intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016

Chia sẻ: Trương Thị Oanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:52

671
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016 được nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP Huế; xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP Huế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương nghiên cứu Nhân học y tế: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố Huế năm 2016

  1. ĐẠI HỌC HUẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG  ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU NHÂN HỌC Y TẾ Tên đề tài: KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VÀ CÁC YẾU TỐ  LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ TRONG 6 THÁNG  ĐẦU CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 1 TUỔI Ở THÀNH PHỐ HUẾ  NĂM 2016 NHÓM SINH VIÊN:  Lớp YHDP3C – Nhóm: 3 1. Trần Thị Ngọc Ny 5. Đậu Bảo Quốc 2. Trương Thị Oanh 6. Phan Việt Sáng 3. Nguyễn Văn Phú 7. Hoàn Ngọc Thanh 4. Ngô Thị Quí Phương 8. Trần Xuân Thao HUẾ, NGÀY……THÁNG….NĂM 2016 MỤC LỤC 1
  2. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT A&T     Alive and Thrive CBYT     Cán bộ Y tế  NCBSM      Nuôi con bằng sữa mẹ NCBSMHT   Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn RSV     Respiratory Syncytial Virus ­ Vi rút Hợp bào Hô hấp UNICEF      The United Nations Children’s Fund ­ Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc WHO     World Health Organization – Tổ chức y tế thế giới
  3. ĐẶT VẤN ĐỀ Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm giúp  cho trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ. Lợi ích của việc   NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận.  Sữa mẹ  cung cấp cho trẻ  những chất dinh dưỡng cần thiết, những kháng thể  chống bệnh tật giúp trẻ  khoẻ  mạnh [1]. Cho trẻ  bú mẹ  có thể  làm giảm tỷ  lệ  mắc và mức độ nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng và do đó làm giảm nguy   cơ tử vong sơ sinh. Theo  ước tính của Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF),   bú mẹ trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử vong  ở trẻ em dưới 5 tuổi   mỗi năm trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, NCBSM sẽ góp phần làm giảm 13%   ca tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ  hoàn toàn  trong 6 tháng đầu sẽ  làm giảm 22% các ca tử  vong sơ  sinh tại Việt Nam [2].   Ngoài ra những trẻ được bú mẹ hoàn toàn và được nuôi bằng sữa mẹ khi trưởng   thành có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type II, béo phì, tăng huyết áp, mắc các  bệnh tim mạch, rối loạn lipid máu thấp hơn nhóm trẻ được nuôi bằng sữa ngoài   [3]. Cho con bú không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho bé mà còn tốt cho sức khỏe  của mẹ. NCBSMHT trong 6 tháng đầu còn có thể  hạn chế  có thai trở  lại sớm   [4]. Bên cạnh đó, cho bú sớm còn giúp bà mẹ co hồi tử cung, giảm mất máu sau  sinh và NCBSM còn có tác dụng giảm nguy cơ mắc ung thư vú, ung thư  buồng  trứng sau này [5]. Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm nguy cơ loãng xương khi đến  thời kì mãn kinh. Ngoài ra, nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong sáu tháng đầu   có liên quan đến một phương pháp về  kiểm soát sinh đẻ  tự nhiên (98% bảo vệ  trong 6 tháng đầu sau khi sinh) [6,7].  NCBSM HT trong sáu tháng đầu đời là rất quan trọng đối với quá trình   phát triển của trẻ. UNICEF đã đưa ra thông điệp truyền thông về việc NCBSM: 
  4. cho trẻ  bú ngay trong giờ  đầu tiên sau khi sinh; cho con bú hoàn toàn trong 6  tháng đầu, không uống nước, không ăn sữa bột, không ăn bổ sung; và trẻ càng bú  nhiều, mẹ càng tiết ra nhiều sữa [8]. WHO cũng khuyến nghị nuôi con hoàn toàn  bằng sữa mẹ  trong 6 tháng đầu: sau 6 tháng, thức ăn đặc, như  trái cây và rau  nghiền, nên được sử dụng làm thức ăn bổ sung bên cạnh sữa mẹ cho đến khi trẻ  hai tuổi hoặc hơn. Thêm vào đó: nên cho trẻ  bú trong vòng một giờ đầu sau khi  sinh; nên cho trẻ bú theo “nhu cầu”, bất cứ khi nào trẻ muốn kể cả ngày và đêm;   và không cho trẻ bú bình và núm vú giả [7]. Mặc dù sữa mẹ  là công thức dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho trẻ  6 tháng  đầu đời của trẻ, hiện  ở  Việt Nam chỉ  có 19,6% phụ  nữ  cho con bú hoàn toàn   trong giai đoạn quan trọng này. Tỉ  lệ  này thấp hơn rất nhiều so với tỉ  lệ  trung   bình của thế  giới ­ 35% các bà mẹ  cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu.   Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không tiếp tục cho con bú   lâu dài cũng như  thiếu chế  độ  ăn bổ  sung phù hợp đã dẫn tới những hậu quả  nghiêm trọng về sức khỏe của trẻ. Một phần ba trẻ em Việt Nam d ưới 5 tu ổi b ị  thấp còi và cứ trong 5 trẻ lại có 1 trẻ bị thiếu cân [9]. Hiện nay, việc nuôi con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, không chỉ ở  thành phố lớn mà còn lan rộng đến các vùng nông thôn. Nhiều hội nghị về công  tác bảo vệ bà mẹ trẻ em cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng lo ngại   này[10]. Hiện nay Bộ Y tế Việt Nam đã khuyến cáo các bà mẹ cần nuôi trẻ hoàn  toàn bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng đầu sau sinh, nhưng trên thực tế, có nhiều   bà mẹ  vì nhiều lí do như  mẹ thiếu sữa, bận rộn công việc, mẹ  bị  bệnh, nhiễm   HIV vẫn cho trẻ ăn thêm sữa ngoài. 
  5. Từ những nghiên cứu trên cho thấy tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đúng cách và  hoàn toàn trong 6 tháng đầu còn chưa cao, điều này có lẽ  do nhiều nguyên nhân  tác động. Nhằm đánh giá lại thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến  nuôi con bằng sữa mẹ  hoàn toàn trong 6 tháng đầu  ở  TP. Huế, chúng tôi tiến   hành nghiên cứu đề  tài:  “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố  liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu ở bà mẹ có con dưới   1 tuổi ở Thành phố Huế năm 2016”, với 2 mục tiêu: 1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có   con dưới 1 tuổi ở TP. Huế. 2. Xác định một số  yếu tố  liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về   nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở TP. Huế.
  6. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1. Khái niệm và những hiều biết cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ 1.1 Các khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu ­ Sữa đầu bữa: có màu hơi xanh, số lượng nhiều và cung cấp nhiều protein,  lactose, nước và các chất dinh dưỡng khác. [11] ­ Sữa cuối bữa:  có màu trắng vì chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa.  Chất béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ, điều quan trọng là cần để  trẻ bú hết sữa cuối, không để trẻ nhả vú sớm quá. [11] ­ Sữa non: Là loại sữa mẹ đặc biệt, được tiết ra trong vài giờ  đầu sau đẻ.  Sữa non sánh đặc, có  màu vàng nhạt hoặc trong. Sữa non chứa nhiều   protein hơn sữa trưởng thành. [11] ­ Nuôi con bằng sữa mẹ: là là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc uống sữa   từ vú mẹ vắt ra [15].
  7. ­ Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ: là đứa trẻ  được bú mẹ  trực tiếp hoặc   uống sữa từ  vú mẹ  vắt ra, ngoài ra không không ăn bất kì loại thức ăn  dạng lỏng hay rắn nào khác trừ  các dạng vitamin, khoáng chất bổ  sung  hoặc thuốc [14]. ­ Nuôi con bằng sữa bình: cho trẻ  bú bằng bình sữa, bất kể  sữa gì trong  bình, kể cả sữa mẹ vắt ra [14]. ­ Bú mẹ  chủ  yếu: là cách nuôi dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính là  sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể nhận thêm nước uống đơn thần, hoặc một số  dung dịch dinh dưỡng như nước hoa quả, nước đường hoặc các loại thức   ăn lỏng cổ truyền với số lượng ít [14]. ­ Bú sớm: trẻ sẽ nhận được sữa non, là nguồn thức ăn phù hợp với bộ máy  tiêu hóa của trẻ và tăng sức đề kháng chống lại các bệnh truyền nhiễm khi   sinh. Bú sớm cũng giúp trẻ bú đúng cách ngay từ ban đầu và việc nuôi con  bằng sữa mẹ dễ thành công [13, 16]. ­ Cho trẻ  bú sớm sau sinh: việc trẻ  được bú mẹ  trong vòng 1 giờ  đầu sau   sinh [16]. ­ Hiện tượng xuống sữa: là hiện tượng số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu  vú bà mẹ đầy, căng cứng [16]. ­ Tỷ lệ  trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ  hoàn toàn: được tính bằng tỷ số  giữa số trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ trên tổng   số trẻ 6 tháng  [15].  Cách ngậm bắt vú đúng của trẻ: ­ Tư thế của trẻ: Đầu, thân trẻ nằm trên một đường thẳng Thân trẻ áp sát vào người mẹ Trẻ được đỡ đầu và cổ Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú
  8. ­ Tình trạng vú: Tình trạng tốt Không đau, không khó chịu Các ngón tay đặt xa núm vú để đỡ vú ­ Ngậm bắt vú: Quầng vú ở trên miệng trẻ còn nhiều hơn Miệng trẻ mở rộng Môi dưới dướng ra ngoài Cằm trẻ chạm vào vú mẹ ­ Bú: Bú chậm, sâu, có lúc ngừng nghỉ Má căng phồng khi bú Trẻ tự nhả vú khi bú xong Bà mẹ nhận thấy các dấu hiệu của phản xạ oxytocin 1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ Sữa mẹ  được coi là một loại vắc­xin có thể  phòng tránh tử  vong cho trẻ,  chi phí thấp, an toàn, có thể  uống trực tiếp và không cần bảo quản lạnh [27].   Sữa mẹ được bài tiết theo cơ chế phản xạ, khi trẻ bú xung động cảm giác từ vú   lên não kích thích cơ thể bà mẹ sản sinh ra hóc môn prolactin và oxytocin. Trong  
  9. đó prolactin sẽ kích thích tuyến sữa tạo sữa, oxytocin có tác dụng giúp sữa được   phun ra [16,14]. Dựa vào thời điểm tiết và tính chất mà sữa mẹ  được chia làm   những loại như sau:  1.2.1. Sữa non Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt, được hình thành từ tuần 14­16 của thai kì   và được tiết ra từ lúc sinh đến 2­3 ngày sau khi sinh [2, 16]. Trẻ bú sớm sẽ nhận   được sữa non, là thức ăn phù họrp với bộ  máy tiêu hóa của trẻ. Sữa non đặc   sánh, màu vàng nhạt, chứa nhiều chất chống nhiễm khuẩn và kháng thể  để bảo  vệ cơ thể cho trẻ. Ngoài ra, sữa non còn có nhiều đặc tính khác như: có nhiều tế  bào bạch cầu, giàu Vitamin A, có yếu tố  tăng trưởng biểu bì một, chất đạm  lactalbumin dưới tác dụng của dịch tiêu hóa sẽ  biến đổi thành những phân tử  nhỏ giúp trẻ dễ hấp thụ [30]. Sữa non đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và bảo vệ trẻ. Sữa  non chứa nhiều tế bào bạch cầu, kháng thể hơn sữa trưởng thành nên giúp trẻ sơ  sinh phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và cung cấp khả năng miễn   dịch đầu tiên cho trẻ để chống nhiều bệnh mà trẻ có thể bị mắc sau đẻ  [13,16].  Vitamin A trong sữa non có tác dụng làm giảm độ  nặng của các bệnh nhiễm  khuẩn. Bên cạnh đó, sữa non còn có tác dụng xổ  nhẹ, tăng bài tiết phân xu,  phòng các bệnh dị  ứng và cũng có tác dụng thải bilirubin ra khỏi ruột làm giảm  mức độ vàng da sinh lý [13,16]. Sữa non tuy ít nhưng thỏa mãn được nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh   do lượng protein cao gấp 2­3 lần sữa trưởng thành [13,14]. Hàm lượng kháng thể  và vitamin cao nhất trong sữa non trong vòng 60 phút sau khi sinh sau đó giảm  dần.  Như  vậy, trẻ  được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là vô cùng   quan trọng. Chúng ta không nên cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống nào trước khi   trẻ bắt đầu bú sữa non.
  10. 1.2.2. Sữa trưởng thành Sữa trưởng thành là sữa mẹ  sản xuất ra sau đẻ  vài ngày, số  lượng sữa   nhiều hơn làm hai bầu vú bà mẹ  căng đầy và cứng, người ta gọi đây là hiện  tượng sữa về. Trong sữa mẹ có đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, Glucid, Lipid, Vitamin và  khoáng chất đủ  cho trẻ  phát triển trong 6 tháng đầu. Thành phần các chất dinh   dưỡng ở một tỷ lệ thích hợp và dễ hấp thu đáp ứng với sự phát triển nhanh của   trẻ  [14,16]. Sữa mẹ  luôn luôn tự  nhiên, tinh khiết, sạch sẽ  và thay đổi theo thời  gian nhằm đáp  ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của trẻ. Sữa mẹ  giúp cho trẻ  tránh được bệnh tật, dị ứng, béo phì và các bệnh tật khác [14,16]. Vì vậy, sữa mẹ  là thức ăn duy nhất mà trẻ nhỏ cần trong 6 tháng đầu. 1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ  và lợi ích của việc nuôi con   bang sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi Nhu cầu năng lượng của trẻ đủ tháng, cân nặng lúc sinh bình thường nhìn  chung được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ có được  tình trạng dinh dưỡng tốt [14,16]. Việc sản xuất sữa của người mẹ được điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu  của trẻ, bà mẹ sinh đôi sinh ba vẫn đủ sữa, khi nhu cầu của trẻ tăng thì việc sản  xuất sữa cũng tăng theo trong vòng vài ngày, thậm chí trong vòng vài giờ  [13].  Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú mẹ hoàn toàn tăng vào khoảng giữa tháng 3 đến  tháng thứ 6, nếu trẻ ăn bổ  sung sớm thì lượng này lại giảm đi. Việc tiết sữa là  linh hoạt vì vậy bà mẹ tăng sản xuất sữa thông qua việc vắt sữa thường xuyên,  và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng [13,16]. 1.3.2. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Những năm gần đây, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ  em trên   toàn thế giới đã được quan tâm và cải thiện đáng kể. Vấn đề  dinh dưỡng được 
  11. quan tâm hàng đầu đó chính là chương trình nuôi con bằng sữa mẹ. Quỹ  Nhi   đồng Liên hợp quốc đã coi việc NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng  nhất để  bảo vệ  sức khỏe trẻ  em, nó đáp  ứng đủ  nhu cầu dinh dưỡng của trẻ  trong 6 tháng đầu đời [5,13,14,18]. Tổ chức Y tế Thế giới cũng khẳng định: Nuôi   con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và   phát triển, kết quả  học tập và thậm chí cả  khả  năng thu nhập của trẻ  trong  tương lai [29]. Đồng thời WHO cũng chỉ  ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng  đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử  vong cho trẻ  em,  ước tính có thể  giảm  hơn một triệu ca tử  vong  ở  trẻ  trên toàn thế  giới mỗi năm [7]. Vì vậy, WHO  khuyến cáo rằng các bà mẹ hãy cho con bú nhiều lần, bất kể khi nào trẻ đói, kể  cả ban đêm, trẻ càng bú nhiều mẹ càng tiết nhiều sữa.  Đặc biệt trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú sữa mẹ hoàn toàn mà không cần   ăn thêm bất cứ loại thức ăn nào khác kể cả nước [5, 16].  1.3.3. Lợi ích của bú sớm sau sinh Sau khi sinh, bà mẹ cần cho trẻ bú càng sớm càng tốt, đặc biệt trong một   giờ  đầu vì trong giờ  đầu tiên của cuộc đời, trẻ  sơ  sinh  ở  trạng thái tỉnh táo,   nhanh nhẹn nhất dễ thực hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điểm này qua đi, trẻ  trở nên buồn ngủ hơn vì bắt đầu phục hồi sau quá trình thở [16]. Sữa mẹ tiết theo phản xạ và được tiết ra sớm hơn ở những bà mẹ cho con  bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh so với các bà mẹ chờ xuống sữa tự  nhiên. Khi bà mẹ  được ngắm nhìn con, nghe thấy tiếng khóc của con và tin   tưởng rằng mình có sữa cho con bú thì sẽ  hỗ  trợ  tốt cho phản xạ  này. Vì vậy   ngay sau sinh bà mẹ phải được nằm cạnh trẻ và cho trẻ bú sớm [16]. Khi trẻ bú  sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin giúp bà mẹ  co hồi tử cung nhanh hơn   góp phần làm giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ [16].
  12. Trẻ bú mẹ sớm sẽ  bú được sữa non rất tốt cho sức khỏe, giúp trẻ  phòng   tránh được các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, vàng da, không dung nạp thức ăn khác  [16]. 1.3.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tới sức khỏe của trẻ Sữa mẹ mang lại cả lợi ích ngắn hạn và dài hạn đối với trẻ. Khi đứa trẻ  vừa được sinh ra, sữa mẹ bao gồm các kháng thể và các hoạt chất sinh học khác   chính là yếu tố miễn dịch đầu tiên có trong sữa non giúp trẻ  chống lại bệnh tật  [16]. Trong khi đó sữa bột không có đủ các yếu tố cần thiết trên. NCBSM là một   trong những thực hành có lợi nhất mà một bà mẹ  có thể  thực hiện để  bảo vệ  con mình khỏi nhiễm khuẩn và vi rút [16]. Sữa mẹ là duy nhất và được sản sinh   để  đáp  ứng nhu cầu của trẻ. Sữa mẹ  thay đổi thành phần để  đáp ứng nhu cầu   thay đổi của trẻ trong các cữ bú. Khi đứa trẻ lớn lên, các thành phần của sữa mẹ  cũng thay đổi để  đáp  ứng những nhu cầu của trẻ  đang lớn, điều mà các sản  phẩm thay thế sữa mẹ không có được. Những trẻ được bú mẹ ít phải đến bệnh   viện hơn hoặc ít phải uống thuốc, giảm nguy cơ  lây nhiễm và mắc các bệnh  như  tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn đường hô  hấp [16]. Kết quả phân tích từ 7 nghiên cứu thuần tập của Bachrach và cộng sự  cho thấy rằng trẻ  được nuôi bằng sữa công thức phải đối mặt với mối nguy   nhập viện do nhiễm trùng đường hô hấp dưới trong năm đầu tiên của cuộc sống   cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ  hoàn toàn hơn 4 tháng. Phần lớn các ca   nhập viện hô hấp cho trẻ sơ sinh là kết quả của nhiễm Vi rút Hợp bào Hô hấp ­  Respiratory Syncytial Virus (RSV). Chất béo trong sữa mẹ  có tác dụng kháng  virus: chống lại RSV [19, 26]. Ngoài ra, việc trẻ không được bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, đái tháo  đường type I và II cũng như  bệnh tăng huyết áp và tim mạch. Nghiên cứu của   Christopher G. Owen và cộng sự chỉ ra rằng những đứa trẻ  được nuôi bằng sữa  mẹ  có nguy cơ  bị béo phì khi trưởng thành chỉ  bằng 0,87 lần so với những đứa  
  13. trẻ được nuôi bằng sữa công thức [24]. Những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ  có nguy cơ mắc tiểu đường type II chỉ bằng 0,61 lần so với những đứa trẻ được  nuôi bằng sữa công thức [25]. NCBSM làm tăng chỉ  số  thông minh và cải thiện  kết quả học tập sau này của trẻ. Trẻ bú mẹ càng lâu thì càng có khả năng trí tuệ  cao hơn, điều này được thể  hiện qua những kỹ  năng vận động, kỹ  năng ngôn   ngữ  và khả  năng nhận thức hoàn thiện hơn, những trẻ  được nuôi bằng sữa mẹ  có điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so với những đứa trẻ không được bú mẹ [22].   1.3.5. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với bà mẹ Các bà mẹ  cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít nguy cơ  mắc các bệnh như  tiểu đường type II, ung thư  vú, ung thư  buồng trứng, loãng  xương và chứng trầm cảm sau khi sinh. Các bà mẹ cho con bú sẽ ít có nguy cơ bị  thiếu máu và có hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể  giảm căng   thẳng [21,23].  NCBSM cũng giúp các bà mẹ tránh thai tốt hơn, các bà mẹ cho con bú hoàn   toàn thường không rụng trứng trong ít nhất sáu tháng sau khi sinh, trong khi đó  đối vớicác bà mẹ  không cho con bú thì quá trình này có thể xảy ra ngay sau sáu   tuần kể từ khi sinh con [23]. Nghiên cứu chỉ ra rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn   toàn trong sáu tháng đầu và không có dấu hiệu có kinh nguyệt trở  lại thì khả  năng mang thai là dưới 2% [20]. Ngoài ra, NCBSM giúp gắn bó, tăng cường tình  cảm mẹ con.   1.3.6. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với gia đình, xã hội và doanh nghiệp NCBSM giúp giảm thiểu các chi phí tốn kém của việc cho trẻ ăn sữa công  thức. Ước tính trung bình mỗi gia đình tiêu tốn khoảng 800.000­ 1.200.000 đồng  mỗi tháng nếu cho trẻ ăn các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Chi phí này chiếm 53­ 79% thu nhập bình quân 1 năm của người Việt Nam (18.227.000 đồng) và một  phần khá lớn trong tổng thu nhập của một gia đình [19]. Ngoài ra nhờ các lợi ích  
  14. về mặt sức khỏe của NCBSM, các gia đình tiết kiệm được thời gian và tiền bạc  cho việc khám chữa bệnh [23]. NCBSM không chỉ  mang lại lợi ích về  sức khỏe cho trẻ  và mẹ  mà còn  mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chính phủ  Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 3,6 tỷ đô la mỗi năm trong việc chi trả gián tiếp cho   chăm sóc sức khỏe nếu như  có ít nhất 75% bà mẹ  cho con bú sớm sau sinh và  50% bà mẹ cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi [28]. Tại Việt Nam, nếu các bà mẹ NCBSMHT trong 6 tháng đầu họ có thể tiết  kiệm một khoản tiền tương đương 11.435.670.000.000 đồng từ  việc không chi  tiêu cho các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Tuy nhiên, một nửa của khoản tiền này   đang bị lãng phí do tỷ lệ NCBSMHT thấp ở Việt Nam, điều này làm tăng chi phí  y tế  chung của quốc gia. Mỗi năm, Việt Nam phải chi khoảng 208.300.000.000  đồng cho khám chữa các bệnh do nuôi dưỡng trẻ nhỏ kém [17]. Bên cạnh lợi ích  kinh tế  mang lại cho gia đình NCBSMHT còn có lợi cho doanh nghiệp về  mặt   lâu dài vì các bà mẹ ít phải nghỉ làm để chăm con ốm, điều này cũng có nghĩa là  tạo ra một lực lượng lao động ổn định [20]. Sữa mẹ cũng là một nguồn lực hữu   ích đảm bảo an ninh thực phẩm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên toàn thế giới khi  có   thiên   tai   hoặc   khủng   hoảng   kinh   tế.   Trong   những   trường   hợp   nguy   cấp,   NCBSM giúp bảo vệ trẻ khỏi các bệnh gây ra do nguồn nước nhiễm bẩn và có  thể ngăn ngừa tình trạng thân nhiệt thấp [21]. 2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và Việt Nam 2.1 Trên thế giới Lợi ích và sự  cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ  em, bà mẹ, gia  đình và xã hội  đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ cho   con bú sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông Âu­Trung Á, 33% ở các nước châu Á  Thái Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh­ Caribe ­Bắc và Đông Phi   là 50% [31]. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ  hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên thế   giới là 
  15. 39% và không đồng đều giữa các quốc gia [34], như vậy phần lớn số trẻ còn lại  được nuôi bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa mẹ ngay từ những  tháng đầu.  Theo số  liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số  trẻ em được sinh   ra trên toàn thế giới từ năm 1996­2006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong  6 tháng đầu tăng từ  33% lên 37%. Tăng nhanh nhất  ở  vùng cận sa mạc Sahara­ châu Phi với tỷ lệ tăng từ 22% ­30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% ­19%. Ở  châu Mỹ  Latinh và Caribean ngoại trừ  Brazil và Mexico, tỷ  lệ  trẻ  được bú mẹ  hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [14,30]. Theo số  liệu tổng hợp của Cơ quan phát triển Quốc tế  Hoa Kỳ (USAID)  tỷ  lệ  NCBSMHT trong 6 tháng đầu là rất khác biệt giữa các nước và khu vực   khác nhau, tỷ  lệ  này khá cao  ở  một số  nước như  Rwanda 83,3%, Uganda 63%   nhưng lại thấp  ở Nigeria  0,8% [33]. Tỷ lệ NCBSM tại Mỹ cũng có nhiều thay  đổi tích cực trong những năm gần đây tỷ  lệ  bú sớm sau sinh tăng từ  74,6% năm  2008 lên 76,9% năm 2009, tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu tăng từ 44,3% năm  2008 lên 47,2% năm 2009 [32]. Tại Châu Á tỷ  lệ  NCBSMHT trong 6 tháng đầu  cũng khá chênh lệch giữa các nước: Nepal là 68%, Ấn Độ là 46%,  Campuchia là  68%, Philippin 33,5%, Bangladesh 43%...[14,33]. Tại Trung Quốc, tỷ  lệ  bà mẹ  cho con bú sữa non trong 3 ngày đầu rất cao đạt 94%, tuy  nhiên sau đó trẻ  lại  được cho uống nước, sữa bột, đường hoặc thức ăn thay thế khác, vì vậy mà chỉ  có 35% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu và tại thời điểm 6 tháng thì  tỷ lệ này chỉ còn 28% [35]. 2.2. Tại Việt Nam Mặc dù sữa mẹ  là công thức hoàn hảo nhất cho 6 tháng đầu đời của trẻ,   tuy nhiên thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy một thực tế là tỷ lệ  nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời chỉ đạt 19,6%.. Tỉ lện này   thấp hơn nhiều so với tỉ  lệ  trung bình của Thế  Giới – 35% bà mẹ  cho con bú 
  16. hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Và tỷ  lệ  trẻ  được bú tới 24 tháng tuổi (22%) vẫn  còn thấp. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không cho con  tiếp tục bú lâu dài cũng như  thiếu chế  độ  ăn phù hợp dẫn tới những hậu quả  nghiêm trọng về sức khỏe cho trẻ. Năm 2009, Việt Nam đứng thứ 13 trong danh   sách các nước có số  trẻ thấp còi trên toàn cầu, với 30% trẻ  dưới 5 tuổi bị thấp   còi (khoảng 2,5 triệu trẻ) và không đạt được sự tiềm năng phát triển tối ưu, cứ 5  trẻ thì 1 trẻ bị thiếu cân [8].   Tuy đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng phần lớn số trẻ tử vong dưới  1 tuổi vẫn xảy ra trong tháng đầu tiên, chiếm 60% các ca tử vong dưới 1 tuổi và   40% các ca dưới 5 tuổi. Nguyên nhân đáng chú ý của trẻ tử vong trong tháng đầu  là vì nhiều phụ nữ sống ở miền núi, gia đình nghèo không tiếp cận được với các   dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đỡ đẻ, chăm sóc sau sinh, tiêm phòng và tiếp cận các  được các dịch vụ chăm sóc và điều trị thường ngày. Ngoài ra tỷ lệ tử vong ở trẻ  miền núi, nông thôn và gia đình nghèo vẫn cao hơn 3­4 lần so với miền xuôi,  thành thị và các gia đình khá giả khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ  ra rằng, vấn đề  tử vong ở trẻ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ  sinh cũng như NCBSM. Tỷ lệ  trẻ  em bú sữa mẹ  còn thấp, chỉ  khoảng 58% trẻ  sơ sinh được bú sữa mẹ  trong  giờ đầu và 17% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. [37] Thực tế cho thấy trước nhiều thông tin quảng cáo về các chất bổ sung vào   sữa bột giúp trẻ  phát triển tốt về  cân nặng và chiều cao, thông minh cùng với   nhận thức chưa đúng của một số  bà mẹ  trẻ, gia đình khiến nhiều bà cho rằng   sữa công thức có thể thay thế được sữa mẹ, thậm chí tốt hơn sữa mẹ. Kiến thức  về nuôi dưỡng trẻ nhỏ của người dân bị ảnh hưởng bởi niềm tin, thói quen của   cộng đồng và lời khuyên của cán Bộ y tế.. Báo cáo của UNICEFF cũng chỉ  ra rằng, các bà mẹ  làm việc  ở  bên ngoài  thường gặp khó khăn trong việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Họ đi làm và cho  trẻ  ăn bổ  sung sau khi hết thời gian nghỉ đẻ  thường là 4 tháng. Trong Luật Lao 
  17. động Việt Nam có quy định về nghỉ đẻ và NCBSM. Tuy nhiên, trên thực tế Luật   Lao động chỉ áp dụng cho phụ nữ làm việc ở cơ quan tổ chức chính thống. Hơn  nữa, nhiều bà mẹ đi làm ở khu vực thành thị có khả năng mua sữa bột và thương   xuyên bị  tiếp xúc với các hình thức quảng cáo về  sản phẩm thay thế  sữa mẹ.  Các sản phẩm thay thế sữa mẹ xuất hiện nhiều  ở các bệnh viện và rất ít nhân  viên y tế nhận thức về lợi ích của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Nhân viên y tế  cũng chịu  ảnh hưởng từ các công ty sữa, và chỉ  cần thanh  kiểm tra  ở  mức hạn chế  cũng đã phát hiện nhiều vi phạm Luật quảng cáo sản  phẩm thay thế sữa mẹ của Chính phủ trong năm 2007. Nội dung nuôi dưỡng trẻ  nhỏ  được xây dựng dựa trên cơ  sở  kết luận và   khuyến nghị của các chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng, với mục tiêu chủ yếu  là bảo vệ, khuyến khích và hỗ  trợ  NCBSMHT trong 6 tháng đầu cho trẻ  ăn bổ  sung hoàn toàn, hợp lý và tiếp tục cho con bú tới 2 tuổi hoặc nhiều hơn. Trên thực tế, còn nhiều trẻ  nhỏ  nuôi dưỡng không đúng cách. Nhiều bà  mẹ dù bắt đầu cho con bú tốt nhưng sau đó vẫn cho trẻ ăn bổ sung sớm hoặc chi  cho bú vài tuần sau đẻ. Có những trẻ phát triển tốt trong 6 tháng đầu nhưng cũng  không nhận được đủ các thức ăn bổ sung. Hậu quả là trẻ là bị suy dinh dưỡng ,  một vấn đề  đang gia tăng  ở  nhiều nước. Hơn 1/3 trẻ  bị  suy dinh dưỡng  ở các  thể gầy còm, còi cọc, thiếu vitamin A, sắt hoặc các vi chất khác; suy dinh dưỡng  chiếm hơn một nữa trong số  10,5 triệu trẻ tử vong  ở các nước đang phát triển   hàng năm. Theo đánh giá của bộ y tế và UNICEFF, 58% các bà mẹ cho con bú trong   giờ đầu sau sinh và 88% bắt đầu cho bú trong vòng 24h giờ đầu. Tính trên toàn   quốc,   chỉ   có   17%   trẻ  dưới   6  tháng   tuổi   được   nuôi  hoàn  toàn  bằng  sữa  mẹ.  Khoảng 70% trẻ  từ  6­9 tháng được bú mẹ  kết hợp với ăn bổ  sung với thức ăn  đặc hoặc loãng.  Ở  12­15 tháng tuổi có 78% trẻ  em vẫn bú mẹ. Trẻ  em trai   thường được bú mẹ hoàn toàn tới 6 tháng nhiều hơn trẻ em gái. [9]
  18. Chế  độ  nuôi dưỡng trẻ  nhỏ  trong năm đầu đời cũng được đánh giá trong  MICS 2006. Chế  độ  nuôi dưỡng được coi là đầy đủ  khi trẻ  dưới 6 tháng tuổi  được bú mẹ hoàn toàn, trẻ từ 6­8 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất hai   lần một ngày, và trẻ 9­11 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất 3 lần một   ngày. Ở Việt Nam, chỉ có, 42% trẻ từ 0­11 tháng tuổi được nuôi dưỡng theo định   nghĩa trên. Trẻ em trai bình quân được nuôi dưỡng đầy đủ  hơn trẻ em gái (45%  so với 38%) [12] 3. Các yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ đặc biệt là các yếu  tố rào cản 3.1. Trên thế giới Tại Trung Quốc năm 2012, tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn cho trẻ em dưới 6 tháng   chỉ  có khoảng 28%. Thực hành NCBSM bị  cản trở  bởi nhiều yếu tố: niềm  tin   truyền thống là sữa mẹ  không đủ  dinh dưỡng hoặc quan niệm sai lầm về  sữa  mẹ  của bạn bè và gia đình; thiếu các phương tiện công cộng để  giải thích tầm   quan trọng của NCBSM; chế  độ  nghỉ  thai sản chỉ  có ba tháng và sự  tiếp thị  và   sự phóng đại về lợi ích của sữa bột của các hãng sữa [36]. Theo một nghiên cứu năm 2013 tại Los Angeles, Mỹ: có gần 28% bà mẹ  ngừng cho con bú khi được 3 tháng, dừng lại bởi vì họ đã gặp khó khăn khi nuôi   dưỡng em bé, 32,3% cho rằng sữa mẹ  một mình không đáp  ứng các em bé,  33,0% cho rằng họ không có đủ sữa cho con bú, và 14,3% nói rằng họ bị nứt, đau  hoặc chảy máu núm vú khi cho con bú [38]. Theo báo cáo “Chăm sóc Mẹ & Con Philips ­ triển vọng toàn cầu cho con bú năm 2011”, tại các nước Mỹ, Trung Quốc,  Ấn Độ, Nam Phi, Ai Cập, các rào  cản chính dừng cho trẻ bú khi đang ở nhà là lượng sữa cung cấp giảm, việc cho   trẻ  bú khiến bà mẹ  bị  đau núm vú, thiếu thời gian cần thiết cho con bú, phải   quay trở lại làm việc, tâm lý e ngại khi phải cho con bú bên ngoài nhà, không có  
  19. thời gian cho con bú suốt cả ngày. Tính trung bình có 40% bà mẹ cảm thấy rằng   lượng cung  ứng sữa của họ  giảm, tỷ  lệ  này  ở  các nước phát triển như  Mỹ  là   70% và Trung Quốc 58%, trái ngược với Nam Phi 9% và Ai Cập 17%. Lý do  quan trọng khác là đau núm vú khi cho ăn (15%), đặc biệt là trong ba tháng đầu  tiên. Có 7% bà mẹ  trong nghiên cứu cho con bú sữa bằng bình. Lý do nổi bật  khác bao gồm sự  cần thiết phải trở lại làm việc (10%) và cảm thấy lúng túng  cho con bú bên ngoài nhà (9%). Trong nghiên cứu này có 28% phụ nữ lấy lý do đi   làm lại để dừng việc cho con bú. Các lý do dẫn tới việc này là tại nơi làm việc   không có cơ sở vật chất tốt để vắt sữa, xấu hổ khi vắt sữa tại nơi làm việc [39]. Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Hoa Kỳ, hầu hết  phụ nữ ở Hoa Kỳ nhận thức được rằng con bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt  nhất cho trẻ sơ sinh, nhưng thường họ không được hướng dẫn về lợi ích cụ thể  của nó và các rủi ro liên quan nếu không cho con bú. Các cán bộ  y tế  thường   nhận được ít đào tạo, và nhiều người cảm thấy không tự tin để cung cấp thông  tin hữu ích, chính xác để hỗ trợ bệnh nhân của họ. Bên cạnh đó là những rào cản  về kỹ thuật cho con bú và việc kết hợp cho con bú và làm việc [40].  Yếu tố môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới cho con bú. Tại Hoa Kỳ, bú  bình là vấn đề bình thường hoặc thích hợp để  nuôi một trẻ  sơ  sinh. Nhận thức   và thái độ về cho con bú không chính xác hoặc tiêu cực vẫn còn phổ biến trong  cộng đồng và các phương tiện truyền thông. Thông tin sai lệch phổ biến là thông  tin dinh dưỡng về  sữa mẹ  và các loại thực phẩm khác. Nhiều hãng sữa thổi  phồng về  lợi ích của sữa bột thay thế sữa mẹ. Mọi người tin rằng phụ nữ nên  cho con bú kín đáo ở nơi công cộng, nhiều bà mẹ đã bị chỉ trích vì cho con bú ở  nơi công cộng và bị yêu cầu ngừng cho con bú [41].   3.2. Tại Việt Nam           Mặc dù Bộ Y Tế đã khuyến cáo “sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0