Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016
lượt xem 120
download
Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016 được nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP Huế; xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP Huế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016
- ĐẠI HỌC HUẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU NHÂN HỌC Y TẾ Tên đề tài: KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ TRONG 6 THÁNG ĐẦU CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 1 TUỔI Ở THÀNH PHỐ HUẾ NĂM 2016 NHÓM SINH VIÊN: Lớp YHDP3C – Nhóm: 3 1. Trần Thị Ngọc Ny 5. Đậu Bảo Quốc 2. Trương Thị Oanh 6. Phan Việt Sáng 3. Nguyễn Văn Phú 7. Hoàn Ngọc Thanh 4. Ngô Thị Quí Phương 8. Trần Xuân Thao HUẾ, NGÀY……THÁNG….NĂM 2016 MỤC LỤC 1
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT A&T Alive and Thrive CBYT Cán bộ Y tế NCBSM Nuôi con bằng sữa mẹ NCBSMHT Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn RSV Respiratory Syncytial Virus Vi rút Hợp bào Hô hấp UNICEF The United Nations Children’s Fund Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc WHO World Health Organization – Tổ chức y tế thế giới
- ĐẶT VẤN ĐỀ Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm giúp cho trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Lợi ích của việc NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Sữa mẹ cung cấp cho trẻ những chất dinh dưỡng cần thiết, những kháng thể chống bệnh tật giúp trẻ khoẻ mạnh [1]. Cho trẻ bú mẹ có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng và do đó làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh. Theo ước tính của Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), bú mẹ trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, NCBSM sẽ góp phần làm giảm 13% ca tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 22% các ca tử vong sơ sinh tại Việt Nam [2]. Ngoài ra những trẻ được bú mẹ hoàn toàn và được nuôi bằng sữa mẹ khi trưởng thành có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type II, béo phì, tăng huyết áp, mắc các bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu thấp hơn nhóm trẻ được nuôi bằng sữa ngoài [3]. Cho con bú không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho bé mà còn tốt cho sức khỏe của mẹ. NCBSMHT trong 6 tháng đầu còn có thể hạn chế có thai trở lại sớm [4]. Bên cạnh đó, cho bú sớm còn giúp bà mẹ co hồi tử cung, giảm mất máu sau sinh và NCBSM còn có tác dụng giảm nguy cơ mắc ung thư vú, ung thư buồng trứng sau này [5]. Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm nguy cơ loãng xương khi đến thời kì mãn kinh. Ngoài ra, nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong sáu tháng đầu có liên quan đến một phương pháp về kiểm soát sinh đẻ tự nhiên (98% bảo vệ trong 6 tháng đầu sau khi sinh) [6,7]. NCBSM HT trong sáu tháng đầu đời là rất quan trọng đối với quá trình phát triển của trẻ. UNICEF đã đưa ra thông điệp truyền thông về việc NCBSM:
- cho trẻ bú ngay trong giờ đầu tiên sau khi sinh; cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không uống nước, không ăn sữa bột, không ăn bổ sung; và trẻ càng bú nhiều, mẹ càng tiết ra nhiều sữa [8]. WHO cũng khuyến nghị nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu: sau 6 tháng, thức ăn đặc, như trái cây và rau nghiền, nên được sử dụng làm thức ăn bổ sung bên cạnh sữa mẹ cho đến khi trẻ hai tuổi hoặc hơn. Thêm vào đó: nên cho trẻ bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh; nên cho trẻ bú theo “nhu cầu”, bất cứ khi nào trẻ muốn kể cả ngày và đêm; và không cho trẻ bú bình và núm vú giả [7]. Mặc dù sữa mẹ là công thức dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho trẻ 6 tháng đầu đời của trẻ, hiện ở Việt Nam chỉ có 19,6% phụ nữ cho con bú hoàn toàn trong giai đoạn quan trọng này. Tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của thế giới 35% các bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không tiếp tục cho con bú lâu dài cũng như thiếu chế độ ăn bổ sung phù hợp đã dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe của trẻ. Một phần ba trẻ em Việt Nam d ưới 5 tu ổi b ị thấp còi và cứ trong 5 trẻ lại có 1 trẻ bị thiếu cân [9]. Hiện nay, việc nuôi con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, không chỉ ở thành phố lớn mà còn lan rộng đến các vùng nông thôn. Nhiều hội nghị về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng lo ngại này[10]. Hiện nay Bộ Y tế Việt Nam đã khuyến cáo các bà mẹ cần nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng đầu sau sinh, nhưng trên thực tế, có nhiều bà mẹ vì nhiều lí do như mẹ thiếu sữa, bận rộn công việc, mẹ bị bệnh, nhiễm HIV vẫn cho trẻ ăn thêm sữa ngoài.
- Từ những nghiên cứu trên cho thấy tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đúng cách và hoàn toàn trong 6 tháng đầu còn chưa cao, điều này có lẽ do nhiều nguyên nhân tác động. Nhằm đánh giá lại thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở TP. Huế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở Thành phố Huế năm 2016”, với 2 mục tiêu: 1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP. Huế. 2. Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP. Huế.
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1. Khái niệm và những hiều biết cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ 1.1 Các khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu Sữa đầu bữa: có màu hơi xanh, số lượng nhiều và cung cấp nhiều protein, lactose, nước và các chất dinh dưỡng khác. [11] Sữa cuối bữa: có màu trắng vì chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ, điều quan trọng là cần để trẻ bú hết sữa cuối, không để trẻ nhả vú sớm quá. [11] Sữa non: Là loại sữa mẹ đặc biệt, được tiết ra trong vài giờ đầu sau đẻ. Sữa non sánh đặc, có màu vàng nhạt hoặc trong. Sữa non chứa nhiều protein hơn sữa trưởng thành. [11] Nuôi con bằng sữa mẹ: là là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra [15].
- Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ: là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa từ vú mẹ vắt ra, ngoài ra không không ăn bất kì loại thức ăn dạng lỏng hay rắn nào khác trừ các dạng vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc [14]. Nuôi con bằng sữa bình: cho trẻ bú bằng bình sữa, bất kể sữa gì trong bình, kể cả sữa mẹ vắt ra [14]. Bú mẹ chủ yếu: là cách nuôi dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính là sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể nhận thêm nước uống đơn thần, hoặc một số dung dịch dinh dưỡng như nước hoa quả, nước đường hoặc các loại thức ăn lỏng cổ truyền với số lượng ít [14]. Bú sớm: trẻ sẽ nhận được sữa non, là nguồn thức ăn phù hợp với bộ máy tiêu hóa của trẻ và tăng sức đề kháng chống lại các bệnh truyền nhiễm khi sinh. Bú sớm cũng giúp trẻ bú đúng cách ngay từ ban đầu và việc nuôi con bằng sữa mẹ dễ thành công [13, 16]. Cho trẻ bú sớm sau sinh: việc trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [16]. Hiện tượng xuống sữa: là hiện tượng số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu vú bà mẹ đầy, căng cứng [16]. Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn: được tính bằng tỷ số giữa số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng số trẻ 6 tháng [15]. Cách ngậm bắt vú đúng của trẻ: Tư thế của trẻ: Đầu, thân trẻ nằm trên một đường thẳng Thân trẻ áp sát vào người mẹ Trẻ được đỡ đầu và cổ Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú
- Tình trạng vú: Tình trạng tốt Không đau, không khó chịu Các ngón tay đặt xa núm vú để đỡ vú Ngậm bắt vú: Quầng vú ở trên miệng trẻ còn nhiều hơn Miệng trẻ mở rộng Môi dưới dướng ra ngoài Cằm trẻ chạm vào vú mẹ Bú: Bú chậm, sâu, có lúc ngừng nghỉ Má căng phồng khi bú Trẻ tự nhả vú khi bú xong Bà mẹ nhận thấy các dấu hiệu của phản xạ oxytocin 1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ Sữa mẹ được coi là một loại vắcxin có thể phòng tránh tử vong cho trẻ, chi phí thấp, an toàn, có thể uống trực tiếp và không cần bảo quản lạnh [27]. Sữa mẹ được bài tiết theo cơ chế phản xạ, khi trẻ bú xung động cảm giác từ vú lên não kích thích cơ thể bà mẹ sản sinh ra hóc môn prolactin và oxytocin. Trong
- đó prolactin sẽ kích thích tuyến sữa tạo sữa, oxytocin có tác dụng giúp sữa được phun ra [16,14]. Dựa vào thời điểm tiết và tính chất mà sữa mẹ được chia làm những loại như sau: 1.2.1. Sữa non Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt, được hình thành từ tuần 1416 của thai kì và được tiết ra từ lúc sinh đến 23 ngày sau khi sinh [2, 16]. Trẻ bú sớm sẽ nhận được sữa non, là thức ăn phù họrp với bộ máy tiêu hóa của trẻ. Sữa non đặc sánh, màu vàng nhạt, chứa nhiều chất chống nhiễm khuẩn và kháng thể để bảo vệ cơ thể cho trẻ. Ngoài ra, sữa non còn có nhiều đặc tính khác như: có nhiều tế bào bạch cầu, giàu Vitamin A, có yếu tố tăng trưởng biểu bì một, chất đạm lactalbumin dưới tác dụng của dịch tiêu hóa sẽ biến đổi thành những phân tử nhỏ giúp trẻ dễ hấp thụ [30]. Sữa non đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và bảo vệ trẻ. Sữa non chứa nhiều tế bào bạch cầu, kháng thể hơn sữa trưởng thành nên giúp trẻ sơ sinh phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và cung cấp khả năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ để chống nhiều bệnh mà trẻ có thể bị mắc sau đẻ [13,16]. Vitamin A trong sữa non có tác dụng làm giảm độ nặng của các bệnh nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, sữa non còn có tác dụng xổ nhẹ, tăng bài tiết phân xu, phòng các bệnh dị ứng và cũng có tác dụng thải bilirubin ra khỏi ruột làm giảm mức độ vàng da sinh lý [13,16]. Sữa non tuy ít nhưng thỏa mãn được nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh do lượng protein cao gấp 23 lần sữa trưởng thành [13,14]. Hàm lượng kháng thể và vitamin cao nhất trong sữa non trong vòng 60 phút sau khi sinh sau đó giảm dần. Như vậy, trẻ được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là vô cùng quan trọng. Chúng ta không nên cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống nào trước khi trẻ bắt đầu bú sữa non.
- 1.2.2. Sữa trưởng thành Sữa trưởng thành là sữa mẹ sản xuất ra sau đẻ vài ngày, số lượng sữa nhiều hơn làm hai bầu vú bà mẹ căng đầy và cứng, người ta gọi đây là hiện tượng sữa về. Trong sữa mẹ có đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, Glucid, Lipid, Vitamin và khoáng chất đủ cho trẻ phát triển trong 6 tháng đầu. Thành phần các chất dinh dưỡng ở một tỷ lệ thích hợp và dễ hấp thu đáp ứng với sự phát triển nhanh của trẻ [14,16]. Sữa mẹ luôn luôn tự nhiên, tinh khiết, sạch sẽ và thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của trẻ. Sữa mẹ giúp cho trẻ tránh được bệnh tật, dị ứng, béo phì và các bệnh tật khác [14,16]. Vì vậy, sữa mẹ là thức ăn duy nhất mà trẻ nhỏ cần trong 6 tháng đầu. 1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ và lợi ích của việc nuôi con bang sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi Nhu cầu năng lượng của trẻ đủ tháng, cân nặng lúc sinh bình thường nhìn chung được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ có được tình trạng dinh dưỡng tốt [14,16]. Việc sản xuất sữa của người mẹ được điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu của trẻ, bà mẹ sinh đôi sinh ba vẫn đủ sữa, khi nhu cầu của trẻ tăng thì việc sản xuất sữa cũng tăng theo trong vòng vài ngày, thậm chí trong vòng vài giờ [13]. Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú mẹ hoàn toàn tăng vào khoảng giữa tháng 3 đến tháng thứ 6, nếu trẻ ăn bổ sung sớm thì lượng này lại giảm đi. Việc tiết sữa là linh hoạt vì vậy bà mẹ tăng sản xuất sữa thông qua việc vắt sữa thường xuyên, và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng [13,16]. 1.3.2. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Những năm gần đây, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em trên toàn thế giới đã được quan tâm và cải thiện đáng kể. Vấn đề dinh dưỡng được
- quan tâm hàng đầu đó chính là chương trình nuôi con bằng sữa mẹ. Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đã coi việc NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, nó đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ trong 6 tháng đầu đời [5,13,14,18]. Tổ chức Y tế Thế giới cũng khẳng định: Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai [29]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm [7]. Vì vậy, WHO khuyến cáo rằng các bà mẹ hãy cho con bú nhiều lần, bất kể khi nào trẻ đói, kể cả ban đêm, trẻ càng bú nhiều mẹ càng tiết nhiều sữa. Đặc biệt trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú sữa mẹ hoàn toàn mà không cần ăn thêm bất cứ loại thức ăn nào khác kể cả nước [5, 16]. 1.3.3. Lợi ích của bú sớm sau sinh Sau khi sinh, bà mẹ cần cho trẻ bú càng sớm càng tốt, đặc biệt trong một giờ đầu vì trong giờ đầu tiên của cuộc đời, trẻ sơ sinh ở trạng thái tỉnh táo, nhanh nhẹn nhất dễ thực hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điểm này qua đi, trẻ trở nên buồn ngủ hơn vì bắt đầu phục hồi sau quá trình thở [16]. Sữa mẹ tiết theo phản xạ và được tiết ra sớm hơn ở những bà mẹ cho con bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh so với các bà mẹ chờ xuống sữa tự nhiên. Khi bà mẹ được ngắm nhìn con, nghe thấy tiếng khóc của con và tin tưởng rằng mình có sữa cho con bú thì sẽ hỗ trợ tốt cho phản xạ này. Vì vậy ngay sau sinh bà mẹ phải được nằm cạnh trẻ và cho trẻ bú sớm [16]. Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin giúp bà mẹ co hồi tử cung nhanh hơn góp phần làm giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ [16].
- Trẻ bú mẹ sớm sẽ bú được sữa non rất tốt cho sức khỏe, giúp trẻ phòng tránh được các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, vàng da, không dung nạp thức ăn khác [16]. 1.3.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tới sức khỏe của trẻ Sữa mẹ mang lại cả lợi ích ngắn hạn và dài hạn đối với trẻ. Khi đứa trẻ vừa được sinh ra, sữa mẹ bao gồm các kháng thể và các hoạt chất sinh học khác chính là yếu tố miễn dịch đầu tiên có trong sữa non giúp trẻ chống lại bệnh tật [16]. Trong khi đó sữa bột không có đủ các yếu tố cần thiết trên. NCBSM là một trong những thực hành có lợi nhất mà một bà mẹ có thể thực hiện để bảo vệ con mình khỏi nhiễm khuẩn và vi rút [16]. Sữa mẹ là duy nhất và được sản sinh để đáp ứng nhu cầu của trẻ. Sữa mẹ thay đổi thành phần để đáp ứng nhu cầu thay đổi của trẻ trong các cữ bú. Khi đứa trẻ lớn lên, các thành phần của sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng những nhu cầu của trẻ đang lớn, điều mà các sản phẩm thay thế sữa mẹ không có được. Những trẻ được bú mẹ ít phải đến bệnh viện hơn hoặc ít phải uống thuốc, giảm nguy cơ lây nhiễm và mắc các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn đường hô hấp [16]. Kết quả phân tích từ 7 nghiên cứu thuần tập của Bachrach và cộng sự cho thấy rằng trẻ được nuôi bằng sữa công thức phải đối mặt với mối nguy nhập viện do nhiễm trùng đường hô hấp dưới trong năm đầu tiên của cuộc sống cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn hơn 4 tháng. Phần lớn các ca nhập viện hô hấp cho trẻ sơ sinh là kết quả của nhiễm Vi rút Hợp bào Hô hấp Respiratory Syncytial Virus (RSV). Chất béo trong sữa mẹ có tác dụng kháng virus: chống lại RSV [19, 26]. Ngoài ra, việc trẻ không được bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, đái tháo đường type I và II cũng như bệnh tăng huyết áp và tim mạch. Nghiên cứu của Christopher G. Owen và cộng sự chỉ ra rằng những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành chỉ bằng 0,87 lần so với những đứa
- trẻ được nuôi bằng sữa công thức [24]. Những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường type II chỉ bằng 0,61 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa công thức [25]. NCBSM làm tăng chỉ số thông minh và cải thiện kết quả học tập sau này của trẻ. Trẻ bú mẹ càng lâu thì càng có khả năng trí tuệ cao hơn, điều này được thể hiện qua những kỹ năng vận động, kỹ năng ngôn ngữ và khả năng nhận thức hoàn thiện hơn, những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so với những đứa trẻ không được bú mẹ [22]. 1.3.5. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với bà mẹ Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng trứng, loãng xương và chứng trầm cảm sau khi sinh. Các bà mẹ cho con bú sẽ ít có nguy cơ bị thiếu máu và có hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm căng thẳng [21,23]. NCBSM cũng giúp các bà mẹ tránh thai tốt hơn, các bà mẹ cho con bú hoàn toàn thường không rụng trứng trong ít nhất sáu tháng sau khi sinh, trong khi đó đối vớicác bà mẹ không cho con bú thì quá trình này có thể xảy ra ngay sau sáu tuần kể từ khi sinh con [23]. Nghiên cứu chỉ ra rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong sáu tháng đầu và không có dấu hiệu có kinh nguyệt trở lại thì khả năng mang thai là dưới 2% [20]. Ngoài ra, NCBSM giúp gắn bó, tăng cường tình cảm mẹ con. 1.3.6. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với gia đình, xã hội và doanh nghiệp NCBSM giúp giảm thiểu các chi phí tốn kém của việc cho trẻ ăn sữa công thức. Ước tính trung bình mỗi gia đình tiêu tốn khoảng 800.000 1.200.000 đồng mỗi tháng nếu cho trẻ ăn các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Chi phí này chiếm 53 79% thu nhập bình quân 1 năm của người Việt Nam (18.227.000 đồng) và một phần khá lớn trong tổng thu nhập của một gia đình [19]. Ngoài ra nhờ các lợi ích
- về mặt sức khỏe của NCBSM, các gia đình tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho việc khám chữa bệnh [23]. NCBSM không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe cho trẻ và mẹ mà còn mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 3,6 tỷ đô la mỗi năm trong việc chi trả gián tiếp cho chăm sóc sức khỏe nếu như có ít nhất 75% bà mẹ cho con bú sớm sau sinh và 50% bà mẹ cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi [28]. Tại Việt Nam, nếu các bà mẹ NCBSMHT trong 6 tháng đầu họ có thể tiết kiệm một khoản tiền tương đương 11.435.670.000.000 đồng từ việc không chi tiêu cho các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Tuy nhiên, một nửa của khoản tiền này đang bị lãng phí do tỷ lệ NCBSMHT thấp ở Việt Nam, điều này làm tăng chi phí y tế chung của quốc gia. Mỗi năm, Việt Nam phải chi khoảng 208.300.000.000 đồng cho khám chữa các bệnh do nuôi dưỡng trẻ nhỏ kém [17]. Bên cạnh lợi ích kinh tế mang lại cho gia đình NCBSMHT còn có lợi cho doanh nghiệp về mặt lâu dài vì các bà mẹ ít phải nghỉ làm để chăm con ốm, điều này cũng có nghĩa là tạo ra một lực lượng lao động ổn định [20]. Sữa mẹ cũng là một nguồn lực hữu ích đảm bảo an ninh thực phẩm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên toàn thế giới khi có thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Trong những trường hợp nguy cấp, NCBSM giúp bảo vệ trẻ khỏi các bệnh gây ra do nguồn nước nhiễm bẩn và có thể ngăn ngừa tình trạng thân nhiệt thấp [21]. 2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và Việt Nam 2.1 Trên thế giới Lợi ích và sự cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ cho con bú sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông ÂuTrung Á, 33% ở các nước châu Á Thái Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh Caribe Bắc và Đông Phi là 50% [31]. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên thế giới là
- 39% và không đồng đều giữa các quốc gia [34], như vậy phần lớn số trẻ còn lại được nuôi bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa mẹ ngay từ những tháng đầu. Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới từ năm 19962006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 33% lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc Sahara châu Phi với tỷ lệ tăng từ 22% 30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% 19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [14,30]. Theo số liệu tổng hợp của Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu là rất khác biệt giữa các nước và khu vực khác nhau, tỷ lệ này khá cao ở một số nước như Rwanda 83,3%, Uganda 63% nhưng lại thấp ở Nigeria 0,8% [33]. Tỷ lệ NCBSM tại Mỹ cũng có nhiều thay đổi tích cực trong những năm gần đây tỷ lệ bú sớm sau sinh tăng từ 74,6% năm 2008 lên 76,9% năm 2009, tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu tăng từ 44,3% năm 2008 lên 47,2% năm 2009 [32]. Tại Châu Á tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu cũng khá chênh lệch giữa các nước: Nepal là 68%, Ấn Độ là 46%, Campuchia là 68%, Philippin 33,5%, Bangladesh 43%...[14,33]. Tại Trung Quốc, tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa non trong 3 ngày đầu rất cao đạt 94%, tuy nhiên sau đó trẻ lại được cho uống nước, sữa bột, đường hoặc thức ăn thay thế khác, vì vậy mà chỉ có 35% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu và tại thời điểm 6 tháng thì tỷ lệ này chỉ còn 28% [35]. 2.2. Tại Việt Nam Mặc dù sữa mẹ là công thức hoàn hảo nhất cho 6 tháng đầu đời của trẻ, tuy nhiên thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy một thực tế là tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời chỉ đạt 19,6%.. Tỉ lện này thấp hơn nhiều so với tỉ lệ trung bình của Thế Giới – 35% bà mẹ cho con bú
- hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Và tỷ lệ trẻ được bú tới 24 tháng tuổi (22%) vẫn còn thấp. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không cho con tiếp tục bú lâu dài cũng như thiếu chế độ ăn phù hợp dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe cho trẻ. Năm 2009, Việt Nam đứng thứ 13 trong danh sách các nước có số trẻ thấp còi trên toàn cầu, với 30% trẻ dưới 5 tuổi bị thấp còi (khoảng 2,5 triệu trẻ) và không đạt được sự tiềm năng phát triển tối ưu, cứ 5 trẻ thì 1 trẻ bị thiếu cân [8]. Tuy đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng phần lớn số trẻ tử vong dưới 1 tuổi vẫn xảy ra trong tháng đầu tiên, chiếm 60% các ca tử vong dưới 1 tuổi và 40% các ca dưới 5 tuổi. Nguyên nhân đáng chú ý của trẻ tử vong trong tháng đầu là vì nhiều phụ nữ sống ở miền núi, gia đình nghèo không tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đỡ đẻ, chăm sóc sau sinh, tiêm phòng và tiếp cận các được các dịch vụ chăm sóc và điều trị thường ngày. Ngoài ra tỷ lệ tử vong ở trẻ miền núi, nông thôn và gia đình nghèo vẫn cao hơn 34 lần so với miền xuôi, thành thị và các gia đình khá giả khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề tử vong ở trẻ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh cũng như NCBSM. Tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ còn thấp, chỉ khoảng 58% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ trong giờ đầu và 17% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. [37] Thực tế cho thấy trước nhiều thông tin quảng cáo về các chất bổ sung vào sữa bột giúp trẻ phát triển tốt về cân nặng và chiều cao, thông minh cùng với nhận thức chưa đúng của một số bà mẹ trẻ, gia đình khiến nhiều bà cho rằng sữa công thức có thể thay thế được sữa mẹ, thậm chí tốt hơn sữa mẹ. Kiến thức về nuôi dưỡng trẻ nhỏ của người dân bị ảnh hưởng bởi niềm tin, thói quen của cộng đồng và lời khuyên của cán Bộ y tế.. Báo cáo của UNICEFF cũng chỉ ra rằng, các bà mẹ làm việc ở bên ngoài thường gặp khó khăn trong việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Họ đi làm và cho trẻ ăn bổ sung sau khi hết thời gian nghỉ đẻ thường là 4 tháng. Trong Luật Lao
- động Việt Nam có quy định về nghỉ đẻ và NCBSM. Tuy nhiên, trên thực tế Luật Lao động chỉ áp dụng cho phụ nữ làm việc ở cơ quan tổ chức chính thống. Hơn nữa, nhiều bà mẹ đi làm ở khu vực thành thị có khả năng mua sữa bột và thương xuyên bị tiếp xúc với các hình thức quảng cáo về sản phẩm thay thế sữa mẹ. Các sản phẩm thay thế sữa mẹ xuất hiện nhiều ở các bệnh viện và rất ít nhân viên y tế nhận thức về lợi ích của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Nhân viên y tế cũng chịu ảnh hưởng từ các công ty sữa, và chỉ cần thanh kiểm tra ở mức hạn chế cũng đã phát hiện nhiều vi phạm Luật quảng cáo sản phẩm thay thế sữa mẹ của Chính phủ trong năm 2007. Nội dung nuôi dưỡng trẻ nhỏ được xây dựng dựa trên cơ sở kết luận và khuyến nghị của các chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng, với mục tiêu chủ yếu là bảo vệ, khuyến khích và hỗ trợ NCBSMHT trong 6 tháng đầu cho trẻ ăn bổ sung hoàn toàn, hợp lý và tiếp tục cho con bú tới 2 tuổi hoặc nhiều hơn. Trên thực tế, còn nhiều trẻ nhỏ nuôi dưỡng không đúng cách. Nhiều bà mẹ dù bắt đầu cho con bú tốt nhưng sau đó vẫn cho trẻ ăn bổ sung sớm hoặc chi cho bú vài tuần sau đẻ. Có những trẻ phát triển tốt trong 6 tháng đầu nhưng cũng không nhận được đủ các thức ăn bổ sung. Hậu quả là trẻ là bị suy dinh dưỡng , một vấn đề đang gia tăng ở nhiều nước. Hơn 1/3 trẻ bị suy dinh dưỡng ở các thể gầy còm, còi cọc, thiếu vitamin A, sắt hoặc các vi chất khác; suy dinh dưỡng chiếm hơn một nữa trong số 10,5 triệu trẻ tử vong ở các nước đang phát triển hàng năm. Theo đánh giá của bộ y tế và UNICEFF, 58% các bà mẹ cho con bú trong giờ đầu sau sinh và 88% bắt đầu cho bú trong vòng 24h giờ đầu. Tính trên toàn quốc, chỉ có 17% trẻ dưới 6 tháng tuổi được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ. Khoảng 70% trẻ từ 69 tháng được bú mẹ kết hợp với ăn bổ sung với thức ăn đặc hoặc loãng. Ở 1215 tháng tuổi có 78% trẻ em vẫn bú mẹ. Trẻ em trai thường được bú mẹ hoàn toàn tới 6 tháng nhiều hơn trẻ em gái. [9]
- Chế độ nuôi dưỡng trẻ nhỏ trong năm đầu đời cũng được đánh giá trong MICS 2006. Chế độ nuôi dưỡng được coi là đầy đủ khi trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn, trẻ từ 68 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất hai lần một ngày, và trẻ 911 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất 3 lần một ngày. Ở Việt Nam, chỉ có, 42% trẻ từ 011 tháng tuổi được nuôi dưỡng theo định nghĩa trên. Trẻ em trai bình quân được nuôi dưỡng đầy đủ hơn trẻ em gái (45% so với 38%) [12] 3. Các yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ đặc biệt là các yếu tố rào cản 3.1. Trên thế giới Tại Trung Quốc năm 2012, tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn cho trẻ em dưới 6 tháng chỉ có khoảng 28%. Thực hành NCBSM bị cản trở bởi nhiều yếu tố: niềm tin truyền thống là sữa mẹ không đủ dinh dưỡng hoặc quan niệm sai lầm về sữa mẹ của bạn bè và gia đình; thiếu các phương tiện công cộng để giải thích tầm quan trọng của NCBSM; chế độ nghỉ thai sản chỉ có ba tháng và sự tiếp thị và sự phóng đại về lợi ích của sữa bột của các hãng sữa [36]. Theo một nghiên cứu năm 2013 tại Los Angeles, Mỹ: có gần 28% bà mẹ ngừng cho con bú khi được 3 tháng, dừng lại bởi vì họ đã gặp khó khăn khi nuôi dưỡng em bé, 32,3% cho rằng sữa mẹ một mình không đáp ứng các em bé, 33,0% cho rằng họ không có đủ sữa cho con bú, và 14,3% nói rằng họ bị nứt, đau hoặc chảy máu núm vú khi cho con bú [38]. Theo báo cáo “Chăm sóc Mẹ & Con Philips triển vọng toàn cầu cho con bú năm 2011”, tại các nước Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Ai Cập, các rào cản chính dừng cho trẻ bú khi đang ở nhà là lượng sữa cung cấp giảm, việc cho trẻ bú khiến bà mẹ bị đau núm vú, thiếu thời gian cần thiết cho con bú, phải quay trở lại làm việc, tâm lý e ngại khi phải cho con bú bên ngoài nhà, không có
- thời gian cho con bú suốt cả ngày. Tính trung bình có 40% bà mẹ cảm thấy rằng lượng cung ứng sữa của họ giảm, tỷ lệ này ở các nước phát triển như Mỹ là 70% và Trung Quốc 58%, trái ngược với Nam Phi 9% và Ai Cập 17%. Lý do quan trọng khác là đau núm vú khi cho ăn (15%), đặc biệt là trong ba tháng đầu tiên. Có 7% bà mẹ trong nghiên cứu cho con bú sữa bằng bình. Lý do nổi bật khác bao gồm sự cần thiết phải trở lại làm việc (10%) và cảm thấy lúng túng cho con bú bên ngoài nhà (9%). Trong nghiên cứu này có 28% phụ nữ lấy lý do đi làm lại để dừng việc cho con bú. Các lý do dẫn tới việc này là tại nơi làm việc không có cơ sở vật chất tốt để vắt sữa, xấu hổ khi vắt sữa tại nơi làm việc [39]. Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Hoa Kỳ, hầu hết phụ nữ ở Hoa Kỳ nhận thức được rằng con bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ sơ sinh, nhưng thường họ không được hướng dẫn về lợi ích cụ thể của nó và các rủi ro liên quan nếu không cho con bú. Các cán bộ y tế thường nhận được ít đào tạo, và nhiều người cảm thấy không tự tin để cung cấp thông tin hữu ích, chính xác để hỗ trợ bệnh nhân của họ. Bên cạnh đó là những rào cản về kỹ thuật cho con bú và việc kết hợp cho con bú và làm việc [40]. Yếu tố môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới cho con bú. Tại Hoa Kỳ, bú bình là vấn đề bình thường hoặc thích hợp để nuôi một trẻ sơ sinh. Nhận thức và thái độ về cho con bú không chính xác hoặc tiêu cực vẫn còn phổ biến trong cộng đồng và các phương tiện truyền thông. Thông tin sai lệch phổ biến là thông tin dinh dưỡng về sữa mẹ và các loại thực phẩm khác. Nhiều hãng sữa thổi phồng về lợi ích của sữa bột thay thế sữa mẹ. Mọi người tin rằng phụ nữ nên cho con bú kín đáo ở nơi công cộng, nhiều bà mẹ đã bị chỉ trích vì cho con bú ở nơi công cộng và bị yêu cầu ngừng cho con bú [41]. 3.2. Tại Việt Nam Mặc dù Bộ Y Tế đã khuyến cáo “sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương nghiên cứu khoa học: Đánh giá nhận thức của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề sống thử
30 p | 3395 | 834
-
Đề cương nghiên cứu khoa học
13 p | 2261 | 564
-
Đề cương nghiên cứu khoa học: Nhân vật điển hình AQ trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn với Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao
7 p | 1581 | 176
-
Đề cương nghiên cứu khoa học: Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng trên các trang web mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng trên địa bàn TP.HCM
29 p | 1060 | 159
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay "
0 p | 530 | 115
-
Đề cương nghiên cứu khoa học: Rèn luyện kĩ năng tự học môn Vật lý của học sinh khối lớp 10 Trường THPT Thủ Khoa Huân, huyện Chợ Gạo
10 p | 466 | 77
-
Đề cương đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện: Xây dựng tài liệu kế toán tài chính hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho nguồn nhân lực kế toán doanh nghiệp
75 p | 288 | 53
-
GỢI Ý VIẾT ĐỀ CƯƠNG DỰ ĐỊNH NGHIÊN CỨU THI NGHIÊN CỨU SINH
5 p | 281 | 53
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của chiến lược Marketing tại Siêu thị Big C Hải Phòng tới thói quen tiêu dùng khu vực Hải Phòng
153 p | 498 | 51
-
Đề cương nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh tại Bệnh viện Tâm thần Thái Nguyên
91 p | 192 | 49
-
Hướng dẫn viết khóa luận tốt nghiệp tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng
51 p | 265 | 29
-
Đề cương nghiên cứu: Mức sẵn lòng chi trả học phí của học viên đối với chương trình đào tạo Thạc sĩ trong nước tại một số trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh
30 p | 202 | 28
-
Nghiên cứu triết học " TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở NƯỚC TA "
5 p | 151 | 19
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Lao động cưỡng bức theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
69 p | 138 | 15
-
Nghiên cứu khoa học: Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định hành vi thanh toán bằng mã QR trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 50 | 11
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo máy phân loại và làm sạch dừa tự động
88 p | 16 | 8
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Nhân tố tác động đến sự tăng cường sức mạnh quân sự của Iran trong những năm đầu thế kỉ XXI "
0 p | 106 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn