intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính trong chẩn đoán chảy máu não thất

Chia sẻ: Nguyễn Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:114

167
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính trong chẩn đoán chảy máu não thất được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm hình ảnh chảy máu não thất trên cắt lớp vi tính, bước đầu mô tả một số nguyên nhân liên quan đến chảy máu não thất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính trong chẩn đoán chảy máu não thất

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG, 1992), TBMMN   bao gồm chảy máu não (CMN) và nhồi máu não (NMN), chảy máu não thất   là một thể của chảy máu não, CMN chỉ chiếm 10­15% tổng số trường hợp   TBMMN (Rhart, 1994). Tuy chỉ chiếm số ít nhưng có tỷ  lệ  tử  vong và tàn  tật cao nhất trong các thể tai biến, tử vong chung của chảy máu não từ 27%   đến 64,5%. Chỉ  có 38% bệnh nhân CMN sống sót sau năm đầu tiên và   thường để  lại di chứng nặng nề  về  thần kinh như vận động, chức năng,  tinh thần [1]. Tại Mỹ, TBMMN là nguyên  nhân gây tử  vong đứng hàng thứ  ba sau  bệnh ung thư  và bệnh tim mạch. Năm 2001, TBMMN gây tử  vong cho   khoản   163.000   ngưới   Mỹ,   ước   tính   cứ   15   trường   hợp   tử   vong   do   các  nguyên nhân khác thì có một trường hợp tử vong do TBMMN, trong đó 40%   để lại di chứng thần kinh, chỉ 10% là phục hồi [2]. Tại Việt Nam, theo thống kê của Nguyễn Văn Đăng và cộng sự  năm  1995, dựa vào một điều tra của toàn dân ở miền Bắc, thì tỷ lệ bị TBMMN   là 115,92/100.000 dân. Tỷ  lệ  mắc mới hàng năm 28,25/100.000 dân. Tỷ  lệ  tử  vong là 161/100.000 dân. Chảy máu não chiếm 50% các bệnh nhân nội   trú của TBMM [3].   Tỷ lệ chảy máu não thất so với CMN có sự khác nhau giữa các tác giả  trong và ngoài nước. Theo Findlay [4] là 30%, theo Trần Viết Lực, Lê Văn  Thính (2000) [5] là 17%. Chảy máu não thất là hiện tượng có máu trong hệ  thống não thất, bao gồm hai loại: chảy máu não thất nguyên phát và chảy 
  2. 2 máu não thất thứ phát. Chảy máu não thất nguyên phát hiếm gặp chiếm tỷ  lệ khoảng 3% CMN (Darby và cộng sự 1996), nguyên nhân thường do chảy  máu từ  lưới mạch của não thất. Chảy máu não thất thứ  phát hay gặp hơn   do tổn thương chảy máu  ở  khu vực khác tràn vào trong não thất, thường  gặp trong CMN vùng nhân xám trung ương, chảy máu não lớn ở thùy não  cũng có thể phát triển và tràn vào hệ thống não thất. Nguyên nhân chảy máu não thất thứ phát cũng như nguyên nhân chảy  máu não nói chung: Tăng huyết áp, phình động mạch não, thông động tĩnh  mạch não, dị dạng mạch não, u não...  Chảy máu não là nói chung hay chảy máu não thất nói riêng, là một tai   biến thần kinh đe dọa tính mạng bệnh nhân, vì vậy cần được chẩn đoán  nhanh chóng tức thì, áp dụng các phương pháp điều trị  thích hợp kịp thời.   Ngày nay, cùng với sự tiến bộ của y học, các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh  ngày càng phát triển như: chụp cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò (MSCT), chụp  mạch số  hoá xoá nền (DSA), chụp cộng hưởng từ  (CHT)  thì việc chẩn  đoán và tìm nguyên nhân chảy máu não thất trở nên dễ dàng hơn. Trong đó  chụp CHT và cắt lớp vi tính (CLVT) là những phương pháp hàng đầu trong  đánh giá chảy máu não thất chính xác nhất. Tuy nhiên, chụp CHT không   phải cơ  sở  y tế  nào cũng sẵn có và những chống chỉ  định đối với bệnh  nhân khi tiến hành chụp CHT,   chính vì vậy chụp CLVT vẫn là chỉ  định  hàng đầu, do sự  trang bị  khá rộng rãi  ở  các cơ  sở  y tế  và chi phí hợp lý.  Chiếc máy chụp CLVT đầu tiên ra đời năm 1971, từ  đó đến nay có nhiều   thế hệ khác ra đời, từ một dãy đầu dò đến đa dãy đầu dò cùng với các phần   mềm hiện đại ra đời, cho phép cắt lớp mỏng và tái tạo trên nhiều mặt  phẳng, chụp mạch não có tiêm thuốc cản quang mạch máu qua đường tĩnh  
  3. 3 mạch góp phần  chẩn đoán sớm mức độ  tổn thương, bước đầu tìm được  nguyên nhân chảy máu, từ đó có phương pháp điều trị kịp thời, theo dõi và  tiên lượng bệnh. Ở Việt nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về tai biến mạch máu não  nói chung và chảy máu não nói riêng. Theo Lê Đức Hinh (1993 – 1994) trong   nghiên cứu tình hình tử vong do tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Bạch  Mai đã thông báo tình hình tử vong do chảy máu não là 67,3%. Trần Viết Lực   (2000) “ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình  ảnh chụp CLVT và phương  hướng điều trị  chảy máu não thất không chấn thương”. Đào Thị  Hồng Hải  (2010) “ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh CLVT chảy máu não thất   và một số yếu tố tiên lượng chảy máu não thất thứ phát ở bệnh nhân trên 50   tuổi”. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào sâu về  đặc điểm hình  ảnh CLVT  chảy  máu não thất.  Xuất phát từ thực tế nói trên chúng tôi nghiên cứu đề  tài:  “Nghiên cứu  đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính trong chẩn đoán chảy máu não thất” Nhằm các mục tiêu sau: 1. Mô tả  đặc điểm hình ảnh chảy máu não thất trên cắt lớp vi tính . 2.  Bước đầu mô tả   một số  nguyên nhân liên quan đến chảy máu não   thất.
  4. 4
  5. 5 Chương 1  TỔNG QUAN 1.1. Tình hình tai biến mạch não ­ Chảy máu não thất 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu [6] Từ  nhiều thập kỷ qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về  các khía  cạnh khác nhau của TBMN, làm phong phú thêm kinh nghiệm lâm sàng,  chẩn đoán, theo dõi và điều trị. * Năm 1676 Willis đã phát hiện ra đa giác Willis mở  đầu cho những  nghiên cứu về TBMN. Năm 1718 Dionis mô tả  lần đầu tiên bệnh cảnh lâm sàng của chảy  máu dưới nhện. * Năm 1740 Haller, sau đó là Riser  (1936), Lazorthes (1961), Guiraud  (1974) đã nghiên cứu về giải phẫu, sinh lý của tuần hoàn não. * Năm 1868, Charcot và Bouchart lần đầu tiên giải thích cơ  chế  của   CMN là do vỡ các vi phình mạch. * Năm 1891  Serve  phân chia chảy máu dưới nhện theo vùng ngập  máu. * Năm 1960  Fisher  đã mô tả  NMN gây thiếu máu  ở  vùng giáp ranh   giữa các khu vực của các đông mạch não. * Năm 1971 Hounsfield và Ambrose phát minh ra máy chụp CLVT tạo  một bước đột phá trong chẩn đoán y học, mang lại những kết quả  to lớn  
  6. 6 trong chẩn đoán và điều trị  TBMN nói chung và chảy máu não thất nói  riêng. Sau khi máy chụp CLVT sọ  não ra đời nhiều công trình nghiên cứu  chảy máu não thất đã được thực hiện. Năm 1985 P Kerr nghiên cứu chảy  máu não thất chiếm 17,14% số  bệnh nhân chảy máu trong sọ. Năm 1989  Minoru Hayashi nghiên cứu các biện pháp xử trí chảy máu não thất và đưa  ra bảng phân loại chảy máu não thất dựa vào kết quả chụp CLVT sọ não. * Ở Việt Nam nghiên cứu về TBMN nói chung và CMN nói riêng chỉ  mới thực sự  tiên hành từ  năm 1960. Tháng 2 năm 1991, chiếc máy chụp  CLVT đầu tiên của nước ta bắt đầu hoạt động tại Bệnh viện Hữu Nghị,  giúp cho việc chẩn đoán và điều trị ngày càng hiệu quả.    1.1.2. Dịch tễ học ­ Trên thế giới   Theo tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) năm 1979 cứ 100.000 dân mỗi   năm có 127­746 bệnh nhân TBMN. Tỷ  lệ  hiện mắc bệnh có sự  khác biệt  giữa các nước và khu vực trên thế giới: Tại Pháp tỷ lệ hiện mắc bệnh TBMN là 600/100.000 dân và hàng năm  có 140.000 trường hợp mới mắc [3]. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ TBMN th ường g ặp   là  794/100.000  dân, 5% dân số  trên 65 tuổi bị  TBMN, tỷ  lệ  mới mắc là  135/100.000 dân [7]. Ở  Châu Á tỷ  lê hiện mắc trung bình hằng năm có sự  khác biệt, cao   nhất là Nhật Bản 340­532/100.000 dân, Trung Quốc 219/100.000 dân, riêng  thủ đô Bắc Kinh là 370/100.000 dân [8]. Tỷ lệ TBMN ở các nước đang phát triển tăng hàng năm trong các th ập  kỷ qua. Tại Thái Lan năm 1930 tỷ lệ mới mắc là 137/100.000 dân, đến năm 
  7. 7 1984 tỷ lệ này là 187/100.000 dân. ở Ấn Độ tỷ lệ mắc khoảng 424/100.000  dân đên  842/100.000  dân và tỷ  lệ  tử  vong khoảng 17,2% số  người mắc  TBMN [8].
  8. 8 Tỷ lệ tử vong do TBMN thay đổi ở các nước khác nhau. Tỷ lệ tử vong  cao nhất  ở Đông Âu và Bồ Đào Nha. ở Hoa Kỳ từ 1972 đến 1990 tử vong   do TBMN giảm 5,5% mỗi năm và so với năm 1972 tỷ lệ  tử vong đã giảm   tới 60%. Nhật Bản có tốc độ giảm tỷ lệ tử vong nhanh nhất (7% mỗi năm)   [10]. Sự  giảm tỷ  lệ  tử  vong do TBMN những năm gần đây nhờ  sự  ra đời  của chụp CLVT, giúp cho sự phân biệt nhanh chóng giữa chảy máu não và  nhồi máu não để có biện pháp điều trị kịp thời. Đồng thời chụp CLVT giúp  phát hiện nhiều trường hợp nhồi máu não nhỏ  mà trước đây không phát   hiện được, điều này giải thích tỷ lệ mắc TBMN có triệu chứng tăng lên. TBMN tăng lên theo tuổi, theo TCYTTG thì TBMN có thể gặp  ở mọi  lứa tuổi nhưng phổ biến nhất là 60­80 tuổi, ở Hoa Kỳ phần lớn là sau tuổi  55. Theo nghiên cứu đã được công bố, CMN gặp nhiều ở tuổi 50­60 và tỷ  lệ thường thấp hơn NMN. ở các nước phát triển tỷ lệ CMN chiếm 10­15%  TBMN, NMN chiếm 85­90%. Ở Châu Á tỷ lệ CMN cao hơn nhưng không  bao giờ chiếm ưu thế so với NMN [11]. Tỷ lệ hiện mắc đa dạng phụ thuộc vào tuổi, sắc tộc và địa lý. Nghiên   cứu cơ bản trong cộng đồng gần đây nhất sử dụng chụp cắt lớp vi tính xác  định tỷ  lệ  chảy máu trong não chiếm từ  13 đến 15  /100.000 dân, nam trội  hơn nữ. ­ Ở Việt Nam Vấn đề  dịch tễ  học TBMN  ở  Việt Nam chỉ  mới được quan tâm từ  những năm 90 của thế kỷ XX. Tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung tỷ lệ 
  9. 9 hiện mắc khoảng  115/100.000  dân, tỷ  lệ  tử  vong khoảng  21/100.000  dân  [11]. Theo Lê Văn Thành và cộng sự  CMN chiếm 40,42%, NMN chiếm  59,58%, tỷ lệ tử vong chung của TBMN là 30%.
  10. 10 Tại Việt Nam TBMN cũng tăng lên theo tuổi nhất là sau tuổi 50 và   nam cao hơn nữ, thành thị nhiều hơn nông thôn, trong đó tỷ  lệ  CMN dưới   50 tuổi là 28,7%, trên 50 tuổi là 71,2%, đặc biệt tỷ  lệ  CMN cao nhất  ở  nhóm tuổi 51­ 60 tuổi. Tỷ lệ mắc và tử  vong cao ở  các nước đang phát triển được cải thiện  liên quan đến việc quản lý các yếu tố nguy cơ. Nhiều tác giả cho rằng nếu   khống chế  tăng huyết áp thì tỷ  lệ  tử  vong do TBMN nói chung và CMNT   nói riêng ở các nước đang phát triển sẽ giảm. 1.2. Chảy máu não thất ­ Tai biến mạch não  1.2.1. Khái niệm [8] Tai biến mạch não (TCYTTG 1990) là một hội chứng thiếu sót chức  năng não khu trú hơn là lan toả, xảy ra đột ngột, tồn tại quá 24 giờ hoặc tử  vong trong vòng 24 giờ, loại trừ nguyên nhân sang chấn não. TBMN gồm có hai thể chính: chảy máu não và nhồi máu não. Chảy máu não là hiện tượng máu chảy ra khỏi thành mạch đọng lại   trong mô não. Chảy máu não thất gồm: * Chảy máu não thất tiên phát: Là chảy máu trực tiếp vào trong buồng  não thất từ một nguồn hoặc một tổn thương tiếp xúc với thành não thất. * Chảy máu não thất thứ  phát: Là những chảy máu có nguồn gốc từ  chảy máu trong não, lách qua nhu mô não vào trong não thất. * Chảy   máu   não   thất   trào   ngược  (Reflux  intraventricular   hemorrhage): Từ  chảy máu dưới nhện, máu đi ngược lại vòng tuần hoàn 
  11. 11 bình thường của dịch não ­ tủy, qua não thất IV để vào các buồng não thất. Findlay và cs [4] cho rằng máu chảy ngược từ khoang dưới nhện qua   não thất IV vào trong các buồng não thất có thể  coi là chảy máu não thất  thứ phát (chảy máu não thất trào ngược). Tuy nhiên máu trong khoang dưới   nhện cũng có thể  do máu trong não thất đi vào các bể  não theo vòng tuần  hoàn bình thường của dịch não ­ tủy, và vì thế máu trong bể não không nhất  thiết chỉ ra một tổn thương mạch máu nằm ngoài não thất. 1.2.2. Sơ lược giải phẫu và sinh lý tuần hoàn não. 1.2.2.1. Hệ thống động mạch não [13][7] Não được cung cấp máu bởi hai hệ thống động mạch: ­ Hệ thống động mạch cảnh trong phía trước. ­ Hệ  thống động mạch đốt sống thân ­ nền ở phía sau. Hai hệ thống này nối với nhau tạo nên đa giác Willis. ­ Hệ thống động mạch cảnh trong có Động  mạch  cảnh  trong   đi  vào   hộp  sọ,  lướt   qua  xương   đá  để   vào  xoang hang, đi tiếp vào khoang dưới nhện và cho một nhánh đi vào hốc   mắt, có tên là động mạch mắt và tiếp đó chia thành bốn ngành tận: động   mạch não trước, động mạch não giữa (động mạch Sylvius), động mạch  mạch mạc trước và động mạch thông sau. *  Động mạch não trước (hình 1.1) ­ Ngành sâu (động mạch đậu ­ vân giữa): cấp máu cho đầu nhân đuôi   và cánh tay trước bao trong. ­ Ngành nông: cấp máu cho bốn phần năm mặt trong bán cầu, cực 
  12. 12 trán và phần trước của thể chai. *  Động mạch não giữa: ­ Ngành sâu (động mạch đậu ­ vân bên): cấp máu cho nhân đậu, nửa  ngoài thể  nhạt, cánh tay sau bao trong và nhân đuôi. Động mạch Charcot  (còn gọi động mạch chảy máu) thuộc động mạch não giữa, hay bị  vỡ  do   tăng huyết áp gây chảy máu não lớn cổ điển. ­ Ngành nông: cấp máu cho mặt ngoài bán cầu, mặt dưới thùy trán. *  Động mạch thông sau: là thành phần cấu tạo nên đa giác Willis. *   Động mạch mạch mạc trước:  cấp máu cho phần trong bèo nhạt,  phần dưới của hai phần ba sau cánh tay sau bao trong. Đặc điểm quan trọng: Khu vực nông ở ngoại vi và khu vực sâu không  lệ thuộc nhau. Các ngành nông nối với nhau tạo màng lưới phủ  khắp vỏ  não, do sự chia nhánh nhiều, chịu áp lực thấp nên thường gây nhũn não. Các   ngành   sâu   (ngành   trung   ương)   có   các   nhánh   tận   không   nối   thông   nhau,  thường phải chịu áp lực cao nên khi vỡ hay gây chảy máu não ở vị trí sâu. ­ Hệ thống động mạch đốt sống ­ thân nền Có hai động mạch đốt sống, đi vào lỗ mỏm ngang của đốt sống cổ, đi  quanh đốt đội đi tiếp vào lỗ  chẩm, tại đây cung cấp máu cho nhánh động  mạch tiểu não sau dưới, các nhánh cho mặt bên hành t ủy. Hai động mạch  đốt sống gặp nhau tại rãnh hành ­ cầu làm thành động mạch thân nền. *  Động mạch thân nền: Có hai nhánh tận là hai động mạch não sau. *  Động mạch não sau: Từ đoạn cuối của động mạch thân nền, chia thành hai động mạch não  sau, vừa rời khỏi chỗ  bắt gặp động mạch thông sau, nối với động mạch  não giữa. Động mạch não sau chia thành các nhánh:
  13. 13 Những nhánh bàng hệ  tưới máu cho não và đồi thị, động mạch mạch   mạc sau những nhánh tận tưới máu mặt dưới và trong thùy thái dương,  phần sau của thùy chai, thể gối ngoài và mặt trong thùy chẩm (rãnh cựa). Những con đường bổ sung bằng ba cách Sự  bố  trí tự  nhiên của hệ  thống mạch máu nhằm đảm bảo cho sự  tuần hoàn được thích hợp, nhờ những con đường bổ sung bằng ba cách: *  Vòng Willis (hình 1.1) ­ Động mạch thông trước nối thông hai động mạch não trước. ­ Động mạch thông sau nối hai hệ  động mạch cảnh trong và động  mạch đốt ­ thân nền. Hình 1.1. Hệ thống mạch máu não nhìn từ mặt dưới của não
  14. 14 (Theo Frank H. Netter, Atlas giải phẫu người, Nguyễn Quang Quyền dịch, 1997 *  Nối động mạch cảnh ngoài với động mạch cảnh trong qua hệ động   mạch mắt và động mạch hàm trong *  Những đường nối trên vỏ não bán cầu Trên các vùng khác nhau của vỏ  não được nối thông bằng tận tận,   hoặc bằng chia các nhánh các động mạch khác nhau đan lại.  Nhờ  các con  đường nối thông này, khi một động mạch não nào đó bị  tắc nghẽn, hệ  thống khác có thể dẫn máu tới bổ sung. 1.2.2.2. Hệ thống não thất [14] Hệ thống não thất gồm bốn phần: Hai não thất bên, não thất III và não  thất IV.  ­ Não thất bên: Nằm ở trung tâm của bán cầu tương ứng, thông với não thất III qua lỗ  Monro, chia bốn phần: sừng trán, sừng chẩm, thái dương và thân não thất  bên. • Sừng trán: Trong là vách trong suốt, phía ngoài là đầu nhân đuôi. + Thành trên hay vòm ứng với mặt dưới lõm của thân thể chai. + Thành dưới liên quan đầu nhân đuôi, gối thể chai. + Thành trong là vách trong suốt có hình dấu phảy. + Bờ  ngoài  ở  chỗ  nối của mặt dưới thể trai và phần lồi của đầu nhân  đuôi. • Thân não thất bên: dẹt từ trên xuống dưới + Thành trên lõm quay xuống dưới từ trước ra sau, tạo thành bởi mặt  dưới của thân thể chai.
  15. 15 + Thành dưới liên quan thân nhân đuôi, mặt trên đồi thị, mặt trên thể tam  giác + Thành  trong là một bờ  dọc theo đườ ng nối của thể  chai và thể  tam giác. Ở phía trướ c, chỗ  nối v ới thà nh dướ i có lỗ  Monro.  ở đây đám  rối mạch mạc giữa nối ti ếp v ới đám rối mạch mạc bên, tĩnh mạch thể  vân nối vào tĩnh mạch của vách trong suốt và tĩnh mạch mạch mạc bên  để tạo thành tĩnh mạch Galen. + Bờ  ngoài tương  ứng chỗ  nối của thể  chai và phần ngoài của nhân  đuôi. • Sừng chẩm: hình cong lõm quay vào trong. + Thành  trên ngoài hay vòm: lõm quay vào bên trong, tương  ứng với   các bó chất trắng như: bó lớn thể  chai, bó trên của sợi thị  giác, bó dọc   dưới. + Thành dưới trong: liên quan với phần trong của bó lớn thể  chai và  cựa Morand. + Đầu sau được bao bọc bởi hai  nhánh  ngoài và trong của bó lớn thể  chai. ­ Sừng thái dương: + Thành trên ngoài lõm quay xuống dưới và vào trong, liên quan với  đuôi nhân đuôi, mặt dưới nhân đậu và vùng dưới đậu. + Thành dưới trong : lồi ra ngoài và liên quan với hồi hải mã. + Bờ ngoài có bó liên hợp dọc dưới (bó chẩm ­ trán). + Bờ trong là màng ống nội tủy. ­ Não thất III
  16. 16 Là não thất giữa, ở trung tâm não, giữa hai đồi thị, ở dưới các mép liên  bán cầu và màng mạch mạc trên,  ở  trên vùng dưới đồi thị. Thông với não  thất bên qua lỗ Monro và não thất IV qua cống Sylvius. ­ Não thất IV Là sự giãn to của ống nội tủy, giữa hành tủy và cầu não ở phía trước,   tiểu não ở phía sau. Não thất IV thông ở phía trên với não thất III qua cống  Sylvius và ở dưới với ống nội tủy của tủy sống. Nó cũng thông với khoang  dưới nhện qua lỗ  Magendie và Luschka. Sàn não thất IV là nơi tập trung  các nhân dây thần kinh sọ,  ở  cạnh đường giữa là nhân vận động, ngoài  cùng là nhân cảm giác, còn bốn cột nhân ở giữa là thuộc về thần kinh thực  vật, đặc biệt là cột nhân dây X. Hai góc bên của não thất IV có đám rối   mạch mạc tham gia việc điều tiết dịch não­ tủy. Hình 1.2: Hệ thống não thất nhìn từ mặt trong của não. 1.2.2.2 Điều hoà cung lượng máu não [7] Bayliss (1902) đã mô tả cơ chế tự điều hoà cung lượng máu não (hiệu  ứng Bayliss): cơ  chế  này sinh ra từ  cơ  trơn thành mạch, t ùy  thuộc vào 
  17. 17 huyết áp trong lòng mạch. Người bình thường cung lượng máu não luôn cố  định là 55ml/100g/1phút. Cung lượng này không biến đổi theo cung lượng   tim. Khi huyết áp tăng cao, máu lên não nhiều thì các cơ trơn thành mạch co   lại và ngược lại khi huyết áp hạ  các mạch lại giãn ra để  máu lên đủ  hơn.  Cơ chế này mất tác dụng sẽ xảy ra tai biến. Huyết áp động mạch trung bình được coi là huyết áp để đẩy máu lên  não được tính theo công thức HATT + HATTr HATB = + HATTr 3 Bình  thường   huyết   áp   trung   bình   giao   động   trong   khoảng   60­150   mmHg.  Khi  huyết  áp trung bình thấp dưới  60mmHg hoặc cao hơn 150   mmHg sẽ mất hiệu ứng Bayliss, cung lượng máu não sẽ thay đổi theo cung   lượng tim. Cung lượng máu não còn chịu ảnh hưởng của đậm độ CO2, H+,  O2 trong máu và sự điều hoà thần kinh giao cảm mạch máu. 1.2.2.4. Sinh lý tuần hoàn dịch não tủy [7] ­ Lưu thông dịch não – tủy: Dịch não – tủy được tiết ra trung b ình 0,2  đến 0,35 ml/phút, phần lớn là do các đám rối màng mạch của não thất, chủ  yếu là từ  não thất bên và não thất IV.  Ở người khoẻ mạnh, dung tích của  não thất bên và não thất III là 20 ml. Tổng lượng dịch não ­ tủy của người  lớn là 120 ml. Từ  các đám rối màng mạch, dịch não tủy vào não thất bên,   qua lỗ Monro, não thất III, cống  Sylvius, não thất IV, qua lỗ  Luschka và lỗ  Magendie để  vào khoang dưới nhện quanh não, tới các hạt màng nhện,  xoang cứng và cuối cùng vào dẫn lưu t ĩnh  mạch. Tại đây dịch não ­ tủy  được hấp thu trở lại. Như vậy có hai khoang dịch não – t ủy: một  ở sâu là  các não thất nơi tiết ra dịch, và một ở nông dưới nhện là nơi tiêu đi [14].
  18. 18 Hình 1.3: Sơ đồ lưu thông dịch não tủy. (Theo Frank H. Netter, Atlas giải phẫu người, Nguyễn Quang Quyền dịch, 1997)
  19. 19 1.2.3. Cơ chế bệnh sinh gây chảy máu não­chảy máu não thất. Cho đến nay, có hai thuy ết chính giải thích cơ  chế  sinh bệnh  của  CMN: [12] [6].
  20. 20 • Thuyết vỡ  phình mạch vi thể: do Charcot J.M và Bouchard.C đưa  ra. Năm 1868 Charcot và Bouchard mô tả những vi phình mạch dạng hạt  kê (mililary aneurysm) trên tiêu bản não những bệnh nhân chảy máu não do  tăng huyết áp. Tăng huyết áp kéo dài làm tổn thương lớp nội mạc mạch  máu, chủ  yếu các động mạch nhỏ  có đường kính dưới 250 nm. Tại các  mạch máu này có sự  thoái biến kính và Fibrin tạo các vi phình mạch. Khi  huyết áp tăng đột ngột, các vi phình mạch này dễ  bị  vỡ  gây ra chảy máu  não. Bên cạnh những phình mạch được  tạo thành do tổn thương  thành  mạch trong tăng huyết áp, khoảng 7% đến 20% những vi phình mạch có  thể gặp ở người không tăng huyết áp. Khi chúng vỡ ra cũng gây chảy máu   não. • Thuyết xuyên mạch (Rouchoux, 1884). Thuyết này giải thích cơ chế chảy máu não ở những vùng trước đó đã  bị  nhồi máu não. Khi tuần hoàn vùng thiếu máu được tái lập, hồng cầu   thoát ra khỏi thành mạch của những mạch máu đã bị  tổn thương do thiếu   máu vào nhu mô não, biến một  ổ  nhồi máu nhạt thành nhồi máu đỏ  (nhồi  máu chảy máu). Thuyết này đã được khẳng định bằng thực nghiệm. Tuy có những điểm khác nhau nhưng cả hai thuyết đều thống nhất vai   trò của thành mạch. Cả hai thuyết vẫn tồn tại, bổ sung cho nhau trong giải   thích cơ chế chảy máu não. Nhận xét về  hai thuyết này, Boudouresques (1970) cho r ằng thuy ết   Rouchoux đã xóa nhòa ranh giới giữa chảy máu và nhồi máu vì đó chỉ  là  hai giai đoạn của một hiện tượng. Thuyết này còn là cơ  sở  cho chỉ  định  phẫu thuật nối mạch và điều trị  chống đông trong nhồi máu não. Tuy có 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2