intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới

Chia sẻ: Thủy Tít | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

288
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới" có 3 chương: chương 1 những vấn đề cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chương 2 mối quan hệ giữa FDI và xuất-nhập khẩu ở Việt Nam, chương 3 giải pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề xuất nhập khẩu ở Việt Nam sau thời lỳ đổi mới

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ********** TIỂU LUẬN MÔN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỀ TÀI Sinh viên thực hiện      : VŨ THỊ LỆ  THỦY Mã sinh viên                :1212160119 Lớp                              : 
  2. Hà Nội,12/2013 2
  3. MỤC LỤC Danh mục      Trang 3
  4. LỜI MỞ ĐẦU Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7­ 11­2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR.  Việt Nam việc tổ  chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ  Hội nghị  cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11­2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn  nữa vị  thế  của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn  vào thị trường khu vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập  đoàn kinh tế, các quốc gia lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI   vào Việt Nam. Đã có nhà đầu tư  nói rằng: “Việt Nam đang nằm trong tầm   ngắm của các nhà đầu tư  và giới quan sát nước ngoài. Sự  chú ý của cộng   đồng quốc tế tới Việt Nam chưa bao giờ cao hơn hiện nay”.  Mà có một sự thật rằng bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang  phát triển thì để phát triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư  tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để  phát triển kinh tế  có thể  được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong  nước thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát triển như  Việt  Nam( có tỷ  lệ  tích luỹ  thấp, nhu cầu đầu tư  cao nên cần có một số  vốn lớn   để phát triển kinh tế). Vì vậy, nguồn vốn đầu tư  nước ngoài ngày càng giữ  vai trò quan trọng đối   với sự phát triển của mỗi quốc gia Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá  trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho  con người, là 3 khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia.   Trên giác độ  vi mô, FDI có tác động mạnh mẽ  đến năng lực cạnh tranh của  các doanh nghiệp trong nước, vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp  FDI và doanh nghiệp trong nước,… Đặc biệt, trong những năm gần đây FDI   đã có những tác động sâu săc tới lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta. Nhận   thức được tầm quan trọng của vấn đề  này, em đã chọn đè tài tiểu luận của  mình là “ Mối quan hệ giữa FDI và vấn đề  xuất nhập khẩu ở  Việt Nam sau  thời lỳ đổi mới”. Bài tiểu luận của em có 3 chương: CHƯƠNG I:    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP   NƯỚC NGOÀI (FDI) CHƯƠNG II:   MỐI QUAN HỆ  GIỮA FDI VÀ XUẤT ­ NHẬP KHẨU  Ở VIỆT NAM. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP Trong lần viết này bài tiểu luận của em chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết.  Em kính mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để em   có thể  hoàn thiện tốt hơn trong những lần viết sau. Em cũng xin chân thành  cảm ơn. 4
  5. CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC  TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) I. FDI LÀ GÌ?       ­Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế trong đó  chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn vào dự án  đầu tư, cho phép họ dành quyền quản lý hoặc trực tiếp tham gia quản lý dự  án đàu tư. Như vậy, quyền quản lý chính là tiêu chí cơ bản trong việc định nghĩa  FDI và giúp phân biệt FDI với các hình thức đầu tư khác như đầu tư  chứng khoán. Quyền này bắt nguồn từ chính việc nhà đầu tư nắm “toàn bộ  hoặc một phần vốn đủ lớn” vào dự án đầu tư. Các khái niệm khác liên quan đến FDI: ­ FDI có thể hiểu theo hai nghĩa FDI vào (inflow/inward­ người nước ngoài  nắm quyền kiểm soát các tài sản của một nước A) hoặc FDI ra  ( outflow/outward­ các nhà đầu tư nước A nắm quyền kiểm soát các tài sản  nước ngoài). Đôi khi FDI ra được gọi là đầu tư trực tiếp ở  nước ngoài (DIA  – direct investment abroad). ­ FDI có thể được tính như một dòng tiền (flow) nghĩa là số tiền đầu tư trong  một năm hoặc dưới dạng luỹ kế (stock) nghĩa là tổng vốn đầu tư tích lũy tính  đến thời điểm cuối năm. Nước mà ở đó chủ đầu tư định cư được gọi là nước chủ đầu tư, nước mà ở  đó hoạt động đầu tư được tiến hành gọi là nước nhận đầu tư. II. ĐẶC ĐIỂM CỦA FDI       ­Chủ đầu tư giành quyền kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp đầu tư.  Chủ đầu tư có quyền này bởi vì chủ đầu tư đã nắm giữ 100% vốn hoặc đóng  góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ của dự án  đầu tư. Nó được căn cư theo quy định của luật pháp từng nước.   ­ Quyên điều hành, quản lý doanh nghiệp phụ thực vào mức góp vốn của các  bên trong tổng số vốn pháp định. Vốn đóng góp càng cao , nhà đầu tư càng có  quyền tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp. ­ Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả kinh doanh  của doanh nghiệp. Lợi nhuận và lỗ (hay rủi ro) xảy ra được phân chia theo tỷ  lệ góp vốn của các bên trong vốn pháp định, sau khi đã nộp thuế và các chi phí  khác cho nước chủ nhà.     ­ FDI không chỉ đưa vốn vào nước nhận đầu tư, mà thường đi kèm theo với  vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh, công nghệ quản lý .v.v..Do  FDI mang theo kỹ thuật, công nghệ nên nó thúc đẩy sự ra đời của các ngành  nghề mới, đặc biệt là những ngành sử dụng công nghệ cao hay nhiều vốn. Vì  thế, nó có tác dụng to lớn đối với quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu  kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở nước nhận đầu tư. Tuy vậy, cũng cần nhận  thức rằng FDI chứa đựng khả năng các doanh nghiệp nước ngoài (100% vốn  5
  6. nước ngoài) có thể trở thành lực lượng “áp đảo” trong nền kinh tế nước nhận  đầu tư. Trường hợp này sẽ xảy ra khi mà sự quản lý và điều tiết của nước  chủ nhà bị lơi lỏng hoặc kém hiệu lực. Một vấn đề khác không kém phần  quan trọng gây nên sự “dè dặt” của các nước đang phát triển tiếp nhận FDI,  đó là: FDI chủ yếu là của các công ty xuyên quốc gia (TNC) và cách thức đầu  tư cả gói của nó để chiếm lĩnh thị trường và thu nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên,  theo kinh nghiệm của một số nước lại cho rằng: FDI là nguồn động lực đóng  vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của họ. Điều đó có ý nghĩa là  hiệu quả sử dụng FDI phụ thuộc rất lớn vào cách thức huy động và quản lý  sử dụng nó của nước nhận đầu tư, chứ không phải ý đồ của nhà đầu tư. III. PHÂN LOẠI FDI                  Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức  chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh  nghiệp 100% vốn nước ngoài.Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Hợp đồng hợp tác kinh doanh  Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual­Business­Cooperation) là văn bản  ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách  nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản  xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân.  Và ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 3% số dự án và khoảng 9% số  vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 chỉ có 181 dự án có hiệu lực với 4,5 tỷ  USD vốn đầu tư). Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh ( Joint Venture interprise): là loại hình doanh nghiệp  do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với các nước tiếp nhận đầu tư  cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủ ro theo tỷ  lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty  trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận  đầu tư.Ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 23% số dự án và khoảng  44% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có 1.269 dự án có hiệu lực với  19,7 tỷ USD vốn đầu tư). Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là doanh  nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài( tổ chức hoặc cá nhân nước  ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự  quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam,  hình thức này có xu hướng gia tăng cả về số dự án và vốn đăng ký. Hiện có  trên 73% số dự án và khoảng 47% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có  3.956 dự án có hiệu lực với 22,8 tỷ USD vốn đầu tư). Hiện nay trong đó tổng  dự án và tổng vốn trên thì nhà đầu tư đăng ký dưới hình thức 100% vốn nước  ngoài chiếm 77,2% về số dự án (60,7% về tổng vốn), đăng ký dưới hình thức  6
  7. liên doanh chiếm 19,5% về số dự án (31,2% về tổng vốn đăng ký). Số còn lại  đăng ký thuộc lĩnh vực hợp doanh BOT công ty cổ phần và công ty quản lý  vốn. CHƯƠNG II. MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT ­ NHẬP KHẨU  Ở VIỆT NAM. I. ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TỚI FDI Ở VIỆT NAM. Đứng trên góc độ phân tích về mặt lí thuyết có thể thấy giữa ngoại  thương va đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hề tương hỗ lẫn  nhau.Nếu như hoạt động xuất nhập khẩu của một đất nước hoạt động tốt thì  đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài nền nhìn  vào nền kinh tế đó, quyết định vốn đầu tư của mình. Mặt khác khi hoạt động  khi đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đặc biệt trong lĩnh vực trong  lĩnh vực xuất nhập khẩu với thì năng lực sản xuất của nước sở tại tăng lên  và hàng hoá ản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn, do đó sẽ thúc  đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Vậy mội quan hệ giữa ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài được  biểu hiện như thế nào? Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu xem vì sao các hoạt động của các  doanh nghiệp FDI trong thời gian vừa qua lại đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập  khẩu của Việt Nam nhanh và nhiều như vậy. 1. Việc Việt Nam mở rộng phạm vi thương mại, kí kết các hiệp  định thương mại với các quốc gia trên thế giới có tác động làm  tăng FDI vào Việt Nam. Trong cuộc hành trình 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt  trong việc mở cửa giao lưu với các nền kinh tế nước bạn. Sự ra đời của  những chính sách thân thiện trong thương mại cũng như chính sách đầu tư  trực tiếp từ nước ngoài chính là yếu tố quan trọng nhất đem lại thành công  trong việc tạo lập môi trường cho các công ty FDI đầu tư vào ngành xuất  nhập khẩu tai Việt nam. Tổng xuất khẩu và nhập khẩu bằng 160% GDP đã  biến nền kinh tế Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở  lớn nhất thế giới. 7
  8.  Từ  năm 1980 tới nay, bắt đầu với Nghị định 40­ 7/2/1980 và tới nay là Nghị  định 57CP­ 31/7/1998, Nhà nước đã xoá bỏ hoàn toàn điều kiện , các doanh  nghiệp có quyền tham gia các hoạt đông ngoại thương mà không cân cần cố  điều kiện gì, chỉ cần có mã số thuế ở Cục Thuế. Ta có thể nhận thấy ró sự thay đổi về kim ngạch xuất nhập khẩu trong 10  năm gần đây là tù 1997 tới 2007: Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục trong suốt thời gian 10  năm từ 1997 đến 2007. Sau thời kì khủng hoảng kinh tế 1997, cán cân thương  mại có nhiều xáo trộn. Năm 2001 là giới hạn của thời kì này. Tất cả các chỉ  số của năm này đều thay đổi rất ít so với năm 2000. Tiếp sau đó là một thời kì  tăng trưởng khá năng động của xuất nhập khẩu với tỉ lê tăng trưởng trung  bình lên đến hơn 20%. Thâm hụt thương mại theo đó cũng tăng lên một cách  đáng kể từ 1,2 tỷ năm 2001 lên tới 5,1 tỷ năm 2006. Điều này chứng tỏ rằng  Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong vòng 9 năm nhập khẩu tăng lên khoảng 3,8 lần. Trong khi đó nhập  khẩu tăng 4,3 lần. Đó là một xu thế tốt và có thể nói là thành công bước đầu  của Việt Nam trong quá trình hội nhập nói chung và  thể hiện một môi trường  tốt cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam, góp phần tăng tỉ trọng  xuất nhập khẩu nói riêng. 8
  9. 2. Chính sách quản lí hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước ảnh  hưởng đến FDI vào Việt Nam. Thêm nữa,  đó là do chính sách của nhà nước ta đối với các doanh nghiệp FDI  về vấn đề XNK ngày càng được nới rộng.Chúng ta có thể nhìn thấy rõ điều  đó  Nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư  trực tiếp của nước ngoài, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài,  năm 1998, Chính phủ đưa ra Nghị định số 10/1998/NĐ­CP về một số biện  pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại  Việt Nam trong đó điểm khác biệt rõ nét. Điểm dễ nhận thấy là nhà nước  khuyển khích đầu tư bằng cách điều chỉnh thuế suất thuế lợi tức ưu đãi và  thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức theo các tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư  ( Điều 8, 9 10, 11/ chương III). Nếu trước đây các doanh nghiệp FDI phải uỷ  thác vốn cho công ty Việt Nam thi theo Nghị định 10, các doanh nghiệp FDI  được quyền thu mua sản phẩm. Nhưng hạn chế của Nghị định là chỉ được  nhập khẩu các yểu tố đầu vào cho sản xuất, không được kinh doanh xuất  nhập khẩu. Đến năm 2001, theo Nghị định 44 ban hành 2/8/2001, thương nhân theo quy  định của pháp luật được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, không  phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh  doanh, trừ hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu; được nhập  khẩu hàng hóa theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng  ký kinh doanh(điều 8).  Tới năm 2006, nhà nước ta thực hiện cam kết khi gia nhập WTO trong đó cho  phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần ngành nghề được xuất nhập  khẩu.các doanh nghiệp FDI “ được quyền tạm nhập hàng hóa mà thương  nhân đã xuất khẩu để tái chế, bảo hành theo yêu cầu của thương nhân nước  ngoài và tái xuất khẩu trả lại thương nhân nước ngoài. Thủ tục tạm nhập tái  xuất giải quyết tại Hải quan cửa khẩu”(điều 13).  Đồng thời cho các doanh  nghiệp FDI đứng tên mở tờ khai thuế nhập khẩu và đóng thuế. Tới năm 2007, theo Nghi định 23 NĐ­CP, các doanh nghiệp FDI được quyền   xuất nhập khẩu trực tiếp mọi hàng hoá ; được quyền phân phối các hoạt  động bán buôn, bán lẻ, đại lý mua bán hàng hoá và nhượng quyền thương mại  theo quy định của pháp luật Việt Nam.(điều 3 Vào ngày 1/1/2008, theo Nghị quyết số 19/2008/NQ­QH12, nhà nước cho phép  các liên doanh nước ngoài góp vốn không hạn chế trong lĩnh vực hoạt động  phân phối Phải nói rằng sau khoảng 10 năm mở rộng, nhưng sự thay đổi chính sách kịp  thời của Nhà nước ta đã có những hiệu quả to lớn .Có thể nhận thấy chính  sách của nhà nước ta càng ngày càng thông thoáng hơn đối với các doanh  nghiệp FDI. Nói cách khác, những thay đổi trong chính sách thương mại của  Việt Nam trong những năm qua đã góp phần tăng khả năng thu hút FDI của  9
  10. Việt Nam. Minh chứng cho nhận định này là sự cải thiện liện tục vị trí của  Việt Nam trong xếp hạng, đánh giá của các tổ chức uy tín về mức độ hấp  dẫn đầu tư nước ngoài.  Năm 2005, Việt Nam đứng thứ 50 trong bảng xếp hạng thế giới về chí số thu  hút FDI, tăng 4 bậc so với vị trí 54/60 của giai đoạn 2000­2004.  Năm 2008, theo xếp hạng của Tổ chức Phát triển và Thương mại Liên Hiệp  Quốc, Việt Nam nằm trong top 10 nước được các công ty đa quốc gia vào đầu  tư giai đoạn 2007 – 2009.  Ba năm sau khi gia nhập WTO và nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết gia  nhập, sức hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài càng được cải  thiện rõ nét. Năm 2010, tổ chức Tư vấn và Kiểm toán thế giới Price Water  House Coopers xếp Việt Nam đứng đầu trong số 20 nền kinh tế đang lên, và  có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư, nhất là với các ngành sản xuất, đầu  tư công nghiệp phụ trợ. Việt Nam xếp thứ 12 trong xếp hạng chung Chỉ số  niềm tin FDI. Trong số các nước Đông Nam Á lọt vào Top 25 của xếp hạng  Chỉ số niềm tin FDI 2010, Việt Nam đã vượt lên đứng trên Indonesia (21),  Malaysia (20), và Singapore (24). Cơ quan Thương mại và đầu tư của Anh dựa trên khảo sát hơn 500 lãnh đạo  cấp cao của các công ty từ gần 20 ngành kinh doanh khác nhau, cũng khẳng  định, nếu không tính tới nhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), thì  Việt Nam hấp dẫn nhất trong hai năm liên tục 2009­2010 so với số 15 nước  mới nổi, được xếp theo thứ tự gồm có Việt Nam, Tiểu vương quốc Ả Rập  Thống nhất, Mexico, Nam Phi, Malaysia, Indonesia, Singapore, Thổ Nhĩ Kỳ,  Philippines, Saudi Arabia, Ukraine và Ba Lan II. ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM. 1.1. FDI tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân xuất nhập khẩu  FDI tác động đến kim ngạch xuất khẩu FDI giúp tăng vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất xuất khẩu Kể từ khi mở cửa nền kinh tế kinh tế, phát triển quan hệ buôn bán và tiếp  nhận đầu tư nước ngoài, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng  kể về phát triển kinh tế, song vẫn là một nước nghèo, đang phát triển. Chúng  ta có nguồn lao động rẻ dồi dào là lợi thế nhưng luôn ở trong trạng thái thiếu  vốn. Kể từ 1988 đến nay, dòng FDI đã trở thành một nguồn bổ sung vốn thiết  yếu cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành sản xuất xuất khẩu nói  riêng. Nếu không có FDI, tổng nguồn vốn huy động được trong nước, ngoài  việc đầu tư phần lớn để cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng và đầu tư cho khu  vực sản xuất khu vực trong nước, thì việc dành ra một lượng vốn đáng kể để  đầu tư cho sản xuất xuất khẩu ngay từ những năm đầu sau đổi mới là việc  10
  11. cực kì khó khăn, chưa kể đến những hậu quả nặng nề của thời kì suy thoái  kinh tế kéo dài từ cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80. FDI chính là một  liều thuốc kích thích sản xuất cho nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng và  từng bước tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất xuất khẩu phát triển thuận  lợi. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta từ 1988 đến 1990 đã tăng gấp 3 lần,  đạt 2,4 tỉ USD, năm 1995 lên tới 8,9 tỉ USD. Nhìn vào biểu đồ sau có thể thấy, vai trò của FDI trong việc bổ sung vốn cho  nền kinh tế nói chung ngày một lớn hơn. Tính đến năm 2008, FDI đã chiếm  tới 20% tổng lượng vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế. Biểu đồ 5: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000­2008 Đơn vị: Tỉ đồng Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Xét riêng hoạt động sản xuất xuất khẩu của Việt Nam, FDI cũng có vai trò lớn trong việc bổ sung nguồn vốn. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân thuộc bộ Công Thương và Yuqing Xing thuộc đại học Quốc gia Nhật Bản về FDI và hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam năm 2006, sử dụng mô hình Lực hấp dẫn, kết hợp với số liệu về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang 23 nước chủ đầu tư FDI giai đoạn 1990-2004 thuộc 5919 dự án đã được cấp phép tính từ 1988. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam có đóng góp đáng kể của dòng vốn FDI. Cứ 1% tăng trưởng của FDI sẽ tạo ra 0,25% tăng trưởng về giá trị xuất khẩu, hay cứ 2,5 USD vốn FDI sẽ tạo ra 1 USD doanh thu từ xuất khẩu. 11
  12. Đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tương đối về cơ cấu. Nếu ở giai đoạn 10 năm đầu sau đổi mới, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là nông sản và các mặt hàng có hàm lượng lao động cao, thì trong khoảng hơn 10 năm gần đây, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch sang các mặt hàng có hàm lượng vốn cao hơn. Trong tương lai, xu hướng này sẽ còn tiếp diễn và ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn cần nhiều vốn hơn nữa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhờ xuất khẩu mà nhà nước đã đặt ra, nguồn vốn FDI càng nắm giữ một vai trò quan trọng hơn nữa trong việc bổ sung nguồn vốn cho sản xuất xuất khẩu. FDI làm tăng kim ngạch xuất khẩu do doanh nghiệp FDI thực hiện khâu sản xuất hoặc gia công hàng hóa tại Việt Nam nhằm mục đích xuất khẩu Khi nói đến sự  gia tăng nhanh chóng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt   Nam trong những năm qua, đóng góp của các doanh nghiệp FDI là không thể  phủ  nhận. Điều này được minh chứng bằng tỉ trọng ngày càng gia tăng của khu vực FDI  trong tổng giá trị  xuất khẩu của cả  nước. Trên thế  giới nói chung và  ở  Việt Nam  nói riêng, FDI hiện nay có xu hướng hướng về  xuất khẩu hơn là nhằm vượt qua  hàng rào bảo hộ  và hàng rào thuế  quan của các nước nhập khẩu hàng hóa. Đồng   thời với xu hướng đó là sự phát triển ngày càng mạnh của các tập đoàn xuyên quốc   gia (TNC). Các TNC này thường được hình thành  ở  các nước phát triển, với phạm   vi tiêu thụ hàng hóa rộng lớn khắp toàn cầu. Các TNC này có xu hướng hình thành   các chi nhánh ở nhiều quốc gia, tiến hành hoạt động sản xuất, gia công hàng hóa ở  các nước có điều kiện đầu tư  thuận lợi, nhất là những nước đang phát triển nhiều  tài nguyên, nhân công rẻ và mặt bằng sản xuất lớn, rồi xuất khẩu sang thị trường   khác. Với những tiêu chí lựa chọn địa điểm đầu tư  như  trên, Việt Nam được coi là  một điểm đầu tư  hấp dẫn, đặc biệt là từ  sau khi gia nhập WTO, phạm vi thương   mại được mở rộng, năm 2009, Việt Nam xếp thứ 12 trong danh sách 25 nền kinh tế  có sức hút vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế  giới do Bloomberg  bình chọn, Việt Nam tiếp tục chứng tỏ là địa chỉ  hấp dẫn đối với các nhà đầu tư  toàn cầu. 12
  13. Bảng 5: Số  liệu về  hoạt động xuất khẩu của khu vực FDI tại Việt Nam (có  bao gồm dầu thô) Tỉ trọng KV Mức tăng tổng Giá trị Mức tăng Năm FDI trên tổng KNXK cả nước (triệu USD) giá trị(%) (%) KNXK (%) 1995 1473,1 27,0 34,6 1996 2155,0 46 29,7 33,2 1997 3213,0 49 35,0 26,6 1998 3215,0 0 34,3 1,8 1999 4682,0 45,6 40,6 23,3 2000 6810,0 45,5 47,0 25,5 2001 6798,3 -2 45,2 3,8 2002 7871,8 16 47,1 11,2 2003 10161,2 29 50,4 20,6 2004 14487,7 43 54,7 31,0 2005 18553,7 28 57,2 22,9 2006 23061,3 24 57,9 22,7 2007 27774,6 20 57,2 21,9 2008 34529,2 24 55,1 29,1 2009 29900,0 -13 52,8 -9,8 Nguồn: Tính toán theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt nam chỉ đạt 52 triệu USD, đóng góp 2,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đến năm 2009, sau gần 20 năm mở cửa và hội nhập, khu vực này thực sự đã có sự tăng trưởng ấn tượng, kim ngạch xuất khẩu đạt tới 29,9 tỉ USD, tương đương 52,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng tới gần 600 lần về giá trị và tăng tới 21 lần về tỉ trọng. Tuy vậy, hoạt động sản xuất xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2009 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tỉ trọng đóng góp của khu vực FDI vào kim ngạch xuất khẩu cả nước có giảm so với năm 2008 về tỉ trọng và giá trị. Ngoại trừ năm 1998 và 2001, giá trị xuất khẩu của khu vực này gần như không tăng, tất cả các năm còn lại, đều có tốc độ tăng trưởng trên 20%, tỉ trọng đóng góp vào tổng kim ngạch 13
  14. xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên. Giai đoạn 2005-2008 là giai đoạn hoạt động hiệu quả nhất của khu vực FDI hướng vào xuất khẩu. Tỉ trọng đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước luôn đạt trên 57%, năm 2008 là giai đoạn cao điểm, giá trị xuất khẩu của khu vực này lên tớ 34,52 tỉ USD. Theo báo cáo của Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, xuất khẩu 10 mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp FDI chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 và 24,9% năm 2009. Xuất khẩu cả nước trong năm 2013 tăng mạnh bất chấp khủng hoảng kinh tế  thế giới chưa phục hồi và sản xuất trong nước vẫn gặp nhiều khó khăn. Tính  chung cả năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng  15,4% so với năm 2012. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 88,4 tỷ  USD, tăng 22,4%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu  của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm nay đạt 81,2 tỷ USD, tăng 26,8%  so với năm trước. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn  đầu tư nước ngoài với các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện  thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, giày dép... Xuất khẩu của khu vực  này trong những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng cao  trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xét về tốc độ tăng trưởng, so với mức tăng trưởng xuất khẩu cả nước, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI ở hầu hết các năm đều đạt tốc độ cao hơn. Năm 1997, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI đạt 49% trong khi tăng trưởng xuất khẩu cả nước chỉ trên 26%. Hay trong hai năm 1999-2000, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI là trên 45% trong khi kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ tăng 23-25%. Khu vực FDI duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn so với cả nước cho đến năm 2006. Từ 2006 đến nay, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này xuống thấp hơn so với mức tăng trưởng của cả nước. Năm 2009, xuất khẩu cả nước tăng trưởng âm 9,8% trong khi xuất khẩu của khu vực FDI tăng trưởng âm tới 13%. Nguyên nhân chính là do trong thời kì suy thoái kinh tế, cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của khu vực FDI giảm mạnh hơn so với cầu hàng xuất khẩu của khu vực trong nước, do khu vực FDI chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong khi mặt hàng xuất khẩu chủ lực của khu vực trong nước là các mặt hàng thiết yếu cơ bản nên cầu ít co giãn hơn. Một nguyên nhân cũng rất quan trọng là do nhiều chủ đầu tư muốn tránh rủi ro từ khủng hoảng kinh tế đã giảm quy mô đầu tư. 14
  15. FDI giúp nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu nhờ tác động lan tỏa về công nghệ Khả năng cạnh tranh của sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp nói riêng và với cả nền kinh tế nói chung. Làm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm có nghĩa là làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, số lượng… được quyết định bởi các yếu tố như vốn, công nghệ, lao động… So với các doanh nghiệp trong nước, đây là một là một ưu thế rõ rệt của các doanh nghiệp FDI. Vì thế các doanh nghiệp FDI sản xuất để xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Tuy vậy, sự có mặt của khu vực FDI lại có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Bảng : Đánh giá về sức ép cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam (sức ép cạnh tranh cao nhất = 10; thấp nhất = 1) Trước hết, sự có mặt của các doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã kéo theo sự xuất hiện của các công nghệ mới, hầu hết các công nghệ này đều ở mức độ tiên tiến hơn so với trình độ công nghệ của nước ta. Các doanh nghiệp FDI vì thế cũng đòi hỏi nguồn lao động có trình độ cao hơn. Ở Việt Nam, số lao động có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI không nhiều, đa số nguồn lao động hoạt động trong khu vực FDI phải qua đào tạo trực tiếp của nhà tuyển dụng. Những người này được học về quản lý doanh nghiệp, đào tạo nhân sự, các nghiệp vụ ngoại thương, vận hành thiết bị công nghệ cao, hay 15
  16. tham gia nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới… Sự di chuyển nguồn lao động giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực FDI tạo nên một hiệu ứng lan tỏa. Nói cách khác, các doanh nghiệp FDI đã gián tiếp giúp Việt Nam đào tạo một phần lực lượng lao động với trình độ cao hơn, hiểu biết về công nghệ, hiểu biết về quản trị kinh doanh, khả năng nghiên cứu sản phẩm mới, am hiểu thị trường quốc tế, đặc biệt là lối tư duy và tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sự hội tụ những yếu tố trên trong lực lượng lao động mới có vai trò quyết định đến chất lượng cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà mỗi doanh nghiệp sản xuất ra. Điều tra do Viện Nghiên cứu nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện cuối năm 2004 tiến hành đối với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước thuộc ba nhóm ngành chế biến thực phẩm, dệt may-da giày, cơ khí - điện tử tại hai địa phương là TP.Hồ Chí Minh, Hà nội và một số tỉnh, thành phố xung quanh hai trung tâm kinh tế lớn này. Đây là nơi các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động và tác động tràn của doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong nước được cho rằng sẽ thể hiện rõ nhất do khoảng cách về không gian giữa các doanh nghiệp đã được hạn chế. Phân tích kết quả từ hai góc độ: (1) lao động chuyển đi khỏi doanh nghiệp FDI và (2) nguồn gốc lao động mới tuyển dụng của doanh nghiệp trong nước- đều cho thấy có hiện tượng di chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và trong nước, nhưng ở mức thấp. Tất nhiên vào thời điểm đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ít có khả năng thu hút lao động từ khu vực FDI do mức lương chi trả còn hạn chế. Tuy nhiên đến nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp đủ mạnh có thể thu hút nhân tài từ các công ty đa quốc gia. Công ty Bitis, Kinh Đô, tập đoàn Masan, công ty Liên Bảo, công ty Việt Văn, công ty Mai Thanh, công ty Masso, Big Solutions, SME, Golden Land hiện là những nơi đầu quân mới của các nhà quản lý giỏi trước đây từng làm việc cho các công ty nước ngoài. Chủ tịch tập đoàn và giám đốc của những công ty này trước đây đều là những người đã từng làm việc cho các tập đoàn nước ngoài hoặc các công ty liên doanh lớn, sau một thời gian làm họ tự tách ra mở công ty riêng để kinh doanh và quản lý dựa trên những kinh nghiệm đã được đào tạo và tích lũy khi còn ở các doanh nghiệp FDI. Giám đốc phát triển thương mại Công ty Goodland ông Trần Anh Tuấn từng là chuyên gia xúc tiến thương mại đầu vào cho các doanh nghiệp Australia tại Thương vụ Australia ở TP HCM; ông Vũ Quốc Tuấn, Giám đốc Công ty Việt Văn từng làm việc cho tập đoàn Keppel 16
  17. Land của Singapore; Giám đốc Công ty SME từng là luật sư tư vấn cho Công ty Akzo Nobel; bà Trần Thị Thanh Mai trước khi lập công ty quảng cáo Mai Thanh từng là Phó Tổng Giám đốc Công ty liên doanh Castrol, tập đoàn Philip Morric, và công ty J.W. Thomson; bà Nguyễn Công Ái Huyên từng phụ trách quản trị nhãn hiệu cho hãng Shell Việt nam hiện là giám đốc công ty Masso, một công ty chuyên cung cấp các giải pháp tiếp thị cho các doanh nghiệp. Ông Hạ Ngọc Linh, Giám đốc Công ty Big Solutions, nguyên là thủ khoa ngành quản trị kinh doanh của Viện Công nghệ châu Á (AIT) cũng đã từng giữ cương vị Giám đốc điều hành cho Motorola Vietnam trong 5 năm. Thứ hai, đối với FDI dưới các hình thức liên doanh liên kết, các doanh nghiệp Việt Nam sau khi thực hiện việc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, ngoài đầu tư về vốn, doanh nghiệp Việt Nam còn được nhà đầu tư góp vốn bằng dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ cao, đặc biệt là các bí quyết công nghệ của họ. Việc tiếp nhận FDI dưới hình thức này cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp thu một cách trực tiếp công nghệ tiên tiến của nước chủ đầu tư và quá trình cải thiện chất lượng sản phẩm cũng diễn ra nhanh hơn và đúng hướng hơn. Một ví dụ điển hình về doanh nghiệp liên doanh thành công của Việt Nam hiện nay có thể kể đến Công ty Cổ phần Cáp điện LS-Vina là công ty liên doanh với tập đoàn LS-Cable Hàn Quốc, thành lập năm 1996, nhanh chóng trở thành công ty con lớn nhất của công ty cáp điện LSCABLE Hàn Quốc và đứng đầu ngành sản xuất cáp điện tại Việt Nam. Năm 2000, LS-Vina Cable đã đạt Chứng chỉ chất lượng tiêu chuẩn Hàn Quốc. LS-Vina Cable đạt được Chứng chỉ ISO 9001 vào năm 2000, và đây là nơi phát hành ra nhóm tiêu chuẩn toàn cầu và được đăng ký bởi UKAS. Hiện nay LS-Vina Cable đang đứng vị trí số một trong những nhà máy sản xuất cáp điện hàng đầu ở Đông Nam Á. Tất cả các loại cáp điện được thiết kế, sản xuất đều phù hợp với nhu cầu từ tiêu chuẩn quốc tế như IEC, IEEA, AEIC, KS, AS/NZS, BS, IS, JIS và TCVN,… . Công ty đã cung cấp sản phẩm cho nhiều công trình trọng điểm quốc gia & ngành điện, đặc biệt là công ty đã xuất khẩu sản phẩm sang nhiều thị trường như Úc, Newzealand, Hàn Quốc, Singapore, Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan, Ấn Độ…và được khách hàng đánh giá cao. Gần 15 năm hoạt động của doanh nghiệp đã thực sự khẳng định chất lượng và sức cạnh tranh của mặt hàng cáp điện sản xuất tại Việt Nam, đưa mặt hàng cáp điện vào danh mục các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD của Việt Nam từ năm 2007. 17
  18. Một nghiên cứu khác của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện trên qui mô mẫu gồm 56 nghìn doanh nghiệp thuộc mọi thành phần các ngành trong nền kinh tế đã khẳng định tác động tràn tích cực từ khu vực FDI giúp cải thiện năng suất của các doanh nghiệp trong nước. Theo kết quả nghiên cứu này, tác động tràn ở các doanh nghiệp liên doanh lớn hơn so với các hình thức đầu tư khác, và tác động tràn ở các ngành dệt may-da giày và chế biến thực phẩm lớn hơn so với ngành cơ khí điện tử. Thứ ba, trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước muốn xuất khẩu được hàng hóa buộc phải nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình. Cùng với việc cải thiện chất lượng hàng hàng hóa, kiểu dáng, mẫu mã, chức năng của sản phẩm, học hỏi các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến trình độ người lao động và năng lực nhà quản lí. Các doanh nghiệp này cũng đã chủ động tìm tòi đổi mới sảm phẩm, năng động hơn, nhanh nhạy hơn trong khâu tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Sản phẩm cà phê của tập đoàn Trung Nguyên và sản phẩm sữa của tập đoàn Vinamilk là hai điển hình cho sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Trước sức ép của các doanh nghiệp FDI cùng ngành như Nestcafe (đối thủ chính của Trung Nguyên), Abott, Dumex, Nestle (đối thủ của Vinamilk), bắt đầu từ cuộc chiến giành thị trường trong nước, hai tập đoàn này đã vươn lên lớn mạnh và khẳng định được cả khả năng cạnh tranh cả ở thị trường xuất khẩu. Với nỗ lực học hỏi, cải tiến công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chấy lượng sản phẩm, hiện nay, cà phê Trung Nguyên và G7 đang được xuất khẩu đến hơn 43 quốc gia trên thế giới - hệ thống cửa hàng đã hiện diện tại Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan…và trong những năm tới Trung Nguyên sẽ bằng mọi nỗ lực để tiếp tục đưa cà phê và tinh thần cà phê Việt Nam chinh phục những người yêu cà phê trên toàn thế giới. Sản phẩm Vinamilk ngoài việc phân phối mạnh trong nước với mạng lưới 183 nhà phân phối và gần 94.000 điểm bán hàng phủ đều 64/64 tỉnh thành, còn được xuất khẩu sang nhiều nước Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức, khu vực Trung Đông, Đông Nam Á…với doanh thu từ xuất khẩu mỗi năm đạt hàng trăm triệu USD. Như vậy, FDI không những cải thiện chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu ở khu vực kinh tế có đầu tư nước ngoài mà còn gián tiếp tác động tích cực đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu của cả khu vực kinh tế trong nước. 18
  19.  FDI tác động đến kim ngạch nhập khẩu FDI có khả năng thay thế nhập khẩu do nhu cầu trong nước đối với một số hàng hóa nhập khẩu được đáp ứng bởi các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI Trước đây nền kinh tế nước ta còn lạc hậu, hoạt động sản xuất kém phát triển nên có nhiều những mặt hàng nền sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được, kể cả những mặt hàng tiêu dùng cơ bản. Để giải quyết tình trạng này thì giải pháp thông thường là nhập khẩu mặt hàng đó, tuy nhiên từ khi nước ta tiến hành mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài thì tình hình đã có chuyển biến tích cực. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực tại Việt Nam, trong đó có những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được, phải nhập thành phẩm từ nước ngoài bao gồm: điện tử, dược phẩm, thiết bị y tế chính xác... Nhờ có FDI, các hàng hóa này được cung cấp bởi các doanh nghiệp sản xuất ngay tại Việt Nam, làm giảm kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Biểu đồ: Tỉ trọng sản xuất tiêu thụ trong nước trên doanh thu của các doanh nghiệp FDI giai đoạn 1991-2005 Nguồn: Theo số liệu của Bộ Công thương Nhìn vào tỉ trọng sản xuất tiêu thụ trong nước trên doanh thu của các doanh nghiệp FDI có thể thấy rõ hơn tác động này. Từ năm 1991-1998, phần lớn doanh thu của khu vực FDI được thực hiện trong nước, tỉ tọng trung bình mỗi năm khoảng 60% tổng doanh thu (không kể dầu thô). Năm 1995, 80% doanh thu của các doanh nghiệp FDI được thực hiện trong nước. Sau đó con 19
  20. số này bắt đầu giảm dần. Đến nay doanh thu từ tiêu thụ trong nước chỉ còn khoảng 50%. Nguyên nhân là do, tác động thay thế nhập khẩu của FDI đang giảm dần. FDI nhằm tránh biện pháp bảo hộ thuế quan, hướng vào phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước đang có xu hướng giảm dần do tác động của tự do hóa thương mại khiến các hàng rào thuế quan và bảo hộ của Việt Nam dần bị xóa bỏ. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng tác động thay thế nhập khẩu của FDI vào Việt Nam là không nhỏ. Dẫn chứng tiêu biểu cho tác động này có thể thấy ở ngành hóa dược phẩm. Đây là một trong những lĩnh vực tụt hậu nhất của nước ta sau đổi mới. Các loại dược phẩm phục vụ cho nhu cầu trong nước giai đoạn trước chủ yếu được đáp ứng từ nguồn nhập khẩu hay viện trợ nước ngoài. Đến nay, mặc dù phần lớn dược phẩm vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài, song một phần không nhỏ đã được đáp ứng bởi các doanh nghiệp trong nước, và các doanh nghiệp liên doanh FDI. Tính đến 31/12/2008, toàn quốc có 37 dự án đầu tư vào lĩnh vực dược. Trong năm 2008 có 1 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào sản xuất thuốc. Số dự án đã triển khai hoạt động là 25 dự án. 32 dự án với tổng số vốn là 282.6 triêu USD, 192.9 triệu USD là 25 dự án đã hoạt động. 22 nhà máy dược phẩm FDI đầu tư vào 40 dây chuyền sản xuất thuốc (trên tổng số 230 dây chuyền của các nhà máy GMP). Trị giá thuốc sản xuất của các nhà máy dược phẩm FDI chiếm khoảng 22% tổng trị giá thuốc sản xuất của các nhà máy dược phẩm trong cả nước.(Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp) Một ví dụ khác về tác động này là sản phẩm đồ uống của Cocacola. Đầu thập niên 90, chúng ta tiêu thụ Cocacola chủ yếu từ nguồn nhập khẩu. Sau sự kiện Cocacola đầu tư trở lại vào Việt Nam năm 1994 cho đến nay, thay vì phải nhập khẩu loại đồ uống này từ Thái Lan hay Singapore, người tiêu dùng Việt Nam bắt đầu tiêu thụ Cocacola được sản xuất ngay trong nước. FDI còn giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm khác. Giai đoạn 2000-2005, FDI chiếm 100% sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, … Khu vực FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế ở Việt Nam. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp FDI của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 76,7% sản lượng của doanh nghiệp FDI trong ngành cơ khí-điện 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0