnh chỉ đạo xây dựng dựa trên thế trận lòng dân. Nơi đâu dân tin theo Đảng bộ,

ủng hộ kháng chiến nơi đó trở thành hậu phương kháng chiến. Điểm đặc biệt của

hậu phương kháng chiến chống Mỹ ở Bình Định là hậu phương tại chỗ tồn tại trên

khắp các địa bàn trong tỉnh, cả ở vùng giải phóng, cả ở vùng địch hậu hay vùng

tranh chấp. Đây là nguyên do lý giải vì sao cách mạng tỉnh Bình Định nhận được

sự giúp đỡ to lớn của dân, được dân đùm bọc, ủng hộ trong suốt cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước.

Tóm lại: Ra đời và trưởng thành từ phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh

và dân tộc, khả năng lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định dần nâng lên mức độ

nghệ thuật lãnh đạo. Suốt 10 năm cầm lái gian truân, đầy thử thách Đảng bộ tỉnh

từng bước đưa con thuyền cách mạng tỉnh vượt qua thác ghềnh tiến tới giành được

những thắng lợi quan trọng. Và như thế chiến thắng Xuân năm 1975 không chỉ là

chiến thắng của mồ hôi, nước mắt của nhân dân và các lực lượng vũ trang Bình

Định mà nó còn là chiến thắng của nghệ thuật lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến

130

tranh du kích ở đỉnh cao.

KẾT LUẬN

21 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đặc biệt trong 10 năm, từ

năm 1965 đến năm 1975 Mỹ đã đẩy cuộc chiến xâm lược Việt Nam lên một mức

độ mới chưa từng có. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là đội quân xâm lược

nhà nghề đông đảo, có trang bị hiện đại với một bên là một dân tộc đất không rộng,

người không đông, vũ khí chiến tranh thô sơ đã đẩy cuộc chiến tranh vệ quốc ở hai

miền Nam, Bắc Việt Nam mang đầy máu và nước mắt. “Có áp bức có đấu tranh”,

với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, ngay từ đầu cuộc chiến nhân

dân miền Nam đã đồng loạt đứng lên đánh trả kẻ thù. Bằng ý chí kiên cường, lòng

dũng cảm, tình yêu nước nồng nàn của quân dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt, mưu

trí của Đảng, cuộc chiến của nhân dân miền Nam từng bước giành được những

thắng lợi quan trọng. Các chiến lược chiến tranh của Mỹ áp dụng ở miền Nam lần

lượt bị đánh sập. Thắng lợi chung này của đồng bào chiến sĩ miền Nam có sự đóng

góp quan trọng của Đảng bộ và quân dân Bình Định. Suốt 10 năm từ năm 1965 đến

năm 1975 Đảng bộ tỉnh Bình Định đã lãnh đạo quân dân trong tỉnh tiến hành chiến

tranh du kích khắc phục mọi khó khăn từng bước giành được những thắng lợi quan

trọng trong sự nghiệp đánh Mỹ diệt Việt Nam cộng hòa.

1.Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định phát triển mạnh mẽ, liên tục từ

năm 1965 đến năm 1975.

Trong khoảng 10 năm trước khi hoàn toàn sụp đổ tham vọng ở miền Nam Việt

Nam, Mỹ liên tiếp tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ rồi chiến lược Việt Nam

hóa chiến tranh. Chúng dốc toàn tâm toàn lực cho cuộc chiến ở Việt Nam. Từ tháng

4 năm 1965 trở đi những đơn vị quân đội Mỹ và Nam Triều Tiên đã có mặt để triển

khai hàng loạt cuộc hành quân tàn khốc tại Bình Định. Từ đây cuộc đấu tranh của

quân dân Bình Định cũng bước sang một giai đoạn mới mạnh mẽ hơn, quyết liệt

hơn. Thế trận chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp trên tất cả mọi địa bàn của

131

tỉnh. Từ miền núi xuống đồng bằng, từ nông thôn đến khu vực quận lỵ, thị xã người

dân tham gia đấu tranh chống Mỹ ngụy bằng nhiều hình thức khác nhau. Lực lượng

vũ trang 3 thứ quân không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng. Với nhiều

loại vũ khí từ vũ khí thô sơ tự tạo như cuốc, thuổng, gậy gộc, hầm chông, bẫy đá,

mang cung, súng ngắn, bộc phá, lựu đạn đến các loại vũ khí hiện đại như súng

trường, pháo cối.v.v. lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định đã vận dụng linh hoạt các

chiến thuật chiến tranh du kích nhằm giành, giữ dân, tiêu hao tiêu diệt kẻ thù. Nếu

chiến thắng của quân dân Bình Định trong những ngày đầu Mỹ đến đây làm giới

báo chí Mỹ phải thốt lên “Trong thời đại vũ khí tối tân, các lực lượng Mỹ ở miền

Nam Việt Nam lại thấy rằng vũ khí thô sơ là nguồn gốc gây ra cảnh bối rối thường

xuyên và nguy hiểm cho họ” [45; tr135] thì từ năm 1965 trở về sau các chiến thuật

chiến tranh du kích được sử dụng một cách phổ biến rộng rãi và linh hoạt ở hầu hết

các địa bàn tỉnh làm kẻ thù thực sự khiếp sợ, đi đến đâu chũng cũng bị sa vào lưới

trận chiến tranh du kích. Địch bị đánh ban ngày, ban đêm, đánh trong công sự, đánh

ngoài công sự, bị phục kích, tập kích không kể điều kiện thời tiết nắng nóng hay

mưa bão. Có những năm như năm 1969, năm 1970 v.v, hơn 2/3 thời gian các lực

lượng vũ trang vận động chiến dịch quần bám đánh địch. Dù địch phân tán hay tổ

chức tập trung thành tiểu đội, trung đội, thậm chí cả tiểu đoàn đều có thể bị tiêu diệt

bởi các chiến thuật du kích. Từ lối đánh nhỏ lẻ lúc đầu, từ năm 1965 trở đi các lực

lượng vũ trang tỉnh Bình Định không những tổ chức các trận đánh độc lập mà còn

có sự phối hợp giữa bộ đội tỉnh huyện với dân quân du kích, bộ đội tỉnh, huyện,

dân quân du kích với bộ đội chủ lực của Sư đoàn 3 tiến hành đánh vận động chiến

mở nhiều chiến dịch thành công, từng bước làm thất bại âm mưu giành dân lấn đất

của kẻ thù, trực tiếp đưa đến những thắng lợi vẻ vang cho sự nghiệp đấu tranh giải

phóng tỉnh Bình Định.

2. Phong trào chiến tranh du kích được sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp bộ

Đảng tỉnh Bình Định, kiên định chủ trương đường lối của Khu ủy, Quân khu ủy và

132

trung ương Đảng.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng đối với phong trào chiến tranh du kích

ở tỉnh Bình Định mang tính toàn diện. Trong suốt 10 năm từ năm 1965 đến năm

1975, thành phần số lượng du kích, cách thức tổ chức, huấn luyện, trang bị vũ khí,

nhu cầu lương thực thực phẩm quân trang quân dụng, chiến thuật du kích sử dụng

trong mỗi trận đánh v.v đều có sự chỉ đạo sâu sát của các cấp bộ Đảng tỉnh Bình

Định, có sự tham mưu trực tiếp của Quân ủy khu 5 nhằm thực hiện chủ trương của

Trung ương Đảng phù hợp với tình hình thực tế tỉnh nhà. Vì vậy nhìn một cách

tổng quan cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định giai đoạn 1965 –

1975 ta thấy rõ phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định nói chung, của các

lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định nói riêng không tách rời phong trào kháng chiến

chống Mỹ của đồng bào Quân khu 5, đi theo đúng chủ trương, con đường kháng

chiến chống Mỹ cứu nước Trung ương Đảng vạch ra. Từ năm 1965 khi Mỹ đặt

Bình Định vào làm một trong những mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” của chúng

ở Khu 5, từ đây Quân ủy khu 5 cũng dành sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt phong trào

đấu tranh cho quân dân Bình Định. Sư đoàn 3 của Quân khu 5 được thành lập tại

huyện Hoài Ân. Các Trung đoàn 2, 12, 22 luôn sát cánh cùng quân dân Bình Định

đánh Mỹ diệt Ngụy. Tuy nhiên, điểm nổi bật của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong quá

trình chỉ đạo, lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn là Đảng bộ đã

vận dụng sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng và Quân ủy khu 5 vào tình

hình thực tế tỉnh nhà để đưa phong trào đấu tranh của quân dân trong tỉnh từng

bước tiến lên hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của tỉnh và Quân khu 5

trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

3. Chủ trương, đường lối của các cấp bộ Đảng đã được quân và dân Bình Định

triển khai thực hiện một cách khẩn trương, nghiêm túc. Trong bối cảnh kẻ thù tăng

cường đẩy mạnh quy mô và tốc độ chiến tranh ở miền Nam Việt Nam nói chung, ở

Bình Định nói riêng, đã có những năm, có những nơi, cách mạng Bình Định vô

133

cùng khó khăn. Điển hình như sau vụ thảm sát ở khu vực Núi Bà năm 1966, sau tết

Mậu Thân năm 1968 và nửa đầu năm 1969 v.v nhất là vào đầu năm 1969 nhiều

làng mạc trên địa bàn Bình Định bị địch biến thành vùng trắng, người dân bị dồn

vào các khu tập trung, ruộng đồng, vườn tược bị cày xới, phá hủy hoang tàn. Cán

bộ, bộ đội bị đánh bật khỏi dân. Không ít ngày các lực lượng vũ trang ở Bình Định

sống trong cảnh đói cơm, lạt muối. Biến đau thương thành hành động, các thế hệ

quân, dân Bình Định nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, thực hiện triệt để chủ trương

của các cấp bộ Đảng tỉnh, từng bước khôi phục, giữ vững, phát triển phong trào

cách mạng, tiến lên thực hiện thắng lợi từng mục tiêu cách mạng cụ thể.

4. Phong trào du kích chiến tranh đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, góp

phần đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, góp phần vào thắng lợi chung của

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Một trong những thắng lợi quan trọng nhất của phong trào du kích chiến

tranh ở Bình Định từ năm 1965 đến năm 1975 là quân dân Bình Định đã từng bước

đập tan âm mưu thủ đoạn trong giành và giữ dân của kẻ thù. Nếu trong thời kỳ tiến

hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trong hai chính sách “bình định” và “tìm

diệt”, Mỹ đưa chính sách “tìm diệt” lên hàng đầu hòng thực hiện âm mưu “bình

định”. Thì trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chính sách “bình định”

được Mỹ xem là mấu chốt. Vì vậy hàng loạt các “chương trình bình định” được

chúng đưa ra thực hiện trên toàn miền Nam trong đó có Bình Định. Quán triệt chủ

trương của Trung ương Đảng, Quân ủy khu 5, Đảng bộ tỉnh Bình Định nhanh

chóng lãnh đạo, chỉ đạo quân dân trong tỉnh phát huy cao độ sức mạnh của chiến

tranh nhân dân đối phó lại các chiến lược chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế

quốc Mỹ đồng thời chủ động sử dụng các chiến thuật chiến tranh du kích nhằm tiêu

diệt tiêu hao sinh lực địch, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy diệt kẹp, phá kèm,

phối hợp chặt chẽ với Trung đoàn 12, Trung đoàn 22 của Sư đoàn 3 bẻ gãy các đòn

tấn công của Mỹ, Việt Nam cộng hòa và đồng minh từng bước giành được những

134

thắng lợi quan trọng trong cả đấu tranh quân sự lẫn đấu tranh chính trị. Hai kế

hoạch phản công quy mô lớn của Mỹ và đồng minh tiến hành ở tỉnh Bình Định

trong mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967 đều bị đập tan. Tết Mậu Thân năm

1968, quân dân Bình Định vùng lên đồng loạt tấn công vào thị xã Quy Nhơn, quận

lỵ Phù Mỹ và các thị trấn, quận lỵ khác trên toàn địa bàn tỉnh gây thiệt hại nặng nề

cho kẻ thù. Sau gần 4 năm trực tiếp đưa quân đội Mỹ và đồng minh vào Bình Định

hòng “tìm diệt” chủ lực ta không thành, năm 1969 tổng thống Mỹ, Nichson tuyên

bố phi Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam. Theo đó, quân đội Mỹ và đồng minh cũng

dẫn rút khỏi Bình Định. Mặc dù các chương trình bình định mà kẻ thù tiến hành ở

tỉnh Bình Định vẫn nhận được sự hỗ trợ sâu sát của quân đội Mỹ song nó không đủ

sức chống đỡ lại sức mạnh đấu tranh quật cường của quân dân nơi đây. Các kế

hoạch “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định nước rút” đều nhanh

chóng bị quân dân Bình Định đánh bại. Hưởng ứng chủ trương tiến công chiến lược

năm 1972 của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Bình Định quán triệt chủ trương của

Quân ủy khu 5 về mở cuộc tấn công tổng hợp Xuân Hè năm 1972 giành nhiều

thắng lợi, nhiều thôn, xã và một số huyện ở đồng bằng tỉnh đã được giải phóng làm

bàn đạp vững chắc cho các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định tiến lên giải phóng

toàn tỉnh trong Xuân năm 1975. Những chiến thắng của quân dân Bình Định trong

những năm 1965 – 1975 đã tiêu diệt tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực địch

trên địa bàn tỉnh, làm thất bại mọi âm mưu, kế hoạch kẻ thù thực hiện ở đây, góp

phần quan trọng vào chiến thắng chung của toàn Quân khu, toàn miền Nam trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

5. Những kinh nghiệm về chiến tranh du kích ở Bình Định có giá trị to lớn về

lý luận và thực tiễn.

Từ thực tiễn 10 năm (từ năm 1965 đến năm 1975) lãnh đạo phong trào chiến

tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình Định đã chứng minh rằng, ở một địa phương

nhỏ của Việt Nam hoàn toàn có thể đánh bại được âm mưu và hành động xâm lược

135

của kẻ thù dù chúng lớn mạnh tới đâu. Chỉ cần Đảng bộ địa phương kiên định

đường lối cách mạng của Đảng, kịp thời quán triệt chủ trương của các cấp ủy Đảng

cấp trên; tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân, sớm xây

dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng rãi; coi trọng công tác giáo dục chính trị,

tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; phát triển mạnh mẽ hình thái chiến

tranh du kích trên cơ sở xây dựng hậu phương chiến tranh du kích trên cả 3 vùng

chiến lược, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang lớn mạnh tạo bước

đi hiệu quả cho chiến tranh du kích, gắn liền tác chiến với xây dựng.

Sự lãnh đạo tài tình của Đảng bộ tỉnh Bình Định cùng với tinh thần đấu tranh

quật cường, mưu trí, dũng cảm của các tầng lớp quân dân trong tỉnh đã góp phần

đem lại cuộc sống hòa bình ở Việt Nam mấy chục năm qua. Tuy nhiên ngày nay

trong bối cảnh “tư tưởng nước lớn” vẫn còn tồn tại, sự bất ổn của khu vực và thế

giới đòi hỏi Đảng ta nói chung, Đảng bộ tỉnh Bình Định nói riêng cần tăng cường

cảnh giác, chủ động đối phó, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm dựng nước và

giữ nước trong lịch sử, nhất là những bài học kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững

136

hòa bình, an ninh của Tổ quốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

Ban cán sự Tỉnh ủy số 30-NQ, Nghị quyết ban cán sự họp mở rộng ngày 22 tháng 1 năm 1973, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A150.

2

Ban chấp hành Đảng bộ huyện An Lão (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện An Lão (1945 - 1975),NxbCông ty TNHH MTV in Bình Định.

3

4

Ban chấp hành Đảng bộ huyện An Nhơn (1988), Lịch sử Đảng bộ huyện An Nhơn (1930 – 1975). Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Ân (1981), Lịch sử Đảng bộ huyện Hoài Ân (1930 – 1975), NXB Tổng hợp Nghĩa Bình.

5

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Nhơn (1988), Lịch sử Đảng bộ huyện Hoài Nhơn (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

6

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Phù Cát (1930 – 1975), Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

7

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tây Sơn (1999), Lịch sử Đảng bộ huyện Tây Sơn (1930 – 1975), Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định

8

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh (1945 – 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

9

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (1990), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định, tập 1, NXB Tổng hợp Bình Định .

10 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (1992), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình

Định, tập 2, NXB Tổng hợp Bình Định.

11 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (1996), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình

Định, tập 3, NXB tổng hợp Bình Định.

12 Ban chấp hành Đảng bộ xã Bình Thuận (2010), Truyền thống đấu tranh

cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bình Thuận (1930 - 2010).

13 Ban chấp hành Đảng bộ xã Cát Chánh (2011), Truyền thống đấu tranh cách

mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cát Chánh (1930 - 2005).

14 Ban chấp hành Đảng bộ xã Cát Khánh (2011), Truyền thống đấu tranh cách

mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cát Khánh (1930 - 2005).

137

15 Ban chấp hành Đảng bộ xã Cát Thành (2011), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cát Thành (1930 - 2005),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

16 Ban chấp hành Đảng bộ xã Cát Tiến (2011), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cát Tiến (1930 - 2005),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

17 Ban chấp hành Đảng bộ xã Đập Đá (2010), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đập Đá (1930 - 2005),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

18 Ban chấp hành Đảng bộ xã Hoài Hương (2010), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hoài Hương (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

19 Ban chấp hành Đảng bộ xã Hoài Mỹ (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hoài Mỹ (1945 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

20 Ban chấp hành Đảng bộ xã Mỹ Hòa (2002), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Mỹ Hòa (1930 - 1975), Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

21 Ban chấp hành Đảng bộ xã Nhơn An (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhơn An (1930 - 2000),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

22 Ban chấp hành Đảng bộ xã Nhơn Hạnh (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhơn Hạnh (1930 - 2000),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

23 Ban chấp hành Đảng bộ xã Nhơn Hòa (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhơn Hòa (1930 - 2000),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

24 Ban chấp hành Đảng bộ xã Nhơn Phong (2010), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhơn Phong (1930 - 2005),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

25 Ban chấp hành Đảng bộ xã Nhơn Phúc (2010), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nhơn Phúc (1930 - 2005),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

26 Ban chấp hành Đảng bộ xã Phước Hòa (2010), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Hòa (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

27 Ban chấp hành Đảng bộ xã Phước Hưng (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Hưng (1930 - 2000),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

138

28 Ban chấp hành Đảng bộ xã Phước Nghĩa (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Nghĩa (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

29 Ban chấp hành Đảng bộ xã Phước Thắng (2011), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Thắng (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

30 Ban chấp hành Đảng bộ xã Phước Thuận (2010), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảngbộ và nhân dân xã Phước Thuận (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

31 Ban chấp hành Đảng bộ xã Tam Quan (2011), Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tam Quan (1930 - 1975), Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

32 Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975): thắng lợi và bài học, Nxb chính trị quốc gia.

33 Ban chỉ huy quân sự huyện Phù Cát (1996), Phù Cát lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975, Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

34 Ban thường vụ Đảng ủy xã Phước Quang (2002), Truyền thống anh hùng cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Quang (1930 - 1975),In Bình Định.

35 Ban Thường vụ huyện ủy Phù Mỹ (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Phù Mỹ

(1930 – 1975), Công ty TNHH MTV in Bình Định.

36 Ban Thường vụ huyện ủy Vân Canh (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Vân

Canh (1930 – 1975), Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

37 Ban Thường vụ thành ủy Quy Nhơn (1998), Lịch sử Đảng bộ thành phố

Quy Nhơn (1930 – 1975),Công ty TNHH MTV in Bình Định.

38 Ban tổng kết (1978), Tư liệu về du kích chiến tranh của Quảng Ngãi, Bình

Định, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định.

39 Ban tổng kết chiến tranh Nghĩa Bình y sao (1978), Thời kỳ III: Góp phần đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ (thu 1965 - xuân 1968), Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định.

40 Ban tổng kết chiến tranh Nghĩa Bình, Diễn biến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tập IV (1969 - 1973), Thời kỳ III: góp phần đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ (thu 1968 - xuân 1973), Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định.

41 Ban Tuyên giáo huyện ủy Tuy Phước (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy

Phước (1945 – 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

42 Ban tuyên giáo tỉnh ủy Bình Định (2005), Đảng bộ tỉnh Bình Định từ đại

139

hội tới đại hội, Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

43 Đỗ Bang, Nguyễn Tấn Hiểu (1998), Lịch sử thành phố Quy Nhơn, Nxb

Thuận Hóa.

44 Biên bản hội nghị Tỉnh ủy mở rộng (3 - 5/5/1966), Lưu Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh Bình Định, A038.

45 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1991), Chiến tranh du kích trên chiến

trường Bình Định (1945 - 1975), Xí nghiệp in Quang Trung.

46 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1992), Bình Định lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 - 1975, Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

47 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1994), Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bình Định,tập 1, Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

48 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1994), Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bình Định,tập 2, tập 3,Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

49 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1996), Những trận đánh điển hình của

các lực lượng vũ trang Bình Định, tập 3, Xí nghiệp in Bình Định.

50 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1997), Tiểu đoàn 52 (ký sự lịch sử, Xí

nghiệp in Bình Định.

51 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (2001), Những phần thưởng cao quý của quân dân Bình Định trong kháng chiến và xây dựng bảo vệ Tổ quốc, Tạp chí văn hóa Bình Định, tập 4,5,6 (số 20).

52 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 2, Nxb chính trị quốc gia.

53 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1996), Tư tưởng Hồ Chí

Minh về xây dựng quân đội nhân dân, Nxb quân đội nhân dân.

54 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 3, Nxb chính trị quốc gia.

55 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1999), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 4, Nxb chính trị quốc gia.

56 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 5, Nxb chính trị quốc gia.

57 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

140

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 1, Nxb chính trị quốc gia .

58 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 6, Nxb chính trị quốc gia.

59 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 7, Nxb chính trị quốc gia.

60 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 8, Nxb chính trị quốc gia.

61 Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), tập 9, Nxb chính trị quốc gia.

62 Bộ tổng tham mưu (1997), Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975): Chuyên đề Chống phá bình định giành dân và giữ dân trên địa bàn khu 5, Nxb Quân đội nhân dân.

63 Bộ tổng tham mưu cục bản đồ (2009), Địa hình quân sự, tập 1, tập 2, Nxb

quân đội nhân dân.

64 Bộ tư lệnh quân khu 5 (1989), Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng, tập 2,

Quân khu 5.

65 Bộ tư lệnh quân khu 5, phòng khoa học - công nghệ môi trường (2007), Kẻ thù nào cũng đánh thắng, Những trận đánh điển hình trên chiến trường khu 5, tập 10, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội .

66 Bộ tư lệnh quân khu V - Viện lịch sử quân sự Việt Nam (mật) (2002), Tổng kết chiến thuật của lực lượng vũ trang quân khu V trong hai cuộc kháng chiến Bộ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb quân đội nhân dân.

67 Bộ tư lệnh quân khu V (1998), Lịch sử bộ đội đặc công quân khu V (1952 -

1975), Nxb quân đội nhân dân.

68 Bộ tư lệnh quân khu V, Bộ tham mưu (2012), Lịch sử bộ tham mưu quân

khu V (1945 - 2010), Nxb quân đội nhân dân.

69 Bộ tư lệnh quân khu V, Viện lịch sử quân sự (1999), Một số kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở khu V trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Nxb quân đội nhân dân.

70 Trần Bưởi, Lê Văn Thọ, Trần Duệ (1983), Chiến tranh nhân dân đánh

thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,tập 2, Nxb Quân đội nhân dân.

71 C.Mác, Ph.Ănghen (1983), Về chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân

dân.

72 C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin (1973), Quan điểm cơ bản về khởi nghĩa,

141

chiến tranh và quân đội,H. Quân đội nhân dân.

73 Hoàng Đan (2000), Nghệ thuật lừa địch trong chiến tranh, Nxb Quân đội

nhân dân.

74 Đảng cộng sản Việt Nam (2003, 2004), Văn Kiện Đảng toàn tập,tập 26 đến

tập 35, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

75 Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước,tập

1: 1954 - 1965, Nxb Chính trị quốc gia.

76 Đảng cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước,tập

2: 1966 - 1975, Nxb Chính trị quốc gia.

77 Đảng ủy, Ban chỉ huy quân sự huyện Phù Mỹ (2009), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ (1945 - 2005), Nxb công ty TNHH MTV in Bình Định.

78 Đảng ủy, Bộ chỉ huy quân sự huyện An Nhơn (2008), Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện An Nhơn (1945 - 2005), Công ty TNHH MTV in Bình Định.

79 Đảng ủy, Bộ chỉ huy quân sự huyện Hoài Ân (2011), Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hoài Ân (1945 - 2005), Công ty TNHH MTV in Bình Định.

80 Đảng ủy, Bộ chỉ huy quân sự huyện Phù Mỹ (2009), Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ (1945 - 2005),Công ty TNHH MTV in Bình Định.

81 Đảng ủy, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (2010), Lịch sử Đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định, Nxb công ty TNHH MTV in Bình Định.

82 Lê Duẩn (1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.

83 Trung Dũng, Trần Văn, Nam Hải (1969), Chiến lược tiến công của chiến

tranh cách mạng miền Nam,Nxb Quân đội nhân dân.

84 Văn Tiến Dũng (1978), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân,tập 1,

Nxb Quân đội nhân dân.

85 Gabriel Kolko, Nguyễn Tất Cưu (dịch) (2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh: Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại, Nxb Quân đội nhân dân.

86 Võ Nguyên Giáp (1959), Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb

Sự thật.

142

87 Võ Nguyên Giáp (1970), Bài nói chuyện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị quân sự địa phương toàn miền Bắc tháng 7 năm 1970, Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương, Nxb quân đội nhân dân.

88 Võ Nguyên Giáp (1970), Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận

trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta, Nxb Sự thật.

89 Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai,tập 3, Nxb Khoa học xã hội.

90 Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai,tập 4, Nxb Khoa học xã hội.

91 Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai,tập 5, Nxb Khoa học xã hội.

92 Lê Quang Hà (1978), Quân sự địa phương sự hình thành và phát triển, Nxb

quân đội nhân dân.

93 Lê Mậu Hãn (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.

94 Học viện quân sự cao cấp, Ban tổng kết kinh nghiệm chiến tranh (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975: Những sự kiện quân sự, Nxb Quân đội nhân dân.

95 Hồ Chí Minh toàn tập (1989),tập 10, NXB Sự thật, Hà Nội.

96 Hồ Chí Minh toàn tập (1989),tập 9, NXB Sự thật, Hà Nội.

97 Hồ Chí Minh toàn tập (1996),tập 11, xuất bản lần thứ hai, Nxb chính trị

quốc gia, Hà Nội.

98 Huyện ủy Hoài Nhơn (1996), Hoài Nhơn lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng chiến cứu nước (1930 - 1975),Nxb Công ty TNHH MTV in Bình Định.

99 Lê Kim (1965), Đế quốc Mỹ thế quẫn làm càn, Nxb Quân đội nhân dân.

100 Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Song Hào (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, H. Quân đội nhân dân.

101 Nghị quyết ban cán sự họp ngày 7,8 tháng 6 năm 1968, số 21/NQ, Lưu Bộ

chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A 060.

102 Nghị quyết ban cán sự mở rộng tháng 9 năm 1965, Lưu Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh Bình Định, A034.

103 Nghị quyết du kích chiến tranh tháng 6 năm 1969, Lưu Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh Bình Định, A074

104 Nghị quyết Hội nghị du kích chiến tranh quá trình lần thứ 6 (01/11/1970),

143

Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A083.

105 Nghị quyết hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 7 năm 1965 (tối mật), Lưu Bộ

chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A.033.

106 Nghị quyết Tỉnh ủy, số 06/NQ (5/1969), Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình

Định, A061.

107 Hoàng Phương (chủ biên) (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt

Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân.

108 Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ tổng tham mưu (mật) (2002), Huấn luyện

vũ khí tự tạo, Nxb quân đội nhân dân, Hà Nội.

109 Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ tổng tham mưu (mật) (2009), Đặc điểm tác chiến đô thị của Lữ đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) Mỹ, Nxb quân đội nhân dân, Hà Nội.

110 Phạm Đức Quý (2001), Bí mật về sức mạnh huyền thoại của chiến tranh

nhân dân Việt Nam, Nxb Cà Mau.

111 Sơ kết phong trào cách mạng tỉnh Bình Định 1954 - 1970, Lưu Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh Bình Định, A, tập 6, số 148.

112 Hán Văn Tâm (chủ biên) (2009), Quân đồng minh Mỹ trên chiến trường

miền Nam Việt Nam (1964 - 1973), Nxb quân đội nhân dân.

113 Lê Văn Thái (TS) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1930 -1945, NXB chính trị quốc gia.

114 Bùi Đình Thanh, Hoàng Vĩ Nam, Quỳnh Cư (1973), Một số vấn đề về "Việt

Nam hóa chiến tranh", Nxb Viện sử học.

115 Nguyễn Chí Thanh, Trường Sơn (1970), Đảng ta lãnh đạo tài tình chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Sự thật.

116 Hoàng Minh Thảo (2003), Một số vấn đề phương pháp luận lãnh đạo chiến

tranh và quy luật chiến tranh, Nxb Chính trị quốc gia.

117 Hoàng Minh Thảo (2004), Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ tổ quốc, In lần 2, Nxb Quân đội nhân dân.

118 Thường vụ Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu V (1999), Tổng kết công tác binh vận chiến trường khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975),Nxb quân đội nhân dân.

144

119 Tỉnh đội Bình Định số 332/TK, Tổng kết thành tích tác chiến năm 1972 (từ 2/5/1971 đến 25/12/1972),tập 10, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A300.

120 Tỉnh đội Bình Định, Báo cáo quân sự năm 1969 (từ 25/12/1968 đến 25/11/1969), Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A, tập 4, số 101.

121 Tỉnh đội Bình Định, Báo cáo quân sự năm 1970 (từ 25/12/1969 đến

10/12/1970), số 23/BC, tập 5, số 137.

122 Tỉnh đội Bình Định, Dự thảo nghị quyết phong trào du kích chiến tranh

tháng 12 năm 1974, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A207.

123 Tỉnh đội Bình Định, số 2/BC, Báo cáo tổng kết tình hình phong trào du kích chiến tranh từ tháng 1 đến 31 tháng 12 năm 1968, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định.

124 Tỉnh đội Bình Định, số 332/BC, Báo cáo quân sự năm 1968 (từ 25/12/1967 đến 25/12/1968), (mật) tập 2, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A075.

125 Tỉnh đội Bình Định, số 332; Báo cáo quân sự năm 1968 (mật), Lưu Bộ chỉ

huy quân sự tỉnh Bình Định, A075.

126 Tỉnh đội Bình Định, Tổng kết chiến dịch tấn công tổng hợp Xuân 1975, A,

tập 28, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A756.

127 Tỉnh đội Bình Định, Tổng kết thành tích quân sự năm 1974 (từ 25/12/1973

đến 20/12/1974), tập 24, A627.

128 Tòa hành chánh Bình Định (1966), Địa phương chí tỉnh Bình Định.

129 Tổng kết năm 1973 - 1974, tập 25, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định,

A644

130 Tổng kết phong trào du kích chiến tranh từ 28/1 đến 12/1973, tập 13, Lưu

Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A391.

131 Tổng kết phong trào thi đua năm 1973 - 1974 của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng tỉnh Bình Định, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định,B5, 145.

132 Trích Nghị quyết hội nghị đại biểu tỉnh đảng bộ, 5/1967 (tối mật), Lưu Bộ

chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A047.

133 Trích Nghị quyết hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967 (tối mật),

Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A048.

134 Trích Nghị quyết thường trực Đảng ủy mặt trận mở rộng ngày 12 tháng 2

năm 1968, Lưu Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, A059.

135 Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự Bộ quốc phòng (2004), Từ điển Bách

145

khoa quân sự Việt Nam, NXB quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội.

136 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2005), Địa chí Bình Định (tập thiên nhiên,

dân cư, hành chính), Nxb Đà Nẵng.

137 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2006), Địa chí Bình Định (tập Lịch Sử),

Nxb Đà Nẵng.

138 V.I.Lênin (1970), Những bài viết và nói về quân sự, Nxb Quân đội nhân

dân.

139 Viện lịch sử Đảng (1992), Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 - 1975), NXB

Hà Nội.

140 Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử chiến thuật phục kích (1945

- 1975), NXB Quân đội nhân dân.

141 Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử chiến thuật phục kích (1945

146

- 1975), Nxb quân đội nhân dân.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

NHỮNG ĐỊA PHƢƠNG ĐƢỢC TUYÊN DƢƠNG ANH HÙNG CÁC LỰC

LƢỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

1. Nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định

2. Nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Hoài Nhơn

3. Nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Hoài Ân

4. Nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Phù Mỹ

5. Nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Phù Cát

6. Nhân dân và các lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Thạnh

7. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Hoài Thanh

8. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Hoài Châu

9. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Hoài Hảo

10. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Hoài Sơn

11. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Tam Quan Bắc

12. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Ân Hảo

13. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Ân Thạnh

14. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Mỹ Hiệp

15. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Mỹ Tài

16. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Mỹ Đức

17. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Cát Hanh

18. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Cát Hiệp

19. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Nhơn Mỹ

20. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Phước Sơn

21. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Nhơn Bình

22. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Bình An

147

23. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã An Hưng

24. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã An Quang

25. Nhân dân và các lực lượng vũ trang Vĩnh Hiệp

26. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Bình Quang

27. Nhân dân và các lực lượng vũ trang xã Canh Liên

NHỮNG ĐƠN VỊ ĐƢỢC TUYÊN DƢƠNG ANH HÙNG CÁC LỰC

LƢỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

1. Cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 50.

2. Cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 52.

3. Cán bộ và chiến sĩ Đại đội 1, Đ405 đặc công.

4. Cán bộ và chiến sĩ Đại đội 598 đặc công.

5. Cán bộ và chiến sĩ Đại đội 19 công binh.

6. Cán bộ và chiến sĩ Đại đội 30 đặc công.

7. Cán bộ và chiến sĩ Đại đội 2, bộ đội huyện Hoài Nhơn.

8. Cán bộ và chiến sĩ đơn vị trinh sát vũ trang Ban an ninh tỉnh Bình Định.

9. Cán bộ và chiến sĩ lực lượng an ninh huyện Hoài Nhơn.

10. Cán bộ và chiến sĩ lực lượng an ninh huyện Phù Cát.

NHỮNG CÁ NHÂN ĐƢỢC TUYÊN DƢƠNG ANH HÙNG CÁC LỰC

LƢỢNG VŨ TRANG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

Huyện, Thành Phố Anh hùng

Huyện Hoài Nhơn 1.Anh hùng liệt sĩ Phạm Thị Đào

2. Anh hùng liệt sĩ Lê Văn Quý

3. Anh hùng liệt sĩ Ngô Trọng Liên

4. Anh hùng liệt sĩ Đinh Tôn

148

5. Anh hùng liệt sĩ Lâm Văn Tương

6. Anh hùng Võ Thị Huy

7. Anh hùng Nguyễn Kim

8. Anh hùng Nguyễn Hồng Nhị

9. Anh hùng Bùi Đức Sơn.

Huyện Hoài Ân 1. Anh hùng liệt sĩ Võ Giữ

Huyện Phù Mỹ 1. Anh hùng Trương Diệu.

2. Anh hùng Thái Anh Kia.

3. Anh hùng Nguyễn Thị Phúc.

Huyện Phù Cát 1. Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Hồng Đạo.

2. Anh hùng liệt sĩ Ngô Lê Tân.

3. Anh hùng Nguyễn Hữu Quang.

4. Anh hùng Nguyễn Vinh Ba.

Huyện An Nhơn 1. Anh hùng liệt sĩ Trần Thị Kỷ.

2. Anh hùng liệt sĩ Lê Văn Thanh.

Huyện Tuy Phước 1. Anh hùng liệt sĩ Trần Bá.

Huyện Tây Sơn 1. Anh hùng liệt sĩ Võ Lai.

2. Anh hùng Hồ Thị Hương.

Huyện Vĩnh Thạnh 1. Anh hùng liệt sĩ Huỳnh Thị Đào.

149

Huyện An Lão 1. Anh hùng liệt sĩ Đinh Ruối.

Thị xã Quy Nhơn 1. Anh hùng Huỳnh Thị Ngọc

Tổng số 25

Phụ lục 2

SỐ THƢƠNG BINH, LIỆT SĨ, KHEN THƢỞNG TRONG THỜI KỲ

KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƢỚC Ở BÌNH ĐỊNH

Loại hình Số lƣợng

Liệt sĩ 29.598

Thương binh các hạng 17.412

Huân chương Sao Vàng 1

Huân chương Hồ Chí Minh 1

Huân chương Thành Đồng 39

Huân chương Độc lập 929

Huân chương Quyết Thắng 6.166

Huân chương Giải Phóng 2.236

Huân chương kháng chiến chống Mỹ 48.300

Huy chương Quyết Thắng 1.748

Huy chương Giải Phóng 4.115

Huy chương kháng chiến chống Mỹ 20.112

Bằng khen của Chính phủ 6.896

Bằng khen của UBND tỉnh 7.411

(Những khen thưởng trên chưa bao gồm các hình thức khen thưởng trong các

150

lực lượng vũ trang nhân dân).

151

152

153