Đánh giá các giải pháp bình ổn giá trường vàng của NHNN Việt Nam
lượt xem 19
download
Vàng là một loại hàng hóa được giao dịch trong thị trường. Vàng còn là loại tài sản có tính thanh khoản cao, được chấp nhận như một loại tiền đặc biệt tại tất cả các nước trên thế giới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đánh giá các giải pháp bình ổn giá trường vàng của NHNN Việt Nam
- 1 ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG VÀNG CỦA NHNN VIỆT NAM LÝ THUYẾT. 1.1 Khái niệm: Vàng là một loại hàng hóa được giao dịch trong thị trường. Vàng còn là loại tài sản có tính thanh khoản cao, được chấp nhận như một loại tiền đặc biệt tại tất cả các nước trên thế giới. Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ trong đó đồng tiền của 1 nước được đảm bảo bằng 1 hàm lượng vàng nhất định theo pháp luật. 1.1.1 Đơn vị đo lường và cách quy đổi giá vàng thế giới và vàng trong nước: Trên thị trường thế giới, vàng thường được đo lường theo hệ thống khối lượng Troy, trong đó 1 troy ounce(ozt) tương đương 31.1034768gram. Ở Việt Nam, khối lượng của vàng được tính theo đơn vị là cây hoặc chỉ. Một cây vàng nặng 37.5 gram. Mỗi chỉ bằng 1/10 cây vàng. Tuổi vàng được tính theo thang độ K(karat). Một karat tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 99.99% tương đương với 24 K. Khi ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong mẫu xấp xỉ 75%. * Thị trường vàng thế giới: o Đơn vị yết giá (thông thường): USD/ounce. o 1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng. o 1 lượng = 1.20556 ounce. * Thị trường vàng trong nước: o Đơn vị yết giá: VND/lượng. o Công thức quy đổi giá vàng từ đơn vị tính USD/Oz thành đơn vị tính VND/lượng:
- 2 Giá vàng quy đổi (VND/lượng) = Giá vàng thế giới (USD/Oz) * 1.20556 * Tỷ giá USD/VND. 1.1.2 Vai trò và chức năng của vàng: Vai trò của vàng trong nền kinh tế là: -Vàng giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư: đưa vàng vào danh mục đầu tư của mình – một tài sản có giá trị thực ít biến động hơn các loại tài sản tài chính khác sẽ đảm bảo an toàn về giá trị trong trường hợp thị trường biến động dẫn đến rủi ro mất giá của các tài sản tài chính. -Vàng là công cụ phòng chống lạm phát: Khi hàng hóa và dịch vụ tăng nhà đầu tư có khuynh hướng mua vàng do sức mua và giá trị của vàng có khuynh hướng ổn định. -Vàng là công cụ đầu tư thay thế đồng USD: Vàng thường được sử dụng như một công cụ đầu tư hiệu quả thay thế đồng USD – đồng tiền được giao dịch nhiều nhất trên thế giới. Nếu đồng USD tăng giá thì vàng sẽ giảm giá và ngược lại. Do đó vàng là cách đầu tư hiệu quả nhất trong việc phòng chống rủi ro giảm giá của đồng USD. -Vàng giúp kiểm soát rủi ro: Nhìn chung, vàng ít biến động hơn hầu hết các loại hàng hóa khác cũng như thị trường chứng khoán. Với việc sở hữu tài sản ít biến động trong danh mục đầu tư, rủi ro của nhà đầu tư sẽ giảm. -Dự trữ ngoại hối. Xét trên góc độ vàng là một loại tiền tệ trên thị trường thì vàng bao gồm đầy đủ chức năng của tiền tệ: -Phương tiện thanh toán. -Thước đo giá trị. -Phương tiện tích lũy giá trị.
- 3 1.2 Thị trường vàng: 1.2.1 Khái niệm: Là nơi diễn ra hoạt động kinh doanh, mua bán vàng. 1.2.2 Đặc điểm chung của thị trường vàng: Thị trường vàng không nhất thiết phải tập trung ở 1 vị trí địa lý xác định mà là bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua ván vàng, do đó nó còn được gọi là ” thị trường không gian”. Thị trường vàng là thị trường toàn cầu, không ngủ. Do sự chênh lệch về múi giờ giữa các khu vực nên thị trường vàng diễn ra suốt ngày đêm. Các nhóm thành viên thị trường duy trì quan hệ liên tục với nhau thông qua các phương tiện điện tử: điện thoại, mạng vi tính, telex và fax. Do thông tin được truyền đi rất nhanh và hiệu quả nên tuy các thành viên tham gia thị trường ở rất xa nhau, nhưng vẫn như đang hoạt động dưới một mái nhà chung. Thị trường nhạy cảm với chính sách tiền tệ của các quốc gia, các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý. 1.2.3 Phân loại thị trường vàng: -Thị trường vàng giao ngay: Thị trường vào giao ngay là thị trường mà ở đó việc mua và bán vàng được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là sau 2 ngày kể từ thời điểm thỏa thuận. Các nghiệp vụ này được thực hiện trên cơ sở giá vàng giao ngay, giá được xác định và có giá trị tại thời điểm giao dịch. -Thị trường vàng kỳ hạn: Thị trường vàng kỳ hạn là thị trường mà ở đó việc mua bán vàng sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định kể từ khi thỏa thuận. Thị trường vàng kỳ hạn là nơi cung cấp phương tiện phòng chổng rủi ro khi giá vàng biển đổi bất thường. Hợp đồng mua bán vàng kỳ hạn được sử dụng để cố định giá mua hoặc bán vàng theo một
- 4 mức giá cố định đã biết trước mà không cần tính đến sự biến động của giá vàng trên thị trường. 1.3 Các nhân tố tác động đến giá vàng và thị trường vàng: - Trên thế giới: biến động USD, biến động giá dầu, tình hình lạm phát. - Ở Việt Nam: giá vàng thế giới, cung cầu vàng, chính sách về vàng của nhà nước. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế tăng cao, những người đầu cơ thường mua USD để mang lậu vàng vào, áp lực giảm giá đối với tiền đồng ngày một lớn hơn. Giá vàng tăng cao khiến hoạt động gửi tiền không còn hấp dẫn, người gửi tiền chuyển từ nắm giữ tiền đồng Việt Nam sang vàng. Điều này có thể khiến áp lực lạm phát tăng cao. Ngoài ra, người Việt Nam thường tính giá bất động sản theo vàng. Giá vàng tăng cao đẩy giá bất động sản tăng, giá các loại hàng hóa khác cũng lên theo. Tại thị trường còn non trẻ của Việt Nam, giá vàng tăng thường khiến người ta kỳ vọng vào khả năng giá sẽ tăng cao hơn. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VÀNG: 1.4 Giai đoạn 2008-2009: Bức tranh thị trường vàng trong nước trở nên sôi động kể từ năm 2008, khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu đưa vàng lên ngôi, trở thành vật bảo chứng tài sản thuộc loại an toàn bậc nhất, và cũng là lúc sự liên thông với thị trường thế giới ngày càng rõ rệt đòi hỏi sự linh hoạt trong điều hành chính sách. Trong thời gian này, mỗi năm ta cho phép nhập khẩu chính thức khoảng 40-60 tấn vàng và nhập lậu vàng cũng khoảng 50-60 tấn. Năm 2008, Việt Nam trở thành một trong những nước nhập khẩu vàng hàng đầu của thế giới. Chỉ trong vòng 7 tháng đầu năm 2008, Việt Nam nhập khẩu khoảng 62 tấn vàng. Cho tới trước thời điểm dừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập khẩu
- 5 vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD (45 tấn), so với tổng giá trị nhập khẩu vàng của cả năm 2007 là 1,6 tỷ USD (70 tấn). Để chống nhập siêu, đầu năm 2009, NHNN chỉ cấp quota xuất vàng mà không cho phép nhập khẩu vàng. Biện pháp này tỏ ra hữu hiệu khi giá vàng trong nước thấp hơn quốc tế. Tuy nhiên, nghịch lý chỉ xuất mà không nhập (từ giữa năm 2008) tiềm tàng nhiều rủi ro. Nhất là trong thời gian đầu năm 2009 giá vàng trong nước bị đẩy lên cao hơn giá thế giới. Thị trường vàng trong nước hầu như đóng băng do có tình trạng ghìm hàng chờ giá, mặc dù lượng vàng tích lũy trong dân rất lớn nhưng người dân không bán ra cũng khiến lượng vàng trên thị trường trở nên khan hiếm. Nét đặc trưng của giai đoạn này là chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới rất thấp, thế nhưng thị trường vàng trong nước bất ổn, thường xuyên có các cơn sốt vàng, người dân đổ xô đi mua, bán vàng, hoạt động đầu cơ trên thị trường diễn ra mạnh mẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường ngoại hối và tỷ giá, chỉ số giá cả và ổn định kinh tế vĩ mô, thậm chí chí gây bất ổn an ninh, trật tự xã hội. Các sàn vàng thu hút hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị tham gia... Chính vì vậy mà năm 2009, Chính phủ đã chính thức cấm và chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. 1.5 Giai đoạn 2010-2011: Mở cửa năm 2010 ở 26,7 triệu đồng, giá vàng trong nước đều đặn đi lên, dần tăng tốc vào tháng 8 và đạt mốc 36 triệu đồng ngày cuối năm. Trong quá trình này, thị trường trải qua hai cú sốc lớn vào tháng 2 và tháng 11. Ngày 5/2/2010, dân chúng nháo nhào khi chỉ sau một đêm, mỗi lượng vàng mất 1,5 triệu đồng, xuống quanh 25 triệu đồng. Bên cạnh yếu tố giá thế giới, nguyên nhân của đợt giảm giá này còn do Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các doang nghiệp lớn tung hàng ra để tăng nguồn cung. Tuy nhiên, đà giảm
- 6 chỉ kéo dài được vài ba ngày. Nhân thời điểm giá thấp, người dân cùng nhà đầu tư tranh thủ đi mua, có lúc vơ vét đến mức cửa hàng không còn vàng để bán, đẩy giá quay lại mức trước đó là 26,4 triệu đồng vào ngày 11/2. Tuy nhiên, cơn sốt tháng 2 không thấm vào đâu so với cú sốc giá cuối năm. Ngay từ đầu tháng 11, thị trường vàng không ngừng thiết lập các mốc kỷ lục mới 33, 34 rồi 35 triệu đồng chỉ trong vòng một tuần lễ. Nhưng những bất thường chỉ thực sự bắt đầu vào ngày 8/11. Trong khi giá mỗi lúc một đắt, người dân lại ùn ùn đi mua vàng; trong khi thế giới điều chỉnh giảm, giá trong nước vẫn đều đều thẳng tiến. Những bất thường này khiến thị trường còn rơi vào vòng xoáy điên loạn hơn vào hôm sau, 9/11, khi giá tăng từng giờ, nhảy lên kỷ lục chưa từng thấy 38,2 triệu đồng mỗi lượng. Thế giới cũng lập đỉnh mới ở 1.410 USD. Giá quốc tế tăng một thì trong nước tăng mười. Để giải quyết cơn sốt giá "ảo" do yếu tố đầu cơ, trưa ngày 9/11, Ngân hàng Nhà nước tuyên bố cho phép nhập khẩu vàng. Ngay sau đó, vàng lập tức bốc hơi cả triệu đồng vào buổi chiều. Sau cơn sốt tháng 11, thị trường dần ổn định trở lại. Dù có lúc thế giới lập đỉnh tới 1.432 USD hôm 7/12 nhưng giá trong nước vẫn không tăng quá mức, chỉ quanh quẩn ở 36,5 triệu đồng. Thị trường vàng Việt Nam năm 2011 đã trải qua rất nhiều biến động, để lại những dấu ấn khó phai mờ, cả những dấu ấn âu lo, những niềm vui bất chợt và sự hồ nghi e ngại đến tận những ngày cuối năm. -Trồi sụt giữa những kỷ lục giá cao ngất: Giá vàng trong nước khởi động ở mức 35,8 triệu đồng/lượng khi giá thế giới dao động nhẹ quanh 1.370 USD/ounce vào đầu năm 2011 sau khi đã xác lập kỷ lục cao nhất là 1.432 USD/ounce vào ngày 7-12-2010. Ngay sau khi Việt Nam điều chỉnh tỷ giá tăng kỷ lục tới 9,3% vào ngày 11-2-2011 thì cỗ xe giá vàng bắt đầu bứt phá lên mức 36 triệu đồng lượng mặc dù giá vàng thế giới không ghi nhận biến động nào đáng kể. Chỉ 1 tuần sau đó, giá vàng phá ngưỡng 37 triệu đồng/lượng do đôla “chợ
- 7 đen” tăng vọt lên tới 22.000 đồng/USD và “cơn sốt vàng” xuất hiện sớm ngay trung tuần tháng 2-2011, chỉ 3 tháng sau cơn sốt ngày 11-11-2010, với giá vàng biến động liên tục, tăng mạnh vào buổi sáng, giảm nhẹ vào buổi trưa rồi lại tăng vào buổi chiều và ổn định đến cuối ngày. Ngưỡng giá 37,5 triệu đồng/lượng bị phá cùng lúc với tỷ giá trên thị trường phi chính thức lên tới 22.250 đồng/USD và giá vàng thế giới ở mức 1.384 USD/ounce. Không dừng lại ở đó, ngày 19-2-2011, giá vàng lại vượt 38 triệu đồng/lượng rồi 38,5 triệu đồng/lượng do giá USD tự do lên 22.400 - 22.500 đồng/USD và giá vàng thế giới xấp xỉ 1.390 USD/ounce trước khi lên đến 1.400 USD/ounce vào ngày 21-2-2011. Sau khi Chính phủ “đánh động” về khả năng cấm kinh doanh vàng miếng đồng thời siết chặt quản lý thị trường ngoại tệ tự do nhằm thực thi Nghị quyết 11/2011/NQ-CP thì thị trường vàng lập tức hạ sốt với giá vàng lùi về dưới 38 triệu đồng/lượng và giá USD tự do xoay quanh 22.000 đồng trong khi giá vàng thế giới vẫn bám trụ ở mốc 1.410 USD/ounce vào đầu tháng 3- 2011. Đến giữa tháng 3-2011, vàng thế giới đột ngột mất giá mạnh xuống dưới ngưỡng 1.400 USD/ounce do nhiều nhà đầu tư bán tháo kim loại quý để bù đắp tổn thất trên những thị trường khác như dầu thô, chứng khoán,... kéo theo giá vàng trong nước tụt xuống dưới 37 triệu đồng/lượng. Đầu tháng 4-2011, do sự suy yếu của USD, khủng hoảng tài chính châu Âu, bất ổn chính trị tại Trung Đông và Bắc Phi, lạm phát có xu hướng tăng nên giá vàng thế giới lại lập kỷ lục mới trên 1.460 USD/ounce, tạo cơ sở cho dự báo mốc 1.500 USD/ounce đã sắp đến, theo đó, giá vàng trong nước lại vượt qua mốc 37 triệu đồng/lượng. Chỉ trong vòng vài ngày giữa tháng 4-2011, giá vàng thế giới liên tục xô đổ các ngưỡng cản 1.470 rồi 1.480 USD/ounce. Cơn sốt vàng trên thế giới không dừng lại khi ngưỡng cản dự báo 1.500 USD/ounce bị xô đổ ngày 20-4-2011 rồi mốc 1.550 USD/ounce cũng bị vượt qua 1 tháng sau đó. Theo đó, giá vàng tại Việt Nam lại vượt mốc 38 triệu đồng/lượng. Giữa tháng 7-2011, giá vàng lại vọt lên 38,6 triệu đồng/lượng khi giá thế giới
- 8 xấp xỉ 1.570 USD/ounce. Ngày 14-7-2011, ngưỡng kỷ lục 39 triệu đồng/lượng chính thức bị phá khi giá vàng thế giới áp sát 1.600 USD/ounce rồi ngưỡng 39,5 triệu đồng/lượng cũng không trụ nổi vào ngày 19-7-2011. Khi giá thế giới lập kỷ lục 1.624 USD/ounce thì giá trong nước cũng nhanh chóng tiệm cận rồi vượt qua mốc 40 triệu đồng/lượng ngày 25-7-2011. Sang đầu tháng 8-2011, giá vàng lên sát 41 triệu đồng/lượng khi vàng thế giới vượt qua 1.660 USD/ounce. Sau cú sốc hạ mức tín nhiệm của Hoa Kỳ, giá vàng thế giới bùng nổ lên sát 1.700 USD/ounce và giá vàng Việt Nam tăng 3,5 triệu đồng mỗi lượng trong ngày 8/8/2011 lên tới 44,2 triệu đồng/lượng - cao hơn giá thế giới tới 2 triệu đồng/lượng - rồi lại rơi về 43,2 triệu đồng/lượng ngay trong ngày. Sang ngày 9-8-2011, giá vàng lại lên sát 45 triệu đồng/lượng. Giá vàng trong nước sáng ngày 9-8 đã chạm ngưỡng 46 triệu đồng/lượng khi giá vàng thế giới vượt mức 1.760 USD/oz. Giá vàng đầu giờ chiều 9/8 đã sụt mạnh về ngưỡng 45 triệu đồng/lượng sau khi NHNN công bố quyết định cho nhập 5 tấn vàng. Chỉ trong 2 ngày 8 và 9-8-2011, giá vàng đã tăng “điên loạn” thêm gần 5 triệu đồng mỗi lượng, lặp lại kịch bản sốt giá vàng tháng 11/2009 và tháng 10-2010. Tuy nhiên, khác hẳn với các năm trước không chỉ về số cơn sốt vàng trong năm nhiều hơn hẳn mà những cơn sốt giá vàng năm 2011 còn kéo dài hơn và trầm trọng hơn rất nhiều. Giá vàng trong nước sáng 19-8-2011 đã lập kỷ lục mới ở mức xấp xỉ 46,9 triệu đồng/lượng khi giá vàng quốc tế đạt đỉnh cao lịch sử gần 1.840 USD/oz. Nỗi lo khủng hoảng nợ công của châu Âu và suy giảm tăng trưởng ở Mỹ đang “tiếp lửa” cho thị trường vàng quốc tế. Không dừng lại ở đó, ngày 23-8- 2011, giá vàng thế giới vượt 1900 USD/ounce và giá vàng trong nước cũng vọt lên 48,6 triệu đồng/lượng rồi vượt 49 triệu đồng/lượng. Sang ngày 24-8, giá vàng tuột dốc xuống 47,6 triệu đồng với mức giảm gần 1,5 triệu đồng một lượng do đà tuột dốc trên thị trường thế giới khi các nhà đầu tư ào ạt chốt lời với giá thế giới xuống sát 1.820 USD một ounce, mất gần 90 USD so với đỉnh cao. Cuối tháng 9-2011, thị trường vàng Việt nam lại chứng kiến cảnh hỗn loạn
- 9 đội mưa để bán vàng khi giá vàng lao dốc xuống 41 triệu đồng/lượng. Đến cuối tháng 10-2011 giá vàng lại đột ngột đảo chiều lên 1.700 USD/ounce sau hơn một tháng dao động trong vùng 1.600 USD/ounce khiến cho vàng trong nước lại leo lên 45 triệu đồng/lượng. Khép lại một năm biến động đầy kịch tính, giá vàng cuối năm 2011 dao động nhẹ quanh mốc 1.600 USD/ounce trên thị trường quốc tế và 43 triệu đồng/lượng trên thị trường Việt Nam. Tính chung cả năm, giá vàng cuối năm 2011 tăng 24,09% so với cuối năm trước nhưng tính bình quân lại tăng tới 39%. 1.6 Giai đoạn 2012-2013: Trong năm 2012 thị trường ghi nhận 2 cơn sốt vào thời điểm tháng 8 (giá vàng trong nước tăng do giá vàng thế giới tăng) và tháng 11 (do các ngân hàng đóng trạng thái vàng). Dù có những cơn “sốt” giá trên nhưng so với năm 2011, giá vàng năm 2012 vẫn không chạm đỉnh kỷ lục của năm trước (49 triệu đồng/lượng). Giá vàng xác lập đỉnh trong năm 2012 đạt mức xấp xỉ 48,5 triệu đồng/lượng (vào trung tuần tháng 10, đầu tháng 11). Tuy nhiên, thực tế năm 2012 cho thấy, tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới kéo dài từ nhiều năm nay vẫn chưa được xử lý triệt để, trái lại còn trầm trọng hơn. Vào thời điểm cuối tháng 12, giá vàng trong nước đã cao hơn giá thế giới tới 4,5 triệu đồng/lượng. Thị trường vàng Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2013 có những đặc điểm lớn sau: Thứ nhất, thị trường vàng Việt Nam có khả năng giữ bình ổn khi có sự điều tiết hợp lý của Nhà nước, kể cả khi thị trường vàng thế giới biến động tăng hoặc giảm giá. Thứ hai, tính chất công khai, minh bạch của các giao dịch liên quan đến vàng đóng vai trò quan trọng trong bình ổn thị trường, góp phần làm cho thị trường vận hành đúng thực chất. Thứ ba, việc phát huy quyền lực tuyệt đối của Nhà nước so với các tác nhân
- 10 có thể tham gia thị trường khác, như: Các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài…giúp giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Thứ tư, việc chỉ có một số ngân hàng và doanh nghiệp tham gia vào đấu giá, mức chênh lệch giữa giá tham chiếu với mức giá cuối cùng không lớn, cho thấy, tính đặc thù của việc đấu giá vàng tại Việt Nam. Thứ năm, những người tham gia mua vàng thường là đối tượng có thu nhập trung bình và cao, nên phần bán đấu giá vàng trong điều kiện giá vàng trong nước ở mức cao góp phần phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Trong đó, một phần thu nhập của đối tượng có thu nhập trung bình và cao chuyển sang đối tượng khác. Thứ sáu, giá vàng trong nước đứng ở mức cao trong khi giá USD duy trì khá ổn định làm tăng lợi nhuận do chênh lệch giá trong nước và giá quốc tế. Việc đặt giá vàng đấu giá và tỷ giá USD đều do Ngân hàng Nhà nước tiến hành càng làm cho tính chủ động trong điều tiết cả hai tham số quan trọng này tăng lên. Cho nên sự thận trọng điều chỉnh tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD là cần thiết. Như vậy, tính từ ngày 28/3 đến 17/9, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 59 phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.557.000 lượng (gần hơn 58,38 tấn vàng) trên tổng số 1.662.000 lượng chào thầu. Dưới đây là biểu đồ toàn cảnh thị trường vàng từ năm 2008-2013.
- 11 Từ biều đồ, ta có thể nhìn thấy toàn cảnh thì trường vàng từ năm 2008 đến nay. Với những biến động chóng mặt và tăng liên tục. Điều này đòi hỏi Chính phủ và NNHN Việt Nam phải có những biện pháp hợp lý, kịp thời để ổn định nền kinh tế và pháp triển nền kinh tế. GIẢI PHÁP BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG VÀNG: 1.7 Giai đoạn 2008-2009: Ngay từ thời điểm năm 2008, khi thị trường vàng thế giới bắt đầu xuất hiện các cơn sốt, tác động tới thị trường vàng Việt Nam, nguy hại hơn là xuất hiện “xới bạc” sàn giao dịch vàng, kinh doanh vàng trên tài khoản khiến nhiều người đã phải ôm hận bởi rủi ro khó lường. Trước thực trạng này, cuối năm 2009 Chính phủ đã có chỉ đạo chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản, đồng thời NHNN cũng bãi bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài theo Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN. Việc chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản không phải “thuận buồm xuôi gió” bởi dư luận vẫn cho rằng trong bối cảnh hội nhập kinh tế cần sự liên thông giữa thị trường vàng trong nước và quốc tế. Nhìn lại chuyện cũ để thấy rằng, nếu không vững tin, không quyết tâm thì cơ quan hoạch định chính sách rất khó đạt được kết quả.
- 12 1.8 Giai đoạn 2010-2011: -Ngày 6/1/2010, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Thời hạn này sau đó đã được lùi đến ngày 30/3 và 31/7 : hoạt động này không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế - xã hội, NHNN đã yêu cầu bãi bỏ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Đồng thời, NHNN cũng huỷ bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM vì mức rủi ro của hoạt động này rất cao khi giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên độ lớn. -Tháng 10/2010 NHNN ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD): Chỉ cho phép các TCTD huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác. Với mục tiêu làm giảm sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hóa, NHNN hy vọng Thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượng vàng đang nắm giữ, làm giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới sẽ khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và lãi suất đối với TCTD huy động và cho vay bằng vàng. Qua đó tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Hiệu quả của Thông tư cần phải có thời gian để đánh giá, tuy nhiên sau những biện pháp can thiệp nói trên, giá vàng trong nước không còn có những biến động bất thường như thời gian trước nữa. -Cấp phép nhập khẩu vàng: Quý 4/2010 là thời điểm thị trường vàng trong nước liên tục tăng nóng. Có những ngày giá vàng tăng đến 2,5 triệu đồng/lượng. Để bình ổn thị trường vàng và đưa giá vàng trong nước
- 13 gần với giá thế giới, ngân hàng Nhà nước đã 2 lần cấp quota nhập vàng trong quý cuối của năm 2010. Lần cấp phép đầu tiên là chiều ngày 7/10. NHNN cấp hạn ngạch khoảng 3 tấn, tương đương 10% so với kiến nghị của các doanh nghiệp và yêu cầu nhập trong thời gian ngắn.Thông tin này đã giúp giá vàng hạ nhiệt nhanh chóng, từ mức trên 33 triệu đồng/lượng, xuống 32,8 triệu đồng/lượng. Lần thứ 2 NHNN cấp phép nhập khẩu khi giá vàng trong nước bị đẩy lên trên 38 triệu đồng/lượng hôm 9/11. Sau đó, ngày 24/11, các doanh nghiệp lên tiếng xác nhận được NHNN gia hạn nhập khẩu đến hết tháng 12 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu có thể chọn được thời điểm giao dịch thích hợp. Kể từ đó giá vàng trong nước không biến động quá mạnh. Những ngày cuối tháng 12, giá vàng dao động quanh mốc 36 triệu đồng/lượng. Trước đó, hồi tháng 2, NHNN cũng đã cấp quota nhập khẩu vàng không hạn chế cho SJC khi giá vàng trong nước giao động quanh mức 25 triệu đồng/lượng. -NHNN bơm ngoại tệ nhằm bình ổn tỷ giá: 10 ngày đầu tháng 11/2010, NHNN bán can thiệp ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu thiết yếu nhằm bình ổn tỷ giá USD trên thị trường tự do. Khi tỷ giá USD tự do vọt mạnh lên 21.500 đồng/USD cùng với cơn sốt vàng hôm 9/11, Thống đốc tuyên bố sẽ bán ngoại tệ cho những ngân hàng có đơn xin mua ngay trong chiều hôm đó. Tuy nhiên, ông cũng cho biết kể từ khi Ngân hàng Nhà nước tuyên bố can thiệp thị trường, chưa có ngân hàng nào gửi đơn lên xin mua USD từ ngân hàng Nhà nước. -Bỏ thuế nhập khẩu, áp thuế xuất khẩu vàng: Ngày 12/11, Bộ Tài Chính ban hành Thông tư số 182/2010/TT-BTC quy định về thuế nhập khẩu vàng giảm từ 1% xuống còn 0%. Danh mục các loại vàng được giảm thuế suất xuống 0% bao gồm: dạng bột, chưa gia công khác, dạng khối, thỏi hoặc thanh đúc, loại khác, dạng bán thành phẩm khác, dạng tiền tệ. Sau đó, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 184/2010/TT-BTC tăng thuế xuất khẩu
- 14 vàng từ 0% lên 10%, kể từ ngày 1/1/2011. Theo đó, các loại vàng nguyên liệu thuộc nhóm 8718, vàng trang sức khác có hàm lượng cao, vàng miếng vàng thỏi, vàng bột có hàm lượng dưới 99,99% sẽ chịu thuế suất 10%. Sang đến năm 2011 NHNN tiêp tục thực hiện những biện pháp điều hành thị trường vàng: -Ngày 6/10/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 32/2011/TT-NHNN : Thông tư quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-QLNH ngày 29/4/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng. Theo thông tư mới được ban hành, một số ngân hàng thương mại đủ điều kiện sẽ được Ngân hàng Nhà nước xem xét, cho phép chuyển đổi một phần số vàng huy động và giữ hộ tồn quỹ (vàng tồn quỹ) thành tiền để bổ sung nguồn cung vàng trên thị trường trong nước nhằm thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng thương mại này sẽ được mở tài khoản vàng ở nước ngoài để cân bằng trạng thái nhằm bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng. Đây là giải pháp được kỳ vọng là sẽ góp phần hạn chế những bất ổn về giá trên thị trường vàng như đã thể hiện thời gian qua (giá vàng trong nước cao vượt trội so với giá thế giới và trạng thái này kéo dài). Thông tư số 32/2011/TT-NHNN cũng quy định các điều khoản chặt chẽ để bảo đảm việc mở và sử dụng tài khoản vàng ở nước ngoài chỉ nhằm mục đích bảo hiểm rủi ro biến động giá vàng cho các ngân hàng thương mại. Bắt đầu từ 6/10/2011, 5 ngân hàng thương mại, gồm: ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, DongA Bank và Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) được phép thực hiện bán vàng từ số vàng tồn quỹ theo giá hợp lý để kéo giá vàng trong nước xuống, giảm chênh lệch với giá vàng thế giới theo Thông tư 32/TT-Ngân hàng Nhà nước, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 11/TT-NHN v/v chấm dứt huy động vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
- 15 -Trong năm 2011, Chính phủ đã ban hành hành Nghị định 95 ngày 20/10/2011: Nghị định 95 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng là bước đi đầu tiên lập lại khuôn khổ pháp lý thị trường ngoại hối. Với mức xử phạt cao đối với những vi phạm kinh doanh vàng, ngoại tệ cùng việc tăng cường công tác thanh tra, đặc biệt là tịch thu tang vật vàng nhập lậu đã từng bước thiết lập lại trật tự trên thị trường. Việc hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế được thực hiện qua 3 bước: (i) lập lại khuôn khổ pháp lý cho thị trường vàng; (ii) chấm dứt việc huy động và cho vay bằng vàng của các TCTD; (iii) chuyển đổi toàn bộ quan hệ huy động-cho vay bằng vàng sang quan hệ mua- bán vàng. Sau khi chấm dứt hoàn toàn hoạt động huy động, cho vay chuyển sang mua bán, NHNN không bình ổn giá vàng mà tham gia với tư cách là người mua bán cuối cùng trên thị trường. Qua quá trình cạnh tranh tự nhiên trên thị trường vàng, từ lâu SJC đã trở thành thương hiệu được đông đảo người dân lựa chọn, tin tưởng. Vàng SJC chiếm trên 90% lượng vàng trong nền kinh tế. Do vậy, để giảm chi phí xã hội cũng như tránh gây xáo trộn trên thị trường khi chuyển đổi, NHNN đã quyết định chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia. Với việc Chính phủ ban hành 02 Nghị định 24 và 95, Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp lý quản lý thị trường vàng cùng với chế tài xử lý mạnh mẽ tạo nền tảng để chúng ta triển khai các bước tiếp theo. 1.9 Giai đoạn 2012-2013: Chính phủ đã đặt ra mục tiêu cho giai đoạn sắp tới là không để vàng ảnh hưởng tới tỷ giá từ đó không tác động tới kinh tế vĩ mô; tác động để vàng trở nên kém hấp dẫn, chuyển đổi vàng thành vốn đầu tư đưa vào sản xuất kinh doanh, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đồng thời chặn đứng việc dùng vàng như phương tiện thanh toán.
- 16 -Ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế cho Nghị định 174/1999/NĐ-CP: Lần đầu tiên chúng ta có một nghị định quy định đầy đủ, cụ thể cho mọi hình thức kinh doanh vàng trên thị trường. Theo đó tất cả các doanh nghiệp kinh doanh vàng, kể cả SJC đều không được dập vàng miếng mà Nhà nước thông qua NHNN độc quyền trong sản xuất vàng miếng. NHNN tổ chức sản xuất vàng miếng thông qua việc lựa chọn Công ty SJC gia công vàng miếng cho NHNN. Để tiết kiệm chi phí của xã hội, NHNN không thành lập bộ máy, nhập dây chuyền sản xuất thương hiệu vàng miếng mới mà sử dụng dây chuyền sản xuất và thương hiệu vàng miếng của Công ty SJC. Tuy nhiên, Công ty SJC không được tiếp tục sản xuất vàng miếng mà chỉ được gia công vàng miếng SJC 99,99% theo chỉ đạo của NHNN về hạn mức, thời điểm sản xuất và nguồn vàng nguyên liệu để tổ chức sản xuất vàng miếng. Đồng thời, NHNN kiểm soát tuyệt đối hoạt động gia công vàng miếng thương hiệu quốc gia của Công ty SJC (như niêm phong khuôn, máy dập, có tổ giám sát tại SJC trong suốt quá trình sản xuất, kiểm định đầu vào và đầu ra chặt chẽ). -Quyết định chấm dứt hoạt động huy động vàng của các TCTD: Nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô lớn đã được giải quyết đồng thời rủi ro đối với người dân và TCTD cho vay vàng sẽ được loại bỏ. Nếu cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) tiếp tục huy động vàng càng khuyến khích tâm lý giữ vàng của người dân, thúc đẩy tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Nếu huy động vào nhưng không thu xếp được đầu ra, sẽ rủi ro rất lớn. Thời gian vừa qua giá vàng lên cao, các ngân hàng phải chịu chi phí rất lớn khi mua lại số vàng đã chuyển đổi để chuyển lại vàng cho khách hàng là một ví dụ rõ ràng. Chấm dứt hoạt động huy động và cho vay bằng vàng tại các TCTD đang được triển khai một cách quyết liệt. Các NHTM phải tích cực mua vàng để bù đắp trạng thái, trả vàng cho khách hàng. Từ tháng 4/2012 trở lại đây số vàng các TCTD mua lại từ thị trường khoảng 60 tấn. Theo số liệu của các TCTD thì các TCTD còn phải mua thêm 20 tấn vàng từ thị trường. Sau khi
- 17 chấm dứt hoàn toàn hoạt động huy động, cho vay chuyển sang mua bán, NHNN thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách và từng bước chủ động vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị trường; bảo đảm quyền lợi hợp pháp và hài hòa của các chủ thể tham gia thị trường vàng miếng theo quy định; có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Qua quá trình cạnh tranh tự nhiên trên thị trường vàng, từ lâu SJC đã trở thành thương hiệu được đông đảo người dân lựa chọn, tin tưởng. Vàng SJC chiếm trên 90% lượng vàng trong nền kinh tế. Do vậy, để giảm chi phí xã hội cũng như tránh gây xáo trộn trên thị trường khi chuyển đổi, NHNN đã quyết định chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia. Với việc Chính phủ ban hành 02 Nghị định 24 và 95, Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp lý quản lý thị trường vàng cùng với chế tài xử lý mạnh mẽ tạo nền tảng để chúng ta triển khai các bước tiếp theo. -NHNN tổ chức đấu thầu (2013)Theo Thông tư số 06/2013/ TT- NHNN ngày 12/3/2013 cùa NHNN về hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước: NHNN có thể tùy từng thời điểm để tổ chức đấu thầu (đấu thầu theo giả́ hoặc theo khối lượng) và mua bán trực tiếp. Quy trình đấu thầu (gồm 11 bước từ khi thông báo đến ký văn bản xác nhận, mua bán) và mua bán trực tiếp (gồm 7 bước từ thông báo mua bán, tổ chức chuyển tiền đặt cọc). Khi đấu thầu theo khối lượng, trường hợp tổng số lô vàng miếng đặt thầu bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHNN mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu bằng khối lượng doanh nghiệp, tổ chức tín dụng đặt thầu. Nếu số lô đặt thầu vượt quá khối lượng NHNN thông báo thì mức trúng thầu xếp thứ tự từ cao nhất xuống thấp nhất, Trường hợp ở mức khối lượng trúng thầu thấp nhất có nhiều dơn vị đặt mua hoặc bán thì khối lượng còn lại chia đều cho tất cả. Khi đấu thầu theo giá, xét theo thứ tự giảm dần từ giá trúng cao nhất cho tới thấp nhất mà tại đó NHNN bán dược khối lượng tối đa; hoặc xét theo thứ tự từ thấp đến cao nếu NHNN mua
- 18 được khối lượng tối đa, Giá trúng thầu của từng đơn vị là giá đặt thầu của chính đơn vị đó. Tính cho đến hết ngày 26/7/2013, sau 4 tháng triển khai, đã có 47 phiên đấu thầu bán vàng miếng SJC, tổng khối lượng trúng thầu là 1.271.400 lượng (giảm 49 tấn) trên tổng số 1.374 000 lượng chào thầu. Kết quả 47 phiên đấu giá vàng miếng cho thấy, quy trình đấu thầu cùa NHNNđược thực hiện thông suốt, đúng quy định tại Thông tư số 06/2013/ TT-NHNN ngày 12/3/2013 và Quyết định số 563/QĐ-NHNN ngày 18/3/2013 của NHNN. Mục tiêu cao nhất của việc NHNN tổ chức đấu thầu vàng miếng trước thời điểm 30/6/2013 với tư cách là người kiến tạo và bảo đảm nguồn cung vàng miếng cho thị trường đã được thực hiện tốt. Các hoạt động đấu thầu vàng miếng sẽ được tiếp tục với sự tuân thủ các nguyên tắc thị trường ngày càng đầy đủ hơn và sự tham gia rộng rãi, tự do hơn của các đối tượng và chủ thể thị trường. Các yêu cầu về phương thức thanh toán và cung ứng vàng trúng thầu cũng cần được nâng cao hơn để bảo đảm an ninh ngoại hối và quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường này. Đặc biệt, cần khẳng định mục tiêu cao nhất của quản lý nhà nước đối với thị trường vàng miếng là góp phần ổn định và dễ dự đoán các động thái thị trường vàng trong nước theo sát các động thái giá và xu hướng thị trường vàng thế giới. -Những giải pháp bình ổn thị trường vàng thời gian tới: Trong thời gian tới, để bình ổn thị trường vàng trong nước, đặc biệt là quản lý thị trường vàng miếng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của NHNN theo quy định của Luật NHNN, theo đúng tinh thần Nghị định 24/2012/NĐ-CP và Nghị định 86/1999/NĐ-CP về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước, Quyết định 16/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về mua bán vàng miếng của NHNN trên thị trường trong nước và các văn bản hướng dẫn thi hành hai Nghị định nêu trên, cần có sự thống nhất nhận thức và đồng bộ, nhất quán trong định hướng mục tiêu và sử dụng các công cụ quản lý thị trường này. Theo đó, NHNN thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách và từng bước chủ động vai trò là người kiến tạo và mua bán cuối cùng trên thị
- 19 trường; bảo đảm quyền lợi hợp pháp và hài hòa của các chủ thể tham gia thị trường vàng miếng theo quy định; có những giải pháp thích hợp để huy động được nguồn vàng trong dân cư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động đấu thầu vàng miếng sẽ được tiếp tục với sự tuân thủ các nguyên tắc thị trường ngày càng đầy đủ hơn và sự tham gia rộng rãi, tự do hơn của các đối tượng và chủ thể thị trường. Các yêu cầu về phương thức thanh toán và cung ứng vàng trúng thầu cũng cần được nâng cao hơn để bảo đảm an ninh ngoại hối và quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường này. Đặc biệt, cần khẳng định mục tiêu cao nhất của quản lý nhà nước đối với thị trường vàng miếng là góp phần ổn định và dễ dự đoán các động thái thị trường vàng trong nước theo sát các động thái giá và xu hướng thị trường vàng thế giới; theo yêu cầu của Quốc hội, cần gia tăng sự liên thông thị trường của vàng trong nước với vàng quốc tế, từng bước thu hẹp sự cách biệt giá trong nước và quốc tế; giải tỏa sức ép các yếu tố tâm lý về sự khan hiếm vàng giả tạo, cũng như các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, găm giữ vàng và kỳ vọng tăng giá một chiều trong tương lai; giảm dần giao dịch vàng miếng để chuyển sang giao dịch tập trung, có tổ chức các sản phẩm khác của vàng với hệ thống các công cụ bảo hiểm rủi ro; ngày càng hội nhập và tiếp cận được những sản phẩm tài chính quốc tế; ưu tiên lợi ích ổn định vĩ mô và cân đối, bảo đảm an toàn dự trữ ngoại hối; ngăn chặn các hiện tượng liên kết làm giá, giữ giá, đẩy giá trong và sau đấu thầu vàng miếng; giám sát việc sử dụng vàng và giá bán lẻ đối với lượng vàng trúng thầu; giảm thiểu việc các tổ chức tín dụng cho vay để kinh doanh vàng; nâng cao hơn các yêu cầu minh bạch hóa và phòng chống rửa tiền trong kinh doanh vàng...Hơn nữa, cần tránh ngộ nhận và đồng nhất việc độc quyền nhập khẩu và dập vàng thương hiệu quốc gia giống như độc quyền sản xuất tiền của Chính phủ, càng không thể quản lý vàng theo thương hiệu quốc gia như một dạng tiền tệ chính thức quốc gia.
- 20 ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP BÌNH ỔN THỊ TRƯỜN VÀNG: 1.10 Giai đoạn 2008-2009: Năm 2008, với việc sử dụng biện pháp nhập khẩu vàng. Việt Nam trở thành một trong những nước nhập khẩu vàng hàng đầu của thế giới. Chỉ trong vòng 7 tháng đầu năm 2008, Việt Nam nhập khẩu khoảng 62 tấn vàng. Cho tới trước thời điểm dừng nhập khẩu vàng thì tổng giá trị nhập khẩu vàng cho năm 2008 là 1,7 tỷ USD (45 tấn), so với tổng giá trị nhập khẩu vàng của cả năm 2007 là 1,6 tỷ USD (70 tấn). Để chống nhập siêu, đầu năm 2009, NHNN chỉ cấp quota xuất vàng mà không cho phép nhập khẩu vàng. Biện pháp này tỏ ra hữu hiệu khi giá vàng trong nước thấp hơn quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp này tiềm tàng nhiều rủi ro. Nhất là trong thời gian đầu năm 2009 giá vàng trong nước bị đẩy lên cao hơn giá thế giới. Thị trường vàng trong nước hầu như đóng băng do có tình trạng ghìm hàng chờ giá, mặc dù lượng vàng tích lũy trong dân rất lớn nhưng người dân không bán ra cũng khiến lượng vàng trên thị trường trở nên khan hiếm. Thị trường vàng trong nước bất ổn, thường xuyên có các cơn sốt vàng, người dân đổ xô đi mua, bán vàng, hoạt động đầu cơ trên thị trường diễn ra mạnh mẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường ngoại hối và tỷ giá, chỉ số giá cả và ổn định kinh tế vĩ mô, thậm chí chí gây bất ổn an ninh, trật tự xã hội. Các sàn vàng thu hút hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị tham gia... Chính vì vậy mà năm 2009, Chính phủ đã chính thức cấm và chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. 1.11 Giai đoạn 2010-2011: Theo thông tư 32, bắt đầu từ 6/10/2011, 5 ngân hàng thương mại, gồm: ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, DongA Bank và Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) được phép thực hiện bán vàng từ số vàng tồn quỹ theo giá hợp lý Ngay trong ngày đầu tiên thực hiện, 5 đơn vị nói trên và SJC đã bán ra trên 5 tấn vàng. Lập tức, giá vàng hạ nhiệt mạnh, từ mức giá bán ra 44,63 triệu đồng/lượng ngày hôm trước, cuối giờ ngày 6/10 chỉ còn 44
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tác động của các sự kiện chính trị thế giới đến thị trường chứng khoán Việt Nam
6 p | 14 | 6
-
Quản lý thị trường bất động sản Bình Phước và bài học từ Bình Dương
8 p | 13 | 6
-
Các nhân tố tác động đến cơ cấu nguồn vốn: Nhìn từ góc độ ngành bất động sản Việt Nam
4 p | 79 | 6
-
Hiệu quả sử dụng vốn vay ngân hàng của các hộ nông dân trên địa bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2009 - 2011
8 p | 104 | 6
-
Khoá luận tốt nghiệp: Đánh giá hiệu quả công tác quản lý thuế TNDN tại Đội kiểm tra thuế 3 Chi cục thuế quận Bình Thạnh, TP.HCM
58 p | 30 | 5
-
Khoá luận tốt nghiệp: Đánh giá các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng thẻ ATM tại ngân hàng An Bình chi nhánh Sài Gòn
98 p | 51 | 5
-
Giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
8 p | 7 | 4
-
Dự báo tác động của hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
20 p | 21 | 4
-
Khoá luận tốt nghiệp: Đánh giá sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP An Bình PGD Phú Mỹ Hưng
108 p | 35 | 4
-
Đánh giá đóng góp năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng ngành nông nghiệp tỉnh An Giang
9 p | 50 | 4
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Dầu khí toàn cầu chi nhánh Ninh Bình
9 p | 50 | 4
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác dự toán ngân sách tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương
9 p | 93 | 4
-
Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đổi mới quản lý công tác sinh viên ở các cơ sở đào tạo của ngân hàng nhà nước
9 p | 66 | 4
-
Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Kho Bạc Nhà nước huyện Đồng Phú T.Bình Phước trong điều kiện vận hành Tabmis
6 p | 48 | 3
-
Vai trò quỹ tín dụng nhân dân trong phát triển kinh tế nông thôn
5 p | 53 | 3
-
Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách tại các xã, phường, thị trấn thuộc huyện Gia Viễn - tỉnh Ninh Bình
9 p | 76 | 3
-
Đánh giá và đề xuất giải pháp phân phối cổ tức của các công ty niêm yết trên hose
9 p | 73 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn