intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY

Chia sẻ: Nguyen Thanh Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

145
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở Việt Nam chúng ta, từ ngàn xưa có nhiều nghề, nghề nào cũng cần đến đức độ, đặc biệt rất được coi trọng và người đời hay nói đến hai chữ LƯƠNG TÂM – đó là nghề thầy thuốc và nghề thầy giáo. Một nghề quan tâm tới sức khoẻ, quyết định tới sự sống chết của con người- nghề thầy thuốc; một nghề quyết định đến sự hình thành ,phát triển nhân cách của con người ngay từ bài học đầu tiên khi trẻ bước tới trường học tập đó là nghề dạy học....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY

  1. ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY 1
  2. M ỤC L ỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….2 1.Lý do chọn đề tài………………………………………………………..2 2.Lịch sử nghiên cứu……………………………………………………….5 3.Mục đích nghiên cứu của đề tài………………………………6 4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu……….7 5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………….7 6. Những đóng góp mới của đề tài……………………………7 7. Kết cấu của đề tài…………………………………………..7 NỘI DUNG…………………………………………………………..8 CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM 1.1 Chữ tâm trong quan niệm đạo đức và chữ tâm trong đạ o phật………. 2
  3. M Ở ĐẦ U 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam chúng ta, từ ngàn xưa có nhiều nghề, nghề nào cũng cần đế n đức độ, đặc biệt rất được coi trọng và người đời hay nói đến hai chữ LƯƠNG TÂM – đó là nghề thầy thuốc và nghề thầy giáo. Một nghề quan tâm tới sức khoẻ, quyết định tới sự sống chết của con người- nghề thầy thuốc; một nghề quyết định đến sự hình thành ,phát triển nhân cách của con người ngay từ bài học đầu tiên khi trẻ bước tới trường học tập đó là nghề dạy học. Đối với nghề giáo, lương tâm nghề nghiệp chính là thước đo về phẩm chất đạo đức mà mỗi nhà giáo cần phải rèn luyện thường xuyên, không ngừng nghỉ. Lời dạy của ông cha ta từ xưa qua câu nói mang tính chân lý sâu xa “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nói về đạo làm thầy, đạo làm trò đã đến lúc cần được hiểu theo nghĩa rộng cho cả người dạy và người học: đã dạy người dù một chữ hay nửa chữ cũng đừng quên đạo làm thầy; đã học dù một chữ hay nửa chữ cũng phải luôn coi trọng thầy, biết ơn thầy. Lương tâm nghề dạy học được biểu hiện ở nhiều mặt từ tư tưởng, phẩm chất đạo đức của người thầy, từ tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ luôn “hết lòng vì học sinh thân yêu” đến tác phong, lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp, … cần có của người giáo viên. Một khi ai đó đã lựa chọn nghề giáo viên - một nghề luôn coi trọng đạo lý và nhân cách đừng bao giờ nghĩ tới nghề dạy học để tích của, làm giàu. Các bậc thầy cao quí từ xưa đến nay như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Nguyễn Lương Ngọc, Lê Văn Thiêm, … suốt cuộc đời thanh bạch đã xứng đáng là những tấm gương sáng về phẩm chất nhà giáo giàu lòng đức độ, nhân nghĩa luôn luôn vì con người. 3
  4. Một nhà giáo có lương tâm nghề nghiệp trước hết phải xác định đúng con đường đi của cuộc đời mình. Đó là lòng thuỷ chung, máu thịt với nghề dạy học với phương châm “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” coi nghề dạy học là nghề tay phải, nghề chính để mà “sống chết” với nó, rèn luyện, lập nghiệp và trưởng thành từ công việc “trồng người” cao quí mà mình đã chọn. Điều quan trọng hàng đầu là nhà giáo phải có phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức tốt để luôn trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép người giáo viên “nói một đằng, làm một nẻo” mà phải có sự thống nhất giữa con người ngoài đời với con người trên bục giảng, giữa phẩm chất và năng lực, giữa tài và đức để tạo nên một nhân cách nhà giáo cao đẹp. Mặt khác, người giáo viên phải là người có năng lực chuyên môn giỏi để đả m nhận tốt việc truyền thụ kiến thức chính xác, khoa học và truyền cảm mạnh mẽ tới học sinh. Đây cũng là điều quan trọng thuộc về lương tâm nghề dạy học mà người thầy cần có. Năng lực chuyên môn là kết quả tự thân vận động ở người giáo viên được hình thành qua quá trình học tập ở trường sư phạ m, qua tích luỹ kinh nghiệm trong giảng dạy, qua rèn luyện trong thực tế cuộc sống và học hỏi từ sách vở, từ đồng nghiệp mà có. Người ta thường nói rằng giáo viên phải là người “biết mười dạy một”, phải có trách nhiệm trước lương tâm mình, trước học sinh về chất lượng giờ dạy trên bục giảng. Tất nhiên những giờ dạy hay, dạy giỏi sẽ là niề m vui, niề m tự hào đối với người giáo viên nhưng đã có mấy ai cắn rứt lương tâm về những tiết dạy “qua loa đại khái” những tiết dạy “không có lửa”, tẻ nhạt, không hề gây được ấn tượng đối với học sinh khi trên lớp chỉ có một mình thầy độc diễn? Yếu tố quan trọng nữa của lương tâm nghề dạy học là lòng yêu thương, bao dung, độ lượng, tận tình và ân cần đối với học trò. Đó là một phẩ m chất không 4
  5. thể thiếu ở người giáo viên tâm huyết, chân chính. Lương tâm người giáo viên không cho phép phân biệt đối xử giữa học trò thông minh và học trò chậ m hiểu, giữa học trò sống trong gia đình kinh tế khả giả và học trò trong gia đình còn có hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Thầy giáo phải luôn là người thấu hiểu và sẵn sàng cảm thông, giúp đỡ học sinh trong những trường hợp khó khăn, mắc mớ. Mở rộng ra, người giáo viên phải thực sự công bằng trong giảng dạy và giáo dục, trong đánh giá sao cho đúng thực chất năng lực của học sinh từ các khâu ra bài kiể m tra, chấm bài, cho điể m … Làm được điều này uy tín của người thầy càng được nâng cao. Lòng yêu thương và quan tâm tới học trò sẽ giúp người giáo viên có trách nhiệ m, có động lực luôn phấn đấu vươn lên để hoàn thành tốt vai trò của một “kỹ sư tâm hồn” như người đời thường ca ngợi. Lương tâm nghề dạy học còn là thái độ dứt khoát khi nói không với những tiêu cực trong chốn học đường. Người thầy không vì tình cảm riêng tư, không vì tiền bạc mà nể nang, thiên vị dẫn đến đánh giá sai lệch kết quả học tập của học sinh hoặc tiếp tay cho những việc làm vi phạ m quy chế kiểm tra, thi cử mà báo chí, xã hội đã từng phê phán, lên án. Vì thế, ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta phải học tập tu dưỡng đạo đức như thế nào để sau này khi ra trường luôn mang chữ tâm trong nghề. Muốn làm được điều đó ta phải tìm hiểu tâm là gì, chữ tâm trong đạo phật có khác gì so với chữ tâm theo nghĩa thông thường, ảnh hưởng của chữ tâm trong phật giáo và ý nghĩa của nó trong sự nghiệp trồng người. Vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Chữ tâm trong đạo phật với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm” để làm rõ chữ tâm và vai trò của chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. 2. Lịch sử nghiên cứu. 5
  6. Cũng có rất nhiều bài viết, đề tài đề cập đến vấn đề chữ tâm nhưng mỗi tác giả lại có một hướng đi khác nhau như bài viết “chữ tâm của nghề giáo” của thạc sỹ Nguyễn Thị Yến trưởng khoa dân vận, trường chính trị tỉnh Bến Tre có ưu điể m đã nêu khái niệ m chữ tâm và chữ tâm đối với nghề giáo và nêu chữ tâm của nghề giáo viên được thể hiện trên các phương diện nào. Tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở đó không nêu những mặt hạn chế, những cách khắc phục giải quyết khó khăn vấn đề còn đang tồn tại hiện nay của giáo viên. Còn bài viết “nghề giáo- nghề của chữ tâm” của Trung Hiếu, THPT Thớ i Bình, Cà Mau đã khẳng đinh vị trí vai trò quan trọng của người giáo viên: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,cái tâm của người thầy giáo càng quan trọng hơn bao giờ hết. Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục, người thầy phải có cái tâm, phải có tình thương, trách nhiệ m với học sinh, với nghề nghiệp. Tuy nhiên bài viết chỉ dừng lại ở vấn đề nêu cao vai trò chữ tâm của giáo viên, chưa đề cập đến vấn đề giáo dục chữ tâm cho sinh viên sư phạ m, họ là những thầy cô giáo tương lai, cũng cần có chữ tâm ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Bài viết “lương tâm nghề giáo” cũng đã nêu rõ vai trò của chữ tâm trong nghề giáo, đã khẳng định vị trí quan trọng của chữ tâm trong mỗi giáo viên nhưng bài viết mới chỉ dừng lại ở vấn đề chữ tâm có vai trò quan trọng đối với người giáo viên chưa nêu những điểm hạn chế và cách khắc phục. Và khóa luận tốt nghiệp: phạm trù chữ “tâm”- trong triết học Trung Quốc thời kì Tiên Tần với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” Lê Thị Tươi, 2012, đã nêu về phạ m trù chữ “tâm”,một số phạm trù triết học Trung Quốc thời kì Tiên Tần và qua đó hình thành nhân cách con người Việt Nam thông qua các mối quan hệ xã hội.Cũng chỉ dừng lại nghiên cứu con nguười Việt Nam nói chung ảnh hưởng của chữ tâm thời kì Tiên Tần. 6
  7. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có bài viết nào tập trung khai thác tiếp cận chữ tâm trong phật giáo một cách hệ thống và phân tích vai trò của nó đối với giáo dục đạo đứccho sinh viên sư phạ m.Vậy nên đề tài này có những cái mới nổi bật hơn nêu rõ chữ tâm trong đạo phật và chữ tâm theo quan niệm đạo đức, đi tìm hiểu vai trò của chữ tâm trong giáo dục đạo đức sinh viên sư phạ m, từ đó tìm hiểu điểm mạnh, điể m yếu của việc vận dụng chữ tâm trong giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm ngày nay từ đó tìm ra giải pháp. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Làm rõ chữ tâm trong đạo phật và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạ m, từ đó đưa ra các giải pháp để phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. 4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu chữ tâm trong đạo phật đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng- duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn, đối chiếu so sánh. Ngoài ra, còn sử dụng cá phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa trong quá trình nghiên cứu và trình bày. 5. Phạm vi nghiên cứu. 7
  8. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ảnh hưởng của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. 6. Những đóng góp mới của đề tài 6.1 Về phương diện lý luận Đề tài góp phần hệ thống, cung cấp bổ sung thêm phần lý luận chung về chữ tâm trong phật giáo, và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. Phân tích làm sáng tỏ thêm vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay. 6.2 Về phương diện thực tiễn Đề tài góp phần tạo cơ sở cho việc phát huy tích cực và hạn chế những tiêu cực của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạ m hiện nay. Đề tài có thề sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vấn đề chữ tâm trong phật giáo. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồ m 2 chương, 4 tiết. NỘI DUNG 8
  9. CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM 1.2 Chữ tâm trong quan niệm đạo đức và chữ tâm trong đạo phật 1.2.1 Chữ tâm trong qua niệm đạo đức Chữ Tâm là phiên âm của chữ Hán, là chữ tượng hình của người Trung Quốc( một vầng trăng khuyết ba sao trên trời). “Tâm” là tim là trung tâm của trung tâm, là bộ phận quan trong nhất, quý giá nhất. Vì thế mà người ta ví Hà Nội là trái tim của cả nước. “tâm” là lương tâm, đức độ, tấm lòng, là lòng nhân ái của của con người với đồng loại. “Tâm” đồng thời cũng là sự bao dung, độ lượng, lòng vị tha, từ bi. “Tâm” cũng có thể hiểu là tâm tư, tâm tính, tâm can, tâm khảm. Theo từ điển tiếng việt, “tâm” được định nghĩa là mặt hồng cầu, ý chí của con người Nhưng ở phương Tây với nền văn minh du mục, trọng “động” nên chữ “tâm” không được coi trọng như ở phương Đông. Ở phương Đông với nền văn minh nông nghiệp, gắn liền với cây lúa nước. Nên đời sống của người phương Đông thường ổn đinh, định cư lâu dài trên một địa bàn nhất định chứ không nay đây mai đó như nền văn minh du mục. Từ đó hình thành nên nếp sống, trật tự phép tắc, trong mối quan hệ giữa người với người. Chính vì thế mà chữ “tâm” đặc biệt được coi trọng Người Trung Hoa cổ đại cho rằng “đức” có nguồn gốc từ tâm. Tâm là nơi phát sinh những tình cảm, đạo đức. Phải có tâm tốt thì mới có đức tốt. Vì vậy, cần phải có chân tâm, thành tâm, thiện tâm…. Ngoài ra cần phải có minh tâm để thấu hiểu lẽ thị phi “tâm như minh kính đài”. Đài gương tuy sáng nhưng c ũng cần được gột rửa và tâm cũng thế. Tâm là cái bên trong, ẩn giấu (vì vậy chữ ẩn mới có từ căn là tâm). Mặc dù vậy, người ta thường nói phàm là làm việc gì nếu 9
  10. người khác không biết thì cũng có trời biết, đất biết, quỷ thần biết “tâm động quỷ thần tri”. Tâm chính là tấm lòng. Tâm chịu tác động của cuộc sống bên ngoài sinh ra tính (Bộ tâm đứng ghép với chữ “sinh” sẽ tạo thành tính). Mạnh Tử cho rằng“ nhân chi sơ tính bản thiện”. Người có tính thiện là người biết giũ phần quý, bỏ phần hèn, giữ cái cao đạo bỏ phần ti tiện, có thể trở thành thánh nhân.Tính thiện của con người được biểu hiện ở bốn đức lớn đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Bốn đức lớn đó lại bắt nguồn từ “tứ đoan” là: Lòng trắc ẩn (biết thượng xót), lòng tu ố( biết thẹn ghét), lòng tư nhượng (biết cung kính), lòng thị phi( biết phải trái). Lòng thương xót là đầu mối của nhân, lòng thẹn ghét là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của tri. Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử thì cho rằng “nhân tri sơ tính bản ác”. Tính thiện chỉ là do con người trong quá trình rèn rũa mà có vì vậy cần phải giữ cho tâm chính định, sáng suốt, theo đạo lý đúng đắn mới tránh khỏi nhận thức sai lầm. Còn ở Việt Nam, với truyền thồng văn hóa lâu đời chữ Tâm cũng luôn được đặt lên hàng đầu. Chữ Tâm đã trở thành một phạm trù cơ bản trong đạo lý truyền thống của dân tộc. Chữ Tâm luôn gắn với một con người, không chỉ là tình thương yêu, xuất phát từ bản chất thuần lương vốn có của con người, mà còn là sự căm ghét cái xấu, biết xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc. Trong sự thăng trầm, hưng thịnh và diệt vong của các triều đại phong kiến, Việt Nam ta đã trải qua nhiều giai đoạn dưới sự cai trị của những nhà vua u tối cùng chế độ chính trị quan lại tham nhũng. Nhiều sĩ phu tự biết mình không thể thay đổi được thế sự, nên đã chọn cho mình một con đường khác giúp dân, giúp nước - là treo ấn từ quan trở về đời thường, hoặc sống thanh bạch với nghề dạy học. Hình ảnh những người thầy như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến... mà tài năng, đạo đức của các vị đã 10
  11. trở thành niềm tự hào của nền giáo dục của đất nước có lịch sử ngàn năm văn hiến. Học trò - những môn sinh của ho ở khắp nơi, không chỉ học kiến thức uyên bác, mà còn học ở thầy khí phách của chữ Tâm, sống trọn đạo một con dân đất Việt. Bởi vậy trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, khi bị giặc Nguyên bắt và dụ hàng, Trần Bình Trọng đã khảng khái "Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc". Còn khi giặc Pháp xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn yêu cầu Trương Công Định thu binh nghị hòa, nhưng ông đã thẳng thắn trả lời: "Triều đình hòa nghị, cứ hòa nghị, còn Định đây thì không hòa nghị, Định không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm".... Còn rất nhiều con dân đất Việt tuổi đời còn rất trẻ, đã ngã xuống nơi biên giới, biển đảo xa xôi, để bảo vệ từng tấc đất hương hỏa của cha ông. Chữ Tâm trong đạo lí truyền thống, của người dân Việt vẫn luôn tỏa sáng; không chỉ là tình thương yêu, mà còn là xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc - "Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách". Phong trào (cách mạng) dân chủ đã (xóa bỏ chế độ quân chủ), làm thay đổi cơ bản đời sống chính trị trên phạm vi toàn thế giới. Chính quyền nhà nước được thành lập, thông qua vận động tranh cử của các đảng phái chính trị, và bầu cử dân chủ, nhưng hình thức thì mỗi nền văn minh vẫn còn nhiều khác biệt. Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, chữ Tâm luôn là một tiêu chẩn lựa chọn con người, gánh vác việc nước. Nhưng công chúng (lịch sử) luôn là người đánh giá đúng thực chất của chữ Tâm, dù đó là của cá nhân hay của một tổ chức đảng phái chính trị. 11
  12. Chữ Tâm được dân chúng sử dụng một cách công bằng, bình đẳng, để đánh giá về nhân phẩm (tốt, xấu) của một chủ thể (con người, hay một tổ chức đảng phái), mà không phụ thuộc vào địa vị, giai cấp mà chủ thể đó. Nhân phẩm của chủ thể, được dân chúng xác định thông qua bản chất, động cơ của hành động, trong những sự việc do chính chủ thể đó làm ra. 1.2.2 Tâm trong Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI trước công nguyên ở Ấn Độ cho rằng con người sống trong cuộc đời này là đau khổ. Mục đích của đạo phật là giải thoát sự đau khổ ấy. Tình cảm, cảm xúc của con người chia ra làm bảy trạng thái( ái, ô, kỉ, nộ, ai, lạc, lục). Để giữ tâm hồn được thanh thản thì phải điều hòa, kết hợp bảy trạng thái cảm xúc ấy( yêu, ghét, vui, buồn, tức giận,….phải cân bằng) Khi nói đến đạo phật, vấn đề trung tâm và vật thường đặt ra cho người ta rằng đạo phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu: “Nhất thiết duy tâm tạo”. Vậy ta phải hiểu chữ duy tâm ở đây như thế nào. “Duy tâm” trong đạo phật khác hẳn với duy tâm trong triết học tây phương. Triết học Tây Phương hiểu chữ tâm là tinh thần, đối với vạn vật là vật chất. Chữ tâm trong đạo phật có ý nghĩa hoàn toàn khác. Vậy chữ tâm trong đạo phật là gì? Khái niệm “tâm” của Phật Giáo không đơn giản như các học giả phương Tây lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu như sau:“Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Một cách khái quát, qua các kinh điển Phật Giáo người ta có thể phân biệt sáu loại tâm: Nhục đoàn tâm (肉團心): trái tim thịt (Phật Giáo không để ý nhiều tới nghĩa này). Ví dụ: “Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá 12
  13. huỷ Phật giáo, dường như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình” (Bồ Tát Giáo Kinh). Tinh yếu tâm (精要心): chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ: “Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn” (Long Thọ Bồ Tát). Kiên thực tâm (堅實心): là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm. Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, đó là Phật tính:"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chân tâm"(Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Liễu biệt tâm (了別心): gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức, tức là tri thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ. Có tác dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức chúng: “Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”. Tư lượng tâm (思量心) còn gọi là Mạt-na thức (末那識): thức thứ bảy trong tám thức. Một trong các chức năng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của thức thứ tám (A-lại-da thức), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình, vì vậy mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người (ego-consciousness). Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là tâm trạng của một lĩnh vực mà người ta không thể điều khiển một cách có chủ ý, thường phát sinh những mâu thuẫn của những quyết định tâm thức và không ngừng chấp dính vào bản ngã: “Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị cố thuyết vi ý thức sở y: Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt; nên gọi nó là chỗ y cứ của ý thức” (Du-già sư địa luận) Tập khởi tâm (集起心) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là tạng thức (藏識): chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Là căn nguyên của mọi hoạt động nhận 13
  14. thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật, hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay tiềm thức: “Nhất thiết thế gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo: Tất cả những gì trong thế gian. Đều là do tâm tạo” (Kinh Hoa Nghiêm). Phật Giáo không quan niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một khối cứng nhắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có diệt (khác quan niệm “hồn thiêng bất tử”), có năng lực (nghiệp lực) được chuyển từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là căn bản cho sự tái sinh. Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một cá thể, mà là một dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức cuối cùng của kiếp này trở thành dòng tâm thức đầu tiên của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, căn bản là tạng thức, chứa đựng các loại chủng tử ... Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh nào, có thể nói theo Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là thanh tịnh, không sinh diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tính giác của những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật. Như vậy tâm trong đạo phật chỉ như dòng chảy trong một sác na đã khởi lên một ý niệm ác, tâm ta luôn luôn biến chuyển cho nên gọi là tâm phân duyên. Nghĩa là lúc viết thế này, lúc nghĩ thế kia được gọi là vọng động, cho nên cái tâm luôn quan trọng vỡi mỗi con người. 1.1 Vai trò chữ tâm trong đạo đức nhà giáo ở nước ta hiện nay 14
  15. 1.2.1 Chữ “tâm” giúp những nhà giáo có trách nhiệm với công việc của mình hơn Dạy học là một nghề đặc biệt, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Người thầy góp phần tạo dựng nên tâm hồn, nhân cách và trí tuệ của con người nên được xã hội quý trọng. Vì lẽ đó người thầy càng phải tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt trọng trách “trồng người” mà xã hội giao cho. Đã làm thầy thì yêu cầu đầu tiên là phải có đạo đức. Đạo đức của người thầy thể hiện ở cái tâm trong sáng, tận tâm, tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu học sinh. Người thầy phải lấy chuẩn mực của nhà giáo trong cuộc sống ra làm gương cho học sinh. Người thầy có tâm, truyền đạt kiến thức cho các em thôi chưa đủ, còn phải giáo dục kỹ năng sống, điều chỉnh hành vi đạo đức của học sinh. Giáo viên không chỉ đến lớp dạy hết giờ rồi về, mà người thầy có tâm phải tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các em, sẻ chia khi các em có chuyện buồn vui. Đạo đức của người thầy còn thể hiện ở chỗ dạy thật, học thật, không để học sinh ngồi nhầm lớp, không để học sinh nghỉ, bỏ học. Những em không có khả năng tiếp thu bài tốt, giáo viên cần mạnh dạn cho các em học lại. Nếu giáo viên thương trò cho lên lớp, các em không có được kiến thức vững chắc thì sẽ chới với khi học ở lớp cao hơn, làm như vậy là không có đạo đức lương tâm nghề nghiệp. Trong cơ chế thị trường, nếu người thầy không có cái tâm trong sáng sẽ dễ bị sa ngã. Sự cám dỗ của đồng tiền dễ đưa người thầy đến chỗ tạo áp lực để học sinh học thêm vô tội vạ. Tuy nhiên, dù khó khăn đến đâu nhà giáo vẫn giữ cái tâm trong sạch liêm khiết. Người giáo viên có tinh thần trách nhiệm với học sinh, khi soạn giảng phải biết học sinh còn khiếm khuyết những gì. Và, soạn giáo án là một lẽ, khi lên lớp, 15
  16. tùy đối tượng học sinh mà có sự điều chỉnh phù hợp. Không có phương pháp giảng dạy nào là hoàn chỉnh cả, giáo viên phải biết khơi gợi, hiểu năng lực học sinh để có phương pháp dạy thích hợp. Đạo đức hay cái tâm của người thầy còn thể hiện ở lòng nhân ái. Từ lòng thương yêu học sinh, thầy cô đem cả con tim, khối óc ra để nghiên cứu, tìm tòi phương pháp giảng dạy hay tốt. Và tính sáng tạo cũng là một đòi hỏi ở người thầy. Sáng tạo trong vận dụng tri thức, công nghệ mới vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; tích cực nghiên cứu, tự làm đồ dùng dạy học mới hoặc cải tiến đồ dùng dạy học đã có cho phù hợp với bài dạy; ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, xử lý tốt các tình huống sư phạm…Trong giảng dạy, giáo viên luôn tâm huyết với nghề, luôn giữ gìn vị thế và vai trò của người thầy, không ngừng đổi mới phương pháp dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng tối đa phương tiện và thiết bị sẵn có để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Giáo viên còn nghiên cứu tự làm thêm một số đồ dùng dạy học mới ngoài danh mục thiết bị cấp phát phục vụ cho các tiết dạy của mình và đồng nghiệp. Xây dựng các phần mềm ứng dụng trong công tác kiểm tra đánh giá học sinh, các bài mô phỏng giúp học sinh trực quan hóa các hiện tượng trong bài giảng, giúp các em nắm vững nội dung bài học. Người thầy có trách nhiệm với trò còn thể hiện ở tinh thần tự học nâng cao trình độ về mọi mặt. Thời gian qua, đội ngũ nhà giáo đã tích cực tự học, tự rèn để nâng cao trình độ chuẩn và trên chuẩn. Có những nhà giáo dù sắp về hưu vẫn theo học thạc sĩ, tiến sĩ. Ai trong chúng ta cũng đều cảm nhận được rằng sự hiểu biết của mình không là gì cả so với kho tàng tri thức nhân loại. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ vũ bão. Tri thức ngày càng mở rộng và đào sâu, phương tiện để tiếp cận ngày càng thuận tiện và nhanh chóng. Chỉ cần một ngày không cập nhật là đã lạc hậu bao nhiêu so với học sinh. Để tránh tình trạng phải 16
  17. cố với sức, tránh cảm giác bị thiếu hụt và tạo niềm tin cho học sinh, vậy nên mọi người đều phải tích cực, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có thể nói, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với các cuộc vận động của ngành như: “Hai không”, “ mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã tạo nên luồng sinh khí mới để mỗi người thầy tự học, tự rèn, góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đó chính là cái tâm, là trách nhiệm của người thầy giáo đối với học sinh. Nhìn lại giáo viên đều giữ được lòng yêu nghề, được nhân dân, đồng nghiệp,và học sinh yêu mến kính trọng. 1.2.2 Chữ “tâm” giúp cho mỗi nhà giáo trở nên yêu nghề hơn Cũng như bao nghề khác trong xã hội, nghề giáo luôn cần một chữ “tâm”. Nhưng chữ “tâm” của nghề giáo đặc biệt hơn, bởi lẽ nhiệm vụ của nghề giáo không chỉ đào tạo nên những con người “vừa hồng, vừa chuyên” mà còn làm cho tâm hồn những con người ấy trở nên tinh tú, tuyệt vời hơn, hướng những thế giới tâm hồn riêng ấy đến một thế giới chung đầy tình thân ái, đoàn kết. Chữ “tâm” chính là đòn bẩy để mỗi nhà giáo thực hiện trọng trách này. Bởi khi thực hiện trọng trách cao cả và thiêng liêng ấy họ tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc. Hạnh phúc đối với nghề giáo thật đơn giản, nó đôi khi chỉ là một ánh mắt, nụ cười, lời cảm ơn chân thành từ học sinh, từ phụ huynh, bà con, hàng xóm; hay mỗi khi nghe tin học trò đậu đại học, có được việc làm, gặt hái được những thành công trong cuộc sống nhờ có công lao dạy dỗ của mình. Tất cả những điều đó đã quá đủ hạnh phúc cho một giáo viên và khi ấy họ cảm thấy cái nghề này sao mà 17
  18. cao quý đến vậy như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả những nghề cao quý”. Chỉ cần người giáo viên có được chữ tâm trong mình sẽ vượt qua được mọi thách thức khó khăn trong cuộc sống, tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hơn thế, có chữ tâm trong nghề còn giúp mình có trách nhiệm hơn với nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm với học trò. 1.2.3. Chữ “tâm” giúp cho người thầy nâng cao chất lượng dạy học Người thầy có một vai trò đặc biệt quan trọng, ở người thầy phải hội tụ những phẩm chất cao đẹp, ngoài tri thức uyên thâm tài năng sư phạm, người thầy còn phải có lòng vị tha, biết thương yêu và quý trọng học sinh, sinh viên của mình, có lối sống lành mạnh để làm gương cho học sinh và sinh viên noi theo... chính những điều ấy giúp cho học sinh, sinh viên có hứng thú học tập. Từ đó dẫn đến chất lượng các giờ học cao, kết quả học tập ngày càng tốt đối với học sinh đó cũng chính là nguồn động lực kích thích lòng đam mê nhiệt huyết yêu cái nghề cao quý của mình Người thầy đứng trên bục giảng phải thể hiện một sự công bằng và nghiêm túc đối với học sinh, sinh viên. Mỗi người thầy "công bằng và nghiêm túc" sẽ tạo cho học sinh, sinh viên có niềm tin trong cuộc sống, có ý thức học tập tốt, rèn luyện nghiêm. Chính sự nghiêm túc của thầy còn giúp cho những học sinh, sinh viên lơ là, chểnh mảng trong học tập và rèn luyện biết tự sửa mình, tự lực cánh sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong học tập cũng như trong cuộc sống. Ngược lại, nếu người thầy thiếu nghiêm túc trong giảng dạy và lối sống thì ít nhiều cũng ảnh hưởng không tốt đến học sinh, sinh viên. Người thầy phải đề ra các biện pháp, kỷ luật chặt chẽ đối với những học sinh, sinh viên còn kém tư cách, thiếu ý thức nhưng đồng thời cũng phải có hình thức biểu dương khen 18
  19. thưởng thích đáng đối với học sinh, sinh viên học tập, tu dưỡng tốt. Có như vậy mới khuyến khích được tinh thần học tập rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống của học sinh, sinh viên. Một yêu cầu hết sức quan trọng đối với người làm công tác giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng là trình độ hiểu biết, năng lực chyên môn. Bởi tài năng của người thầy cũng chính là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức chuyên môn và rèn luyện tu dưỡng cho học sinh, sinh viên. Một người thầy "võ cao, quyền giỏi" sẽ tạo cho học sinh, sinh viên một thái độ phục tùng, tôn trọng, có niềm tin, học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp và lối sống. Trong quá trình giảng dạy, người thầy không chỉ đưa đến cho học sinh, sinh viên những kiến thức chuyên môn mà còn truyền thụ cho họ những thế giới quan - phương pháp luận khoa học vốn sống, về đạo làm người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Say mê nghề nghiệp, có ý thức đoàn kết tập thể, tôn trọng đồng đội, giúp đỡ bạn bè, tuân thủ hiến pháp, pháp luật. Biết cống hiến và hy sinh, có tinh thần đấu tranh với những tiêu cực trong học tập và rèn luyện, lối sống. Đó là hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp thuộc về đạo đức của học sinh, sinh viên mà người thầy cần phải truyền đạt cho mỗi học sinh, sinh viên trong quá trình đào tạo tại các nhà trường Qua phân tích vai trò chữ tâm chúng ta nhận thấy, vai trò của người thầy trong việc giáo dục đạo đức, nghề nghiệp cho sinh viên là vô cùng to lớn. Vì vậy xây dựng đội ngũ những người thầy mẫu mực có đạo đức trong sáng và có chuyên môn nghiệp vụ giỏi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các nhà trường nói riêng và ngành giáo dục đào tạo nói chung. 19
  20. CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1 Đặc thù của sinh viên sư phạm 2.1.1 Sinh viên sư phạm là gì Sinh viên sư phạ m là những sinh viên đang học tập rèn luyện trong các trường đại học, cao đẳng sư phạ m được đào tạo theo một chương trình chuyên biệt, sinh viên có nhiệm vụ học tập, tích lũy tri thức, trau dồi đạo đức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, phát triển nhân cách toàn diện để trở thành những người thầy giáo trong tương lai. 2.1.2 Một số đặc thù của sinh viên sư phạm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1