intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Chế độ công điền công thổ - Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa ở lục tỉnh Nam kỳ

Chia sẻ: Nguyễn Thị Kim Thoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

68
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Chế độ công điền công thổ - Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa ở lục tỉnh Nam kỳ bao gồm những nội dung về nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa ở Nam Bộ (từ thế kỷ XVII-XIX); chế độ công điền công thổ ở Lục tỉnh Nam kỳ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Chế độ công điền công thổ - Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa ở lục tỉnh Nam kỳ

  1. MỤC LỤC Contents 1
  2. Công điền công thổ là loại ruộng đất có định chế riêng, dùng để phân cấp cho  dân và chỉ có nhu cầu tồn tại ở những nơi đất hẹp người đông, cần phải có ruộng  đất công để  phân cấp cho dân nhằm ngăn chặn hiện tượng phiêu tán, giữ  chân   thần dân làm lực lượng đóng góp vào binh dịch, sưu thế, tạp dịch cho nhà nước   phong kiến. Ở đồng bằng Nam Bộ, cho đến đầu thế kỷ XIX, ruộng đất tư hữu đã  phát triển rất mạnh nên chế độ công điền công thổ không thể tự phát sinh. Nó chỉ  phát sinh và xuất hiện dưới ý chí của giai cấp thống trị và chính thức được ghi vào   sổ địa bạ Nam Bộ từ năm 1836. Với sự ra đời của công điền công thổ, bức tranh   chế  độ  sở  hữu ruộng đất của đồng bằng Nam Bộ  đã có sự  biến đổi quan trọng.   Từ  năm 1836 đến 1850, bằng nhiều biện pháp, giai cấp thống trị  đã gia tăng diện  tích công điền công thổ  đã gây ra nhiều tác động tiêu cực  làm cản trở  đến tiến  trình phát triển tự  nhiên của nền kinh tế  Nam Bộ  lúc bấy giờ  ­nền kinh tế  mang   những đặc điểm của một nền kinh tế tiền Tư Bản Chủ Nghĩa. 1. Nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa ở Nam Bộ (từ thế kỷ XVII­XIX) Xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn hình thành và phát triển chủ yếu trong 2   thế kỷ XVII và XVIII. Đây cũng chính là thời gian nước Đại Việt nói chung và xứ  Đàng Trong nói riêng thực sự  tham gia vào luồng thương mại  quốc tế  ­ một sự  kiện quan trọng đối với một đất nước vốn có truyền thống coi nông nghiệp là  “gốc” và thương nghiệp là “ngọn”. Thương nghiệp, đặc biệt là ngọai thương thế  kỷ XVII ­ XVIII lần đầu tiên đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế ­   xã hội Đàng Trong. Sự  chuyên biên quan trọng này gắn liền với sự hình thành và tồn tại của một   “vùng đất mới", gắn liền với sự tồn vong của Nguyễn Hoàng và họ  Nguyễn sau   này. Đặc biệt, từ  năm 1600, khi Nguyễn Hoàng bị  Trịnh Tùng giữ  chân  ở  Đàng  Ngoài bằng cách cử  đi dẹp dư  đảng nhà Mạc đã giữa chừng bỏ  về  Đàng Trong,   chính thức bắt đầu một cuộc đối đầu một mất một còn với họ  Trịnh. Chính từ  nguyên nhân sinh tử  đó; kết hợp với các yếu tố: tự  nhiên ­ xã hội của vùng đất  mới, bối cảnh lịch sử của thương mại quốc tế lúc bấy giờ  đã làm xuất hiện lần   đầu tiên trong lịch sử Việt Nam sự thay đổi quan niệm truyền thống “trọng nông   ức thương” của xã hội phong kiến, sang tư  tưởng “trọng nông khuếch thương”,   đặc biệt lấy giao thương quốc tế  làm động lực phát triển kinh tế  và tiềm lực   quốc phòng của vùng. Ý thức hệ  và phương thức sản xuất phong kiến luôn đặt hoạt động thương  mại ở hàng thứ yếu. Tuy nhiên, với các chúa Nguyễn, hoạt động thương mại (cả  nội và ngoại thương) ngay từ đầu đã được chú trọng. Sau khi đi tuần du vùng đất   Quảng Nam (1602), chúa Tiên đã cho thiết lập Dinh trấn Quảng Nam sau là Dinh  2
  3. Trấn Thanh Chiêm và luôn cắt cử một trong các hoàng tử  của mỗi đời chúa trực   tiếp nắm giữ. Dinh trấn này có vị  trí nằm ven sông Thu Bồn, trên đường thiên lý  Bắc ­ Nam, gần với các địa điểm có thể  mở  thương cảng biển; vì vậy việc tổ  chức, quản lý, phát triển chính sách giao thương nội địa và quốc tế của các chúa   Nguyễn có nhiều thuận lợi. Điều này không chỉ thể hiện sự năng động, chủ động  thực thi chính sách giao thương mà còn là bước đi đầu tiên nhằm thực thi chính   sách giao thương các chúa Nguyễn. Hoạt động này là điều mới mẻ trong một chế  độ xã hội phong kiến với quan niệm truyền thống: “trọng nông, ức thương”. Khi đã có điều kiện mở  thương cảng, chủ  động tạo ra những mối quan hệ  buôn bán với bên ngoài; việc mời gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán và  làm ăn đã đưa các chúa Nguyễn trở thành những người đầu tiên có những quan hệ  giao thương quốc tế  rộng nhất. Có thể  thấy được điều này qua quốc tịch của  những thương nhân đến buôn bán và làm ăn lâu dài ở Đàng Trong như Nhật Bản,  Trung Quốc, Bồ  Đào Nha, Hà Lan, … (trong đó đặc biệt là người Nhật, sau là  người Hoa). Sự  chủ  động “mời gọi” này là một bước đi cụ  thể  trong chính sách  giao thương của các chúa. Như  vậy, nhờ sự năng động, nhạy bén (có thể xuất phát từ  nhu cầu sống còn   trong cuộc đối đầu Trịnh – Nguyễn) các chúa Nguyễn đã thực thi tư tưởng “trọng   thương” và thực tế  hóa tư  tưởng đó bằng chính sách giao thương ; đặc biệt là  giao thương quốc tế cởi mở, thông thoáng. Đến thế  kỷ  XIX, sự  phát triển của nền kinh tế  ở Nam Bộ đã thể  hiện rõ nét   đặc điểm của nền kinh tế tiền Tư Bản Chủ Nghĩa:  Về  nông nghiệp, chính sách khai hoang với các biện pháp “doanh điền”, “đồn  điền” đã thu được những kết quả  quan trọng, nổi bật là diện tích canh tác được   mở  rộng. Chỉ  riêng 20 năm dưới triều vua Minh Mệnh, diện tích ruộng đất đã  tăng lên hơn 20 vạn mẫu. Về  công thương nghiệp, ngoài các xưởng của nhà nước (tượng cục) như  đúc  tiền, đúc súng, đặc biệt là chế  tạo thuyền máy chạy bằng hơi nước được thử  nghiệm thành công trên sông Hương, việc khai mỏ phát triển mạnh với ngót 140  mỏ  được khai thác (vàng, bạc, đồng, kẽm, chì,...). Những người nghiên cứu ghi  nhận công nghiệp khai mỏ thời Nguyễn có những bước phát triển mới về  cả  số  lượng và quy mô, tuy còn hạn chế về kỹ thuật và tổ chức khai thác. 3
  4. Các nghề thủ  công  ở nông thôn và thành thị  tiếp tục phát triển với nhiều làng  và phường chuyên mô nổi tiếng (dệt, gốm, làm đường, đúc đồng, làm giấy, dệt   chiếu...). Trong điều kiện quốc gia thống nhất, xu thế phát triển kinh tế thị trường càng   rõ nét với sự xuất hiện những đô thị mới cùng với sự mở mang nhiều tuyến giao  thông thủy bộ xuyên suốt và dọc ngang đất nước, chuyên chở thóc gạo từ Nam ra   Bắc, sản phẩm thủ  công từ  Bắc hà vào tận Gia Định. Các vua Nguyễn cũng  không coi nhẹ việc giao thương với nước ngoài, nhất là các nước trong khu vực,  đồng thời vẫn cho các tàu buôn phương Tây được tự do đến trao đổi hàng hóa với   cư dân các địa phương tại một số cảng nhất định. Về  mặt văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định: triều Nguyễn để  lại cho   lịch sử  một di sản văn hóa khổng lồ; tổng số sách được viết ra trong 2/3 thế  kỷ  XIX nhiều hơn số sách của 300 năm trước đó cộng lại...[Nguyễn Thị Kim Thoa;   Bài cuối kỳ “Sự Phát triển Thương Nghiệp Đàng Trong từ thế kỷ XVII –XIX”]. Như chúng ta đã biết, cho đến cuối thế kỷ XVIII, Đồng Nai – Gia Định tuy  là  một vùng đất mới, nhưng đời sống kinh tế  phát triển vào bậc nhất của nước khi  ấy. Quá trình phát triển này cũng chính là quá trình ra đời và phát triển của sở hữu   ruộng đất tư ở đồng bằng Nam Bộ. Chính sự xuất hiện sớm của bộ phận tư hữu   lớn về ruộng đất đã cho phép nông sản trở thành hàng hóa và một khối lượng đáng   kể. Đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện đất nước thống nhất, với những hoạt động   mở  rộng khẩn hoang tích cực, diện tích ruộng đất canh tác không ngừng được  hiệu quả  cao, kinh tế  Nam Bộ lúc này đang chứa đựng một tiềm năng phát triển  vô cùng lớn. Từ  khi Gia Định được khai hoang người ta đã sản xuất dưa thừa lúa gạo để  đêm bán đi các nơi, kể cả nước ngoài, chứ không còn trồng lúa để tự cung tự cấp   như  các miền khác của đất nước. “Lê Quý Đôn đã ghi kỹ: “Hằng năm cứ  đến  tháng Một tháng Chạp, người ta thường xay giã lúa thành gạo đem đi bán lấy tiền   tiêu dùng vào những lễ tiết chạp. Còn từ cuối tháng Giêng trở đi, họ không còn thì  giờ rảnh rỗi đề xay giã lúa thóc. Những lúc bình thường, người ta chuyên chở gạo  thóc ra bán tại thành Phú Xuân để  đổi chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu,   trừu đoạn của người Tày, đem về may mặc, nên quần áo của họ toàn là hàng tươi  tốt đẹp đẽ, ít khi họ dùng những áo quần bằng vải trắng thường”. Người Gia Định đem thóc lúa đi bán, mà người ngoài tới Gia Định mua cũng  nhiều. Truyện kể sau đây rất rõ ràng: “Người thôn Chinh Hòa thuộc châu Nam Bố  Chánh trên là Đồng Châm có nói ngày trước anh ta đi buôn của phủ Gia Định hơn   4
  5. mười chuyến. Thường thường thì cứ tháng Chín, tháng Mười, anh ta ra đi và đến  tháng Tư,tháng Năm mới về. Nếu gặp gió thuận, thì thuyền đi không quá mười   ngày   đêm   có   thể   đến   Gia   Định   được””.   “Người   ta   trông   thấy   thuyền   buồm,  thuyền mành đậu xúm xít kề nhau, tập nập. Hai bên mua bán thóc gạo đã thương  lượng với nhau và bàn định giá cả lúa thóc xong rồi, bấy giờ người bán sai các trẻ  nhỏ  hay đứa  ở làm công việc khiêng gánh lúa thóc và vận chuyển xuống thuyền  người mua”.[Nguyễn Đình Đầu (2016);tr. 84,85]. Các thị  trấn, các trung tâm buôn bán lớn mọc lên, cũng là dấu hiệu của một   phương thức sản xuất đang chuyển mình. Chỉ  trong thời gian ngắn, nhiều trung   tâm thương mại giao dịch quốc tế  đã thành hình, đáng kể  hơn la: Đô hội Gia  Định, Chợ Sài Gòn, Nông Nại đại phố, chợ Mỹ Tho, phố Hà Tiên,.... Như vậy, có thể nói sự phát triển kinh tế của Nam Bộ từ thế kỷ XVII –XIX đã  dần dần cho thấy sự phát triển ngày một mạnh mẽ những yếu tố tiền kinh tế thị  trường – nhân tố  hình thành chính của nền kinh tế  Tư  Bản Chủ  Nghĩa .Nước ta  làm một nước nông nghiệp, nên các sản phẩm của giao thương thường là các sản   vật của nông nghiệp,và sở hữu tư nhân về ruộng đất là chiếm ưu thế . nhưng với   chính sách “công điền công thổ”của nhà Nguyễn đã làm hạn chế sở hữu tư nhân,  dẫn đến làm giảm đi sức sản xuất, điều này chính là một trong những nguyên  nhân chính làm cho các yếu tố mang mầm mống kinh tế tiền Tư Bản Chủ Nghĩa   không đủ sức để phát triển hơn mà chỉ là mầm mống đan xen lẫn với nền kinh tế  nông nghiệp. 2. Chế độ công điền công thổ ở Lục tỉnh Nam kỳ Chế  độ  công điền công thổ   ở  Nam Bộ  được chia thành hai giai đoạn và lấy  năm 1836 làm ranh giới. Trước 1836, chính sách khẩn hoang của Nguyễn Ánh và   triều Nguyễn đã chuẩn bị và tạo điều kiện cho sự ra đời của công điển công thổ.  Chủ trương của triều Nguyễn là gia tăng và củng cố  chế  độ  công điền công thổ  của các thôn  ấp Nam kỳ  bằng nhiều chính sách và biện pháp như  mở  rộng đồn   điền và dinh điền, chuyển đồn điền thành công điền chuyển một số  ruộng đất   như  ruộng đất bổn thôn đồng canh, dân cư  thổ, ruộng hoang,..thành công điền  công thổ  và vận động một số  địa chủ  nhiều ruộng nộp một phần tư  điền làm  công điền. Từ  đó, công điền công thổ  trong các thôn  ấp  ở  Nam kỳ  có xu hướng  tăng lên, làm cho kết cấu kinh tế ­ xã hội nông thôn thay đổi theo hướng không có   lợi cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa.  5
  6. Trái lại  ở  vùng Đồng Nai – Gia Định –Nam kỳ  lục tỉnh, chế độ  ruộng đất tư  hữu xuất hiện trước và tồn tại từ năm 1836 chế độ công điền công thổ mới được   chính thức thiết lập.  a) Nguyên nhân ra đời của chế độ công điền công thổ Nguyên nhân chính dẫn đến chế  độ  công điền công thổ  là nhà Nguyễn muốn   tập hợp sức mạnh để cai trị đất nước. Theo tác giả  Nguyễn Đình Đầu thì: Công điền không nhằm mục đích “phục   thiện” hay “cứu trợ”, không có chức năng của các loại ruộng làng như  cô quả  điền, trợ  sưu điền, học điền, hay của xã thương,….chứ  không phải chức năng   của công điền. Bản chất công điền khác xa bản chất các loại ruộng làng. Công điền cũng không nhằm áp đảo tư  điền. Nhiều người khảo cứu nước   ngoài cho rằng ở Việt Nam không có quyền tư hữu thực sự trên ruộng đất, vì tất  cả  ruộng đất, núi sông, bờ  cõi là thuộc quyền sở  hữu tối thượng của nhà vua;  thần dân chỉ  có quyền chiếm hữu và hưởng hoa lợi. Quan niệm này chỉ  là lý   thuyết, một thứ  lý thuyết nào đó  ở  bên Tày, hoặc tưởng tượng từ  đâu chứ   ở  ta   hoàn toàn không thấy dấu vết. Suốt thời quân chủ, các triều đại Việt Nam đều   ban hành những luật lệ  tôn trọng và bảo vệ  tư  điền tư  thổ. Không ai được xâm  phạm ruộng đất tư, kể cả  nhà nước. Nếu có tác phạm vào ruộng đất tư  thì nhà  nước căn cứ  giá thị  trường bồi thường cho sở hữu chủ. Người ta có toàn quyền  mua đi bán lại, cầm cố, tặng nhượng hoặc để lại cho con cháu.  Tuy nhiên, đúng là Việt Nam không có quan niệm về “quyền tư hữu tuyệt đối”,  nghĩa là không tuyệt đối như  khi có ruộng mà cứ  bỏ  hoang trong lúc người cày   thiếu đất, không tuyệt ododis như  người thì ruộng thẳng cánh cò bay, kẻ  khác   không đất cấm dùi, không tuyệt đối như khi có kẻ bá chiếm những khoảnh ruộng   đi nửa ngày chưa hết, làm cho dân nghèo mất ruộng trở thành lưu dân đói rách,…   Xã hội Việt Nam chưa có xu hướng bảo vệ tư  điền tư  thổ  trong chừng mực nó  không tác hại đến người xung quanh. Công điền càng không phải để  cạnh tranh với các loại ruộng công khác như  quan điền, quan trại, dinh điền và đồn điên. Vì công điền chỉ  phải đống thuế  ngang với tư điền (ít ra là ở Đàng Trong và Nam kỳ), nhà nước lại thường ưu đãi  công điền và chuyển các loại ruộng đất thuộc công khố thành công điền để quân   cấp cho xã dân. Như vậy, công điền công thổ  nhằm mục đích gì và bản chất thực sự của chế độ  công điền công thổ là thế nào? Có thể trả lời:  6
  7. Công điền công thổ là một định chế kinh tế ­ xã hội rất quan trọng của xã hội   Việt Nam xưa, nhằm mục đích hạn chế  sự  tác hại của tư  điền tư  thổ  quá tập   trung, đồng thời mang ý đồ tạo ra một xã hội gồm toàn tiểu nông. Theo ước tính của nhà cầm quyền đương thờ, công điền phải ít ra chiếm nửa   số  ruộng mới đủ  khả  năng chế  ngự  tư  điền. Do đó, các đề  nghị  hạn điền hay  quân điền đều lấy số  nửa công điền nửa tư  điền làm chuẩn ( thí dụ  rõ nhất là  công cuộc quân điền ở Bình Định năm 1839 và việc khuyên nhà giàu hiến ba hay   bốn phần mười ruộng đất  ở  Nam kỳ  năm 1840). Những nơi đã có từ  nửa số  ruộng là công điền thì không phải bàn tới việc quân điền hay hiến điền. Ngoài ra,   các nhà cầm quyền đó còn có xu hướng hạn chế số ruộng đất tư  của mỗi người   để cho nửa số đất còn lại đó cũng không được tập trung vòa một số ít người (như  đề nghị chỉ để cho mỗi nông dân ở Bình Dương có tối đa 5 mẫu). Tuy nhiên, ý đồ là một việc, thực tế lại là việc khác. Thực tế đã không xảy ra   đúng với ý định của người cầm quyền: vẫn còn nhà giàu “ruộng cả ao liền”, vẫn   còn nhiều người “không đất cắm dùi”, vẫn còn cảnh người “ngồi mát ăn bát  vàng” cạnh kẻ đói ăn thiếu mặc. Song, xét về tổng thể thì quả  xã hội Việt Nam  xưa là một xã hội gồm đại bộ  phận tiểu nông. Có lẽ  không một xã hội “phong  kiến” Đông Tây nào gồm đại bộ phận tiểu nông như  ở  Việt Nam. Theo thiển ý,  đấy là nét đặc thù chính yếu của xã thôn ta và của xã hội ta, một đặc thù chưa   được nghiên cứu và đánh giá đến nơi đến chốn. Yếu tố   quyết  định nhất  làm cho  xã  hội Việt Nam xưa,  ít nhất dưới triều   Nguyễn, gồm đại bộ phận tiểu nông chính là do chế  độ  công điền công thổ. Xã   hội ấy có vẻ công bằng nhân đạo, nhưng không dứt khoát phát triển lên phương   thức sản xuất hàng hóa ngõ hầu làm cho dân giàu nước mạnh. b) Biện pháp thực hiện  Hai biện pháp đáng chú ý hơn cả  là: yêu cầu hiến điền và chuyển đồn điền   thành công điền. Biện pháp thứ nhất: Chúng ta biết rằng vào năm 1839, việc hạn điền và quân   điền đã tiến hành thành công tại Bình Định. Vốn trước kia tỉnh này “có số tư điền  nhiều gấp 10 số  công điền (cụ  thể  là trên 6.000 mẫu công điền đối với trên   70.000 mẫu tư  điền). Người giàu có ruộng liền bờ, người nghèo không đất cắm  dùi”. Hiệp tá Đại học sĩ Hình bộ Thượng thư kiêm Đô sát (tòng nhất phẩm) Doãn   Uẩn phụ  tá tới nơi làm phép quân điền theo như  quyết định của triều đình là:  “Phàm các thôn ấp, số công điền hơn số tư điền, hoặc số công tư bằng nhau, thời  7
  8. không phải lấy ra quân cấp nữa; còn chỗ nào tư hơn công, thời tư điền phải trích  lấy một nửa sung công. Lại xét thôn ấp nào có nhơn đinh không có điền thổ, hoặc   có thổ  không điền, hoặc nhơn điền hay là công điền các nơi gần đó để  cấp cho  dân; như vậy thời binh, dân đều được lợi”.[Nguyễn Đình Đầu (2016);tr. 157]. Việc truất hữu và quân điền ở Bình Định tuy rất gay go nhưng chỉ làm trong ba   tháng là xong (trừ  tháng Bảy đến tháng Mười, tức lúc mùa màng còn rảnh rỗi).  Kết quả  là trong tổng số  77.000 mẫu ruộng này có 40.000 mẫu công điền, tức   nâng tỷ lệ công điền từ  10/100 lên đến trên 50/100. Hẳn nhiên, một số ít bị  truất  hữu không bồi thường thì ta thán oán trách, song số  đông được nhờ  vì có thêm   nhiều công điền quân cấp. Số  dân nghèo đỡ  lưu vong, số  đinh tăng thêm, nhà   nước cũng có lợi là thu thêm thuế và tránh được nạn “nông dân không ruộng đất  nổi lên làm loạn”. Việc gia tăng diện tích công điền công thổ ở Bình Định thành công không ngờ,   nên quan chức cai trị  trong Gia Định cũng đề  nghị  làm phép quân điền cho Nam   kỳ, nhất là sau khi lập địa bạ, chế độ công điền công thổ đã được thiết lập, xong   số  ruộng đất để  quân cấp còn quá ít mà tư  điền rộng lớn thì tập trung trong tay   thiểu số  chủ  điền. Năm 1840, quan tỉnh Gia Định tâu về: “Trong hạt không có   ruộng công, các nhà giàu bao chiếm ruộng tư   đến ngàn trăm mẫu, dân nghèo   không được nhờ  cậy. Xin chiếu số ruông tư  tại các xã thôn, chia cắt làm ruộng  công, để cấp đều cho lính và dân”[Nguyễn Đình Đầu (2016);tr.159]. Biện pháp thứ  hai: Đổi đồn điền làm công điền. Sau khi đã “khuyên bảo   người giàu hiến tư  điền làm công điền”, có lẽ  triều đình thấy công điền ở  Nam  kỳ  chưa lên đủ  túc số ( như  trên phỏng đoán là 50%), nên tháng Năm năm Thiệu  trị thứ nhất (1841), nhà vua đã quyết định “sắc xuống bộ Hộ, phàm các đồn điền   ở  tỉnh Sơn Tây, Định Tường, Khánh Hòa, Biên Hòa, đều giao cho dân sở  tại cày  nạp thuế  và làm công điền. Còn những lính đồn điền trước, thời đều triệt về  tỉnh”. Sau khi đổi đồn điền cũ thành công điền, nhà nước vẫn tiếp tục mộ dân hoặc  dùng lính khai hoang làm các đồn điền mới. Vì vẫn giữ chủ trương: “Mộ dân làm  đồn điền, có lợi rất nhiều. Lúc vô sự  thì  ở  yên cày cấy, quân thừa lương, dân  thừa ăn; lúc có việc thì bảo vệ cho nhau, dân đều là quân, giữ  thì vững, đánh thì   thắng. Đó là mưu kế  tốt nhất để  đủ  lương, đủ  quân, có thể  giữ  vững bờ  cõi và   phòng bị giặc ngoài”. Điển hình nhất là mấy vụ sau đây:  8
  9. ­ Năm 1840, lập đồn điền  ở  Côn Lôn. Biền binh vừa canh phòng vừa khai   khẩn, nhà nước phát cho ngưu canh điền khí. Dân thường, già trẻ  gái trai,   tới khẩn ruộng cũng được cấp vốn mỗi người từ 3 quan rưỡi đến 10 quan . ­ Năm 1842, khẩn hoang lập  ấp trong vùng Thất Sơn (hồi đó và nay cũng  thuộc An Giang). Sau khi Nguyễn Công Trứ  lo việc bình định trong vùng   Vĩnh Tế xong, liền được cử  tới đó “sắp đặt, chia làng lập ấp, khẩn ruộng,  cho dân yên lòng làm ăn”. ­ Năm 1843, lập đồn điền ở Tây Ninh. Vì đây là nơi biên thùy quan trọng, nên  cử “Đề đốc Gia Định là Ngô Văn Giai lập sở đồn điền mộ dân lập ấp”. Chỉ  một năm sau, thự  Tuyên phủ  sứ  Tây Ninh trình: “Chiêu mộ  được dân bao   nhiêu, xin chia làng lập ấp, cấp cho trâu bò cày bừa, đốc sức chúng ra công   khai khẩn, để cho vững chỗ biên cương”[Nguyễn Đình Đầu (2016); tr. 163]. Như  vậy, đồn điền và dinh điền càng phát triển thì số  lượng công điền công  thổ  càng nhiều, vì theo nguyên tắc: tư  nhân khai hoang thì thành tư  điền, khai   hoang bằng vốn nhà nước thì thành công điền sau khi nhà nước trao cho làng để  quân cấp. Về sau nguyên tắc này được nới rộng hơn: “Giáp Tý (1864), tháng Tư,   định lại lệ khẩn ruộng trước tịch. Người nào xuất của nhà ra làm, cho nhận làm   ruộng tư, còn người nào quan cho mượn tiền mà làm thời trong số ruộng đã khẩn  đó, lấy 2 phần làm ruộng công, 1 phàn ruộng tư. Cho nne, nếu không có sự  chấp  chiếm, thì tỷ lệ công điền không thể mỗi ngày một ít đi được. c) Kết quả Kết quả của quá trình thực hiện chế độ công điền công thổ được thể hiện qua   bảng thống kê sau: (lưu ý: đây là bảng thống kê số lượng công điền công thổ tăng  thêm ở các năm) NĂM CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ (MẪU) 1836 48.889 1840 90.000 1841 30.000 1860 50.000 (Nguồn: học viên tự thống kê qua sách của Nguyễn Đình Đầu trang 206). Với bảng thống kê trên ta có thể nhận xét về kết quả của việc thực hiện chế  độ công điền công thổ ở Lục tỉnh Nam kỳ  như sau: Xét về mặt thực hiện chế độ  công điền công thổ, thì Nhà Nguyễn đã rất thành công, nhưng xét về sự phát triển  9
  10. kinh tế chung ở Lục tỉnh Nam kỳ thì chế độ công điền công thổ chính là tác nhân   chính làm cho xu hướng phát triển của nền kinh tế hàng hóa bị  chững lại, tức là  làm cản trở đi sự phát triển tự nhiên của lịch sử. 3. Kết luận Đầu thế kỷ XIX nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ với sự bao trùm của   sự  tư  hữu về  ruộng đất, sự  phân hóa trong sở  hữu tư  nhân ở  một số  nơi đã đạt   đến mức độ  khá cao. Trước thực trạng đó, chính sách của Nhà Nguyễn đối với   ruộng đất lại thể  hiện rõ tính bảo thủ, làm cho quá trình tự  nhiên của chế  độ  ruộng đất bị chững lại. Thái độ tương đối nhất quán của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX là duy trì,  bảo vệ  và tham vọng mở  rộng sở hữu nhà nước về  ruộng đất. Thái độ  này quy  định chính sách của nhà nước đối với vấn đề  ruộng đất nói chung và với từng  loại sở hữu nói riêng. Dưới thời Nguyễn, việc ban cấp ruộng đất chỉ  còn lại duy nhất hình thức tự  điền (ruộng thờ) được thực hiện rải rác dưới thời Gia Long và đầu Minh Mệnh,   số  lượng rất hạn chế, một phần do quỹ ruộng đất của nhà nước đã bị  thu hẹp,   mặt khác là để đề phòng tư hữu hóa từ việc ban cấp ruộng đất vốn đã từng diễn   ra. Đối với bộ phận ruộng đất công làng xã còn lại, nhà nước cấm ngặt việc mua   bán, cầm cố. Năm 1803, Gia Long xuống dụ: “...nếu xã thôn nào trái lệnh cấm,   quen thói cũ, mua bán riêng với nhau, việc phát giác ra, thì người mua nhầm bị  mất tiền gốc, người làm văn kế, người cùng đứng tên trong văn khế và người làm   chứng đều bị  trị  tội nặng, ruộng đất đem bán trong văn kế  vẫn truy trả  dân, lại   theo lệ  lấy một mẫu ruộng thưởng cho người tố cáo hưởng hoa lợi”. Để  kiểm  soát chặt chẽ bộ phận ruộng đất công làng xã làm cơ sở góp phần giải quyết các   vấn đề  kinh tế ­xã hội và  ổn định tình hình đất nước, năm 1804, Gia Long chính  thức ban hành phép quân điền. Đây là lần thứ  ba trong lịch sử  Việt Nam, nhà  nước ban hành chính sách quân điền. Cũng giống như  phép quân điền các đời  Hồng Đức và Vĩnh Thịnh, phép quân điền đời Gia Long quy định cụ  thể các đối  tượng được nhận ruộng và khẩu phần tương ứng với từng đối tượng đó: quan lại   văn võ từ  tản giai tòng cửu phẩm đến chánh nhất phẩm được nhận từ  8 đến 18  phần; binh lính cách hạng được nhận từ  7 đến 9 phần; dân đinh được nhận 6,5   phần; dân đinh già  ốm, lão nhiêu cố  cùng, tiểu nhiêu, nhiêu tật, tàn phế  được  nhận 4 phần; trẻ mồ côi, đàn bàn góa được nhận 3 phần.  Về  nội dung, không có khác biệt lớn giữa phép quân điền Gia Long với phép   quân điền các thời trước. Quan lại và binh lính vẫn là đối tượng được  ưu đãi.   10
  11. Thay đổi lớn nhất trong phép quân điền Gia Long là rút ngắn thời hạn chia lại   ruộng từ 6 năm xuống còn 3 năm. Mục đích của thay đổi này là nhằm tăng cường  kiểm soát của nhà nước, hạn chế tư hữu hóa, nhưng chắc chắn sẽ đưa đến nhiều   tiêu cực đối với đất đai. Phép quân điền Gia Long được thực hiện trong 36 năm.   Đến năm 1840, Minh Mệnh tiến hành một số  điều chỉnh, theo đó quan lại, binh   lính và dân đinh cùng được nhận một phần, các đối tượng khác được nhận bằng  một nửa hoặc một phần ba. Việc giảm khẩu phần của quan lại và binh lính  xuống bằng dân đinh, theo giải thích của Minh Mệnh là vì các đối tượng này đã   có lương bổng của nhà nước. Việc Gia Long ban hành phép quân điền chỉ  hai năm sau khi nắm được chính  quyền cho thấy ông vua này khá nhạy bén trong nhận thức về  vai trò của ruộng   đất công đối với việc  ổn định tình hình xã hội. Chỉ  có điều, sự  thu hẹp lại phân   bố  không đều của ruộng đất công làm cho tác dụng thực tế  của chính sách này  hạn chế, mỗi nơi mỗi khác. Nhưng nơi ruộng đất công còn nhiều, vẫn là nguồn   sống chủ  yếu của cư dân, chính sách quân điền góp phần thể chế hóa việc phân  phối, hạn chế sự thao túng của tầng lớp hào cường. Thể  hiện tập trung nhất thai độ  của nhà nước đối với vấn đề  ruộng đất là  những biện pháp mở rộng sở hữu công. Trong khai hoang, có tới gần một nửa các  quyết định của nhà nước quy định ruộng đất khai khẩn được trở  thành sở  hữu  công cộng. Đặc biệt quyết liệt là chủ  trương công hữu hóa một bộ  phận ruộng   đất thuộc sở hữu tư nhân. Tỷ lệ bao trùm của sở hữu tư nhân về ruộng đất là thực tế mà Nhà Nguyễn đã  nhận thức được ngay sau khi xác lập nền thống trị. Trong chính sách của mình,  nhà Nguyễn cũng có thái độ tôn trọng quyền tư hữu ở một mức độ nhất định. Tuy  nhiên, với chủ  trương tăng cường sở  hữu công cộng làm bệ  đỡ  kinh tế  ­ xã hội  cho thiết chế quân chủ  tập quyền, nhà Nguyễn từ khá sớm đã có tham vọng can   thiệp vào ruộng đất tư. Năm 1803, một số  quan cai trị  ở Bắc Thành đề  nghị  Gia   Long thi hành phép quân điền, bắt các chủ ruộng tư sung công 70% ruộng đất làm  công điền quân cấp. Chủ trương này quá mạnh mẽ, lại vào lúc nhà Nguyễn mới   được thiết lập, tình hình chưa thật ổn định nên đã không được chấp nhận. Trong   thời gian trị  vì của mình, Gia Long cũng đã nhiều lần trăn trở  về  vấn đề  này.  Nhưng vốn là người thực tiễn, Gia Long nhận thức rõ tính chất phức tạp, bất ổn   của chủ  trương can thiệp vào sở  hữu tư  nhân. Đến Minh Mệnh đã rất đắn đo:  “Ruộng đất tư  là của thế  nghiệp, năm tháng đã lâu, sổ  sách đã thành, nay vô cớ  cắt mất của riêng huyết mạch của người ta, xét ra không phải là việc yên nhân   tình, một phen làm sợ  rằng cwha thấy lợi mà nhiễu dân thì không nói hết”. Sau  11
  12. nhiều cân nhắc, triều đình Nguyễn vẫn quyết định tiến hành cuộc cải cách ruộng  đất ở tỉnh Bình Định, nơi mà theo các quan cai trị đại phương, ruộng đất hầu hết  là thuộc sở hữu tư nhân và tập trung chủ yếu trong tay tầng lớp địa chủ, như  lời  tây của Vũ Xuân Cẩn “...Một hạt Bình Định   ruộng công chỉ  có trên trăm mẫu   nghìn mẫu mà ruộng tư nhiều đến bảy vạn một nghìn mẫu, các ruộng tư...bị bọn  phú hào chiếm cả, người nghèo không nhờ  cậy gì”, “...ruộng đất phần nhiều là  ruộng tư, nhà phú hào chiếm cả, có đến một, hai trăm mẫu mà người nghèo  không một thước tấc, suốt đời làm đầy tớ  người giàu”. Tháng 7 năm 1839, Minh  Mệnh sai Thượng thư bộ hình Vũ Xuân Cẩn và Hữu Tham tri bộ Lễ Doãn Uẩn đi  Bình Định làm cải cách. Nội dung phép quân điền Bình Định như sau: giữ nguyên   hiện trạng thôn ấp ruộng công nhiều hơn ruộng đất tư hoặc công tư ngang nhau,   những thôn  ấp nào tư  nhiều hơn công thì ruộng đất công vẫn giữ  nguyên, cắt ,   một nửa ruộng đất tư sung công quân cấp. Theo quy định trê, 645 trên tổng số 678  thôn ấp ở Bình Định chịu tác động của cuộc cải cách này. Cuộc   cải  cách   ruộng   đất  ở   Bình   Định   năm   1839   là   một   thí   điểm   của   nhà  Nguyễn trong chủ trương can thiệp sở hữu tư nhân, “cân bằng công tư”, “san bớt   giàu nghèo”, như   ước ao của các hoàng đế  Nguyễn. Tại đây, ruộng đất tư  đã   chiếm tỷ  lệ  bao trùm, nhưng không hề  có tình trạng tập trung ruộng đất mà rất   manh mún, không như  lời tâu của Vũ Xuân Cẩn. Vì thế, một lý do khác nữa mà  nhà Nguyễn chọn Bình Định, rất có thể  vì đây là quê hương của phong trào Tây  Sơn, trước kia quân Tây Sơn đã tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo,  nhà Nguyễn muốn thông qua cuôc cải cách này triệt để  xóa bỏ  dấu  ấn của nhà   Tây Sơn. Cuộc cải cách Bình Định đã làm runng động cả  xã hội Đại Nam bấy giờ, gây   nên sự phản ứng của các chủ tư hữu ở Bình Định, nhất là với bộ phận có quy mô  ruộng đất lớn hơn, và cũng tiềm ẩn sự phản ứng đối phó của giai cấp địa chủ cả  nước nói chung. Đến nỗi, hơn mười năm sau, vào năm 1853, Lang trung trí sĩ Trần  Văn Tuân dâng sớ  nêu 10 việc cần làm ngay, trong đó có việc lập tức trả  lại  ruộng đất tư ở Bình Định. Bức tranh ruộng đất Việt Nam  ở  nửa đầu thế  kỷ  XIX với tỷ  lệ bao trùm của   sở hữu tư nhân, sự phân hóa nhất định trong chế độ tư hữu là kết quả tất yếu của   sự  vận động lịch sử. Trong quá trình đó, do những đặc điểm riêng, có sự  khác  biệt nhất định giữa các địa phương. Trước thực trạng ruộng đất đó, chính sách   ruộng đất của nhà Nguyễn thể hiện rõ tư tưởng bảo thủ, một mặt duy trì, bảo vệ  bộ  phận ruộng đất công còn lại, mặt khác tìm cách mở  rộng, đặc biệt là chủ  trương can thiệp vào chế  độ  tư  hữu để  tăng quỹ  ruộng đất công qua thí điểm ở  12
  13. Bình Định. Thái độ đó, chính sách đó làm cho quá trình tư hữu hóa ở nửa đầu thế  kỷ  XIX bị  chặn lại, phân hóa và tập trung ruộng đất trở  nên khó khăn hơn. Sự  vận động tiến hóa của chế độ ruộng đất Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX diễn ra   trong một môi trường không lành mạnh. Bên cạnh những mặt tích cực, thì chế độ  công điền công thổ  đem lại hạn chế  vô cùng to lớn là kìm hãm sự phát triển của những yếu tố cấu thành nền kinh tế  thị  trường, làm cho những mầm mống kinh tế  đó không thể  bậc ra khỏi mầm   mống để phát triển. Cái thất bại nhất trong việc đề ra chính sách  công điền công  thổ của nhà Nguyễn là không nhận thức được ruộng công chỉ tồn tại bền vững và   phát huy tác dụng khi nó ở trong công xã nông thôn truyền thống – điều này chỉ có   thể có ở Bắc Bộ; trong khi đó ở Nam Bộ sẽ có những biến đổi khác so với Bắc  Bộ: Làng ở Nam Bộ không phải là làng truyền thống dựa trên cơ sở công xã nông   thôn như ở Bắc Bộ và do đó chế độ công điền công thổ sẽ không phù hợp ở Nam   Bộ: Làng Nam Bộ là làng mở, cư dân ở Nam Bộ đều là những người phiêu tán từ   khắp nơi về tụ họp tại Nam Bộ,với nhiều thành phần tộc người như Hoa, Khmer,   Việt,....nên tính cách của họ yêu tích sự tự do, cởi mở, phóng khoáng, bây giờ nhà   Nguyễn xây dựng chế độ công điền công thổ làm hạn chế đi sự tự do đó, làm cho   họ thấy bất mãn với chính quyền, dẫn đến việc làm nông nghiệp không phát huy   hết sức mình. Trong khi đó, làng ở Bắc Bộ cư dân đa số là những người có cùng   huyết thống, có quan hệ dòng họ với nhau, có sự tôn ti trật tự, đặc biệt theo đặc   điểm của công xã nông thôn Á Châu có quy luật là 6 năm chia lại ruộng đất công   một lần, cứ  ai có tên trong danh sách làng là có phần. Nhà Nguyễn đã quá chủ   quan khi không xét về  đặc điểm “Làng” trước khi áp dụng chế  độ  công điền   công thổ. 13
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đình Đầu (2016), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Khoa học xã hội. 2. Khoa học lịch sử VIệt Nam (2006) Một số vấn đề Lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, kỷ yếu hội thảo khoa học thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Thị Kim Thoa, bài tiểu luận cuối kỳ “Sự phát triển Thương nghiệp Đàng Trong từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2