
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là loại ung thư phổ biến nhất và cũng là nguyên nhân
chính gây tử vong do ung thư đối với phụ nữ trên toàn thế giới. Bệnh chiếm
25% tỉ lệ chết do ung thư ở các nước phát triển [1], [2]. Theo số liệu của
Globocan 2012, ung thư vú là bệnh phổ biến đứng hàng thứ 1 trên toàn thế
giới và ước tính khoảng 1,671,149 triệu ca mới mắc, số ca tử vong là 521,907.
Tại Việt nam UTV đứng hàng số 1 ở nữ, số ca mắc mới là 11,087, số ca tử
vong là 4,671 [3]. Theo ghi nhận UT tại Việt Nam, năm 2010 nữ giới có tỷ lệ
mắc ung thư chung là 134,9/100.000 dân, tăng hơn so với năm 2000 có
101.6/100.000 dân, tỷ lệ ung thư vú là 29.9/100.000 dân tăng hơn so với năm
2000 có 17.4/100.000 dân [4].Tỷ lệ mắc ung thư vú ngày càng tăng do các
yếu tố về môi trường, chế độ ăn, di truyền và nội tiết.
Tuy nhiên, kết quả điều trị căn bệnh này đang từng bước được cải thiện
nhờ những thành tựu đạt được trong phòng bệnh, sàng lọc phát hiện sớm và
điều trị, đặc biệt là các tiến bộ trong điều trị hệ thống bao gồm hóa chất, nội
tiết và sinh học [1], [5].
Điều trị ung thư vú là sự kết hợp chặt chẽ giữa các phương pháp tại
chỗ, tại vùng bằng phẫu thuật và xạ trị, toàn thân bằng hóa chất, nội tiết và
sinh học.
Điều trị hóa chất bổ trợ có nhiều thay đổi trong hai thập kỷ qua. Các
phác đồ hóa chất bổ trợ không có Doxorubicin (CMF: Methotrexat,
Fluorouracil, Cyclophosphamid) hoặc có Doxorubicin (AC: Doxorubicin,
Cyclophosphamid …) làm giảm nguy cơ tái phát và tử vong đáng kể trong
ung thư giai đoạn sớm [6]. Theo kết quả đa phân tích của Nhóm hợp tác các
thử nghiệm lâm sàng ung thư vú sớm cho thấy cả hai loại phác đồ này làm
giảm nguy cơ tái phát là 11%, giảm nguy cơ tử vong là 12%. Thời gian sống
thêm không bệnh và thời gian sống thêm toàn bộ của bệnh nhân được điều trị