intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Chia sẻ: PhamXuan Bao Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:6

217
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn, cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

  1. BÀN VỀ CẢI CÁCH HỆ THỐNG AN SINH XàHỘI Ở VIỆT NAM TS. Đỗ Ngọc HuỳnhCập nhật ngày: 03/11/2010 Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế  và  gặp nhiều khó  khăn, cùng với   việc cải cách các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội (ASXH), vấn đề đảm bảo nguồn lực tài   chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và   đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm   tới. 1.Thực trạng hệ thống ASXH ASXH thường  được hiểu là  việc  đảm bảo  đời sống cho các tầng lớp dân cư  trong xã  hội  đạt   được những tiêu chuẩn nhất  định  để   đảm bảo  ổn  định kinh tế  ­ xã  hội. Theo nghĩa rộng, ASXH  bao gồm toàn bộ các hoạt động đảm bảo đời sống cho nhân dân. Mục tiêu cơ  bản của ASXH có  thể  khái quát bao gồm  đảm bảo an ninh thu nhập, giảm  nghèo, giảm bất bình đẳng, bảo vệ các đối tượng yếu thế và đảm bảo sự ổn định, gắn kết xã hội.  ASXH đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hệ  thống ASXH thường gồm các cấu phần chủ  yếu là  nhóm BHXH (bao gồm các hình thức   BHXH và  BHYT), bảo trợ  xã  hội,  ưu  đãi xã  hội, và  các dịch vụ  xã  hội khác. Trong  đó, nhóm   BHXH  đóng vai trò  trọng tâm của hệ  thống.  Ở  Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã  hội  được thông qua  ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007, quy  định các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH   tự  nguyện và  BH thất nghiệp. Về  BHYT, chínhsách BHYT  được coi là  chế   độ  khám chữa bệnh  (KCB) của chính sách BHXH. Trước năm 1992, mọi chi phí  KCB do NSNN chi trả. Kể  từ  năm  1992, chế   độ  BHYT mới  được triển khai và  Luật Bảo hiểm Y tế   được ban hành vào năm 2008  đánh dấu một bước cải cách quan trọng trong chế độ BHYT. Kết quả đạt được Hệ  thống chính sách ASXH  đã   được cải cách mạnh mẽ  từ   đầu những năm 1990  đến nay,  trong  đó  hệ  thống BHXH và  BHYT là  nòng cốt trên cơ  sở  nguyên tắc ba bên cùng tham gia  (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước) để giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Đây là   quá trình cải cách phù hợp với mô hình phân phối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã   hội chủ  nghĩa có  sự   điều tiết của Nhà  nước. Quan hệ  mức  đóng và  mức hưởng  đã  tuân thủ  các   nguyên tắc của hoạt động BHXH theo từng chế độ riêng biệt. Phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT ngày càng được mở rộng. Tổng số  người tham gia BHXH tăng từ 2,85 triệu người năm 1995 lên   8,7 triệu người năm 2008 (bằng gần  25% lực lượng lao  động cả  nước). Về  BHYT, số   đối tượng tham gia tăng mạnh từ  3,7 triệu năm  1993 lên 39,2 triệu người năm 2008, trong  đó  28,6 triệu người   tham gia BHYT bắt buộc; 10,6  triệu người tham gia BHYT tự nguyện.Hàng triệu người lao động đã được chi trả, trợ cấp theo các  chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí, tuất và mất sức lao động trực tiếp, đảm bảo đúng đối  tượng, chế độ, kịp thời và trực tiếp đến người thụ hưởng; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu   và các chế độ BHXH khác. Hệ thống BHXH Việt Nam được quản lý tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương,  được chuyên môn hoá   để  thực hiện các chính sách, chế   độ  BHXH qua việc tách hoạt  động của   sự nghiệp quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam thực hiện cải  cách hành chính, tổ  chức thực hiện tốt chức năng quản lý  thu ­ chi BHXH, cải tiến quy trình thủ   tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước, đảm bảo tính thống nhất, kịp thời, công bằng và  hiệu quả.
  2. Đã  hình thành cơ  chế  quản lý  tài chính thống nhất  đối với các loại hình BHXH, tạo căn cứ   pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ASXH ngày càng phát triển trên phạm vi rộng và   quy mô lớn trên toàn quốc. Quy mô và tiềm lực tài chính của các quỹ ngày càng tăng cùng với sự  gia tăng của mức  đóng góp và chi trả. Tổng số dư các quỹ ASXH  đã lên đến hàng chục ngàn tỷ   đồng, tạo cơ sở cho việc phát triển quỹ và nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế. Đối tượng hưởng bảo trợ  xã hội  được mở  rộng và  tăng nhanh, đảm bảo đáp  ứng kịp thời yêu  cầu thực tế phát sinh, qua đó góp phần  đảm bảo  ổn định kinh tế ­ xã hội. Trong giai  đoạn 1996­ 2005, có  trên 8 triệu người thuộc diện  được hưởng chế   độ   ưu  đãi, trong  đó  trợ  cấp  ưu  đãi hàng   tháng khoảng 1,5 triệu người. Mức trợ cấp cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tăng trưởng kinh  tế, qua  đó   đảm bảo nâng dần mức sống cho các  đối tượng thụ  hưởng. Các gia  đình chính sách   xã  hội  được  đảm bảo mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình so với người dân trên   địa bàn. Một số tồn tại, hạn chế Hệ  thống ASXH phát triển chưa  đầy  đủ, toàn diện, thiếu sự  liên kết và  hỗ  trợ  nhau. Một số   chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý; Chưa có  các chính sách ASXH  đặc thù  và  phù   hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Diện bao phủ  của hệ  thống còn chưa cao, mới chỉ  tập trung vào các thành phố  lớn và  các   tỉnh  đồng bằng nơi có  hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở  rộng  đối với những  đối tượng nông  thôn, miền núi vùng khó khăn; mạng lưới chủ yếu mới bao phủ khu vực kinh tế chính thức. Chất lượng cung cấp các dịch vụ  ASXH,  đặc biệt là  dịch vụ  y tế, còn hạn chế  và  chưa  đáp   ứng yêu cầu phát triển kinh tế  ­ xã  hội và  sự  gia tăng trong mức sống dân cư.   Hệ  thống hành  chính, sự  nghiệp cung cấp dịch vụ  ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển thực tế, còn hạn chế  trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình ASXH. Khả  năng cân  đối giữa nguồn và  sử  dụng của hệ  thống ASXH, kể  cả  các quỹ  BHXH, BHYT   và  các chế   độ  bảo trợ  xã  hội còn hạn chế  và  gặp thách thức lớn cả  trước mắt và  trong trung và  dài hạn. Theo đánh giá sơ bộ, các quỹ BHXH, BHYT  ở trong tình trạng báo động trong tương lai   gần, đặc biệt là đối với quỹ BHYT. Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước khó đáp ứng được   yêu cầu ngày càng tăng của ASXH, trong khi  đó  huy  động từ  các nguồn khác,  đặc biệt từ  cộng  đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. 2. Một số vấn đề về tài chính đối với ASXH (1) Thâm hụt quỹ và vấn đề  cân đối các quỹ BHXH, BHYT: Với chính sách không ngừng mở  rộng  độ  bao phủ  của ASXH trong bối cảnh kinh tế  xã  hội  phát triển thấp, mức  độ  đóng góp còn hạn chế, một số quỹ  ASXH  đã nằm trong tình trạng thâm   hụt và   đòi hỏi trợ  cấp lớn từ  NSNN. Trong  điều kiện nguồn lực ngân sách còn hạn hẹp, yêu cầu  tài trợ ASXH tăng mạnh có nguy cơ gây nên mất cân đối tài chính quốc gia và những ảnh hưởng  tiêu cực trong trung và dài hạn. Mức chi và tỷ trọng chi ngân sách cho ASXH không ngừng tăng,   chiếm  đến 20% tổng chi thường xuyên trong thời gian gần  đây, đã gây sức  ép khá lớn cho ngân  sách. Quỹ BHYT đã và đang thâm hụt ngày càng lớn ở mức hàng ngàn tỷ đồng hàng năm. Về cân đối   quỹ  BHXH, hiện Quỹ  BHXH có  số  dư  trên 70.000 tỷ   đồng, nhưng lại tiềm  ẩn mất cân  đối trong  tương lai do các yếu tố già hoá dân số, cải cách tiền lương và điều chỉnh lương tối thiểu cùng với   điều chỉnh chế   độ  lương hưu và  trợ  cấp BHXH, quy  định mức  đóng thấp, mức hưởng cao cũng   như các chính sách xã hội khác như chính sách việc làm, nghỉ hưu. Theo một số dự báo, cân đối  
  3. thu – chi BHXH  được  đảm bảo  đến khoảng năm 2020, sau  đó sẽ giảm dần và  đến khoảng năm   2030 thì  Quỹ  BHXH sẽ  phải  đối mặt với nguy cơ  mất cân  đối nếu không có   điều chỉnh chính   sách.  Về  BH thất nghiệp (BHTN), do tính chất  đặc thù, tổ  chức triển khai cần phải có  khả  năng   điều phối giữa các hệ  thống quản lý  BHXH (thu phí  và  chi trả  trợ  cấp) và  hệ  thống quản lý  việc  làm (theo dõi, quản lý cũng như hỗ trợ người lao động). Các doanh nghiệp và người lao động hiện   mới chỉ tham gia để đối phó. Về mặt tài chính, BHTN cũng sẽ   gặp nguy cơ mất cân đối quỹ như   đối với các loại hình BHXH và  BHYT. Nếu không thực hiện tốt cơ  chế  quản lý  tài chính, Quỹ   BHTN sẽ  có  thể  lại rơi vào trạng thái bội chi lớn và  tạo gánh nặng cho NSNN trong khi có  thể   không thực sự phát huy hết hiệu quả vốn có của nó đối với nền sản xuất xã hội. Về các chính sách bảo trợ xã hội, trong thời gian vừa qua, nhu cầu chi ngân sách cho các đối   tượng thuộc chính sách bảo trợ xã hội ngày càng tăng do sửa đổi, bổ sung đối tượng hưởng bảo   trợ  xã  hội, điều chỉnh mức trợ cấp cho các đối tượng và hệ thống hoá các chính sách bảo trợ xã   hội theo Nghị   định số  67/2007/NĐ­CP về  chính sách trợ  giúp các  đối tượng bảo trợ  xã  hội. Với   tổng nhu cầu chi lên đến hàng ngàn tỷ đồng, việc tăng cường thực hiện chính sách bảo trợ xã hội  đã ngày càng gây sức ép đối với NSNN, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm kinh tế như hiện nay. (2) Vấn  đề  bảo  đảm ASXH cho người nghèo, nông dân và  khu vực kinh tế  phi chính   thức: Mặc dù  đã  được cải thiện  đáng kể  trong giai đoạn vừa qua, nhưng tỷ lệ hộ nghèo  ở khu vực   nông thôn vẫn còn cao, chiếm khoảng 90% số người nghèo của cả nước. Đây là đối tượng  đang   được hưởng rất ít các chương trình   phúc lợi xã hội, đặc biệt là  dịch vụ khám chữa bệnh. Nghiên   cứu về  ASXH của UNDP (2007) cho thấy tỷ  lệ   được hưởng dịch vụ  ASXH  ở   nhóm 20% người  giàu nhất  ở  Việt Nam hiện nay cao gấp sáu lần nhóm 20% người nghèo nhất. Trong khi nhóm  giàu nhất nhận  được 45% hỗ  trợ  y tế  và  35% hỗ  trợ  giáo dục thì  nhóm nghèo chỉ  nhận  được   tương ứng là 7% và 15%.  Cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, văn hoá, đặc biệt là dịch vụ xã   hội chất lượng cao, cũng có  sự  khác biệt rất lớn giữa nông thôn và  thành thị cũng như  giữa khu   vực chính thức và phi chính thức. Khu vực kinh tế  không chính thức thu hút một tỷ lệ  khá  lớn lực   lượng lao  động, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và  tạo thu nhập cho người dân. Tuy nhiên,   đời sống của những người lao động trong khu vực này thường không ổn định, nhất là những người   lao động cá thể. Năm 2007, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức tham gia BHXH bắt buộc chỉ  khoảng 15%, chủ yếu là trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. (3) Vấn đề nợ đọng và chậm nộp BHXH: Quá  trình cải cách thể chế, chính sách ASXH, các chế  tài xử  lý  vi phạm pháp luật BHXH đã  tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy mức xử phạt vi phạm hành chính còn khá   thấp, khả  năng cưỡng chế  luật pháp và  tính khả  thi của các biện pháp thực hiện còn chưa cao.   Đây cũng chính là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trốn tránh và nợ đọng BHXH tại   các doanh nghiệp. (4) Ảnh hưởng của hội nhập và khủng hoảng tài chính toàn cầu: Hội nhập kinh tế  quốc tế  và  khủng hoảng tài chính toàn cầu  đã tác  động mạnh mẽ  đến nền   kinh tế nước ta, đặc biệt là các khu vực nghèo, đối tượng nghèo và thuộc diện chính sách xã hội.  Trong bối cảnh  đó, yêu cầu tài trợ   đối với hệ  thống ASXH tăng mạnh, bao gồm cả  phạm vi bao   phủ, quy mô  và  mức  độ các hoạt  động tài chính và  yêu cầu tài trợ. Do  đó, việc  đảm bảo nguồn  
  4. lực tài chính cũng như  mục tiêu hướng  đến cân  đối bền vững các quỹ  BHXH, BHYT sẽ  càng có   khăn, phức tạp và cần thời gian điều chỉnh dài hơn. 3. Một số quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp cải cách ASXH Trên cơ sở xem xét thực trạng hệ thống ASXH hiện hành, bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và  kinh nghiệm quốc tế, một số  quan  điểm  định hướng, mục tiêu, yêu cầu và  giải pháp cải cách  ASXH cụ thể như sau: Quan điểm định hướng Phát triển hệ thống ASXH phù hợp với nền kinh tế định hướng XHCN, các chính sách ASXH  cần gắn với các chương trình phát triển kinh tế­xã  hội, tạo  động lực tăng trưởng kinh tế  và   đảm  bảo công bằng xã hội.. ­ Chọn phát triển mô hình dựa trên quan  điểm của Tổ chức Lao  động Thế giới (ILO) với các   bộ phận cấu thành là BHXH, BHYT, bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Đây là mô hình phù hợp với  chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta coi con người là trung tâm của sự phát  triển. ­ Từng bước xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách ASXH mang tính toàn dân, mở rộng   khả  năng tiếp cận và  diện bao phủ,  đảm bảo người dân có  mức sống tối thiểu, có  khả năng liên   kết, chống đỡ thành công trước rủi ro. ­ Chú  trọng phát triển hệ  thống ASXH  đối với khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số, các  đối  tượng bị tác động bởi cải cách kinh tế và xã hội như lao động di cư, người mất đất, bị tác động bởi  khủng hoảng, người có công, trẻ em, người già, người tàn tật.... ­ Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện ASXH, đồng thời mở rộng sự tham   gia của các đối tác xã hội vào việc thực hiện chính sách ASXH dưới hình thức xã hội hóa. ­ Từng bước phát triển các chính sách ASXH với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực quốc   tế; huy động sự  liên kết liên kết, hợp tác khu vực và  quốc tế  thực hiện chính sách ASXH đối với   người lao động trong bối cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Mục tiêu, yêu cầu cải cách ­  Đảm bảo mọi người dân có  quyền và   được tiếp cận hệ  thống ASXH, trong  đó  nhấn mạnh   tính chia sẻ, tương trợ trong trong nội bộ và giữa các nhóm dân cư trong xã hội, hướng  đến  đảm   bảo nhu cầu tối thiểu thông qua việc tổng hợp và tái phân phối nguồn lực. ­ Đảm bảo nguyên tắc công bằng và bền vững của hệ thống ASXH, về lâu dài cần gắn trách  nhiệm và quyền lợi, giữa đóng góp với hưởng lợi, khuyến khích mọi người dân tham gia hệ thống. ­ Tăng cường trách nhiệm các chủ  thể, khuyến khích các thành phần trong xã  hội tham gia   xây dựng và thực hiện chính sách ASXH. Về giải pháp cải cách Trên cơ sở quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu cải cách trên đây, giải pháp cải cách tài  chính ASXH trong thời gian tới tập trung chủ  yếu vào hoàn thiện cơ  chế, chính sách, pháp luật;   hoàn thiện cơ chế và nguồn lực tài chính và hoàn thiện hệ thống quản lý ASXH. ­ Hoàn thiện cơ  chế, chính sách, pháp luật trên hoàn thiện, bổ  sung, sửa  đổi, hệ  thống hoá  các văn bản pháp luật hiện có trên cơ sở kế thừa và phát triển chính sách BHXH hiện hành, xem   xét điều kiện kinh tế ­ xã hội và tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới. Cần   đảm bảo tính đồng bộ giữa các chế độ ASXH, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, đảm bảo mọi người  dân đều có quyền được hưởng ASXH; tạo cơ chế đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh và có hiệu quả  trên thực tế.
  5. ­  Bảo  đảm nguồn lực và  cơ  chế  tài chính trên cơ  sở  từng bước mở  rộng diện bao phủ, tăng   mức phí đóng góp và  đảm bảo chi phí dịch vụ tối thiểu cũng như quản lý chặt chẽ, hiệu quả các   quỹ  ASXH.  Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả   đầu tư  và  sử  dụng nguồn các quỹ  ASXH kết hợp  với việc đa dạng hoá các nguồn tài trợ để đảm bảo hệ thống ASXH phát triển bền vững. ­ Hoàn thiện bộ máy của hệ  thống ASXH theo hướng tinh giản, gọn nhẹ,  đảm bảo phát huy  vai trò và hiệu quả quản lý; trong đó, cần chú trọng đến hệ thống tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn   nhân lực và  xây dựng hệ  thống cơ  sở  dữ  liệu thống tin tích hợp về  ASXH thống nhất,  đầy  đủ,   chính xác, có hệ thống và được cập nhật từ TW đến địa phương. Một số giải pháp cụ thể đối với BHXH, BHYT và bảo trợ xã hội như sau: a.Đối với BHXH  ­ Xây dựng chiến lược phát triển BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH buộc, đặc biệt là   đối tượng làm công  ăn lương trong khu vực doanh nghiệp tư  nhân  để  đạt khoảng 90%  đối tượng   thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vào năm 2015. Việc thu BHXH bắt buộc phải được thực hiện   đúng quy  định của pháp luật,  đảm bảo thu  đúng, thu  đủ; chống thất thu, nợ   đọng  để   đảm bảo   quyền lợi người lao động và đảm bảo khả năng cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong tương lai. ­ Từng bước triển khai thực hiện BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp một cách hiệu quả  theo  đúng quy  định của pháp luật; trên cơ  sở   đó  xem xét, rút kinh nghiệm và  tiếp tục cải cách,   hoàn thiện cơ chế chính sách. ­ Nhằm cân  đối quỹ  BHXH trong tương lai trung và  dài hạn, cần thực hiện một số  giải pháp   sau: (i) Từ  năm 2016 trở   đi, tiếp tục tăng mức  đóng góp vào các quỹ  BHXH  để   để   đảm bảo sự   bền vững của quỹ; (ii) Thực hiện đóng BHXH trên thu nhập thực tế của người lao động ở các khối   doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp; (iii) Thay đổi cách tính mức hưởng BHXH một cách  hợp lý nhằm đảm bảo tính công bằng một cách tương đối giữa mức đóng góp và mức lợi ích được   hưởng của các đối tượng. Về thời gian hưởng BHXH, cần từng bước loại bỏ những quy định nghỉ   hưu trước tuổi và  xem xét kéo dài thời gian lao  động và   đóng góp BHXH; (iv) Có  kế  hoạch tổng   thể  về trích NSNN để  đóng vào quỹ BHXH cho cán bộ công nhân viên chức  đã có  thời gian làm   việc trước năm 1995 theo quy định của Luật BHXH (trước khi thành lập BHXH); (v) Nâng cao hiệu   quả đầu tư vốn của các quỹ BHXH. b) Đối với BHYT: ­ Mở rộng đối tượng tham gia BHYT qua đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật BHYT với các kế   hoạch, chương trình cụ thể; đưa chỉ  tiêu dân số  tham gia BHYT vào kế  hoạch phát triển kinh tế­  xã hội từng thời kỳ nhằm phấn đấu đến năm 2010 thực hiện BHYT cho 60% dân số và sau 2015  thực bảo hiểm y tế toàn dân. Mở rộng các hình thức BHYT kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện   để đáp ứng yêu cầu linh hoạt của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là người giàu. ­ Hoàn thiện chính sách BHYT theo hộ gia  đình và  các loại hình BHYT khác nhằm  đáp  ứng   yêu cầu KCB cho nhân dân trong tình hình mới. Thực hiện cấp BHYT  đối với trẻ  em tuỳ  theo   hoàn cảnh gia  đình  để  tăng cơ  hội hưởng thụ  dịch vụ  y tế  cho trẻ  em có  hoàn cảnh khó  khăn.  Thực hiện BHYT đối với học sinh, sinh viên theo nguyên tắc gia đình học sinh đóng góp phần lớn   mức phí, NSNN hỗ trợ tuỳ theo đối tượng hộ gia đình. ­ Đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách trong lĩnh vực y tế theo hướng chuyển phần kinh phí nhà   nước hỗ trợ cho các cơ sở y tế công lập sang hình thức hỗ trợ trực tiếp cho người hưởng thụ thông   qua hình thức hỗ trợ mệnh giá thẻ BHYT; từng bước tạo điều kiện để người thụ hưởng dịch vụ y tế   được lựa chọn cơ sở dịch vụ y tế, không phân biệt công lập hay ngoài công lập.
  6. ­   Điều chỉnh mức  đóng bảo hiểm y tế  phù  hợp với mức hưởng các dịch vụ  y tế  theo Luật   BHYT để đảm bảo cân đối, an toàn quỹ BHYT. Củng cố phát triển đồng bộ cơ sở y tế công lập và   tư nhân, nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ y tế, thuốc chữa bệnh, nâng cao chất lượng khám  chữa bệnh cho người tham gia BHYT. ­ Tăng cường năng lực quản lý  Nhà  nước về  BHYT;  đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra,   giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm; nhất là những hành vi lạm dụng hoặc trục lợi. c. Đối với chính sách  bảo trợ xã hội: ­ Nâng cao trách nhiệm của  địa phương trong việc triển khai thực hiện chính sách trợ  giúp  các đối tượng bảo trợ XH; xây dựng cơ sở dữ liệu về đối tượng bảo trợ xã hội của các địa phương   để phục vụ cho việc hoạch định chính sách và bố trí kinh phí trợ cấp. ­ Mức chuẩn trợ  cấp xã  hội phải  được  điều chỉnh kịp thời phù  hợp với tình hình kinh tế  ­ xã  hội; đảm bảo đáp ứng mức sống tối thiểu của đối tượng hưởng trợ cấp xã hội. ­ Các chính sách trợ  giúp xã  hội phải có  mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của   hệ thống ASXH như BHXH và BHYT. ­ Cùng với việc thực hiện chính sách trợ  cấp xã  hội từ  NSNN, cần có  sự  tài trợ  của các tổ   chức phi lợi nhuận, các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Về lộ trình triển khai thực hiện ­ Giai  đoạn 2011 đến 2015: Kiện toàn chính sách tài chính ASXH. Trong giai  đoạn này, cần   tập trung cải cách chính sách tài chính theo hướng giảm dần sự hỗ trợ của Nhà nước và tăng dần   sự   đóng góp của người dân  để  hướng  đến cân  đối bền vững quỹ  ASXH trong tương lai trung và   dài hạn. Các quỹ  BHXH, BHTN và  BHYT cần tăng mức  đóng góp một cách  đáng kể  trong giai  đoạn này. ­ Giai  đoạn 2016­2020: Củng cố, kiện toàn hệ thống ASXH theo hướng phát triển bền vững.  Trong giai  đoạn này, việc cải cách hệ  thống hướng  đến kiện toàn củng cố  toàn bộ  hệ  thống   ASXH theo hướng phát triển bền vững cùng với việc mở  rộng tỷ lệ  bao phủ, đảm bảo lưới ASXH   của nước ta bao phủ 80% dân số. Đây là giai đoạn củng cố hệ thống với sự  điều chỉnh linh hoạt   các mức  đóng phí  và  các nguồn tài trợ  của các loại hình ASXH  để   đảm bảo sự  phát triển bền   vững. Tài liệu tham khảo Bùi  Đức Tráng (2007”, “Thử  phân tích một giải pháp mang tính  đột phá  nhằm  đẩy nhanh lộ   trình tiến tới BHYT toàn dân”, Tạp chí BHXH (Số11/2007) Đàm Hữu Đắc (2009), “Việt Nam  đang hướng  đến hệ  thống ASXH năng  động và  hiệu quả”,   Tạp chí Cộng sản (13/2009) Đỗ Thuý Hằng (2007), “Hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân”, Tạp chí BHXH (Số11/2007)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2