Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 4
download
Bài viết tìm hiểu thực trạng đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay; giải pháp giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
- LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay Meeting housing needs for workers in industrial parks making successful development of socio-economic situation in Vietnam Nguyễn Thị Nhan Email: nguyenthinhan010187@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 24/5/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/12/2018 Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018 Tóm tắt Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển thị trường nhà ở cho những người có khả năng thanh toán, tại Việt Nam vẫn còn những đối tượng gặp khó khăn về nhà ở, trong đó phải kể đến số lượng lớn công nhân tại các khu công nghiệp (KCN) - đối tượng đang có số lượng đông đảo và có xu hướng ngày càng gia tăng. Theo kết quả khảo sát cho thấy, 80% công nhân tại các KCN hiện nay đang phải sống trong những nhà trọ chật hẹp, không đủ các điều kiện về vệ sinh môi trường. Điều này không chỉ gây trở ngại trong ổn định cuộc sống của người công nhân mà còn ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa người công nhân với doanh nghiệp và sự phát triển bền vững về mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một trong những vấn đề xã hội bức xúc cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả. Vì vậy, bài viết đã đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay. Từ khóa: Công nhân; gia đình công nhân; khu công nghiệp. Abstract In addition to promoting the housing market for those who are able to pay, in Vietnam there are still people with housing difficulties, including the large number of workers in industrial zones - the number of people is increasing and increasing. According to the survey results, 80% of workers in industrial zones currently live in cramped motels, not enough environmental sanitation conditions. This not only hinders the stabilization of workers’ lives, but also affects the link between workers and businesses and the country’s socio-economic sustainability. This is one of the pressing social issues that need to be resolved in a timely and effective manner. Therefore, the article has given some solutions to solve the problem of housing for workers in the current industrial zones. Keyewoks: Worker; workers’ families; industrial area. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ cần có nhà ở, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối thiểu để nghỉ ngơi nhằm tái tạo lại sức lao động và Nhà ở là một trong những nhu cầu tối thiểu của mỗi tiếp tục cho quá trình sản xuất. Người công nhân con người, bảo đảm nhà ở cho người dân là một sẽ yên tâm làm việc và gắn bó với doanh nghiệp, trong những vấn đề luôn được quan tâm ở mọi KCN nếu như họ được đảm bảo về nhà ở và các thời đại. Đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho công nhân điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống. tại các KCN là một trong những yếu tố quyết định chất lượng cuộc sống và tái sản xuất sức lao động Ngược lại, khi phải sống trong điều kiện không của công nhân. Sau thời gian làm việc, công nhân đảm bảo về chỗ ở, người công nhân sẽ rơi vào trạng thái lo lắng, tinh thần bất an, do đó làm giảm sự tập trung trong công việc, đóng góp của họ Người phản biện: 1. PGS.TS. Đỗ Thi Thạch vào hoạt động sản xuất của đơn vị sử dụng lao 2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên động bị giảm sút, đồng thời xu hướng chuyển việc, Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 123
- NGHIÊN CỨU KHOA HỌC “nhảy việc” diễn ra thường xuyên. Hay nói cách tâm, tiến hành thực hiện tốt những chủ trương, khác, nhóm công nhân này không thể “an cư” để chính sách liên quan đến vấn đề này. “lạc nghiệp”. 2. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU NHÀ Thực tế cho thấy, khi công nhân phải sống trong Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG những ngôi nhà không đảm bảo điều kiện vệ sinh, NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY an ninh trật tự thì nguy cơ về bệnh tật, những rắc rối trong cuộc sống cũng sẽ tăng lên. Tình trạng Theo ước tính, hiện nay Việt Nam có khoảng gần sức khỏe của công nhân không tốt hoặc những 2 triệu công nhân đang làm việc, sinh sống tại bất ổn trong cuộc sống sẽ làm giảm hiệu quả gần 200 KCN trên cả nước, nên nhu cầu nhà ở làm việc, năng suất sản xuất của nhà máy bị ảnh cho công nhân đang rất lớn [3]. Việc chăm lo giải hưởng theo chiều hướng xấu. quyết nhà ở cho công nhân luôn được Đảng và Việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các Nhà nước ta quan tâm, xác định là một vấn đề KCN, không chỉ đảm bảo tinh thần làm việc cho xã hội, một nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh người công nhân mà còn là động lực để giữ chân tế - xã hội. Đến nay cả nước đã đưa vào sử dụng công nhân tại các doanh nghiệp, ổn định nhân sự 3,7 triệu m2 nhà ở xã hội tại các KCN, góp phần là yếu tố quan trọng khi tiến hành các hoạt động giải quyết chỗ ở cho gần 500.000 người lao động sản xuất. Với nhân sự ổn định, doanh nghiệp sẽ có thu nhập thấp, là công nhân tại các KCN [7]. không phải mất thời gian đào tạo nhân lực mới Đảng, Nhà nước và các địa phương đã đưa ra được tuyển dụng, tạo điều kiện duy trì và nâng nhiều đường lối, chính sách nhằm tạo hành lang cao năng suất lao động, từ đó gia tăng lợi nhuận. pháp lý cho các hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân như: chính sách vay vốn, Công nhân tại các KCN chủ yếu xuất thân từ các ưu đãi vốn chỉ tiêu quy hoạch và miễn giảm thuế... gia đình nông dân ở các địa phương thuộc nhiều vùng nông thôn trong cả nước. Đa phần có tuổi Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát đời trẻ, mới tốt nghiệp trung học phổ thông (số ít triển nhà ở cho công nhân trong các KCN chưa có trình độ trung học cơ sở) đến làm việc tại các đáp ứng được nhu cầu, chưa đạt chỉ tiêu đã đề KCN [1]. Họ có nhu cầu tìm kiếm nhà ở để ổn định ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia. cuộc sống nhưng do thu nhập thấp và muốn có Tính đến tháng 11/2016, cả nước mới hoàn thành thêm tiền tích lũy nên họ thường chọn những nhà đầu tư xây dựng xong 179 dự án nhà ở xã hội trọ giá rẻ để “sống tạm”. Họ biết phòng trọ giá rẻ tại khu vực đô thị và các KCN, bằng 28% chỉ tiêu có diện tích nhỏ hẹp, điều kiện vệ sinh, an ninh đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia trật tự không đảm bảo, nhưng vì muốn giảm thiểu đến năm 2020. Các bộ, ngành, địa phương cho các chi phí sinh hoạt, họ đành chấp nhận thuê để rằng, việc cân đối nguồn vốn ngân sách cho phát sống tạm qua ngày. Những công nhân chưa kết triển nhà ở xã hội hiện nay còn gặp không ít khó hôn thường ở ghép 2 đến 4 người/1 phòng trọ để khăn. Việc phát triển phân khúc nhà ở cho thuê giảm chi phí [2] . Việc tập trung đông công nhân còn chậm, mặc dù nhiều chính sách đã được triển mới nhập cư tại khu vực vốn có điều kiện vệ sinh, khai, tuy nhiên nhiều địa phương chưa kịp thời, an ninh trật tự không tốt sẽ làm nảy sinh các tệ dẫn tới kết quả thực hiện chương trình nhà ở xã nạn xã hội và làm cho vệ sinh môi trường khu vực hội còn chậm, nhất là các dự án nhà ở xã hội tại đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Thêm vào đó các KCN. tâm lý sống tạm bợ sẽ khiến cho số lượng công Đồng thời, việc trực tiếp xây dựng nhà ở xã hội nhân tại địa phương luôn dao động, gây tác động cho công nhân trong các KCN chủ yếu là do doanh xấu đối với đơn vị tuyển dụng, do đó lợi nhuận của nghiệp sử dụng lao động xây dựng. Nhưng hiện các doanh nghiệp tại các KCN có thể giảm do số nay xu hướng các doanh nghiệp quan tâm giải lượng công nhân không ổn định. Sự giảm sút về quyết vấn đề nhà ở cho công nhân có chiều hướng lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến đóng góp của doanh giảm, các KCN đang xem nhẹ việc cung ứng nhà ở nghiệp vào nguồn thu của địa phương giảm... cho công nhân. Việc phát triển các doanh nghiệp, Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề nhà ở cho nhất là các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập công nhân làm việc tại các KCN là điều mà chính trung vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh quyền trung ương và địa phương cần phải quan mà chưa chú ý xây dựng các công trình hạ tầng 124 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
- LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC xã hội thiết yếu như: nhà tập thể, nhà trẻ, trường ngoài và doanh nghiệp nhà nước trung ương có học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... Theo thống khả năng chi trả tiền lương cho người lao động ở kê trên cả nước, trung bình chỉ 1 doanh nghiệp/1 mức 2,5 triệu đồng trở lên [9]. Mặc dù, mức tiền địa phương tự xây dựng hoặc đi thuê nhà cho lương tối thiểu đối với người lao động làm việc công nhân [1]. tại các doanh nghiệp tăng lên nhưng vẫn còn có những doanh nghiệp chi trả bình quân cho người Trong các doanh nghiệp thực hiện cung cấp nhà lao động ở mức dưới 2 triệu đồng/người/tháng. ở xã hội cho công nhân làm việc tại các KCN, thì Kết quả điều tra cũng cho thấy, số lượng, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần là những doanh nghiệp chi trả mức lương từ 2 đến 2,5 triệu đơn vị tham gia nhiều nhất trong việc cung ứng đồng/người/tháng tương đương với số lượng, nhà ở cho công nhân. Xét về mặt tỷ lệ, nhìn chung tỷ lệ thực hiện chi trả lương thưởng cho người tỷ lệ các doanh nghiệp trong nước tham gia cung lao động từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng. Nhìn ứng chỗ ở cho công nhân làm việc trong các KCN chung số doanh nghiệp thưởng cho người công nhiều hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài; nhân cao có xu hướng giảm theo mức độ tăng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần thu nhập mà công nhân nhận được. 70% doanh đảm bảo chỗ ở tốt hơn so với doanh nghiệp nhà nghiệp chi trả lương đối với người lao động ở mức nước. Xét theo quy mô lao động, kết quả điều tra dưới 3 triệu đồng/người/tháng; tỉ lệ chi trả lương ở cũng cho thấy, số doanh nghiệp có quy mô lao mức từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng chưa đến động dưới 300 người chú trọng đến việc cung cấp, 30% số doanh nghiệp trả lời phỏng vấn nên có giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tốt hơn so thể thấy rằng mức tiền lương bình quân mà doanh với những doanh nghiệp mà quy mô lao động từ nghiệp chi trả cho người lao động chỉ dao động 500 người trở lên. xung quanh mức 3 triệu đồng/người/tháng [7]. Kết quả thực tế hiện nay mới có khoảng 20% công Mặc dù, tiền lương thực tế của người lao động nhân có chỗ ở ổn định, 80% công nhân trong các dao động ở mức 3 triệu đồng/người/tháng, nhưng KCN đang phải thuê nhà trọ của tư nhân trong điều thu nhập thực tế bình quân của người lao động kiện chật hẹp, vệ sinh môi trường không đảm bảo, làm việc tại các KCN đạt khoảng 4,1 triệu đồng/ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đời sống, khả năng người/tháng [3]. Sự gia tăng thu nhập của người tái sản xuất sức lao động và đối mặt với nhiều lao động trong các KCN một phần là do tiền công nguy cơ như: tình hình mất an ninh trật tự, an toàn làm thêm của người lao động, một phần là hỗ trợ xã hội, các tệ nạn xã hội; thiếu chỗ vui chơi, giải trí từ doanh nghiệp đối với nhà ở, đi lại và một số [5, tr. 66]. Vì ở nhà trọ nên bản thân công nhân và khoản thu vãng lai khác của người lao động. Nói gia đình chỉ “tạm trú” tại nơi ở nên gặp khó khăn cách khác, những khoản hỗ trợ người lao động khi tham gia các chính sách an sinh xã hội (một số thuê nhà ở cũng góp phần làm tăng thu nhập của trẻ em không được tiêm chủng miễn phí, không người lao động, khi họ tối thiểu hóa chi phí chi trả được học trường công lập...) và các hoạt động cho thuê nhà. Đối với các khoản chi tiêu của người văn hóa của địa phương. Chính điều này đang tạo lao động làm việc tại các KCN, kết quả điều tra nên khó khăn cho công nhân và gia đình họ trong cho thấy, bình quân một người lao động một tháng ổn định đời sống, chăm sóc và giáo dục con cái. chi khoảng 2,8 triệu đồng. Trong đó hàng tháng Các doanh nghiệp và KCN gặp khó khăn trong ổn người lao động giành số tiền chi cho ăn, mặc là định lực lượng sản xuất được thể hiện cụ thể: 1,5 triệu đồng. Để thuê một căn phòng đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt ở mức tối thiểu, người Thứ nhất, thu nhập và chi tiêu của người công lao động phải chi trả bình quân là 589.100 đồng/ nhân bị hạn chế người/tháng. Chi phí này cao hơn 4 lần mức hỗ Kết quả điều tra của Viện Công nhân và Công trợ bình quân mà họ nhận được từ phía doanh đoàn cho thấy, 95% doanh nghiệp thuộc KCN trả nghiệp sử dụng lao động (bình quân 47.200 đồng/ tiền lương hàng tháng cho người lao động là ở người/tháng) [3]. mức dưới 2,5 triệu đồng/người/tháng. Số doanh Chính vì vậy, để giảm thiểu chi tiêu nhằm gia tăng nghiệp chi trả tiền lương bình quân cho người lao thu nhập, các nhóm lao động làm việc tại các động trên 4,5 triệu đồng/người/tháng chiếm tỷ lệ doanh nghiệp trong KCN cùng nhau thuê một căn rất nhỏ. Chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước phòng trọ xung quanh các KCN. Các nhà trọ này Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 125
- NGHIÊN CỨU KHOA HỌC thì hầu như không đáp ứng được các tiêu chuẩn thay đổi công việc để tìm ra nghề nghiệp phù hợp kỹ thuật trong thiết kế xây dựng: diện tích nhỏ, với bản thân. Thực tế điều tra 170 lao động đang chật hẹp, ẩm thấp vào mùa mưa, nóng bức vào làm việc tại các KCN cho thấy có tới 60% lao động mùa nắng và rét mướt vào mùa đông; không có được điều tra dưới 30 tuổi chỉ gắn bó với các KCN phòng vệ sinh riêng; hệ thống thoát nước, xử lý tối đa 3 năm. Còn ở độ tuổi từ 30 trở lên và đặc rác thải sinh hoạt của khu nhà trọ không được các biệt là đã ổn định về gia đình, nếu không vì tình chủ nhà trọ quan tâm xây dựng nên nước và rác trạng bất khả kháng, hay có được cơ hội thăng được thải ra khu vực xung quanh gây ra tình trạng tiến, người lao động rất ngại phải chuyển đổi nơi ô nhiễm môi trường... Nói cách khác, người lao làm việc. Tuy nhiên, ở các khu công nghiệp, người động đang làm việc tại các KCN đang phải thuê lao động có trình độ chuyên môn không cao (cơ những ngôi nhà để sống trong tình trạng tạm bợ hội thăng tiến khi chuyển đổi công việc là hầu như và gặp nhiều khó khăn. không có), nhưng số đối tượng có thời gian gắn bó trên 3 năm, 5 năm lại có dấu hiệu giảm dần [8]. Thứ hai, việc ổn định nhân sự và phát triển của Kết quả này một lần nữa khẳng định tính hợp lý về các doanh nghiệp tại các KCN gặp khó khăn lý thuyết liên quan đến sự tham gia vào thị trường Tích lũy không cao, thêm vào đó người lao động lao động, cũng như tính sự gắn bó không cao của làm việc tại các KCN lại gặp nhiều khó khăn liên lao động với các KCN. quan đến chỗ ở, cũng như các phương tiện phục Thứ ba, tình hình an ninh trật tự và phát triển xã vụ sinh hoạt hàng ngày. Do đó, sự gắn bó lâu dài hội có những diễn biến phức tạp của người lao động với các KCN rất lỏng lẻo. Phần lớn công nhân tại các KCN, khu chế xuất Xét theo nhóm tuổi, sự gắn bó của người lao động (KCX) đang sống trong môi trường ba không: với các KCN trên 1 năm nhiều nhất ở nhóm lao không tivi, không sách báo, không internet... Tại động dưới 30 tuổi. Tuổi càng cao, sự gắn bó của hầu hết các cụm, KCN không có nơi vui chơi giải người lao động với các khu công nghiệp càng trí công cộng: công viên, sân thể thao, nhà hát, rạp giảm. Với nhóm tuổi từ 40 trở lên thì sự gắn bó chiếu phim... Bên cạnh đó, áp lực của công việc của người lao động với KCN còn rất hạn hữu. Hầu và làm thêm giờ, nhiều công nhân cả tháng trời như người ta rất khó tìm thấy lao động phổ thông ở không biết đến tivi, sách, báo. Điều đó có nghĩa, nhóm tuổi này tại các KCN. Xét theo thời gian làm người lao động tại các KCN đang ở trong tình việc tại các KCN, trong tổng số 170 người được trạng “đói” về văn hóa. Những công nhân sau giờ điều tra thì chỉ có 10% số lao động được điều tra làm việc nặng nhọc, vất vả thường là tụ tập nấu gắn bó trên 5 năm với các khu công nghiệp (17 nướng, chơi bài, đánh cờ ở nơi thuê phòng, rủ người), 19,73% chỉ gắn bó khoảng 3 đến 5 năm nhau đi nhậu, quán cà phê, hát karaoke... Những (33 người), 55,29% người lao động chỉ gắn bó với hoạt động này đã ảnh hưởng đến tình hình an ninh các khu công nghiệp trong khoảng thời gian từ 1 trật tự chung nơi họ thuê nhà để trọ... đến 3 năm (94 người) và 15% số lao động được phỏng vấn mới chỉ gắn bó với các KCN trên chưa Thêm vào đó, do sống xa nhà thiếu thốn tình cảm, tới 12 tháng (26 người) [3]. tình trạng nam nữ cùng sống chung nhà trọ nên quan hệ nam nữ đôi khi thiếu lành mạnh, phổ biến Xét theo tình trạng hộ khẩu, mức độ gắn bó với là tình hình “sống chung, sống thử” tại các nhà trọ các KCN trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 năm quanh KCN như hiện nay. Trong đó, nổi lên sự của lao động ngoại tỉnh cao hơn so với lao động sa sút trong đời sống hôn nhân gia đình của lao người bản địa. Tuy nhiên, với khoảng thời gian từ động nữ, họ ít có cơ hội giao lưu tìm hiểu để xây 3 năm trở lên thì mức độ gắn bó của lao động bản dựng hạnh phúc gia đình, tệ nạn mại dâm và các địa lại cao hơn so với nhóm đối tượng lao động vấn đề xã hội khác phát sinh ngày càng nhiều tại ngoại tỉnh. Xét theo tình trạng hôn nhân, lao động những KCN. chưa có gia đình gắn bó với KCN cao hơn so với lao động đã có gia đình trong độ tuổi dưới 30, với 3. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHÀ Ở CHO nhóm đối tượng trên 30 tuổi, lao động có gia đình CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở thể hiện sự gắn bó với KCN cao hơn. VIỆT NAM HIỆN NAY Khi mới tham gia vào thị trường lao động cho đến Những bất cập trong việc cung ứng nhà ở cho 30 tuổi, phần lớn người lao động có xu hướng công nhân tại các KCN hiện nay có nhiều nguyên 126 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
- LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC nhân, trong đó có sự bất cập trong chính sách nhà 4, mái tôn quá đơn giản. Bên cạnh đó, diện nhà nước, sự thiếu quan tâm của các tổ chức chính do dân làm được hỗ trợ từ Nhà nước cũng phải trị - xã hội và doanh nghiệp. Để giải quyết được tuân thủ mức giá cho thuê do Nhà nước quy định, vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay không được vượt giá trần. cần sự quan tâm, thực hiện tốt chức năng của các Thứ ba, hoàn thiện công tác quy hoạch và kiểm tra cơ quan, cũng như sự phối hợp thực hiện giữa giám sát thực hiện quy hoạch nhà ở cho người lao Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và doanh động làm việc trong KCN nghiệp, cụ thể: Khắc phục những tồn tại của giai đoạn đầu phát Thứ nhất, cần giải tỏa những bất cập trong chính triển KCN, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của sách của Nhà nước về nhà ở xã hội cho người lao Chính phủ ngày 14 tháng 3 năm 2008 về “Quy động trong KCN định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh Trong Chiến lược nhà ở giai đoạn 2011-2020 đã tế, Nghị quyết số 18/2009/NQ-CP, ngày 24 tháng khẳng định nhà ở xã hội phải được ưu tiên xây 4 năm 2009 của Chính phủ về “Một số cơ chế, dựng để những người thu nhập thấp có cơ hội chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho sở hữu nhà ở. Nghị định số 188/2013/NĐ-CP của học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở Chính phủ ban hành đã cụ thể hóa chiến lược này cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp hay Luật Nhà ở được Quốc hội khóa XIII thông tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô qua tại Kỳ họp thứ 8 cũng có một chương riêng thị, Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng về phát triển nhà ở xã hội. Chính sách này cho 4 năm 2009 ban hành một số cơ chế chính sách thấy sự tôn trọng quyền có chỗ ở của người dân phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các như Hiến pháp đã khẳng định, nó cũng phù hợp khu công nghiệp thuê đã quy định việc xây dựng với các quan điểm của Đảng về giải quyết mối nhà ở cho người lao động phải nằm trong quy quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hoạch phát triển KCN, phải là trách nhiệm của các hội. Các đối tượng khó khăn về nhà ở, đặc biệt là doanh nghiệp, các ban quản lý KCN và các doanh đối tượng được hỗ trợ như: hộ dân nghèo ở nông nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, tuy nhiên thôn, người có công, lực lượng vũ trang, công đến nay đây vẫn là vấn đề còn rất khó khăn. chức viên chức trong hệ thống chính trị, sinh viên, công nhân ở khu công nghiệp đều là đối tượng Đối với các doanh nghiệp, thực tiễn cho thấy, chỉ được thụ hưởng trong chính sách nhà ở xã hội. có những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về vốn, có kỹ thuật hiện đại, có ý định hoạt động lâu dài Thứ hai, khuyến khích người dân xây dựng nhà ở mới chú ý đến việc xây dựng nhà ở cho người lao cho người lao động thuê động. Ngược lại, các doanh nghiệp tiềm lực kinh Trong điều kiện số lao động ngày càng tăng, tế mỏng, kỹ thuật giản đơn, làm ăn mang tính cơ doanh nghiệp, các ban quản lý khu công nghiệp, hội thường không chú ý đến việc xây dựng nhà các công ty xây dựng cơ sở hạ tầng tại các KCN ở cho người lao động. Điều này đặt vấn đề trách chưa đáp ứng được, việc khuyến khích người dân nhiệm đối với cơ quan quản lý nhà nước. xây dựng nhà ở cho người lao động KCN thuê Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và cũng là một giải pháp thực tiễn. phối hợp tổ chức thực hiện chủ trương xây dựng Để khuyến khích người dân tham gia xây dựng nhà ở cho người lao động trong KCN nhà ở cho người lao động làm việc trong KCN Cùng với quy hoạch xây dựng nhà ở cho người lao thuê, Nhà nước cần sớm ban hành các nghị định động và lựa chọn doanh nghiệp đầu tư vào KCN, và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sửa các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần tăng đổi) hỗ trợ về vay vốn (số vốn, lãi suất) tương tự cường công tác kiểm tra giám sát giải quyết vấn như doanh nghiệp. Hỗ trợ thủ tục pháp lý, tạo đề nhà ở cho người lao động. Ở các địa phương điền kiện thuận tiện cho việc xây dựng nhà ở cho cần thành lập ban chỉ đạo tại địa phương về chính người lao động KCN của người dân. Đặc biệt, đối sách nhà ở để chỉ đạo và tổ chức thực hiện các với đất thuộc quyền sử dụng của người dân cũng chủ trương, chính sách đã ban hành, giải quyết kịp được miễn tiền chuyển quyền sử dụng đất. Tất nhiên, nhà ở cho công nhân được hỗ trợ phải làm thời đối với những trường hợp vi phạm hợp đồng, theo quy chuẩn quy định không được làm nhà cấp cam kết. Trong ban chỉ đạo cần có các thành phần Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019 127
- NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Đảng, chính quyền, các đoàn thể, trước hết là tổ TÀI LIỆU THAM KHẢO chức công đoàn, các ban quản lý KCN và đại diện [1]. Chính Phủ (2009), Quyết định 66/2009/QĐ-TTg về các doanh nghiệp sử dụng lao động tham gia. cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân Thứ năm, tăng cường tổ chức cung ứng các dịch lao động tại các khu công nghiệp thuê. vụ xã hội cho công nhân làm việc tại các KCN [2]. Chính Phủ (2011), Quyết định số 2127/QĐ-TTG ngày 30 tháng 11 năm 2011 của chính phủ phê Các địa phương có KCN cần chú trọng đầu tư duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm phát triển các dịch vụ xã hội gần KCN, nhất là nhà 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. trẻ, mẫu giáo, trường học, bệnh viện, bưu điện, [3]. Bùi Văn Cường (2018), Thủ tướng chính phủ bến xe, hệ thống cửa hàng, ngân hàng, siêu thị, Nguyễn Xuân Phúc thăm và tặng cho con công chợ, sân vận động,... tạo điều kiện thuận lợi cho nhân Hà Nam. Báo Nhân dân, tr.2-3. người công nhân khi làm việc KCN tiếp cận với các dịch vụ xã hội. [4]. Nguyễn Văn Dương (2016), Doanh nghiệp FDI, những vấn đề nổi cộm, Báo Diễn đàn Doanh Đồng thời cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục nghiệp, Hà Nội, Ngày 12/3/2016. hành chính, nhất là các hạn chế của chính sách [5]. Đỗ Đông (2017), Mới chỉ có khoảng 20% công nhân hộ khẩu hiện hành, cải thiện tính công bằng cho được đáp ứng nhu cầu về nhà ở giá rẻ, Tạp chí Mặt người lao động di cư từ các địa phương khác đến trận, (165), tr. 66-68. các KCN làm việc, tạo cơ hội cho họ tiếp cận các [6]. Nguyễn Đức (2017), Có nên thu hút dự án FDI dịch vụ pháp luật, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục, có nguồn vốn nhỏ li ti, Báo Đầu tư, số 14 (2061), việc làm, học nghề,... sao cho giảm chi phí và tr. 12-13. phiền hà cho người lao động nhập cư. [7]. Lê Quốc Hội (2012), Việc làm và đời sống của người Với các KCN đang xây dựng hoặc còn đất trống lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất và thì cho phép lập hồ sơ điều chỉnh quy hoạch chi khu kinh tế ở Việt Nam, Đề tài KHCN Trường Đại tiết chuyển một phần đất công nghiệp sang làm học Kinh tế Quốc dân. nhà ở công nhân. [8]. Duy Long (2018), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gặp gỡ công nhân lao động tại các khu công nghiệp Đối với các KCN mới đang chuẩn bị đầu tư, quy vùng Đồng bằng Sông Hồng, Báo Người Lao động hoạch KCN phải có khu nhà ở cho công nhân. (4678), tr.3-5. Công ty xây dựng hạ tầng có trách nhiệm xây dựng hạ tầng kỹ thuật và một phần nhà ở. Các doanh [9]. Nguyễn Mạnh Thắng (2015), Lối sống của công nhân ở khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay, nghiệp lớn được giao đất để xây dựng nhà ở cho Tạp chí Lý luận Chính trị, (7), tr. 56-59. công nhân lao động trong doanh nghiệp mình. [10]. Trần Việt Tiến (2009), Một số vấn đề xã hội trong các khu công nghiệp Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ Nguyễn Thị Nhan - Quá trình học tập, nghiên cứu: + Tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2009 + Tốt nghiếp Thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 + Học nghiên cứu sinh tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến nay - Công việc hiện tại: Phó Trưởng phòng Công tác Sinh viên, Trường Đại học Sao Đỏ - Lĩnh vực quan tâm: Giáo dục trẻ em của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vùng Đồng bằng sông Hồng - Email: nguyenthinhan010187@gmail.com - Điện thoại: 0984 647 781 128 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế toàn cầu
31 p | 581 | 145
-
Nhà sàn
3 p | 366 | 21
-
Về việc dùng câu hỏi trong dạy đọc hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông - Dương Thị Hồng Hiếu
7 p | 117 | 15
-
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp của Đại học Quốc gia Hà Nội dưới góc nhìn của người sử dụng lao động
7 p | 80 | 10
-
Vận dụng mô hình CIPO vào quản lý đào tạo ở trường Trung cấp nghề Giao thông công chính Hà Nội theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội
12 p | 52 | 7
-
Bản chất của hoạt động đọc văn và việc dạy đọc văn bản văn học trong nhà trường
9 p | 81 | 6
-
Vấn đề nhà ở và lối sống gia đình đô thị
0 p | 37 | 5
-
Đánh giá nhu cầu xã hội về nhân lực xã hội học ở Việt Nam hiện nay
10 p | 67 | 5
-
Một số vấn đề lí luận về công tác quản lí đào tạo nghề ở các trường cao đẳng nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện nay
5 p | 76 | 4
-
Hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp nhằm hỗ trợ thiết thực cho công tác sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội ở Trường Đại học Vinh
10 p | 13 | 4
-
Giải pháp nâng cao mức độ đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi tỉnh Bến Tre
8 p | 62 | 4
-
Giải pháp ứng dụng rfid để quản lý thiết bị ở khoa
7 p | 9 | 3
-
Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay
6 p | 9 | 1
-
Hành vi thích học ở môi trường thoải mái của sinh viên: Trường hợp của sinh viên ngành Quản lý Nhà nước - Trường Đại học Thủ Dầu Một
9 p | 2 | 1
-
Liên kết bảo hộ sở hữu trí tuệ giữa các trường đại học, cao đẳng và đơn vị, doanh nghiệp ở Việt Nam trong cách mạng 4.0
7 p | 2 | 1
-
Xã hội hóa giáo dục – vai trò, nội dung, ý nghĩa và phương thức thực hiện
4 p | 1 | 1
-
Ứng dụng công nghệ hội thảo truyền hình trong dạy học - khó khăn và giải pháp
4 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn