intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại trên cơ sở các tiêu chuẩn tối thiểu của EU

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

5
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung vào địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự, chủ yếu là các quyền tố tụng của bị hại. Cụ thể, nhóm tác giả đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại từ góc độ Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU (ngày 25 tháng 10 năm 2012), nhằm thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền, hỗ trợ và bảo vệ bị hại (nạn nhân) của tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại trên cơ sở các tiêu chuẩn tối thiểu của EU

  1. ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ BỊ HẠI TRÊN CƠ SỞ CÁC TIÊU CHUẨN TỐI THIỂU CỦA EU Nguyễn Khánh Hùng 1, Trần Thị Thanh Hằng 1 1. Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Bài viết tập trung vào địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự, chủ yếu là các quyền tố tụng của bị hại. Cụ thể, nhóm tác giả đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại từ góc độ Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU (ngày 25 tháng 10 năm 2012), nhằm thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền, hỗ trợ và bảo vệ bị hại (nạn nhân) của tội phạm. Từ khóa: Bị hại trong tố tụng hình sự, bảo vệ bị hại, quyền của bị hại, trợ giúp pháp lý cho bị hại. NỘI DUNG BÀI VIẾT Chỉ thị 2012/29/EU ngày 25 tháng 10 năm 2012 được coi là một bước tiến quan trọng, hướng tới các chuẩn mực liên quan đến việc bảo vệ nạn nhân - nhóm chủ thể quan trọng trong tư pháp hình sự của mỗi quốc gia, trong đó đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề này được xem là khía cạnh có ý nghĩa lớn trong việc tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế và thúc đẩy hoàn thiện pháp luật quốc gia. Mục đích của chỉ thị là tăng cường quyền của nạn nhân, thiết lập các tiêu chuẩn và biện pháp bảo vệ nạn nhân. Với nhóm tác giả, khi lựa chọn nghiên cứu nội dung này, đồng nghĩa với việc: Trước hết, đây là một vấn đề quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự của mỗi quốc gia; Thứ hai, mặc dù có nhiều công bố của các nhà khoa học và các học giả, nhưng việc nghiên cứu thông qua lăng kính các tiêu chuẩn này còn hạn chế, nhất là ở Việt Nam. Vì vậy, việc xem xét sâu hơn các quy định của Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU có ý nghĩa trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định liên quan tới bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, với mong muốn tiếp tục xem xét, đánh giá sự tương thích/ phù hợp giữa về vấn đề này. 1. KHÁI NIỆM BỊ HẠI/ NẠN NHÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ SO SÁNH VỚI CÁC TIÊU CHUẨN TỐI THIỂU CỦA EU Khái niệm nạn nhân/ bị hại được coi đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tư pháp hình sự của mỗi quốc gia. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về bị hại trong tố tụng hình sự, cụ thể nạn nhân của tội phạm hay còn gọi là bị hại “được dùng trong hệ thống tư pháp hình sự nhằm để chỉ một người bị thiệt hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản do hành vi phạm tội của một người hoặc một nhóm người hay một tổ chức gây ra cho họ” (The United Nations Declaration of Basic Principles of Justice for Victims of Crime and Abuse of Power (ban hành theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) số 40/33 ngày 29/11/1985). Trong khi đó, Chỉ thị 2012/29/EU đưa ra khái niệm nạn nhân (bị hại) như sau: “Vì mục đích của Chỉ thị này, các định nghĩa sau sẽ được áp dụng: “nạn nhân” có nghĩa là: (i) một thể nhân bị tổn hại, bao gồm tổn hại về thể chất, tinh thần hoặc tình cảm hoặc thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra; (ii) Thành viên gia đình của một người mà cái chết của người đó trực tiếp do tội phạm gây ra và bị tổn hại do cái chết của người đó mang lại” (Điều 2 Chỉ thị). Đối với vụ án có người bị hại là trẻ em (người chưa thành niên), giới nghiên cứu chính sách pháp luật trên thế giới cũng đã có những bàn luận về khái niệm “nạn nhân của tội phạm” dựa trên 2 bình diện: “(i) nạn nhân là trẻ em là đối tượng bị thiệt hại trực tiếp bởi tội phạm, bao gồm cả khi đứa trẻ này là nạn nhân của một hoặc nhiều đứa trẻ khác phạm tội; (ii) những đứa trẻ là nhân chứng của hành vi phạm tội, chúng sẽ phải tham gia vào hệ thống tư pháp hình sự, bị triệu tập lấy lời khai trong quá trình điều tra và có thể bị công khai hoặc kỳ thị do 262
  2. sự tham gia của chúng” (Finkelhor D., Paschall M.J., Hashima P.Y. (2001), Juvenile Crime Victims in the Justice System. In: White S.O. (eds) Handbook of Youth and Justice. The Plenum Series in Crime and Justice. Springer, Boston, MA). Tại Việt Nam, quyền con người được ghi nhận trong văn bản pháp lý quan trọng là Hiến pháp (Chương II Hiến Pháp năm 2013) và được cụ thể hóa trong các văn bản luật chuyên ngành. Đối với lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền con người trở nên nhạy cảm hơn, chính vì thế Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam năm 2015 (Sđ, bs năm 2021) gọi tắt là Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những quy định gắn liền với từng nhóm chủ thể tham gia tố tụng, trong đó quy định về bị hại: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” (khoản 1 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015). Trường hợp, bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Nếu bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Như vậy, ở góc độ thuật ngữ thì khái niệm “bị hại” là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra có sự khác nhau theo tuyên bố chung của Liên hợp quốc. Điều này thể hiện rõ ràng khi Chỉ thị khẳng định “nạn nhân của tội phạm” được ghi nhận ở phạm vi rộng hơn việc một cá nhân bị thiệt hại bởi hành vi phạm tội, bao gồm cả người thân trong gia đình, những người phụ thuộc trực tiếp của nạn nhân và những người bị tổn hại trong việc can thiệp và hỗ trợ nạn nhân. So sánh với quy định pháp luật Việt Nam, khái niệm “bị hại” trong Bộ luật TTHS hiện hành không bao gồm thành viên gia đình của một người mà cái chết của người đó trực tiếp do tội phạm gây ra hoặc bị tổn hại do cái chết của người đó mang lại, mà chỉ quy định trong những trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc trường hợp trường hợp bị hại chết hoặc bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện của họ sẽ tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Như vậy: - Tư cách bị hại có thể được trao cho các cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong khi các quy định của Chỉ thị chỉ áp dụng cho các cá nhân. - Theo Chỉ thị nếu nạn nhân/ bị hại chết thì địa vị pháp lý của bị hại sẽ áp dụng cho các thành viên gia đình của người đó. Hiểu theo nghĩa của Chỉ thị, thì tư cách “bị hại” trong trường hợp này áp dụng cho vợ/chồng, người có mối quan hệ lâu dài với nạn nhân/ bị hại, người sống cùng nhà với nạn nhân/ bị hại và cả anh/ chị/ em và những người phụ thuộc của nạn nhân/ bị hại (Điều 2 Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU). So với quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì các trường hợp xác định tư cách “bị hại” trong Chỉ thị có phần hẹp hơn (chỉ quy định trường hợp chết), nhưng Chỉ thị có ưu điểm là xác định phạm vi đối tượng có thể trở thành bị hại “rộng” hơn bao gồm cả những người khác có mối quan hệ thân thiết với nạn nhân/ bị hại cũng như những người phụ thuộc. Bên cạnh đó, đối với các trường hợp bị hại chết, bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, pháp luật TTHS Việt Nam quy định những người tham gia tố tụng như cha/ mẹ, vợ/ chồng...chỉ có thể là người đại diện hợp pháp của bị hại, ngược lại trong Chỉ thị khẳng định rõ ràng rằng nếu nạn nhân/ bị hại chết do tội phạm gây ra thì địa vị pháp lý của nạn nhân/ bị hại sẽ áp dụng cho các thành viên gia đình của người đó. 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ QUYỀN CỦA BỊ HẠI THÔNG QUA CÁC TIÊU CHUẨN TỐI THIỂU CỦA EU 2.1. Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền tố giác tội phạm Qua tham khảo, cho thấy các quyền này được quy định trong Điều 5, Điều 6 và Điều 11 Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU ngày 25 tháng 10 năm 2012. Theo đó, Chỉ thị quy định rằng nạn nhân có thể tố giác tội phạm bằng lời nói hoặc bằng văn bản tại đồn cảnh sát địa 263
  3. phương, qua điện thoại hoặc trực tuyến. Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm phải tiếp nhận tố giác và việc này phải được ghi nhận bằng biên bản nhằm xác nhận rằng tố giác tội phạm của bị hại đã được thực hiện. Bị hại có quyền tố giác tội phạm bằng ngôn ngữ của họ, đồng thời có quyền có người phiên dịch. Khi bị hại thực hiện tố giác tội phạm, Chỉ thị nêu rõ cơ quan có thẩm quyền cần biết liệu bị hại có nói hoặc hiểu được ngôn ngữ đó hay không, đồng thời có quyền nhận một số thông tin nhất định về vụ việc “của chính mình” (Điều 5 Chỉ thị). Đồng thời, Chỉ thị cũng khẳng định tất cả các nạn nhân/ bị hại có quyền nhận thông tin liên quan đến quyết định tố tụng hình sự trong suốt quá tình giải quyết vụ án hình sự (Điều 6 Chỉ thị). Trong khi đó, theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, khi quy định về ý chí của bị hại hoặc người đại diện có trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại - trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Hiểu một cách khác, trong một số trường hợp luật định, việc khởi tố vụ án hình sự phụ thuộc vào ý chí của bị hại, người đại diện (Khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015), nghĩa là đối với những trường hợp này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được tự ra quyết định khởi tố trong những trường hợp này. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bị hại hoặc người đại diện rút yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ. Đối với, quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, Chỉ thị quy định trong cho phép bị hại có quyền không yêu cầu khởi tố đối với vụ án hình sự (Điều 11 Chỉ thị). Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, bị hại cũng có quyền tố giác tội phạm và việc tố giác có thể bằng miệng hoặc bằng lời nói hoặc bằng văn bản (Khoản 4 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015). Nhìn chung, những quy định được nêu trong các Điều 5, Điều 6 và Điều 11 Chỉ thị đơn thuần đó là việc thiết lập quyền nộp đơn tố giác, quyền nhận một số thông tin nhất định về vụ việc “của chính mình”, trong một số trường hợp có quyền yêu cầu xem xét lại quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Chiếu theo những quy định của Chỉ thị và so sánh với các quy định trong Bộ luật TTHS Việt Nam về cơ bản đã bao gồm các tiêu chuẩn tối thiểu do Chỉ thị quy định khi nói đến các quyền của bị hại như: quyền không yêu cầu khởi tố, quyền tố giác tội phạm… 2.2. Quyền được đưa ra bằng chứng Quyền đưa ra bằng chứng của bị hại được quy định trong Chỉ thị như một phần của “quyền được lắng nghe” (Điều 10 Chỉ thị). Mục đích của Điều này là đảm bảo rằng tất cả nạn nhân đều có cơ hội cung cấp thông tin, quan điểm hoặc bằng chứng trong suốt quá trình tố tụng hình sự.Theo đó, các quy định được đề cập trong Chỉ thị hướng tới việc tham gia tố tụng hình sự, trong các quyền tố tụng được liệt kê như: Quyền được tôn trọng và thừa nhận ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng; quyền tiếp cận công lý; quyền được bảo vệ quyền riêng tư và sự an toàn về thể chất của nạn nhân/ bị hại; quyền được bồi thường…thì không thể không nói tới quyền của nạn nhân được đưa ra bằng chứng và cung cấp lời khai của mình tại phiên tòa (APAV, 2016, Thực hiện Cải cách hệ thống tư pháp hình sự hướng tới nạn nhân ở Liên minh Châu Âu). Nội dung chủ yếu được đề cập trong Điều 10 của Chỉ thị khá ngắn gọn, chỉ nói rằng nạn nhân có thể làm chứng trong tố tụng hình sự và nộp bằng chứng, đồng thời nói thêm rằng nếu trẻ em muốn đưa ra bằng chứng cần phải quan tâm đến độ tuổi và mức độ trưởng thành của chúng. Ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nêu rõ quyền của nạn nhân/ bị hại được tham gia vào quá trình tố tụng “đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu” (điểm b Khoản 2 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015. Đồng thời, được trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan vụ án và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Quy định này cho thấy, hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn của Chỉ thị. Bên cạnh việc đưa ra chứng cứ, bị hại cũng có quyền đề nghị tiến hành một số hoạt động điều tra như giám định, định giá tài sản, tham gia phiên tòa, bày tỏ quan điểm của mình về từng vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của mình và trong một số trường hợp luật định bị hại hoặc người đại diện của họ được trình bày lời buộc tội tại phiên tòa nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại (khoản 3 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015. Bên cạnh đó, khi quy định về nghĩa vụ của nạn nhân/ bị hại pháp luật TTHS Việt nam quy định rõ “Bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập” và có thể bị “dẫn giải”. Quy định này, so với Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU và một số quốc gia thành viên của EU khi tham gia vào với tư cách là thành viên rõ ràng những quy định trong Chỉ thị chi tiết hơn như: nạn nhân 264
  4. có nghĩa vụ phải thực hiện việc này, việc từ chối làm chứng chỉ có thể thực hiện khi việc đó chống lại bản thân và người thân của họ, nghĩa là vợ chồng, cha mẹ, ông bà, con, cháu, anh chị em cũng như bất kỳ ai mà cá nhân liên quan sống cùng hoặc người mà họ có chung tài sản. Có thể buộc tội hình sự đối với những người từ chối làm chứng hoặc cung cấp bằng chứng mà không có lý do chính đáng, những người cố tình cung cấp bằng chứng giả hoặc những người cung cấp các tài liệu sai sự thật khi yêu cầu tiến hành tố tụng hình sự. Phương pháp chính để thu thập chứng cứ từ nạn nhân là thẩm vấn và quá trình này về cơ bản được quy định bởi các quy tắc tương tự áp dụng cho nhân chứng. Các quy tắc khá khái quát và giống nhau đối với nạn nhân và nhân chứng bị thẩm vấn. Các trường hợp ngoại lệ duy nhất liên quan đến nạn nhân vị thành niên, những người được pháp luật quy định thời gian thẩm vấn ngắn hơn. Người chưa thành niên có thể bị thẩm vấn với sự tham gia của chuyên gia và họ cũng được hưởng một số đảm bảo về thủ tục khác.Trong khi đó, Bộ luật TTHS Việt Nam hiện hành quy định “Nhân chứng” của tội phạm trong điều khoản về “Người làm chứng” và vì thế, trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng và không thực hiện các nghĩa vụ của người làm chứng (Khoản 4 Điều 66 Bộ luật TTHS năm 2015). 2.3. Quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng Chương 4 của Chỉ thị đề cập đến quyền được bảo vệ của nạn nhân. Điều này liên quan đến các quyền được bảo vệ chung (Điều 18), quyền tránh tiếp xúc giữa bị hại và bị cáo (Điều 19), quyền được bảo vệ trong quá trình điều tra tội phạm (Điều 20), quyền được bảo vệ đời sống riêng tư của nạn nhân (Điều 21), đánh giá cá nhân từng nạn nhân (Điều 22) và các bước cần thực hiện đối với những nạn nhân cần được bảo vệ đặc biệt (Điều 23-24). Qua tìm hiểu nội dung, nhóm tác giả nhận thấy, Điều 18 là điều rộng nhất, nêu rõ quyền được bảo vệ nạn nhân và gia đình họ khỏi bị tổn hại về tinh thần và tâm lý cũng như yêu cầu về thủ tục cung cấp sự bảo vệ thân thể cho nạn nhân và gia đình họ (nếu cần), Điều 19 bao gồm việc tránh tiếp xúc, ngoại trừ khi thủ tục tố tụng hình sự yêu cầu, Điều 20 quy định một số biện pháp bảo vệ cụ thể cho nạn nhân trong quá trình tố tụng hình sự, bao gồm: tránh sự chậm trễ vô lý trong việc thẩm vấn nạn nhân; đảm bảo số lượng các cuộc phỏng vấn được giữ ở mức tối thiểu và các thẩm vấn chỉ được thực hiện khi việc điều tra hình sự là cần thiết... Trong khi đó, ở Việt Nam các quy định liên quan đến việc bảo vệ bị hại nằm rải rác trong các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, từ cấp độ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự (Điều 8 Bộ luật TTHS năm 2015), Người tham gia tố tụng (Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015), hoặc trong từng giai đoạn tố tụng việc bảo vệ nạn nhân cũng được đặt ra như: Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, về việc áp dụng biện pháp bảo vệ: Người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại. Điểm chung của các quy định này, là dù với tư cách là nguyên tắc tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự hay những quy định trong các nội dung riêng lẻ của từng Chương chúng ta vẫn nhận thấy rằng đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự phải luôn tính đến các quyền con người được quốc tế công nhận, không bao giờ cho phép hoặc có bất kỳ sự can thiệp không tương xứng nào vào đời sống riêng tư của người đó. Quyền được bảo vệ của nạn nhân được thể hiện rõ nhất trong quá trình lấy lời khai của bị hại: “Việc lấy lời khai bị hại được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó; Nếu vụ án có nhiều bị hại thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai; Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho bị hại biết quyền và nghĩa vụ của họ. Việc này phải ghi vào biên bản; Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra viên phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng, bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của bị hại. Điều tra viên yêu cầu bị hại trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi; Trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai bị hại” (Điều 188 Bộ luật TTHS năm 2015). Tuy nhiên, có một điều dễ dàng nhận thấy, pháp luật TTHS Việt Nam chưa có quy định riêng, cụ thể về trình tự, thủ tục, thời gian tổ chức lấy lời khai bị hại nên vấn đề bảo đảm quyền con người theo tinh thần/ tiêu chuẩn quốc tế nói chung, Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU nói riêng vẫn chưa được bảo đảm, đồng 265
  5. thời gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong quá trình tổ chức thực hiện. Đặc biệt, trường hợp bị hại là người đối với bị hại dưới 18 tuổi (khoản 2 Điều 421 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Bộ luật TTHS Việt Nam cũng không đề cập đến việc đánh giá cá nhân bị hại, điều đó có nghĩa là các thủ tục có thể được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của từng bị hại. Nếu không có cơ chế cụ thể hơn để bảo vệ bị hại, việc bảo vệ thực tế từng bị hại phụ thuộc vào tính chuyên nghiệp và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. 2.4. Quyền được trợ giúp pháp lý Quyền được trợ giúp pháp lý (Điều 13 Chỉ thị) đảm bảo rằng nạn nhân không bị ngăn cản tham gia tố tụng hình sự do hạn chế về tài chính (Điều 14 Chỉ thị). Các quy định này khá chung chung khi cho rằng nạn nhân phải được tiếp cận hỗ trợ pháp lý nếu họ có tư cách là người tham gia tố tụng hình sự, đồng thời, đảm bảo rằng nạn nhân không bị ngăn cản tham gia tố tụng hình sự do hạn chế về tài chính. Về cơ bản, Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2015 thể hiện sự tương đồng trong vấn đề này của Chỉ thị. Cũng như người bị buộc tội, bị hại trong tố tụng hình sự cũng có quyền được trợ giúp pháp lý “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này” (Điều 16 Bộ luật TTHS năm 2015), trường hợp đặc biệt liên quan đến người dưới 18 tuổi, Bộ luật TTHS còn dành một Điều riêng về nguyên tắc tiến hành tố tụng mang tính đặc thù (Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015), trong đó có bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý và về người thực hiện trợ giúp pháp lý với các tư cách sau: “(i) người bào chữa (Điều 72), (ii) người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Điều 83), (iii) người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 84)”. 2.5. Quyền được bồi thường Chỉ thị khẳng định quyền được bồi thường của bị hại (Điều 16 Chỉ thị) liên quan đến ba quyền: quyền lấy lại tài sản, quyền nhận tiền bồi thường và quyền được bồi thường những thiệt hại phát sinh do tham gia tố tụng hình sự. Quyền thu hồi tài sản được quy định tại Điều 15 của Chỉ thị, các quy định nêu rõ rằng tài sản đã được thu hồi trong quá trình tố tụng hình sự phải được trả lại ngay cho nạn nhân, trừ các trường hợp khác. Chỉ thị cũng khẳng định rằng, quy trình giải quyết tài sản của bị hại sẽ do mỗi quốc gia thành viên xác định. Về quyền được bồi thường của nạn nhân, đặc biệt là trẻ em, trong Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về nguyên tắc cơ bản có nêu việc áp dụng tư pháp phục hồi là cách thức bảo đảm quyền của nạn nhân là trẻ em và người phạm tội cũng là người chưa thành niên. Điều này đồng thời thúc đẩy tiến trình bồi thường cho người bị hại (London R. (2014), Victims and Restorative Justice. In: Bruinsma G., Weisburd D. (eds) Encyclopedia of Criminology and Criminal Justice. Springer, New York, NY). Bộ luật TTHS năm 2015, không quy định cụ thể về giải quyết việc trả lại tài sản cho bị hại, chỉ quy định một cách chung chung liên quan đến xử lý vật chứng (khoản 2 Điều 106 Bộ luật TTHS năm 2015), nhưng trong quy định của luật Hình sự vấn đề này lại được đề cập cụ thể, theo đó: “1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. 2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại”. (Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, trả lại tài sản là biện pháp tư pháp được Bộ luật hình sự 2015 quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại. Nhằm khôi phục lại tình trạng sở hữu như trước khi tội phạm xảy ra, Bộ luật hình sự quy định người phạm tội phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp người phạm tội đã làm cho tài sản này giảm giá trị thì phải bồi thường thiệt hại bên cạnh việc trả lại tài sản. Có hai điều có thể được thực hiện với tài sản có được do phạm tội hình sự – hoặc nó được trả lại cho bị hại với tư cách là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp hoặc bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước. 266
  6. Bên cạnh đó, khi đề cập đến vấn đề bồi thường, Điều 16 của Chỉ thị quy định rằng các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng nạn nhân trong tố tụng hình sự có quyền nhận được quyết định bồi thường kịp thời từ tội phạm, trừ khi luật pháp của quốc gia liên quan quy định rằng quyết định phải được thực hiện theo cách khác. Các quốc gia thành viên cũng phải thực hiện các bước để khuyến khích tội phạm bồi thường thích đáng cho nạn nhân. Khi nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại, nhóm tác giả cho rằng đây là một trong những vấn đề quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bị hại do tội phạm gây ra.hại trong vụ án hình sự. KẾT LUẬN Ở đây, nhóm tác giả chỉ so sánh ở một số khía cạnh thông qua các quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2015 liên quan đến bị hại, nhìn qua lăng kính các tiêu chuẩn tối thiểu của EU, nên kết luận không nêu cụ thể về việc kiến nghị các điều, khoản trong Bộ luật tố tụng hình sự, mà chỉ đưa ra kết luận chung (nhận xét), cụ thể là một số kết luận sau: Thứ nhất, việc thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu trong Chỉ thị liên quan đến quyền của nạn nhân sẽ đồng nghĩa với việc tiếp thu kinh nghiệm, tạo một bước phát triển mới trong bảo vệ quyền của bị hại/ nạn nhân của tội phạm ở Việt Nam ở cả khía cạnh luật hình sự và luật tố tụng hình sự vì: • Vì bị hại chính là những người tham gia tố tụng thuộc nhóm người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án. Bản thân bị hại khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự sẽ góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định chính xác hơn tư cách tham gia tố tụng. • Vì Chỉ thị áp dụng cho mọi nạn nhân của mọi hành vi phạm tội hình sự, bất kể người đó có được xác định là nạn nhân hay không do quyết định đặc biệt của người có thẩm quyền. Vì vậy, cần phải hoàn thiện các quy định của Luật Tố tụng Hình sự liên quan đến việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại. Bởi vì, hiện nay, Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa quy định cụ thể khi nào cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định là bị hại khi tham gia tố tụng. Trong khi đó, vấn đề này lại được quy định rất cụ thể đối với những người tham gia tố tụng khác như: người làm chứng (người làm chứng được xác định từ khi cơ quan điều tra triệu tập), bị can (bị can được xác định khi có quyết định khởi tố bị can), bị cáo (được xác định khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử). Thứ hai, các quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về bị hại, nhìn qua lăng kính các tiêu chuẩn tối thiểu của EU, có thể đưa ra một số kết luận: Bị hại theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam được xác định rộng hơn, có thể được trao cho các cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Nhưng thiết nghĩ cần cân nhắc theo hướng • Trường hợp, đối với bị hại là cá nhân: Cần xác định phạm vi đối tượng có thể trở thành bị hại bao gồm cả những người khác có mối quan hệ thân thiết với nạn nhân/ bị hại cũng như những người phụ thuộc. • Cần có những bổ sung về: thời gian tổ chức lấy lời khai; đối với việc lấy lời khai của người dưới 18 tuổi cần có quy định cụ thể giải thích người đại diện sẽ bao gồm cả những người thân thích của bị hại; hoặc là quyền được thông báo nếu bị cáo được ra tù… TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. APAV (2016), Thực hiện Cải cách hệ thống tư pháp hình sự hướng tới nạn nhân ở Liên minh Châu Âu. 2. Chỉ thị của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 2012/29/EU (ngày 25 tháng 10 năm 2012). 3. Đạo luật mẫu về những vấn đề liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm, https://www.unicef.org/eca/UNDOC-UNICEF_Model_Law_on_Children.pdf. 267
  7. 4. Finkelhor D., Paschall M.J., Hashima P.Y. (2001), Juvenile Crime Victims in the Justice System. In: White S.O. (eds) Handbook of Youth and Justice. The Plenum Series in Crime and Justice. Springer, Boston, MA. https://doi.org/10.1007/978-1-4615-1289-9_2. 5. London R. (2014), Victims and Restorative Justice. In: Bruinsma G., Weisburd D. (eds) Encyclopedia of Criminology and Criminal Justice. Springer, New York, NY. https://doi.org/10.1007/978-1-4614- 5690-2_327. 6. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28/11/2013. 7. Quốc Hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật số 101/2015/QH13, ngày 27/11/2015 được sửa đổi, bổ sung Bởi Luật số 02/2021/QH15 s9ửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 03/12/2021. 8. Quốc Hội (2015), Bộ luật hình sự, Bộ luật số 100/2015/QH13, ngày 27/11/2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 20/06/2017. 9. The United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice (Quy tắc Bắc Kinh - The Beijing Rules) ban hành theo Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 40/33 ngày 29 tháng 11 năm 1985. 10. The United Nations Declaration of Basic Principles of Justice for Victims of Crime and Abuse of Power ban hành theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) số 40/33 ngày 29/11/1985. 268
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2