Đề tài: Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế
lượt xem 19
download
Với kết cấu nội dung gồm 3 chương, đề tài "Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế" giới thiệu đến các bạn những nội dung tổng quan về cơ chế kinh tế và mô hình kinh tế, cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế của Việt Nam trong quá trình đổi mới, đánh giá về quá trình đổi mới ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế
- CẢI CÁCH CƠ CHẾ KINH TẾ VÀ THAY ĐỔI MÔ HÌNH KINH TẾ 1
- MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết Chữ viết đầy đủ Ý nghĩa tắt 1 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội 3 NIEs The Newly Industrialized Các nền kinh tế công nghiệp hóa mới Economies 4 NICs Newly Industrialized Country Các nước công nghiệp mới ở Đông Á 5 USD United States dollar Đô la Mỹ - đơn vị tiền tệ của nước Mỹ 6 XHCN Xã hội chủ nghĩa Xã hội chủ nghĩa 7 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới 2
- DANH MỤC BẢNG STT Số hiệu Nội dung Trang 1 Bảng 2.1 Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng 41 GDP theo ngành, 2001-2005 2 Bảng 2.2 Bảng 2.2: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-20055 (%) 42 3 Bảng 2.3 Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế, 2001- 43 2005 (%) 4 Bảng 2.4 Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, 2001-2005 (%) 44 3
- LỜI MỞ ĐẦU Trong thời buổi hội nhập, mỗi quốc gia đều cố gắng thể hiện vị thế của mình trên trường quốc tế. Từ các nước phát triển bậc nhất đến các nước đang phát triển đều phải cải cách từng ngày cho phù hợp với các thông lệ quốc tế và sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy công cuộc đổi mới là điều tất yếu cần phải được thực hiện nhanh chóng và kịp thời đối với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đổi mới về nhiều mặt như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo,… nhưng quan trọng hơn cả là sự đổi mới về kinh tế, bởi kinh tế là nền tảng trụ cột để phát triển một đất nước. Trong lĩnh vực quan trọng này, các quốc gia cần cải cách về chế độ quản lý của nhà nước các luật lệ chung để thích ứng với nhu cầu hội nhâp vào nền kinh tế thế giới. Do vậy điều kiện tiền đề cho việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, giảm kích thước khu vực công,... là đổi mới tư duy và thể chế quản lý nhà nước, thành phần kinh tế, cách thức quản lý các bộ phận kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế, các hoạt động và giao dịch trong nền kinh tế,… Toàn bộ những thay đổi đó tạo ra một mô hình kinh tế mới cho một quốc gia trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Bởi vậy mà nhóm nghiên cứu chọn đề tài “Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế” để nêu rõ một số những khái niệm về cải cách cơ chế và thay đổi mô hình kinh tế, đồng thời phân tích và đánh giá quá trình cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế ở Việt nam, từ đó đúc kết những kinh nghiệm và bài học quý giá cho Việt Nam làm hành trang vững chắc bước đi trên con đường đổi mới tương lai. 4
- CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ KINH TẾ VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ 1.1. Lý luận chung về cải cách cơ chế kinh tế 1.1.1. Khái niệm cơ chế kinh tế Cơ chế kinh tế được hình thành từ lâu và khái niệm về cơ chế đã được nêu lên một cách sơ lược trong các tác phẩm của các nhà kinh tế học cổ điển thế kỷ XVIIIXIX như A.Smith, S.Mill, A. Wagner… Quan niệm về cơ ch ế có thể xét trên hai phương diện từ điển học và phương diện khoa học để tìm ra điểm chung. Trên phương diện từ điển học, từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Theo từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản năm 2000 thì “cơ chế là cách thức mà theo đó một quá trình được thực hiện”. Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Tương tự như vậy, các tác giả của cuốn Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện. Về phương diện khoa học, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm "cơ chế”. Trong cuốn “Sổ tay về phát triển, thương mại và WTO” (Nxb Chính trị quốc gia năm 2004), các nhà khoa học cho rằng “cơ chế là một phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động của một sự vật hay hiện tượng”. Một quan điểm cụ thể hơn về cơ chế được đề cập trong cuốn “Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp” của Tổ chức thương mại thế giới – WTO (Nxb Lao động xã hội năm 2006). Theo các tác giả 5
- của cuốn sách này thì nói đến cơ chế bao giờ cũng gồm hai mặt: bên ngoài (thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động ngay trong nội tại của sự vật, hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng. Như vậy, về phương diện từ điển học và phương diện khoa học, dù cách tiếp cận của các nhà khoa học không hoàn toàn giống nhau, nhưng có thể nhận thấy các quan điểm này đều chỉ ra hai yếu tố cơ bản tạo thành cơ chế. Đó là: yếu tố tổ chức (cơ cấu) và yếu tố hoạt động (vận hành). Yếu tố tổ chức đề cập đến các thành viên (chủ thể) tham gia, cách thức hình thành tổ chức (cơ cấu) và cách thức tổ chức hệ thống nội tại. Yếu tố hoạt động thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên (sự phân công và hợp tác giữa các thành viên) trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức; nguyên tắc vận hành của cơ chế và nội dung hoạt động của nó. Từ những ý kiến trên rút ra điểm chung nhất về khái niệm cơ chế. Cơ chế là khái niệm chỉ sự diễn biến của quá trình vận hành nội tại của một hệ thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên một hệ thống trong quá trình vận động của mỗi bộ phận, mỗi yếu tố đó, nhờ đó hệ thống có thể vận động, phát triển theo mục đích đã định. Vậy cơ chế kinh tế là gì? Cơ chế kinh tế là toàn bộ hệ thống những tác động có ý thức và có tổ chức của con người đến kinh tế vĩ mô và vi mô, phản ánh đúng các quy luật kinh tế khách quan, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo định hướng mục tiêu đã xác định. Cơ chế kinh tế mang tính khách quan và có vai trò quan trọng trong việc nhận thức, phản ánh và vận dụng quy luật khách quan. 6
- 1.1.2. Phân loại cơ chế kinh tế Các cơ chế kinh tế gồm cơ chế kinh tế thị trường, cơ chế kinh tế kế ho ạch hóa tập trung và cơ chế kinh tế hỗn hợp. Cơ chế quản lý kinh tế có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau: trong hệ thống kinh tế vĩ mô tồn tại khái niệm cơ chế thị trường và cơ chế kế hoạch tập trung, cơ chế điều tiết vĩ mô; tầm vi mô tồn tại cơ chế tự điều tiết… Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay đều thực hiện cơ chế kinh tế thị trường. Tuy nhiên cơ chế kinh tế thị trường cũng được phân thành hai nhánh nhỏ hơn là cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung gồm các cơ quan, tổ chức với hệ thống các quy tắc, quy chế được sử dụng để điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế mà trong đó nhà nước quản lí nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống áp đặt chỉ tiêu mệnh lệnh từ trên xuống dưới. Cơ chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ đối với các thực thể, tổ chức kinh tế, được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường. Các hoạt động kinh tế ở đây tuân theo quy luật cung cầu, chịu sự quản lý của nhà nước nhưng ở mức độ vừa phải. Cơ chế kinh tế thị trường bao gồm cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (Trình bày trong bảng 1.1) 7
- Bảng 1.1: Cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Cơ chế kinh tế thị trường Cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN TBCN Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo ra sự cạnh trạnh gắt gao giữa các nhà sản xuất. Người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như được đáp ứng đầy đủ các chủng loại dịch vụ. Giống nhau Phân công lao động ngày càng xã hội hóa cao. Mở rộng quan hệ nhiều loại thị trường từ thị trường địa phương, thị trường khu vực và dân tộc, thị trường quốc tế. Tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc chuyển giao công nghệ sản xuất, chuyển giao công nghệ quản lí từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế nước nhà. Kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy giao lưu giữa các nước dưới sự thể hiện qua các sản phẩm, dịch vụ mang bản sắc của từng dân tộc, từng địa phương, từng quốc gia. Trong hệ thống quy phạm Trong hệ thống quy phạm pháp luật trong đó nhà Khác nhau pháp luật vai trò kinh tế nước quản lí nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các của nhà nước bị giảm sút thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường chịu sức ép mạnh mẽ từ thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị các thành phần kinh tế trường, xử lí và kiểm soát các vi phạm trong hoạt khác. động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội. Cơ chế kinh tế hỗn hợp là cơ chế kinh tế trong đó khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tương tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Chính phủ kiểm soát một phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh thuế, thanh toán chuyển giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng vũ trang, cảnh sát. Chính phủ cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân. 8
- Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trò là nhà sản xuất các hàng hóa tư nhân thông qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước. 1.1.3. Tính tất yếu của cải cách cơ chế kinh tế “Cải cách” là là một biện pháp được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, ch ương trình cụ thể và yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định. Nhiều người dễ bị nhầm lẫn giữa khái niệm về cải cách và khái niệm về cách mạng. Cải cách và cách mạng là hai phạm trù khác nhau. Cách mạng là sự lật đổ cái cũ lạc hậu và thay thế bằng cái mới tiến bộ h ơn. Nếu cách mạng là sự thay thế một hệ thống này bằng một hệ thống khác thì cải cách là sự cải tiến, cải thiện hợp lý hóa một hệ thống, do đó ít tốn kém và hạn chế đổ vỡ hơn rất nhiều. Trước đây, các cuộc cách mạng có ý nghĩa vì nó giải quyết một loạt các vấn đề tích tụ của xã hội và tạo ra ảnh hưởng đối với tiến trình phát triển của nhân loại, nhưng giờ đây, càng ngày nó càng mất dần vai trò của mình, trở thành một hiện tượng tiêu cực. Con người cần phải luôn cải cách, cải thiện các hệ thống đang tồn tại để phục vụ cho những trạng thái mới của đời sống phát triển. Từ đó, “cải cách cơ chế kinh tế” là cải thiện cách quản lý nền kinh tế bằng cách cải tiến các quy định, luật định, đạo luật gắn với nền kinh tế để tạo ra động lực đột phá, phù hợp hơn với sự vận động không ngừng của nền kinh tế. Một khi những khuôn khổ cơ chế cũ đã trở nên chật chội, những cuộc cách mạng, cải cách trước đây tạo ra đã không còn đủ lực để thúc đẩy phát triển thì cải cách cơ chế kinh tế là công việc tất yếu. Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế lại không thể tiến hành trong ngày một ngày hai, trong khi những khuyết tật do cơ chế cũ lại hết sức cấp bách, cần phải giải quyết ngay, vì vậy đất nước đòi hỏi 9
- phải có những đột phá trong đổi mới để tạo động lực cho đất nước tiếp tục phát triển. Các nhân tố thúc đẩy cải cách cơ chế kinh tế Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc hình thành và phát triển cơ chế kinh tế, nhưng trong đó các nhân tố dưới đây được coi là quan trọng nhất. - Phương thức sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng làm thay đổi phần lớn các cơ chế chính thức, trong đó có cơ chế kinh tế. Việc chuyển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác sẽ làm thay đổi căn bản cơ chế nói chung của một quốc gia, do sự khác biệt cơ bản về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự thay đổi các quan hệ về sở hữu, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, sự khác biệt về cơ cấu bộ máy nhà nước, sự thay đổi trong địa vị của những người ban hành và cả những người thực thi cơ chế... - Chế độ sở hữu và cơ cấu quyền tài sản là những yếu tố rất quan trọng tác động tới cơ chế mà trước hết là cơ chế kinh tế. - Hệ tư tưởng là nền tảng tinh thần làm thay đổi nhận thức của con người về thế giới quan, nhân sinh quan. Hệ tư tưởng có tác động lớn tới việc giải thích thế giới xung quanh và các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, hệ tư tưởng có tác động rất lớn tới hệ thống cơ chế nói chung, cơ chế quản lý kinh tế nói riêng. - Mô hình kinh tế cũng có tác động mạnh tới cơ chế. Sự khác biệt giữa các mô hình kinh tế, chẳng hạn như giữa mô hình kinh tế thị trường với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong cơ chế kinh tế. Ngoài ra, sự khác nhau giữa các mô hình kinh tế thị trường (kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...) cũng tạo ra sự khác biệt lớn trong cơ chế kinh tế. 10
- - Cơ cấu quyền lực chính trị, sự tập trung quyền lực hay phân quyền sẽ tạo ra sự khác nhau cơ bản dẫn tới khác nhau đáng kể trong cả tổ chức nhà nước lẫn cơ chế kinh tế. - Trình độ của chủ thể quản lý vĩ mô thể hiện trình độ nhận thức các quy luật khách quan, nhận thức về kinh tế xã hội, con người, nhận thức về đối tượng điều chỉnh... Điều này có tác động lớn đến chất lượng của cơ chế kinh tế, vì các cơ chế do con người tạo lập ra. 1.2. Lý luận chung về mô hình kinh tế 1.2.1. Khái niệm mô hình kinh tế Mô hình kinh tế là cách thức mô tả thực thể kinh tế đã được đơn giản hóa bằng cách loại bỏ các chi tiết không quan trọng, giữ lại đặc điểm quan trọng nhất để giải quyết vấn đề nghiên cứu nhằm hiểu và dự đoán được mối quan hệ của các biến số trên cơ sở dựa vào hành vi của các biến số đó, nó cung cấp cách thức giải quyết vấn đề. Khác với mô hình kinh tế lượng, mô hình toán học,… Trong khi các mô hình kinh tế toán học thể hiện mối quan hệ giữa các biến số kinh tế thì mô hình kinh tế trong trường hợp này mang một khái niệm khác, nó không phải là một hàm được lập nên bởi các biến mà nó là một thuật ngữ đùng để đặc trưng cho nền kinh tế của một Nhà nước trong một khoảng thời gian. Mô hình kinh tế được đặc trưng bởi nhiều yếu tố: các thành phần kinh tế, chủ thể kinh tế, các hình thức hoạt động hay giao dịch, các cơ chế của mô hình kinh tế,… Sự tồn tại lâu dài hay ngắn ngủi của một mô hình kinh tế được quyết định dựa trên hiệu quả của mô hình đó đối với nền kinh tế đương thời. 11
- 1.2.2. Phân loại mô hình kinh tế Dựa vào cách thức giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh tế học, các quốc gia trên thế giới đã và đang áp dụng ba mô hình kinh tế chủ yếu, đó là mô hình kinh tế thị trường, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và mô hình kinh tế hỗn hợp. Mô hình kinh tế thị trường (market economy) Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành dưới tác động của quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Nhà nước hầu như không can thiệp hoặc can thiệp rất ít vào nền kinh tế. Mô hình này là thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm mang tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện mô hình kinh tế thị trường trên thế giới rất phong phú, đa dạng. Các mô hình kinh tế thị trường đang vận hành ở các nước tư bản phát triển trên thế giới thành 3 nhóm tiêu biểu: - Mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do do (tiêu biểu là nền kinh tế thị trường của Mỹ, Anh, Ốxtrâylia,…). Đây là mô hình kinh tế được các nhà kinh tế theo trường phái tự do của Mỹ đề xuất, bản chất của nó là giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và để cho nền kinh tế tự vận hành thông qua công cụ của nó. - Mô hình thể chế kinh tế thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức, Thụy Điển và các nước Bắc Âu khác). Kinh tế thị trường xã hội là một khái niệm về một hình thái kinh tế thị trường mới ra đời đầu tiên ở Tây Đức (Cộng hòa Liên bang Đức) mà tác giả là những người theo trường phái kinh tế thị trường như Freibrug, Frederich, F.A.von 12
- Hayek, Wolf Ogen. Về bản chất, kinh tế thị trường xã hội gần giống với kinh tế thị trường nhưng mục tiêu của nó là “gắn kết trên cơ sở thị trường các nguyên tắc tự do và bình đẳng xã hội.” Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế – xã hội và chính trị, từ bỏ chủ nghĩa tự do, đồng thời chống độc quyền, bảo vệ nguyên lý của kinh tế thị trường. Hiểu một cách đơn giản thì kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do với công bằng xã hội. Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức… không hề kém quan trọng hơn so với các chính sách kinh tế, tài chính. - Thể chế kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là nền kinh tế Pháp, Nhật Bản). Chức năng chủ yếu của nhà nước trong mô hình này là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế dài hạn. Do đó, nhà nước phải chủ động thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trên cơ sở những thành tựu của công nghiệp hóa và tái công nghiệp hóa dựa vào tri thức, nhằm thích ứng với sự biến động nhanh chóng của nhu cầu thị trường để luôn tạo ra được lợi thế so sánh mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, không thụ động chấp nhận sự phân công lao động quốc tế dựa trên những lợi thế so sánh có sẵn. Cơ sở lý thuyết về chức năng phát triển của nhà nước là những phân tích “lợi thế so sánh động” của một nền kinh tế dựa vào tri thức. Bên cạnh những điểm khác biệt của mỗi mô hình như đã nêu trên, giữa 3 mô hình này cũng có những điểm tương đồng rất cơ bản: 13
- Thứ nhất, cả ba mô hình thể chế kinh tế thị trường nêu trên đều được xây dựng và vận hành dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi là: sở hữu tư nhân, lợi ích cá nhân, cạnh tranh thị trường và tự do dân chủ theo kiểu phương Tây. Thứ hai, những thể chế, chính sách trước đây bị coi là phi kinh tế như chính sách giáo dục – đào tạo, khoa học, công nghệ thì ngày nay trở thành những chính sách phát triển hàng đầu, do giáo dục – đào tạo và khoa học, công nghệ trong những thập niên gần đây đã trở thành những động lực trọng yếu của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính nhờ tập trung những khoản đầu tư lớn cho phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học, công nghệ mà Mỹ trở thành nước đang dẫn đầu trong các ngành mới, hiện đại và thu được nhiều khoản lợi nhuận kếch sù từ các ngành công nghiệp bán dẫn, máy tính, Intơnét, công nghệ sinh học,… Đó chính là cơ sở trọng yếu để nền kinh tế Mỹ duy trì được đà tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt thập niên vừa qua. Trên thực tế, cả 3 mô hình này đều sử dụng rộng rãi sự điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước luôn được thay đổi linh hoạt, theo những hình thức và phương pháp phù hợp với diễn biến và yêu cầu khách quan của tình hình thực tế. Chính phủ ở các nước này đều sử dụng những biện pháp can thiệp có chủ đích nhằm trợ giúp một số ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong sự phát triển dài hạn của nền kinh tế, hoặc kiểm soát, hạn chế sự phát triển của những doanh nghiệp, những ngành gây ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do hoàn toàn. Một nền kinh tế thị trường tự do là một nền kinh tế nơi mà tất cả các thị trường bên trong nó không được kiểm soát bởi các bên khác với những người tham gia trên thị trường. Ở dạng thuần khiết nhất của nó chính phủ đóng một vai trò 14
- trung lập trong việc quản lý và điều ban hành pháp luật về hoạt động kinh tế không giới hạn và cũng không tích cực thúc đẩy nó (ví dụ như điều tiết các ngành công nghiệp cũng như trợ cấp cung cấp cho các doanh nghiệp cho phép một mình bảo vệ họ khỏi áp lực thị trường nội / ngoại). Một nền kinh tế như vậy dưới hình thức cực đoan nhất của nó không tồn tại trong nền kinh tế phát triển, tuy nhiên những nỗ lực tự do hóa nền kinh tế hoặc nỗ lực làm cho nó "tự do hơn" để hạn chế vai trò của chính phủ theo cách như vậy. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng: Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển; Phân phối lại thu nhập quốc dân; Bảo vệ môi trường. Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ: cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường; kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh; cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" giao thông vận tải, cung cấp điện nước,… và hạ tầng "mềm" dịch vụ thông tin, bưu chính viễn thông; tài chính,…) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc sức khoẻ, giáo dục đào tạo, bảo vệ môi trường,…); hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình đẳng. Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường lý tưởng tự do, quyền sở hữu được trao đổi một cách tự nguyện trao đổi ở một mức giá được thỏa thuận chỉ bằng sự đồng ý lẫn nhau của người bán và người mua. Theo định nghĩa, người mua và người bán không ép buộc lẫn nhau, theo nghĩa là họ có được quyền sở hữu của nhau mà không sử dụng vũ lực, đe dọa của lực lượng vật chất, hoặc gian lận, cũng không phải là họ bị cưỡng chế do bên thứ ba (như của chính phủ thông qua các khoản thanh toán chuyển giao) và họ tham gia vào thương mại 15
- đơn giản chỉ vì họ đều đồng ý và tin rằng những gì họ đang nhận được là giá trị nhiều hơn hoặc càng nhiều càng tốt những gì họ bỏ đi. Giá là kết quả của các quyết định mua bán hàng loạt như được mô tả bởi các lý thuyết về cung và cầu. Cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do. Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc. Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất. Ưu điểm: Người sản xuất và người tiêu dùng được tự do lựa chọn nên tính năng động và tính chủ động sáng tạo cao hơn, thường xuyên đổi mới công nghệ và kích thích nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh; Khai thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hạn chế: Coi lợi nhuận là trên hết nên gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, hệ thống sinh thái bị phá vỡ; Mâu thuẫn ngày càng cao giữa các mối quan hệ trong nền kinh tế với mối quan hệ truyền thống, tệ nạn xã hội nảy sinh, phân hóa giàu ngèo và bất công xã hội tăng, các nhu cầu công cộng xã hội khó được thực hiện, chịu nhiều rủi ro. 16
- Kinh tế kế hoạch hóa tập trung (command economy hay centrally planned economy) Kinh tế kế hoạch hóa tập trung là nền kinh tế mà chính phủ kiểm soát tất cả các nguồn lực của nền kinh tế và phân bổ các nguồn lực này thông qua một hệ thống kinh tế tập trung. Hay nói cách khác, chính phủ đưa ra mọi quyết định về sản xuất và phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính phủ quyết định sẽ sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào, và phân phối cho ai. Sau đó, các hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Vai trò của kinh tế kế hoạch hóa tập trung: - Có đóng góp quan trọng vào việc cải tạo quan hệ sản xuất, tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay nhà nước, do đó có điều kiện tập trung sức sản xuất để nâng cao nâng suất lao động - Việc tập trung các tư liệu sản xuất và sản xuất có kế hoạch tạo điều kiện tập trung sức lao động và vốn đầu tư vào những ngành trọng điểm, những công trình quan trọng nhằm đưa đến sự thay đổi cơ bản nền kinh tế quốc dân Tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng điểm, những ưu tiên của đất nước. ví dụ điển hình như quá trình Công nghiệp hóa những năm 1930 ở Xô Viết đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế, cũng như các dự án chạy đua vũ trang và các dự án lớn khác của Liên Xô sau này. - Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên nền kinh tế tránh được lạm phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với thu nhập tăng đều theo kế hoạch 17
- điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư lớp dưới kém năng động thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao. Ưu điểm: Tất cả các vấn đề đều do nhà nước thống nhất, tập trung quản lý nên các vấn đề kinh tế lớn được giải quyết một cách dễ dàng hơn như xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; quan hệ giữa con người với nhau bình đẳng, bác ái; hạn chế phân hóa giàu nghèo và đảm bảo sự công bằng xã hội. Hạn chế: Bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, bao cấp; kế hoạch sát với thực tế; người sản xuất và người tiêu dùng không có quyền tự do lựa chon nên tính năng động và chủ động không cao, chậm đổi mới công nghệ; Phân phối mang tính chất bình quân nên không kích thích người lao động, khai thác và sử dụng nguồn lực khan hiếm kém hiệu quả Kinh tế hỗn hợp (mixed economy) là nền kinh tế mà trong đó chính phủ vận hành nền kinh tế theo tín hiệu thị trường, chủ trương phải kết hợp hai mặt "bàn tay vô hình" của Xmit (A. Smith) và lý thuyết “bàn tay hữu hình”. Cơ chế thị trường xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế: cái gì? như thế nào? cho ai? Nhưng "bàn tay vô hình" cũng có những khuyết tật và đưa đến những sai lầm; cho nên cần "bàn tay hữu hình" của chính phủ thông qua những chính sách và biện pháp thuế khoá, chi tiêu (đầu tư, tín dụng,...), lãi suất, thanh toán chuyển khoản và kiểm soát nền kinh tế. Bằng những biện pháp ấy, nhà nước thực hiện các chức năng: định ra khuôn khổ pháp luật, điều tiết thị trường, bảo đảm sự công bằng, ổn định nền kinh tế vĩ mô,... Nhưng "bàn tay hữu hình" cũng có những khuyết tật của 18
- nó, do chính phủ có những nhận định sai lầm và đưa ra những quyết định can thiệp trái với sự vận động khách quan của thị trường. Cho nên phải kết hợp cả hai mặt và hình thành nên nền "kinh tế hỗn hợp". Kinh tế hỗn hợp cho rằng do kết quả hoạt động của nhà nước tư sản, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại không còn là nền kinh tế tư nhân nữa, mà là sự kết hợp hai khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước bổ sung cho nhau thành một nền "kinh tế hỗn hợp". Khu vực Nhà nước đã mất tính chất tư bản chủ nghĩa xã hội. Sự kiểm soát nền kinh tế do nhà nước và các cơ quan tư nhân thực hiện là nhằm mục đích "nâng cao phúc lợi xã hội của nhân dân". Theo thuyết này, nhà nước tư sản có khả năng xoá bỏ một phần những mâu thuẫn nảy sinh trong nền kinh tế, giảm dần và đi đến không có khủng hoảng và bảo đảm một sự phát triển nhịp độ cao và ổn định. Thuyết này đưa ra những biện pháp kinh tế xã hội của nhà nước tư sản, của kinh tế tư bản nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. Ở đây, hai khu vực tư bản tư doanh và kinh tế nhà nước hợp thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thống nhất, trong đó vai trò quyết định là thuộc các tổ chức kinh tế tài chính trong tổ chức độc quyền mạnh. Mô hình này phát huy hiệu quả của các nhân tố chủ quan như các quy luật của thị trường lại vừa coi trọng các nhân tố chủ quan như vai trò của chính phủ. Tuy nhiên còn tùy vào từng trường hợp của mỗi quốc gia mà mà vận dụng vai trò của chính phủ và thị trường cho phù hợp. Do những tính ưu việt đó mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp. Tùy theo mức độ chính phủ can thiệp vào nền kinh tế mà một 19
- nền kinh tế có thể lệch về hướng thị trường hay kế hoạch tập trung. 1.2.3. Vì sao phải thay đổi mô hình kinh tế Thay đổi mô hình kinh tế là quá trình một quốc gia chuyển đổi từ mô hình kinh tế này sang mô hình kinh tế khác tiến bộ hơn, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế đã đặt ra. Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố kinh tế (quy mô và tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế); yếu tố chính trị và chính phủ (thể chế chính trị, vai trò và tác động của Nhà nước đối với nền kinh tế); các yếu tố xã hội (dân số và thu nhập, thái độ đối với công việc); yếu tố tự nhiên (khoáng sản, khí hậu, thời tiết,…); yếu tố kỹ thuật – công nghệ ngày càng có nhiều sự thay đổi và điều đó đòi hỏi một mô hình kinh tế mới với sự tham gia của các lực lượng sản xuất mới, công cụ sản xuất mới, cách thức vận hành trao đổi mới, cơ chế quản lý mới. Bởi khi đó, mô hình kinh tế cũ tỏ ra kém hiệu quả khi “bàn tay vô hình” hay “bàn tay hữu hình” không thể giải quyết được những vấn đề của nó và có một mô hình mới xuất hiện có thể giúp giải quyết những khó khăn đang tồn đọng thì quốc gia đó sẽ tiến hành thay đổi mô hình kinh tế. Sự thay đổi mô hình kinh tế là sự kết hợp hài hòa giữa tác động của “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” với một sự ưu tiên mới cho thị trường hay cho Nhà nước, tùy thuộc vào mỗi nền kinh tế khác nhau. Nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu kinh tế là xác định biến động của nền kinh tế và đưa ra những biện pháp, những học thuyết có thể giải quyết được các vấn đề kinh tế đang tồn đọng hay các vấn đề có thể xảy ra trong tương lai. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011- 2020
29 p | 982 | 152
-
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước địa phương (Qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang)
20 p | 241 | 67
-
CÁC PHƯƠNG ÁN THỂ CHẾ ĐỂ CUNG ỨNG CƠ SỞ HẠ TẦNG
7 p | 179 | 38
-
Cải cách thể chế kinh tế - chìa khóa cho tái cơ cấu - Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2014: Phần 1
113 p | 175 | 24
-
Cải cách thể chế kinh tế - chìa khóa cho tái cơ cấu - Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2014: Phần 2
113 p | 115 | 18
-
Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm quyền con người
26 p | 143 | 16
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Bắc Ninh
7 p | 112 | 16
-
Cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến phân cấp, phân quyền tại Cộng hòa liên bang Đức
24 p | 96 | 8
-
Cải cách tiền lương trong khu vực ngoài Nhà nước
6 p | 47 | 6
-
Báo cáo: Cải cách các thể chế kinh tế của Việt Nam nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
17 p | 78 | 6
-
Tài liệu bồi dưỡng công chức làm việc tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả, theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông
114 p | 7 | 6
-
Cải cách hành chính tại Hàn Quốc
7 p | 108 | 6
-
Cải cách thể chế hành chính trong bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
10 p | 66 | 5
-
Cải cách thể chế kinh tế để đổi mới doanh nghiệp nhà nước
4 p | 68 | 4
-
Bản tin Cải cách hành chính Bản tin nội bộ của văn phòng Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ - Số 21/2019
49 p | 59 | 3
-
Bản tin Cải cách hành chính Bản tin nội bộ của văn phòng Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ - Số 15/2019
44 p | 40 | 2
-
Một số chính sách cải cách hệ thống tài chính của Chính phủ Mỹ từ khủng hoảng kinh tế - tài chính (2008-2009)
8 p | 32 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn