intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh - So sánh với pháp luật nước ngoài

Chia sẻ: Phong Hoàng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

136
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: "Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh - So sánh với pháp luật nước ngoài" nhằm để tìm hiểu hơn nữa các qui định của luật doanh nghiệp về công ty hợp danh và các thành viên hợp danh trong chế độ chịu trách nhiệm tài sản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh - So sánh với pháp luật nước ngoài

  1. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh Lời nói đầu Công ty hợp danh là một loại hình công ty phát triển cũng khá sớm trên thế  giới. Ở Việt Nam, công ty hợp danh được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong  luạt doanh nghiệp Việt Nam năm 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối  nhân chính thức, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để  các  nhà kinh doanh lựa chọn. Nhưng những qui định về  công ty hợp danh tại luật doanh  nghiệp 1999 còn sơ  sài và mang tính chung chung. Đến luật doanh nghiệp 2005 thì  công ty hợp danh đã được qui định cụ  thể  và rõ ràng, tạo điều kiện cho loại hfinh   kinh doanh này phát triển cũng như tạo thuận tiện cho các nhà đầu tư, nhà kinh doanh  trong việc áp dụng pháp luật khi lựa chọn hình thức công ty hợp danh để hoạt động  kinh doanh.  Vấn đề về chế độ chịu trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và các thành  viên của công ty hợp danh được Luật doanh nghiệp qui định khá rõ song chưa đầy đủ  và việc áp dụng vào thực tế  gây nhiều khó khăn cho thành viên hợp danh. Chính vì  điều này mà hình thức công ty hợp danh ở nước ta không được phổ biến nhiều mặc   dù nó ra đời sớm so với các hình thức công ty khác. Vì vậy, để  tìm hiểu hơn nữa các qui định của luật doanh nghiệp về  công ty   hợp danh và các thành viên hợp danh trong chế  độ  chịu trách nhiệm tài sản, em xin  mạnh dạn chọn đề tài về: “Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công  ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh. So sánh với pháp luật nước ngoài”. Trong quá trình tìm hiểu, thu thập tài liệu chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhầm lẫn  và thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, em rất mong thày cô thông cảm và bổ sung cho   em để hoàn thành tốt bài làm của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh Viên 1
  2. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh      Nguyễn thị Luật  Lịch sử hình thành công ty hợp danh trên thế giới Như  bất kì một hiện tượng kinh tế xã hội nào khác của công ty nói chung và  công ty hợp danh nói riêng ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội   nhất định. Khi xét xử  lịch sử  hình thành công ty hợp danh không chỉ  xét xử  sự  xuất  hiện của nó với ý nghĩa là sự ghi nhận của pháp luật từng quốc gia, mà phải xem xét   nó với ý nghĩa là sự ghi nhận của pháp luật từng quốc gia, mà phải xem xét nó trong  tổng hòa với các mối quan hệ  xã hội và trong mối liên hệ  với các loại hình công ty   khác trong lịch sử.  Sự ra đời của công ty nói chung và công ty hợp danh nói riêng là một tất yếu,  thể  hiện quy luật khách quan của nền kinh tế  hài hòa. Nó không chỉ  đáp  ứng được   nhu cầu của các nhà đầu tư mà còn là mô hình phù hợp với sự mềm dẻo, năng động   của các hoạt đông kinh tế  và tính khốc liệt của các hoạt động cạnh tranh. Công ty  hợp danh đã “ hạn chế” được nguy cơ rủi ro cao của chế độ trách nhiệm vô hạn mà  1 người phải tự ghánh chịu bằng cách phân tán, chia sẻ rủi ro cho nhiều người. Tóm lại, sự  hình thành và phát triển công ty hợp danh có những đặc trưng   riêng. Có thể khẳng định rằng công ty hợp danh là sản phẩm do các thương gia tạo  lập, thực tiễn khách quan đã minh chứng rằng, sự ra đời của loại hình công ty này là  phù hợp, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhà nước đã qui định sự  tồn tại của công ty hợp danh bằng các qui chế pháp lý điều chỉnh riêng và ngày một  hoàn thiện. Công ty hợp danh là một dạng của công ty đối nhân là một loại hình doanh   nghiệp phổ biến ra đời sớm so với các loại hình công ty khác ở các nước có loại hình  2
  3. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh kinh tế thị trường phát triển, nhưng đối với Việt Nam vấn đề  này có thể  đã tồn tại  trong thực tế nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với khoa học pháp lý.  B. Nội dung I. Khái niệm và đặc điểm về công ty hợp danh Trên thế  giới công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc  trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên ( đều là cá nhân và là  thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại ( theo nghĩa rộng) dưới một  hãng chung ( hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về  mọi khoản  nợ  của công ty. Thì theo pháp luật Việt Nam đã định nghĩa công ty hợp danh dưới   dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó, theo đó đã gộp chung hai loại hình công ty  hợp danh như  trên thế  giới phân loại là: công ty hợp danh thông thường và công ty   hợp danh hữu hạn, thành một tên gọi duy nhất là “   công ty hợp danh”. Việc luật  doanh nghiệp 2005 định nghĩa công ty hợp danh là doanh nghiệp “ phải có ít nhất hai   thành viên là chủ  sở  hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên   chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể có   thành viên góp vốn” (điều 130 luật doanh nghiệp 2005). Tức là gộp chung hai hình   thức công ty hợp danh dưới một tên chung và một quy chế pháp luật chung. Có thể thấy khái niệm công ti hợp danh theo luật doanh nghiệp của Việt Nam   có nội hàm của khái niệm công ti đối nhân theo pháp luật các nước. Với qui định về  công ti hợp danh, luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ti đối nhân ở  Việt Nam. Đặc điểm pháp lý cơ bản của công ty hợp danh: ­ Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ti cùng nhau kinh  doanh dưới một tên chung ( gọi là thành viên  hợp danh), ngoài các thành viên hợp   danh, có thể có thành viêm góp vốn. 3
  4. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh ­ Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình  về các nghĩa vụ của công ti. ­ Thành viên góp vốn chỉ  chịu trách nhiệm về  các khỏan nợ  của công ti trong  phạm vi số vốn đã góp vào công ti. ­ Công ti hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận   đăng kí kinh doanh. ­ Trong quá trình hoạt độnh công ti hợp danh không được phát hành bất kì loại   chứng khoán nào. II.Trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh Là một loại hình công ty đối nhân, do vậy công ty hợp danh có đầy đủ đặc tính   của loại hình công ty này. Ngoài một đặc điểm quan trọng là sự liên kết dựa trên cơ  sở độ tin cậy về nhân thân của các cá nhân tham gia và sự góp vốn chỉ là thứ yếu thì   chính đặc điểm không có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân của  các thành viên đã xác lập trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh là vô hạn   đối với các khoản nợ của công ty. Luật doanh nghiệp 2005 đã công nhận công ty hợp danh là loại hình doanh  nghiệp có tư  cách pháp nhân. Đây là một điểm mới so với luật doanh nghiệp 1999,  giúp cho công ty hợp danh có địa vị và tư cách pháp lý nhất định khi tham gia vào môi   trường kinh doanh và bình đẳng với các loại hình doang nghiệp khác. Luật doanh  nghiệp năm 2005 tại khoản 1 điều 132 có qui định về việc chuyển quyền sở hữu tài  sản góp vốn của thành viên thành tài sản của công ty để khẳng định tính độc lập về  tài sản của công ty hợp danh với các thành viên tạo ra nó. Tuy nhiên, luật doanh   nghiệp lại đồng thời qui định chế  độ  chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp   danh đối với các nghĩa vụ của công ty. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh   chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Cụ thể  4
  5. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh hơn, đối với những khoản nợ của công ty, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách  nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để  trang trải số nợ của công ty. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm  bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho công   ty hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.( tr49. Một số vấn đề pháp   lý về  công ty hợp danh theo qui định của pháp luật VN hiện hành­ Nguyễn Thái   Trường) Luật doanh nghiệp Việt Nam chia chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên  thành hai loại đó là chế  độ  trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp   danh và chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Theo đó, thành viên   hợp danh trong công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công   ty, còn thành viên góp vốn chỉ  chịu trách nhiệm trong phạm vi số  vốn cam kết góp  vào công ty. Có thể thấy rằng, trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh có tính ràng  buộc chặt chẽ trong mọi quan hệ. Bên thứ ba khi giao dịch với công ty không những   được đảm bảo bằng tài sản riêng của công ty mà mà còn được đảm bảo bằng tài sản   riêng của mỗi thành viên. Mặt khác, khi các thành viên hợp danh đều phải chịu trách   nhiệm vô hạn về  các nghĩa vụ  của công ty thì đương nhiên họ  có quyền bình đẳng   trong việc điều hành công ty và quyền đại diện công ty. Do vậy, sự  liên kết trong   công ty hợp danh phải dựa trên sự tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia,   sự góp vốn chỉ là yếu tố thứ yếu. Chính nhu cầu xác lập chế độ chịu trách nhiệm vô   hạn cho các thành viên hợp danh của công ty hợp danh và tính chất của sự  liên kết   giữa các thành viên này đã không cho phép thực hiện nguyên tắc tách bạch tài sản   giữa công ty và các thành viên hợp danh của công ty. 5
  6. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh  Pháp luật các nước hầu hết đều thừa nhận công ty hợp danh là một chủ  thể  kinh doanh song đều quy định loại hình công ty này không có tư cách pháp nhân. Điều   này có nghĩa là các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công  ty không chỉ bằng tài sản góp vào công ty mà còn bằng tài sản riêng của chính mình.   Có thể hiểu rằng, công ty hợp danh vừa là chủ thể pháp luật nhưng cũng không hoàn  toàn là chủ thể pháp luật độc lập mà luôn nằm trong mối quan hệ liên đới giữa công  ty và các thành viên với nhau. Nói cách khác, chế  độ  trách nhiệm của công ty hợp danh là chế  độ  chịu trách  nhiệm cá nhân của các thành viên trong công ty về  các khoản nợ  của công ty trong   điều kiện công ty không có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các thành viên để  thực hiện các khoản nợ của chính mình. III. Chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên của công ty hợp danh 1. Chế độ chịu trách nhiệm đối với các thành viên hợp danh Thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản trong công ty hợp danh, là điều  kiện cần thiết và tiên quyết cho sự ra đời của công ty hợp danh. Đối với Việt Nam,  muốn thành lập công ty hợp danh phải có ít nhất là 2 thành viên hợp danh. Thành viên   hợp danh phải là cá nhân. Điểm b khoản 1 điều 130 luật doanh nghiệp 2005 qui định  “ thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ  tài sản của   mình về các nghĩa vụ của công ty”. Như vậy, với yếu tố là tính chất cơ bản, quyết định sự tồn tại của công ty hợp   danh, chế đô trách nhiệm cá nhân của các thành viên công ty được xác lập ở các nội  dung sau:  Thứ nhất, chế  độ  trách nhiệm của các thành viên hợp danh trong công ty hợp   danh là trực tiếp. Các thành viên hợp danh của công ty đều phải chịu trách nhiệm   liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty  do đó các chủ nợ có quyền yêu  6
  7. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh cầu trực tiếp bất kì thành viên nào của công ty thanh toán các khỏan nợ  của công ti  với chủ nợ. Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ  tài sản của mình  ( tài sản đầu tư  vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về  các nghĩa vụ  của công ti. Trách nhiệm liên đới  ở  đây được hiểu là trách nhiệm liên đới giữa các thành  viên hợp danh với nhau. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là các thành viên hợp danh có   bị trách nhiệm liên đới với công ty hay nói cách khác, các chủ  nợ có quyền kiện đòi  nợ  đối với các thành viên hợp danh mà không cần kiện công ty hợp danh trước hay   không.   Ở  một số  nước quy định chủ  nợ  không nhất thiết phải kiện công ty trước  khi kiện thành viên. Khi thực hiện quyền yêu cầu của mình chủ  nợ  có quyền lựa  chọn xem xét trước hết mình cần kiện công ty hay kiện một hoặc nhiều thành viên  hợp danh của công ty. Nếu chủ nợ muốn thỏa mãn bằng tài sản của công ty thì chủ  nợ có phải kiện công ty hợp danh, ngược lại, chủ nợ phải kiện riêng thành viên hợp  danh của công ty nếu chủ nợ muốn được trả nợ bằng tài sản riêng của thành viên.  Trách nhiệm liên đới giữa các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thể  hiện ở chỗ khi một thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản   nợ  của công ty thì thành viên này đã làm cho tất cả  các thành viên hợp danh khác   trong công ty được giải thoát khỏi món nợ đó đối với chủ  nợ. Và quyền đòi nợ của  chủ nợ chấm dứt với một thành viên thì cũng chấm dứt với công ty và với tất cả các  thành viên hợp danh còn lại trong công ty. Thành viên hợp danh đã trả  nợ  sẽ  có  quyền đòi các thành viên còn lại thanh toán phần nợ của họ trong món nợ đó.  Chịu trách nhiệm vô hạn có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ  tài   sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. “Thành viên hợp danh có nghĩa vụ   liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số  nợ còn lại của công ty nếu tài sản của   công ty không đủ  để  trang trải hết số  nợ  của công ty” (điểm đ khoản 2 điều 134).  7
  8. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh “Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hoặc theo thỏa thuận quy định tại   điều lệ  công ty trong trường  hợp công ty kinh doanh bị  lỗ”  ( điểm e khoản 2 điều  134).  Như  vậy, thành viên hợp danh này đã được thế  quyền của chủ  nợ  với tất cả  các đặc quyền, nói cách khác thành viên đã trả  nợ  cho chủ  nợ  được hưởng đủ  các  bảo đảm đặc biệt của món nợ, nếu có, y như chủ nợ. Thứ  hai, trách nhiệm của các thành viên hợp danh không chỉ  hạn chế  trong   phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Khác với các loại hình công ty đối vốn,  các thành viên của công ty này chỉ  chịu trách nhiệm trong phạm vi số  vốn góp vào   công ty, ngược lại đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh không chỉ phải   chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ bằng tài sản đã góp vào công ty, trong trường   hợp tài sản của công ty không đủ  thực hiện các nghĩa vụ  đối với chủ  nợ, thì các  thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Đây là một  đặc trưng cơ bản của loại hình công ty đối nhân nói chung và công ty hợp danh nói   riêng. Đặc trưng này cũng là một sự đảm bảo tuyệt đối với bên thứ ba tham gia tham   gia giao dịch với công ty. Ở một số nước, chính yếu tố này là một đảm bảo của công  ty đối với các ngân hàng.( 2, tr25)  Mặt khác, do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn, nên pháp luật các nước hầu   hết rất ít quy định bắt buộc đối với loại hình công ty này. Các thành viên hợp danh có  thể tự tổ chức ra cơ chế điều hành hoạt động công ty, họ  không nhất thiết phải có   điều lệ hoạt động, pháp luật các nước nếu có quy định vốn tối thiểu với một số loại   công ty thì thường không quy định mức vốn tối thiểu đối với loại hình công ty này. Thứ  ba,  thành viên hợp danh mới được tiếp nhận vào công ty chỉ  chịu trách  nhiệm đối với các nghĩa vụ  của công ty khi đi đăng kí việc gia nhập với cơ  quan   đăng kí kinh doanh. Như  vậy, những cam kết của công ty trước khi thành viên gia   8
  9. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh nhập không làm nảy sinh trách nhiệm của thành viên này, vì các cam kết trước đó  thành viên này không tham gia. Tuy vậy, về mặt nguyên tắc thành viên hợp danh có   trách nhiệm, vì do sự gia nhập của mình, thành viên hợp danh phải có trách nhiệm, vì  do sự  gia nhập của mình, thành viên đó đã xác nhận những hành vi của công ty đã  làm từ trước đây.   Song về  mặt thực tế  khi giao dịch với công ty hợp danh trước khi có thành   viên hợp danh mới gia nhập, bên thứ ba chỉ nhằm vào trách nhiệm của các thành viên  hợp danh hiện hữu, do vậy, thành viên hợp danh mới gia nhập không phải chịu trách   nhiệm với các cam kết trước khi thành viên này gia nhập vào công ty.  Thứ tư, nếu thành viên hợp danh rút khỏi công ty thì về nguyên tắc thành viên  này phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ  đã có trước khi ra khỏi công ty.  Trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh còn ràng buộc thành viên hợp danh ngay   cả khi thành viên đó đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của công ty hợp danh:   “trong thời hạn 2 năm kể  từ  ngày chấm dứt tư  cách thành viên của thành viên hợp   danh theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 điều này thì người đó vẫn phải liên   đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công   ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên”(khoản 5 điều 138).  Trong quá trình hoạt động, khi thành viên hợp danh rút khỏi công ty hoặc bị  khai trừ  ra khỏi công ty thì thành viên này vẫn phải chịu trách nhiệm đối với các   khoản nợ  của công ty hợp danh phát sinh từ  những cam kết của công ty trước khi  thành viên đó rút khỏi công ty hoặc bị khai trừ khỏi công ty. Công ty hợp danh thường  chỉ  có một số  vốn nhỏ, uy tín của công ty thường dựa vào uy tín cá nhân của các   thành viên hợp danh, thêm vào đó bên thứ ba khi giao dịch với công ty thường đặt tín   nhiệm nhiều vào cá nhân các thành viên hợp danh do vậy về  những khoản nợ xuất  phát trong khi còn là thành viên hợp danh của công ty, thành viên hợp danh cần phải   9
  10. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh chịu trách nhiệm cho dù thành viên này đã rút khỏi công ty, chuyển tư cách thành viên   cho người khác hoặc bị khai trừ khỏi công ty hợp danh.( 2,tr.27) 2. Chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên góp vốn. Ngoài chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp danh, theo  quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, trong công ty hợp danh còn tồn tại chế  độ  trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Như  vậy, pháp luật Việt Nam đã  ghi nhận loại thành viên này trong công ty  hợp danh, đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai hình thức công ty hợp danh đó là hợp   danh thông thường ( chỉ  có các thành viên hợp danh) và hợp danh hữu hạn ( có sự  xuất hiện của thành viên góp vốn). Tại điểm a khoản 2 điều 140 luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên góp   vốn “ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong   phạm vi số vốn đã cam kết góp”.  Các thành viên góp vốn trong công ty hợp danh dù góp vốn bằng tiền mặt hay   hiện vật, dù góp cả  một lúc hay góp dần thì các thành viên này cũng chỉ  chịu trách   nhiệm trong phạm vi phần vốn mà họ  đã góp. Một khi đã góp đủ  phần vốn góp thì  các thành viên góp vốn hết trách nhiệm, điều này có nghĩa các chủ  nợ  không có  quyền kiện đòi nợ  đối với các thành viên góp vốn, các thành viên này cũng không   phải chịu trách nhiệm gì đối với chủ  nợ  ngay cả  khi những người quản lý công ty  tiêu tán mất phần vốn của họ.  IV. So sánh công ty hợp danh  ở  nước Pháp với công ty hợp danh  ở  Việt   Nam 1. Sự  giống nhau công ty hợp danh  ở  pháp với công ty hợp danh  ở  Việt   Nam 10
  11. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh Công ty hợp danh  ở  nước Việt Nam ra đời khá muộn so với nhiều nước trên  thế giới. Sự ra đời ở đây được đánh dấu bằng việc ghi nhận chính thức công ty hợp   danh trong văn bản pháp luật của nhà nước, khi đó công ty hợp danh mới thực sự là  một chủ  thể  kinh doanh được xã hội chấp nhận và được các nhà kinh doanh lựa   chọn. Mầm mống của công ty hợp danh cùng những đặc điểm của nó đã xuất hiện  ngay từ thời kì đất nước bị đô hộ bởi thực dân pháp. Dưới thời kì pháp thuộc, pháp đã từng áp dụng luật thương mại của pháp vào  Việt nam, theo đó, thừa nhận mọi hình thức công ty bao gồm cả công ty hợp danh. Như  vậy, hình thức công ty hợp danh  ở Việt Nam có phần giống với công ty  hợp danh của pháp.  Chế  độ  chịu trách nhiệm của thành viên hợp danh  ở  pháp và  ở  Việt Nam là   đều chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Bên cạnh đó công ti hợp danh  ở Pháp và Việt Nam đều có tư  cách pháp nhân  kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. 2. Sự khác nhau giữa công ty hợp danh Pháp với công ty hợp danh ở Việt  Nam Nước pháp là một nước điển hình theo hệ  thống luật Châu Âu lục địa, pháp   luật thương mại của pháp qui định về công ty hợp danh như sau: “  Công ty hợp danh   là công ty mà trong đó các thành viên đều có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô   hạn và liên đới về các khỏan nợ của công ty”. Như  vậy, từ khái niệm trên có thể  thấy được đặc điểm pháp lý chủ  yếu của   công ty hợp danh theo pháp luật Pháp là tính chịu trách nhiệm cá nhân, không xác định  và liên đới của tất cả  các thành viên trong công ty, những người có đầy đủ  tư  cách   thương gia, trong những khoản nợ đối với bên thứ ba.  11
  12. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh Nếu như  công ty hợp danh  ở  Việt Nam bao gồm cả  thành viên hợp danh và   thành viên góp vốn, chế độ  chịu trách nhiệm của 2 thành viên này là hoàn toàn khác  nhau, các thành viên hợp danh của công ty đều phải chịu trách nhiệm liên đới và vô  hạn đối với các khoản nợ của công ty còn thành viên góp vốn thì chỉ phải chịu trong  phạm vi số vốn đã cam kết góp, trong khi đó các thành viên của công ty hợp danh ở  Pháp đều phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Mặc dù công ty hợp danh có tài sản nhưng trong trường hợp công ty không trả  được nợ  cho các chủ  nợ  thì chủ  nợ  có quyền yêu cầu bất kỳ  thành viên nào thanh  toán toàn bộ khoản nợ của họ. Ngoài ra, công ty hợp danh tại Pháp còn có một số đặc điểm khác công ty hợp  danh  ở  Việt Nam như  là một loại hình công ty thương mại, công ty hợp danh tại  Pháp có tư  cách pháp nhân, phải có 2 thành viên trở  lên, các thành viên phải có tư  cách thương gia, được thành lập dựa trên yếu tố nhân thân (  ínstuitus personae…) là  một loại hình công ty đối nhân nên yếu tố  nhân thân  ( instuitus personae…) đối với  loại hình công ty này đóng vai trò quyết định, theo đó yếu tố nhân thân của mỗi thành   viên quyết định tới việc thành lập, hoạt động và giải tán công ty, về nguyên tắc một   thành viên của công ty hợp danh khó có thể  rút khỏi công ty sau khi đã chuyển   nhượng phần vốn góp của mình cho bên thứ ba mà không được sự nhất trí của tất cả  các thành viên còn lại đối với việc chuyển nhượng này. Bên cạnh đó, thành viên hợp danh theo pháp luật thương mại Pháp không hạn  chế là cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân. Từ đó có thể hình thành mô hình kinh  doanh kết hợp, cho phép tránh được trách nhiệm vô hạn của cá nhân thành viên mà  vẫn có thể khai thác được những điểm mạnh của công ty hợp danh. Đây cũng là một   điểm khác so với thành viên hợp danh ở Việt Nam.  12
  13. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh Ví dụ: một công ty hợp danh có tất cả  các thành viên hợp danh là pháp nhân   song thực ra, việc điều hành công ty do các cá nhân là người đứng đầu pháp nhân  thành viên thực hiện.     Việc một thành viên của công ty hợp danh chết cũng có thể  là lý do dẫn tới   việc giải thể công ty, những người thừa kế của thành viên này không thẻ  trở  thành  thành viên của công ty thay thế cho vị trí của thành viên đã chết. Theo qui định của pháp luật pháp, các thành viên của công ty hợp danh phải có   tư  cách thương gia, điều này có ý nghĩa quan trọng đến chế  độ  trách nhiệm vô hạn   của các thành viên. Chế  độ  chịu trách nhiệm vô hạn và tính chất nghề  nghiệp liên  quan đến nhau tạo nên uy tín của công ty hợp danh. Theo qui định của luật ngày 24/7/1965 công ty hợp danh của pháp có tư  cách  pháp nhân. Về  quản lý điều hành công ty hợp danh, pháp luật của pháp qui định rất   cụ  thể  về  vấn đề  này. Theo đó, công ty hợp danh được quản lý bởi một hay nhiều  người. Người quản lý có thể  là thành viên của công ty hoặc là người ngoài không  phải là thành viên công ty. Hơn nữa, pháp luật pháp không cấm việc người quản lý   công ty hợp danh có thể là một hay nhiều pháp nhân. Trong trường hợp này, những   người quản lý công ty hợp danh về trách nhiệm dân sự cũng như trách nhiệm hình sự  của người quản lý công ty hợp danh. Tuy vậy, những người quản lý này không phải  chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ  của công ty vì họ không phải là   thành viên của công ty. Việc chỉ định người quản lý được ghi nhận trong thỏa thuận   thành lập công ty.  Công ty hợp danh là loại hình công ty xuất hiện đầu tiên và dù sớm hay muộn   nó cũng được pháp luật các nước ghi nhận và điều chỉnh. Nhưng sự  điều chỉnh đó  của pháp luật mỗi nước là không giống nhau, điều đó là do sự  phát triển kinh tế,  chính tị, xã hội cũng như phong tục tập quán ở mỗi nước là khác nhau. 13
  14. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh Đối với pháp luật Việt Nam, luật doanh nghiệp đã định nghĩa công ty hợp danh  dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ  bản của công ty hợp danh. Theo khoản 1 điều   130 luật doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: a, Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh  doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên  hợp danh có thể có thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của  mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm  vi số vốn đã góp vào công ty.   Theo đó, pháp luật Việt Nam thừa nhận công ty hợp danh dưới cả 2 hình thức  là “ hợp danh tuyệt đối” ( là ngoài thành viên hợp danh thì còn có cả thành viên góp  vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình) Còn theo luật thương mại pháp thì luật thương mại pháp không xếp công ty   hợp danh vào cùng nhóm với công ty hợp vốn đơn giản. Như  vậy, theo luật thương  mại pháp có thể nói công ty hợp danh vẫn giữ nguyên được bản chất của công ty đối   nhân và bản chất đối nhân này tạo ra chế độ trách nhiệm vô hạn hoàn toàn, không có  ngoại lệ đối với bất cứ thành viên nào của công ty. Đây là điểm phân biệt chủ  yếu   giữa loại hình công ty này với công ty hợp danh  ở  Việt Nam mà thành viên có chịu  chế độ TNHH trong phạm vi vốn mình góp.  Có thể thấy rằng các qui định của pháp luật pháp về công ty hợp danh rất chặt   chẽ và cụ thể, tạo môi trường pháp lý an toàn cho sự hoạt động của loại hình công ty  này. Chính vì vậy mô hình công ty hợp danh ở Pháp vẫn phát triển khá phổ biến, hơn   hẳn hình thức công ty hợp danh ở Việt Nam. 14
  15. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh V. Một số  kiến nghị  nhằm hoàn thiện pháp luật về  công ty hợp danh  ở  Việt Nam Từ  việc so sánh với pháp luật thương mại Pháp có thể  thấy rằng bên cạnh   những điểm đạt được về  việc qui định hình thức công ty hợp danh  ở  Việt Nam thì  vẫn còn nhiều điểm còn hạn chế, cần phải sửa đổi, bổ sung. Thứ nhất, Cần phải phân loại rõ ràng 2 hình thức công ty hợp danh và qui dịnh   cụ thể số lượng thành viên tối thiểu tương ứng với cách thức đó. Rõ ràng, việc cộng  gộp 2 hình thức công ty hợp danh dưới 1 tên gọi chung và được điều chỉnh với 1 qui   chế chung như luật doanh nghiệp VIệt Nam đã tạo nên nhiều bất cập trong quá trình  thực thi và áp dụng pháp luật vào đời sống thực tế. Cần phải có sự nhận thức rõ ràng  2 hình thức công ty hợp danh: công ty hợp danh thông thường và công ty hợp danh   hữu hạn. Tuy đều mang những nét chung của loại hình công ty đối nhân nhưng chúng  có sự khác biệt và cần phải có sự phân loại rõ ràng cũng như có những qui chế điều  chỉnh riêng biệt. Pháp luật Việt Nam qui định cụ  thể số  lượng thành viên tối thiểu ở  mỗi loại   công ty hợp danh, nhằm tạo ra sự  thuận lợi trong việc áp dụng điều kiện giải thể  doanh nghiệp qui định tại điều 157 luật doanh nghiệp 2005 cụ thể: ­ Đối với loại hình công ty hợp danh thông thường phải có tối thiểu ít nhất 2  thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. ­ Đối với loại hình công ty hợp danh hữu hạn thì phải có ít nhất 2 thành viên   hợp danh và 1 thành viên góp vốn. Thứ    hai, qui định pháp nhân cũng có thể  trở  thành thành viên hợp danh của   công ty hợp danh Việc luật doanh nghiệp 2005 không cho phép pháp nhân trở  thành thành viên  hợp danh của công ty hợp danh đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của các thương   15
  16. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh nhân khi lựa chọn loại kinh doanh. Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận loại thương  nhân là pháp nhân thì không có lý gì lại không cho phép pháp nhân được trở  thành   thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Việc cho phép pháp nhân là thành viên   hợp danh cũng không  ảnh hưởng đến bản chất đối nhân của công ty hợp danh, bởi   pháp nhân cũng có những dặcđiểm “ nhân thân” nhất định của nó, đó là trụ  sở, con   dấu, quốc tịch…mà các thành viên hợp danh khác hoàn toàn có thể tìm hiểu và có sự  tin cậy. Thứ  ba,  Sửa đổi pháp luật tạo ra sự  nhất quán trong việc qui định giới hạn  trách nhiệm của thành viên góp vốn. Luật doanh nghiệp năm 2005 có sự  mâu thuẫn giữa điểm a khoản 2 điều 140  và điểm c khoản 1 điều 130 qui định về  giới hạn trách nhiệm của thành viên góp  vốn. Thực tiễn áp dụng xảy ra việc nên qui định thành viên góp vốn sẽ  chịu trách   nhiêm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp hay số vốn cam kết   góp. Bằng cách xem xét thêm qui định tại khoản 3 điều 131 luật doanh nghiệp đó  là: “ trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn, số vốn đã cam kết   thì số  vốn chưa góp đủ  được coi là khoản nợ  của thành viên đó đối với công ty”.  Như vậy, dựa trên tinh thần chung của pháp luật cũng qui định tại khoản 3 điều 131  này thì thành viên góp vốn sẽ  chịu trách nhiệm về   các khoản nợ  của công ty hợp  danh trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty. Theo đó, khoản c khoản 1 điều 130 luật doanh nghiệp 2005 cần được sửa đổi  thành “ thành viên góp vốn chỉ  chịu trách nhiệm về  các khoản nợ  của công ty trong   phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty”.  Thứ tư, cho phép công ty hợp danh được phát hành trái phiếu để tăng khả năng  huy động vốn việc luật doanh nghiệp 2005 không cho phép công ty hợp danh phát   16
  17. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh hành bất kì loại chứng khoán nào đã hạn chế  rất lớn đến khả  năng huy động vốn,  mở  rộng thị  trường của công ty hợp danh. Pháp luật cần nới lỏng hơn qui định về  vấn đề  này. Bởi lẽ, nếu nhìn nhận từ  góc độ  bản chất đối nhân của công ty hợp  danh, việc tiếp nhận thành viên mới là hết sức hạn chế, do đó nếu cho phép công ty   hợp danh phát hành chứng khoán sẽ dẫn đến 1 sự thay đổi lớn trong cơ cấu nhân sự  của công ty. Song nếu chúng ta nhìn từ  góc độ  lợi ích của công ty hợp danh trong   tương quan với các loại hình doanh nghiệp khác thì tính chất pháp luật chỉ nên cấm  công ty hợp danh phát hành cổ phiếu vì cổ phiếu chỉ có ở công ty cổ phần và người   mua cổ  phiếu trở thành cổ  đông là 1 trong những đồng chủ  sở  hữu của công ty còn   đối với trái phiếu người mua nó chỉ là chủ nợ của công ty, không phải là thành viên  của công ty. VI. Kết luận Tóm lại, chế  độ  trách nhiệm của công ty hợp danh chính là chế  độ  chịu trách  nhiệm cá nhân của các thành viên trong công ty về  các khoản nợ  của công ty trong   điều kiện công ty không có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các thành viên để  thực hiện các khoản nợ của chính mình. Còn thành viên hợp danh thì liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của   mình về  các nghĩa vụ  của công ty. Bên cạnh chế  độ  trách nhiệm vô hạn của thành   viên hợp danh, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khỏan nợ của công ty  trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Tài liệu tham khảo 1. Trường đại học Luật hà nội – Giáo trình luật thương mại – NXB CAND 17
  18. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh 2. Nguyễn Thái Trường ­ Một số  vấn đề  pháp lý về  công ty hợp danh theo qui   định của pháp luật VN hiện hành­ 2010  3. Trần Thùy Anh – Một số khía cạnh pháp lý về công ty hợp danh – HN 2001 4. Lê văn Thuần – Địa vị  pháp lý của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp   1999 – HN2000 5. Luật doanh nghiệp – NXB Tư pháp 18
  19. Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh (1) Francis lefebvre, “ Societe commerciales”­ Memento Pratique, 1999, P223. Tài liệu tham khảo :http://www.luatgiapham.com/phap­luat/luat­kinh­doanh/15­luat­doanh­nghiep.html? start=4#ixzz1585CvqrC 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2