BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
lượt xem 77
download
Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
- BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TS. Đỗ Ngọc HuỳnhCập nhật ngày: 03/11/2010 Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới. 1.Thực trạng hệ thống ASXH ASXH thường được hiểu là việc đảm bảo đời sống cho các tầng lớp dân cư trong xã hội đạt được những tiêu chuẩn nhất định để đảm bảo ổn định kinh tế xã hội. Theo nghĩa rộng, ASXH bao gồm toàn bộ các hoạt động đảm bảo đời sống cho nhân dân. Mục tiêu cơ bản của ASXH có thể khái quát bao gồm đảm bảo an ninh thu nhập, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, bảo vệ các đối tượng yếu thế và đảm bảo sự ổn định, gắn kết xã hội. ASXH đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống ASXH thường gồm các cấu phần chủ yếu là nhóm BHXH (bao gồm các hình thức BHXH và BHYT), bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội, và các dịch vụ xã hội khác. Trong đó, nhóm BHXH đóng vai trò trọng tâm của hệ thống. Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội được thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007, quy định các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BH thất nghiệp. Về BHYT, chínhsách BHYT được coi là chế độ khám chữa bệnh (KCB) của chính sách BHXH. Trước năm 1992, mọi chi phí KCB do NSNN chi trả. Kể từ năm 1992, chế độ BHYT mới được triển khai và Luật Bảo hiểm Y tế được ban hành vào năm 2008 đánh dấu một bước cải cách quan trọng trong chế độ BHYT. Kết quả đạt được Hệ thống chính sách ASXH đã được cải cách mạnh mẽ từ đầu những năm 1990 đến nay, trong đó hệ thống BHXH và BHYT là nòng cốt trên cơ sở nguyên tắc ba bên cùng tham gia (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước) để giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Đây là quá trình cải cách phù hợp với mô hình phân phối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Quan hệ mức đóng và mức hưởng đã tuân thủ các nguyên tắc của hoạt động BHXH theo từng chế độ riêng biệt. Phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT ngày càng được mở rộng. Tổng số người tham gia BHXH tăng từ 2,85 triệu người năm 1995 lên 8,7 triệu người năm 2008 (bằng gần 25% lực lượng lao động cả nước). Về BHYT, số đối tượng tham gia tăng mạnh từ 3,7 triệu năm 1993 lên 39,2 triệu người năm 2008, trong đó 28,6 triệu người tham gia BHYT bắt buộc; 10,6 triệu người tham gia BHYT tự nguyện.Hàng triệu người lao động đã được chi trả, trợ cấp theo các chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí, tuất và mất sức lao động trực tiếp, đảm bảo đúng đối tượng, chế độ, kịp thời và trực tiếp đến người thụ hưởng; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu và các chế độ BHXH khác. Hệ thống BHXH Việt Nam được quản lý tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, được chuyên môn hoá để thực hiện các chính sách, chế độ BHXH qua việc tách hoạt động của sự nghiệp quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam thực hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt chức năng quản lý thu chi BHXH, cải tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước, đảm bảo tính thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả.
- Đã hình thành cơ chế quản lý tài chính thống nhất đối với các loại hình BHXH, tạo căn cứ pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ASXH ngày càng phát triển trên phạm vi rộng và quy mô lớn trên toàn quốc. Quy mô và tiềm lực tài chính của các quỹ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của mức đóng góp và chi trả. Tổng số dư các quỹ ASXH đã lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, tạo cơ sở cho việc phát triển quỹ và nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế. Đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được mở rộng và tăng nhanh, đảm bảo đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế phát sinh, qua đó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế xã hội. Trong giai đoạn 1996 2005, có trên 8 triệu người thuộc diện được hưởng chế độ ưu đãi, trong đó trợ cấp ưu đãi hàng tháng khoảng 1,5 triệu người. Mức trợ cấp cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tăng trưởng kinh tế, qua đó đảm bảo nâng dần mức sống cho các đối tượng thụ hưởng. Các gia đình chính sách xã hội được đảm bảo mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình so với người dân trên địa bàn. Một số tồn tại, hạn chế Hệ thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý; Chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Diện bao phủ của hệ thống còn chưa cao, mới chỉ tập trung vào các thành phố lớn và các tỉnh đồng bằng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn; mạng lưới chủ yếu mới bao phủ khu vực kinh tế chính thức. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và sự gia tăng trong mức sống dân cư. Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển thực tế, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình ASXH. Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống ASXH, kể cả các quỹ BHXH, BHYT và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước mắt và trong trung và dài hạn. Theo đánh giá sơ bộ, các quỹ BHXH, BHYT ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần, đặc biệt là đối với quỹ BHYT. Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của ASXH, trong khi đó huy động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. 2. Một số vấn đề về tài chính đối với ASXH (1) Thâm hụt quỹ và vấn đề cân đối các quỹ BHXH, BHYT: Với chính sách không ngừng mở rộng độ bao phủ của ASXH trong bối cảnh kinh tế xã hội phát triển thấp, mức độ đóng góp còn hạn chế, một số quỹ ASXH đã nằm trong tình trạng thâm hụt và đòi hỏi trợ cấp lớn từ NSNN. Trong điều kiện nguồn lực ngân sách còn hạn hẹp, yêu cầu tài trợ ASXH tăng mạnh có nguy cơ gây nên mất cân đối tài chính quốc gia và những ảnh hưởng tiêu cực trong trung và dài hạn. Mức chi và tỷ trọng chi ngân sách cho ASXH không ngừng tăng, chiếm đến 20% tổng chi thường xuyên trong thời gian gần đây, đã gây sức ép khá lớn cho ngân sách. Quỹ BHYT đã và đang thâm hụt ngày càng lớn ở mức hàng ngàn tỷ đồng hàng năm. Về cân đối quỹ BHXH, hiện Quỹ BHXH có số dư trên 70.000 tỷ đồng, nhưng lại tiềm ẩn mất cân đối trong tương lai do các yếu tố già hoá dân số, cải cách tiền lương và điều chỉnh lương tối thiểu cùng với điều chỉnh chế độ lương hưu và trợ cấp BHXH, quy định mức đóng thấp, mức hưởng cao cũng như các chính sách xã hội khác như chính sách việc làm, nghỉ hưu. Theo một số dự báo, cân đối
- thu – chi BHXH được đảm bảo đến khoảng năm 2020, sau đó sẽ giảm dần và đến khoảng năm 2030 thì Quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất cân đối nếu không có điều chỉnh chính sách. Về BH thất nghiệp (BHTN), do tính chất đặc thù, tổ chức triển khai cần phải có khả năng điều phối giữa các hệ thống quản lý BHXH (thu phí và chi trả trợ cấp) và hệ thống quản lý việc làm (theo dõi, quản lý cũng như hỗ trợ người lao động). Các doanh nghiệp và người lao động hiện mới chỉ tham gia để đối phó. Về mặt tài chính, BHTN cũng sẽ gặp nguy cơ mất cân đối quỹ như đối với các loại hình BHXH và BHYT. Nếu không thực hiện tốt cơ chế quản lý tài chính, Quỹ BHTN sẽ có thể lại rơi vào trạng thái bội chi lớn và tạo gánh nặng cho NSNN trong khi có thể không thực sự phát huy hết hiệu quả vốn có của nó đối với nền sản xuất xã hội. Về các chính sách bảo trợ xã hội, trong thời gian vừa qua, nhu cầu chi ngân sách cho các đối tượng thuộc chính sách bảo trợ xã hội ngày càng tăng do sửa đổi, bổ sung đối tượng hưởng bảo trợ xã hội, điều chỉnh mức trợ cấp cho các đối tượng và hệ thống hoá các chính sách bảo trợ xã hội theo Nghị định số 67/2007/NĐCP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. Với tổng nhu cầu chi lên đến hàng ngàn tỷ đồng, việc tăng cường thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đã ngày càng gây sức ép đối với NSNN, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm kinh tế như hiện nay. (2) Vấn đề bảo đảm ASXH cho người nghèo, nông dân và khu vực kinh tế phi chính thức: Mặc dù đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn vừa qua, nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn vẫn còn cao, chiếm khoảng 90% số người nghèo của cả nước. Đây là đối tượng đang được hưởng rất ít các chương trình phúc lợi xã hội, đặc biệt là dịch vụ khám chữa bệnh. Nghiên cứu về ASXH của UNDP (2007) cho thấy tỷ lệ được hưởng dịch vụ ASXH ở nhóm 20% người giàu nhất ở Việt Nam hiện nay cao gấp sáu lần nhóm 20% người nghèo nhất. Trong khi nhóm giàu nhất nhận được 45% hỗ trợ y tế và 35% hỗ trợ giáo dục thì nhóm nghèo chỉ nhận được tương ứng là 7% và 15%. Cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, văn hoá, đặc biệt là dịch vụ xã hội chất lượng cao, cũng có sự khác biệt rất lớn giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa khu vực chính thức và phi chính thức. Khu vực kinh tế không chính thức thu hút một tỷ lệ khá lớn lực lượng lao động, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và tạo thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, đời sống của những người lao động trong khu vực này thường không ổn định, nhất là những người lao động cá thể. Năm 2007, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức tham gia BHXH bắt buộc chỉ khoảng 15%, chủ yếu là trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. (3) Vấn đề nợ đọng và chậm nộp BHXH: Quá trình cải cách thể chế, chính sách ASXH, các chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy mức xử phạt vi phạm hành chính còn khá thấp, khả năng cưỡng chế luật pháp và tính khả thi của các biện pháp thực hiện còn chưa cao. Đây cũng chính là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trốn tránh và nợ đọng BHXH tại các doanh nghiệp. (4) Ảnh hưởng của hội nhập và khủng hoảng tài chính toàn cầu: Hội nhập kinh tế quốc tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là các khu vực nghèo, đối tượng nghèo và thuộc diện chính sách xã hội. Trong bối cảnh đó, yêu cầu tài trợ đối với hệ thống ASXH tăng mạnh, bao gồm cả phạm vi bao phủ, quy mô và mức độ các hoạt động tài chính và yêu cầu tài trợ. Do đó, việc đảm bảo nguồn
- lực tài chính cũng như mục tiêu hướng đến cân đối bền vững các quỹ BHXH, BHYT sẽ càng có khăn, phức tạp và cần thời gian điều chỉnh dài hơn. 3. Một số quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp cải cách ASXH Trên cơ sở xem xét thực trạng hệ thống ASXH hiện hành, bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và kinh nghiệm quốc tế, một số quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp cải cách ASXH cụ thể như sau: Quan điểm định hướng Phát triển hệ thống ASXH phù hợp với nền kinh tế định hướng XHCN, các chính sách ASXH cần gắn với các chương trình phát triển kinh tếxã hội, tạo động lực tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội.. Chọn phát triển mô hình dựa trên quan điểm của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) với các bộ phận cấu thành là BHXH, BHYT, bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Đây là mô hình phù hợp với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta coi con người là trung tâm của sự phát triển. Từng bước xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách ASXH mang tính toàn dân, mở rộng khả năng tiếp cận và diện bao phủ, đảm bảo người dân có mức sống tối thiểu, có khả năng liên kết, chống đỡ thành công trước rủi ro. Chú trọng phát triển hệ thống ASXH đối với khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số, các đối tượng bị tác động bởi cải cách kinh tế và xã hội như lao động di cư, người mất đất, bị tác động bởi khủng hoảng, người có công, trẻ em, người già, người tàn tật.... Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện ASXH, đồng thời mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội vào việc thực hiện chính sách ASXH dưới hình thức xã hội hóa. Từng bước phát triển các chính sách ASXH với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực quốc tế; huy động sự liên kết liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế thực hiện chính sách ASXH đối với người lao động trong bối cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Mục tiêu, yêu cầu cải cách Đảm bảo mọi người dân có quyền và được tiếp cận hệ thống ASXH, trong đó nhấn mạnh tính chia sẻ, tương trợ trong trong nội bộ và giữa các nhóm dân cư trong xã hội, hướng đến đảm bảo nhu cầu tối thiểu thông qua việc tổng hợp và tái phân phối nguồn lực. Đảm bảo nguyên tắc công bằng và bền vững của hệ thống ASXH, về lâu dài cần gắn trách nhiệm và quyền lợi, giữa đóng góp với hưởng lợi, khuyến khích mọi người dân tham gia hệ thống. Tăng cường trách nhiệm các chủ thể, khuyến khích các thành phần trong xã hội tham gia xây dựng và thực hiện chính sách ASXH. Về giải pháp cải cách Trên cơ sở quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu cải cách trên đây, giải pháp cải cách tài chính ASXH trong thời gian tới tập trung chủ yếu vào hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; hoàn thiện cơ chế và nguồn lực tài chính và hoàn thiện hệ thống quản lý ASXH. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật trên hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi, hệ thống hoá các văn bản pháp luật hiện có trên cơ sở kế thừa và phát triển chính sách BHXH hiện hành, xem xét điều kiện kinh tế xã hội và tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới. Cần đảm bảo tính đồng bộ giữa các chế độ ASXH, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, đảm bảo mọi người dân đều có quyền được hưởng ASXH; tạo cơ chế đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh và có hiệu quả trên thực tế.
- Bảo đảm nguồn lực và cơ chế tài chính trên cơ sở từng bước mở rộng diện bao phủ, tăng mức phí đóng góp và đảm bảo chi phí dịch vụ tối thiểu cũng như quản lý chặt chẽ, hiệu quả các quỹ ASXH. Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn các quỹ ASXH kết hợp với việc đa dạng hoá các nguồn tài trợ để đảm bảo hệ thống ASXH phát triển bền vững. Hoàn thiện bộ máy của hệ thống ASXH theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, đảm bảo phát huy vai trò và hiệu quả quản lý; trong đó, cần chú trọng đến hệ thống tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống tin tích hợp về ASXH thống nhất, đầy đủ, chính xác, có hệ thống và được cập nhật từ TW đến địa phương. Một số giải pháp cụ thể đối với BHXH, BHYT và bảo trợ xã hội như sau: a.Đối với BHXH Xây dựng chiến lược phát triển BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH buộc, đặc biệt là đối tượng làm công ăn lương trong khu vực doanh nghiệp tư nhân để đạt khoảng 90% đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vào năm 2015. Việc thu BHXH bắt buộc phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thu đúng, thu đủ; chống thất thu, nợ đọng để đảm bảo quyền lợi người lao động và đảm bảo khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong tương lai. Từng bước triển khai thực hiện BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp một cách hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật; trên cơ sở đó xem xét, rút kinh nghiệm và tiếp tục cải cách, hoàn thiện cơ chế chính sách. Nhằm cân đối quỹ BHXH trong tương lai trung và dài hạn, cần thực hiện một số giải pháp sau: (i) Từ năm 2016 trở đi, tiếp tục tăng mức đóng góp vào các quỹ BHXH để để đảm bảo sự bền vững của quỹ; (ii) Thực hiện đóng BHXH trên thu nhập thực tế của người lao động ở các khối doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp; (iii) Thay đổi cách tính mức hưởng BHXH một cách hợp lý nhằm đảm bảo tính công bằng một cách tương đối giữa mức đóng góp và mức lợi ích được hưởng của các đối tượng. Về thời gian hưởng BHXH, cần từng bước loại bỏ những quy định nghỉ hưu trước tuổi và xem xét kéo dài thời gian lao động và đóng góp BHXH; (iv) Có kế hoạch tổng thể về trích NSNN để đóng vào quỹ BHXH cho cán bộ công nhân viên chức đã có thời gian làm việc trước năm 1995 theo quy định của Luật BHXH (trước khi thành lập BHXH); (v) Nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các quỹ BHXH. b) Đối với BHYT: Mở rộng đối tượng tham gia BHYT qua đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật BHYT với các kế hoạch, chương trình cụ thể; đưa chỉ tiêu dân số tham gia BHYT vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ nhằm phấn đấu đến năm 2010 thực hiện BHYT cho 60% dân số và sau 2015 thực bảo hiểm y tế toàn dân. Mở rộng các hình thức BHYT kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện để đáp ứng yêu cầu linh hoạt của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là người giàu. Hoàn thiện chính sách BHYT theo hộ gia đình và các loại hình BHYT khác nhằm đáp ứng yêu cầu KCB cho nhân dân trong tình hình mới. Thực hiện cấp BHYT đối với trẻ em tuỳ theo hoàn cảnh gia đình để tăng cơ hội hưởng thụ dịch vụ y tế cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Thực hiện BHYT đối với học sinh, sinh viên theo nguyên tắc gia đình học sinh đóng góp phần lớn mức phí, NSNN hỗ trợ tuỳ theo đối tượng hộ gia đình. Đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách trong lĩnh vực y tế theo hướng chuyển phần kinh phí nhà nước hỗ trợ cho các cơ sở y tế công lập sang hình thức hỗ trợ trực tiếp cho người hưởng thụ thông qua hình thức hỗ trợ mệnh giá thẻ BHYT; từng bước tạo điều kiện để người thụ hưởng dịch vụ y tế được lựa chọn cơ sở dịch vụ y tế, không phân biệt công lập hay ngoài công lập.
- Điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế phù hợp với mức hưởng các dịch vụ y tế theo Luật BHYT để đảm bảo cân đối, an toàn quỹ BHYT. Củng cố phát triển đồng bộ cơ sở y tế công lập và tư nhân, nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ y tế, thuốc chữa bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT. Tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về BHYT; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm; nhất là những hành vi lạm dụng hoặc trục lợi. c. Đối với chính sách bảo trợ xã hội: Nâng cao trách nhiệm của địa phương trong việc triển khai thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ XH; xây dựng cơ sở dữ liệu về đối tượng bảo trợ xã hội của các địa phương để phục vụ cho việc hoạch định chính sách và bố trí kinh phí trợ cấp. Mức chuẩn trợ cấp xã hội phải được điều chỉnh kịp thời phù hợp với tình hình kinh tế xã hội; đảm bảo đáp ứng mức sống tối thiểu của đối tượng hưởng trợ cấp xã hội. Các chính sách trợ giúp xã hội phải có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của hệ thống ASXH như BHXH và BHYT. Cùng với việc thực hiện chính sách trợ cấp xã hội từ NSNN, cần có sự tài trợ của các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Về lộ trình triển khai thực hiện Giai đoạn 2011 đến 2015: Kiện toàn chính sách tài chính ASXH. Trong giai đoạn này, cần tập trung cải cách chính sách tài chính theo hướng giảm dần sự hỗ trợ của Nhà nước và tăng dần sự đóng góp của người dân để hướng đến cân đối bền vững quỹ ASXH trong tương lai trung và dài hạn. Các quỹ BHXH, BHTN và BHYT cần tăng mức đóng góp một cách đáng kể trong giai đoạn này. Giai đoạn 20162020: Củng cố, kiện toàn hệ thống ASXH theo hướng phát triển bền vững. Trong giai đoạn này, việc cải cách hệ thống hướng đến kiện toàn củng cố toàn bộ hệ thống ASXH theo hướng phát triển bền vững cùng với việc mở rộng tỷ lệ bao phủ, đảm bảo lưới ASXH của nước ta bao phủ 80% dân số. Đây là giai đoạn củng cố hệ thống với sự điều chỉnh linh hoạt các mức đóng phí và các nguồn tài trợ của các loại hình ASXH để đảm bảo sự phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo Bùi Đức Tráng (2007”, “Thử phân tích một giải pháp mang tính đột phá nhằm đẩy nhanh lộ trình tiến tới BHYT toàn dân”, Tạp chí BHXH (Số11/2007) Đàm Hữu Đắc (2009), “Việt Nam đang hướng đến hệ thống ASXH năng động và hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản (13/2009) Đỗ Thuý Hằng (2007), “Hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân”, Tạp chí BHXH (Số11/2007)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cải cách hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn nhân lực
0 p | 253 | 57
-
Cải cách hành chính tại một số quốc gia và kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam
25 p | 194 | 44
-
Lại bàn về nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phân nhiệm giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
10 p | 190 | 34
-
Bàn về triết lý tố tụng trong hệ thống luật án lệ
10 p | 117 | 12
-
Vai trò Chính phủ đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản (2001-2010)
8 p | 104 | 10
-
Cải cách hệ thống thuế Việt Nam theo cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020
25 p | 96 | 10
-
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công nhằm hướng tới GFMIS hiệu quả, hiện đại
8 p | 101 | 9
-
Cách mạng công nghiệp 4.0 và sản xuất thông minh: Phần 2
173 p | 29 | 8
-
Một số ý kiến về Dự án Luật thuế nhà, đất
10 p | 83 | 5
-
Cải cách ruộng đất thời hậu chiến ở Nhật Bản: Kinh nghiệm và các vấn đề
39 p | 67 | 5
-
Áp lực và xung đột đến từ cải cách kế toán hướng về hòa hợp quốc tế - Nguyễn Công Phương
14 p | 58 | 4
-
Một số nội dung cơ bản trong tiến trình cải cách tài chính tại Việt Nam
4 p | 76 | 3
-
Bản tin Cải cách hành chính Bản tin nội bộ của văn phòng Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ - Số 21/2019
49 p | 59 | 3
-
Cải cách tòa án ở Việt Nam: Kết quả và những vấn đề đặt ra
7 p | 56 | 3
-
Bàn thêm về vấn đề nợ lương hưu khi cải cách hệ thống hưu trí thực thanh thực chi - Giang Thanh Long
9 p | 42 | 2
-
Xây dựng mô hình quan hệ giữa cơ quan thuế với đại lý thuế
12 p | 29 | 2
-
Bảo hộ và khai thác thương mại sáng chế kinh nghiệm từ Nhật Bản
8 p | 17 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn