Đề tài "Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào?"
lượt xem 75
download
Đề tài: Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào? Liên hệ những hình thức can thiệp đó trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công của chính phủ Việt Nam hiện nay. Bài làm I Khái niệm, đặc điểm và phân loại chi tiêu công 1. Khái niệm Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền,các đơn vị quản lý hành chính,các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài "Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào?"
- Thảo luận tài chính công Đề tài Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào? Liên hệ những hình thức can thiệp đó trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công của chính phủ Việt Nam hiện nay. 1 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công I Khái niệm, đặc điểm và phân loại chi tiêu công 1. Khái niệm Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền,các đơn vị quản lý hành chính,các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi chính phủ 2 .Đặc điểm Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế_xã hội của nhà nước và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó nhà nước đã cung cấp một lượng hang hóa công khổng lồ cho nền kinh tế Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,chính trị ,xã hội mà nhà nước thực hiện Các khoản chi tiêu công do chính quyền nhà nước các cấp đảm nhận theo nội dung đã được quy định trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và các khoản chi tiêu công này nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý phát triển kinh tế_xã hội . Mặt khác,các cấp của cơ quan quyền lực nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu ,nội dung ,mức độ của các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện các mục tiêu ,nhiệm vụ kinh tế,chính trị,xã hội của quốc gia Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng Chi tiêu công tương ứng với những đơn đặt hang của chính phủ về mua hang hóa dịch vụ nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời đó cũng là những khoản phải chi cần thiết,phát sinh tương đối ổn định như :chi lương cho viên chức bộ máy quản lý nhà nước ,chi hàng hóa,dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng công cộng của các tần lớp dân cư… Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công. 2 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công II Hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công 1.Vai trò của hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công Quản lý chi tiêu công phản ánh hoạt động của Nhà nước đối với quá trình phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính công nhằm thực hiện tốt các chức năng của nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến các cân đối vĩ mô về tài chính, tiền tệ, giá cả trong nền kinh tế. Đối với đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN, có sự điều tiết của Nhà nước, hàng năm Nhà nước đã thực hiện chi NSNN hàng chục nghìn tỷ đồng thông qua các cơ quan tài chính và kho bạc Nhà nước (KBNN) để bảo đảm các mục tiêu phát triểnkinh tế - xã hội của đất nước. Thông qua ngân sách nhà nước, chính phủ đã thực hiện vai trò sau: 1.1 Xây dựng khuôn khổ pháp lý quản lý chi tiêu ngân sách hợp lí Luật NSNN ban hành năm 1996 và qua các lần bổ sung, sửa đổi ở các năm 1998 và năm 2002 đã tạo ra khuôn một khổ pháp lý khá hoàn chỉnh trong việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước về quản lý chi NSNN: Quốc hội: Quyết định chi NSNN bao gồm chi NSTW và chi NSĐP, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ. Trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, quyết định mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục, khoa học và công nghệ.Chính phủ: Quyết định giao nhiệm vụ chi cho các cơ quan trực thuộc Chính phủ; quyết định giao nhiệm vụ chi cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách điạ phương; quy định hoặc phân cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân sách. Hội đồng nhân dân các cấp: Quyết định dự toán chi ngân sách, bao chi ngân sách cấp mình và chi ngân sách địa phương cấp dưới; quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình và mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới. UBND các cấp: Lập dự toán ngân sách điạ phương; quyết định giao nhiệm vụ chi cho các cơ quan trực thuộc; quyết định giao nhiệm vụ chi cho ngân sách cấp dưới; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách điạ phương đối với một số lĩnh vực chi được HĐND quyết định. 3 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Các đơn vị sử dụng ngân sách: Tổ chức lập và thực hiện dự toán chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý; chi đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; các đơn vị sự nghiệp được quyền chủ động sử dụng nguồn sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu qủa hoạt động. 1.2. Giúp cải thiện tính minh bạch chi ngân sách Tính minh bạch chi NSNN có tầm quan trọng trong việc giải trình trước công dân về việc phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước và giải trình về chất lượng chi tiêu NSNN tổng thể. Tính minh bạch chi NSNN cũng rất quan trọng đối với các nhà tài trợ – những người tất nhiên sẽ không hài lòng khi họ hỗ trợ nguồn lực tài chính nhưng lại không có đầy đủ thông tin tin cậy để đánh giá được số tiền tài trợ được sử dụng vào việc gì và sử dụng tốt như thế nào. Đối với Chính phủ cũng như các cơ quan của Chính phủ, tính minh bạch tài chính có tầm quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu ngân sách, Chính phủ đã ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước đồng thời quy định một số công tác kế toán chủ yếu như chứng từ, sổ sách, báo cáo quyết toán, kiểm tra kế toán; tính giá thành và phí lưu thông hàng hóa, bảo quản tài liệu kế toán. Nó đã góp phần quan trọng đối với việc củng cố công tác kế toán trong các xí nghiệp, các đơn vị, tăng cường kiểm tra, kiểm soát của tài chính Nhà nước .Tính minh bạch hoá việc sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm mức bội chi NSNN và tỷ lệ lạm phát theo mục tiêu đề ra của nền kinh tế. 1.3. Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực đát nước Nhờ sự can thiệp của chính phủ, nước ta đã hình thành hệ thống định mức làm cơ sở phân bổ ngân sách: Sau khi ban hành Luật NSNN năm 1996, Chính phủ đã quyết định ban hành hệ thống định mức chi tiêu ngân sách năm 1997 và các định mức thường xuyên sửa đổi. Những định mức được tiêu chuẩn hóa và áp dụng cho các mục chi trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Dựa vào hệ thống định mức, chính quyền địa phương dự toán nhu cầu chi tiêu và phân bổ nguồn lực tài chính… Có thể nói, phương pháp xác lập hệ thống định mức chi tiêu là một yếu tố quan trọng trong việc xác định hiệu quả về phân bổ và hiệu quả về mặt kỹ thuật trong chi tiêu công. Thể hiện : 4 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Xây dựng ngân sách theo chương trình thông qua hoạch định chương trình đầu tư công. Việc xây dựng chương trình đầu tư công cộng đã tạo ra một khuôn khổ thiết lập chương trình chi tiêu công toàn diện, bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, qua đó giúp cho Chính phủ kiểm soát tốt việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính trong dài hạn. Chính sách của Chính phủ ưu tiên chi đầu tư hơn là chi thường xuyên. Điều này được thể hiện khá rõ nét ở quan điểm đã nêu trong Nghị quyết do Quốc hội thông qua cho giai đoạn 1996-2000 là tốc độ tăng chi thường xuyên không được vượt quá tốc độ tăng chi đầu tư. Nâng cao định hướng phục vụ người nghèo của chi tiêu công. Chính phủ đã thành công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo, bao gồm cải thiện sự công bằng trong chi tiêu cho các lĩnh vực giáo dục và y tế. Công tác chi tiêu công của chính phủ giúp hướng tới mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới; tạo lập môi trường tài chính ngân sách lành mạnh nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực; đảm bảo công bằng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; ổn định và phát triển nền tài chính quốc gia, góp phần tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, thực hiện xóa đói giảm nghèo. 2 .Nội dung các hình thức 2.1. Chính phủ tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó Chi tiêu công là một phạm trù tài chính gắn liền với chức năng quản lý của Nhà nước và có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Hiệu quả quản lý chi tiêu công được đặt ra trong bối cảnh là nguồn lực tài chính của mỗi quốc gia có sự giới hạn nhất định, nhưng làm thế nào để thỏa mãn tốt những nhu cầu cần thiết nhằm đạt các mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước đã làm nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công. Điều này được biểu hiện bằng việc Nhà nước đã xây dựng khuôn khổ pháp lý về quản lý chi ngân sách; cải thiện tính minh bạch chi ngân sách; hoàn thiện cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước. 5 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi. Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền…Ví dụ như là quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước. Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời. Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế. Một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn 6 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mô. Hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính chất trên Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem. Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng. Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng. Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi 7 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn. Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v… Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v… Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem lại. Ví dụ 1 : Tiêu biểu cho chương trình chi tiêu công là Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). 8 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Giai đoạn I(1997-2006) Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội. Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là: Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch Nâng cao đời sống văn hóa. Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v... Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước Việt Nam đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cũng có đánh giá rằng hiệu quả của Chương trình 135 còn chưa cao, nhiều mục tiêu chưa thực hiện được. Giai đoạn II (2006-2010) Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. 9 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Mục tiêu tổng quát Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường. Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước. Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%. Nội dung chính chương trình Nhà nghèo trước khi chưa có chương trình Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị. Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động. Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng động. Một số dự án của chính phủ cho chương trình 135 10 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Các dự án nông, lâm, khuyến ngư phát triển các ngành nghề: cung cấp cho người nghèo những kiến thức kỹ năng, lập kế hoạch, phân bổ thích hợp sản xuất, nâng cao công nghệ sản xuất để họ tạo được thu nhập ổn định. Chính sách hỗ trợ ngư dân tổng kinh phí năm 2008 là trên 2100 tỷ đồng. Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí. Thống kê cho thấy , nhóm chính sách này lên tới 5 loại, trong đó có thuế sử dụng đất nông nghiệp, tiền thuê mặt đất- mặt nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… Việc áp dụng các loại thuế này, nhiều đối tượng đã được hưởng lợi, tạo thuận lợi lớn cho người dân, doanh nghiệp ở vùng khó khăn Các dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đặc biệt khó khăn: Ngân sách TW hỗ trợ sẽ là 800.000.000/ năm theo chương trình 135. Năm 2005, tỉnh Lào Cai nâng cấp 532 công trình với tổng chiều dài 1.400km và 93 cây cầu; gần 300 công trình thủy lợi, tưới tiêu cho 6 ngàn ha lúa và hoa màu. Tỉnh Thanh Hóa, từ năm 1999 đến 2006 trên địa bàn 102 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa đã có 503 công trình cơ sở hạ tầng nông thôn được xây dựng và hoàn thành, với tổng kinh phí đầu tư 277,5 tỷ đông. Năm 2008, chính phủ đã dành 3.800 tỷ đồng cho chương trình 135 giai đoạn II, hỗ trợ đầu tư rất quan trọng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng mới được hơn 500 công trình trong phạm vi cả nước, chủ yếu là các chương trình về hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế và tăng cường nhận thức pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số… tính đến nay, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ của nhà nước, các tổ chức trên thế giới đã hỗ trợ khoảng 300 triệu USD cho chương trình 135 của Việt Nam . Kết thúc năm 2008, Chương trình đã có 110 xã hoàn thành mục tiêu: 93,7% xã cơ bản đã có các công trình thiết yếu về cơ sở hạ tầng; 61% xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo phục vụ sản xuất. Về cơ bản thì đạt được mục tiêu: phát triển cơ sở hạ tầng các xã nghèo, hoàn thành các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu. nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại: cuối năm 2003, phát hiện sai phạm 8 tỷ đồng trong việc chi cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho dân tộc thiểu số, một số công trình không tính đến hiệu quả lâu dài: Ninh Thuận công trình thủy lợi không hiệu quả trong mùa khô, chưa đưa vào sử dụng, Đập Phà Sắc 3km đường ống nước bị gãy. Cung cấp hàng hóa công Chính sách trợ giúp kinh tế: cung cấp dịch vụ y tế nhiều hơn cho người nghèo, để giảm rủi ro đối với họ. Một chính sách thân thiết khác là khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2009 đã có 21 triệu người được thụ hưởng. 11 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Tổng kinh phí để mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo trong giai đoạn 2005-2009 là trên 8.500 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT và khoảng 90% được khám chữa bệnh bằng thẻ. Chính sách hỗ trợ giáo dục: nâng cao số lượng trẻ em được đến trường, phát triển trình độ giáo dục cho người nghèo bằng cách thực hiện các chương trình hỗ trợ như: cho vay vốn ưu đãi sinh viên ĐH, CĐ thuộc diện hộ nghèo, khó khăn ( Ngân hàng chính sách xã hội còn có 597 phòng giao dịch ở các quận huyện nơi đang theo học tại các trường ĐH, CĐ để làm thủ tục vay vốn ưu đãi); các học bổng cho các sinh viên nghèo hiếu học, miễn giảm học phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo, hoàn cành khó khăn. Năm 2007, 5 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, năm 2007-2008 có hơn 750.000 học sinh, sinh viên đã được vay vốn học tập gần 5.169 tỷ đồng. Trong đó, số hộ nghèo chiếm hơn 14%, hộ cận nghèo 67%, hộ khó khăn gần 15%. Theo đánh giá của Ngân hàng chính sách xã hội, sau hai năm thực hiện quyết định 157 của thủ tướng chính phủ về đào tạo, đối tượng và chính sách ưu đãi được mở rộng hơn, số tiền cho vay của chương trình đã tăng lên 47 lần so với chín năm trước đó. Số học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được thụ hưởng cũng tăng gấp 14 lần. Chính sách về nước sạch và nhà ở: cung cấp cho người nghèo đặc biệt là dân tộc thiểu số về nhà ở và nước sạch để xóa đói giảm nghèo bền vững. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số. Về nhà ở: mức giao diện tích đất tối thiểu 200m2 cho mỗi hộ đồng bào sống ở nông thôn. Căn cứ quỹ đất ở và khả năng ngân sách của địa phương. Ngân sách TW hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/ hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng. Về nước sạch: đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt thì Ngân sách TW hỗ trợ 0,5 tấn xi măng/ hộ để xây dựng bể chứa nước hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/ hộ để đào giếng và tạo nguồn nước sinh hoạt. Còn đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: ngân sách trung ương hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào phải đảm bảo tính bền vững và hiệu quả. Sau 4 năm thực hiện từ năm 2001, quyết định 134, nguồn kinh phí đã giải ngân được 3.734,12 tỷ đồng ( đạt 83% kế hoach). Trong đó hỗ trợ nhà ở đạt 118%, hỗ trợ đất ở 83%, hỗ trợ nước phân tán 81% , hỗ trợ nước tập trung là 84%. Với chính sách này người dân có nhà ở ổn 12 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công định nhiều hơn và nhiều vùng có nước sạch để sử dụng… Hiện tại, chính sách này được triển khai tại 51 địa phương với gần 500.000 hộ dân được thụ hưởng. Tổng kinh phí dành cho chương trình này đã lên tới trên 9.000 tỷ đông trong giai đoạn 2004-2008. Chính sách hỗ trợ pháp lý: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, bảo đảm công lý và bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ pháp lý, nâng cao nhận thức và kiến thức về các vấn đề mà pháp luật và các quy định, tham gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và thực hành cơ sở dân chủ. Nhận xét: khi đánh giá về các chính sách hỗ trợ người nghèo, vùng khó khăn ta thấy rằng các chính sách tương đối đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh và gắn với sản xuất, đời sống của người nghèo, vùng khó khăn, góp phần giảm nghèo nhanh. Tuy nhiên, chương trình chi tiêu công cũng còn tồn tại biến dạng như: Chất lượng của chương trình, công trình không cao: chính sách vẫn còn phân tán, trùng lắp trong quá trình thực hiện các chính sách an sinh xã hội cũng được chính phủ chi ra. Trong đó đáng nói nhất là tình trạng giải ngân vốn cho các chương trình, dự án còn châm, làm giảm vốn hiệu quả vốn đầu tư. Chất lượng một số công trình đầu tư chưa được đảm bảo. Có công trình đầu tư xây dựng xong đã không mang lại hiệu quả, như đầu tư chợ nhưng không có người mua bán, nhiều trường học bệnh viện xuống cấp nhanh, một số khu neo đậu tàu thuyền không có tàu thuyền vào. Sai đối tượng, tham ô: Nhiều chính sách trước khi ban hành chưa có nghiên cứu kỹ, chưa xác định được đối tượng thụ hưởng nên khi đi vào cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, gây lãng phí. Đồng thời quá trình phân bổ tiền trợ cấp từ Chính phủ xuống địa phương nhiều trường hợp sai đối tượng và bị ăn bớt. Do đó,ước tính tỷ lệ rò rỉ của Quốc gia theo các năm trung bình khoảng 10%. Ví dụ như: dịp tết Kỷ Sửu, Chính phủ đã chi 3.800 tỷ đồng để hỗ trợ người nghèo ăn tết, mỗi nhân khẩu 200.000đồng hoặc 1trđ/ hộ. Thế nhưng chủ trương hợp lòng dân đó đã bị một số nơi làm méo mó. Phổ biến nhất là tình trạng tiền cho dân nghèo bị xà xẻo hoặc lấy của người nghèo chia cho người không nghèo.Bên cạnh đó, một số chương trình phân bổ tiền sai, ví dụ trong chương trình kiểm toán 135, Kiểm toán nhà nước đã đề nghị xử lý gần 39,6 tỷ đồng. Đáng lưu ý là trong khi rất nhiều địa phương mong mỏi nhận được sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước để thoát nghèo vẫn có trên 2,347 tỷ đồng tiền thừa, không dùng đến, phải nộp trả ngân sách Nhà nước. Trong khi đó, có khoảng 4, 9 tỷ đồng đã bị các địa phương chi sai đối tượng. 13 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Tái nghèo: bên cạnh đó vẫn còn một số hộ đã thoát nghèo nhưng trong một thời gian ngắn lại bị tái nghèo. Mà nguyên nhân đó là, người dân chưa được hưởng đầy đủ các chính sách trợ cấp của Nhà nước và bị tác động bởi các yếu tố khách quan như: thiên tai, dịch bệnh và biến động xấu của thị trường. Ví dụ 2 : Theo dự báo của EVN, tổng nhu cầu điện sản xuất toàn quốc năm 2011 là 117,63 tỷ kWh, tăng 17,63% so với tổng sản lượng điện thực hiện năm 2010 (100,1 tỷ kWh), trong đó tổng nhu cầu điện sản xuất 6 tháng mùa khô 2011 là 56,14 tỷ kWh tăng 18,3% so với thực hiện 6 tháng mùa khô 2010, tổng nhu cầu điện sản xuất 6 tháng cuối năm 2011 là 61,49 tỷ kWh tăng 16,8% so với thực hiện 6 tháng cuối năm 2010. Do tình hình khô cạn năm 2010 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tích nước các hồ thuỷ điện. Tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2011, mực nước hầu hết các hồ thuỷ điện trên cả nước đều thấp hơn nhiều so với mực nước yêu cầu, cụ thể mực nước hồ Hòa Bình chỉ đạt 100,89m/117m (thấp hơn 16,11m yêu cầu), hồ Tuyên Quang chỉ đạt 108,7m/120m (thấp hơn 11,3m), hồ Ialy đạt 493,0m/515m (thấp hơn 21,96m), hồ Trị An đạt 54,0m/62m (thấp hơn 7,98m). Tổng lượng nước thiếu hụt của các hồ chứa thủy điện so với mực nước yêu cầu đầy hồ vào khoảng 13 tỷ m3, tương đương sản lượng điện thiếu hụt khoảng 3 tỷ kWh. Bên cạnh đó, một số nhà máy điện do phải khai thác liên tục trong thời gian qua, thời hạn bảo dưỡng sửa chữa đã vượt quá mức cho phép, do đó hay xảy ra sự cố. Ngoài ra, một số nhà máy nhiệt điện than mới đưa vào hoạt động năm 2010 vẫn chưa vận hành ổn định, nên hệ thống điện quốc gia vẫn có nguy cơ thiếu điện vào các tháng mùa khô 2011. Trước các khó khăn về cung ứng điện nêu trên, Bộ Công Thương đã khẩn trương chỉ đạo EVN xây dựng kế hoạch cung cấp điện mùa khô và cả năm 2011 để trình Bộ phê duyệt. Ngày 12 tháng 01 năm 2011, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 0152/QĐ-BCT phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm 2011 làm cơ sở pháp lý cho điều hành cung ứng điện. Theo đó, các loại nguồn thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, nhập khẩu điện đã được huy động phát điện tối đa, các nguồn điện có giá thành cao (chạy dầu FO, DO) cũng được huy động ở mức rất cao để đáp ứng nhu cầu điện của hệ thống. Việc điều chỉnh giá điện năm 2011 Sự cần thiết điều chỉnh giá điện 2011 14 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Ngày 23 tháng 02 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về biểu giá bán lẻ điện áp dụng từ năm 2011 và Quyết định số 269/QĐ-TTg về giá bán điện năm 2011. Việc điều chỉnh giá điện năm 2011 là bước đi cần thiết để thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc chuyển các mặt hàng sang thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện lộ trình điều chỉnh giá điện quy định tại Quyết định 21/2009/QĐ-TTg ngày 12/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về giá bán điện năm 2009 và các năm 2010 - 2012 theo cơ chế thị trường. Cũng qua đây nhằm xử lý một số vấn đề mang tính căn bản, dài hạn hơn để xử lý những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực phát triển điện lực ở nước ta thời gian qua, chủ yếu như: Giá điện của Việt Nam trong những năm qua vẫn đang ở mức thấp và thấp hơn giá thành thực tế cho sản xuất kinh doanh điện nếu tính đầy đủ các yếu tố đầu vào theo giá thị trường, do vậy không bảo đảm được cân bằng tài chính cho các đơn vị sản xuất điện, không hấp dẫn được các nhà đầu tư vào lĩnh vực này, dẫn tới tình trạng chậm đầu tư các nguồn điện mới; đồng thời cũng không khuyến khích doanh nghiệp và người sử dụng điện điện lựa chọn đổi mới công nghệ sản xuất, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, v.v... Bên cạnh đó, hiện nay chi phí cho sản xuất kinh doanh điện cũng đã tăng cao. Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hầu hết các chi phí thực tế cho sản xuất kinh doanh điện (số liệu chưa được kiểm toán) đều tăng cao hơn so với số liệu tính toán. Trong năm 2010, các nhà máy nhiệt điện chạy than mới đưa vào vận hành phát không ổn định, điều kiện thuỷ văn bất lợi, hạn hán kéo dài, các nhà máy thủy điện không đủ nước để vận hành, vì vậy hệ thống phải huy động các nguồn điện có giá cao (nguồn điện chạy dầu, nhập khẩu) làm tăng thêm chi phí hàng nghìn tỷ đồng. Các thông số đầu vào hình thành giá điện cũng đã tăng cao Biểu giá điện năm 2011 được điều chỉnh trên nguyên tắc không gây ra sự biến động lớn về giá; bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt đối với các hộ nghèo và các hộ thu nhập thấp, tức là nhà nước vẫn có cơ chế hỗ trợ giá điện cho các hộ này giá điện cho các thành phần được xây dựng minh bạch, không có bù chéo trong giá giữa các đối tượng khách hàng; giá điện được tính toán để tách bạch chức năng kinh doanh và bảo trợ xã hội của ngành điện. Bảng giá điện từ 01/03 năm 2011 GIÁ Số TT Nhóm đối tượng khách hàng (VND/kWh) 1 Giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất 1.1 Các ngành sản xuất 1.1.1 Cấp điện áp từ 110 kV trở lên a) Giờ bình thường 1,043 b) Giờ thấp điểm 646 c) Giờ cao điểm 1,862 1.1.2 Cấp điện áp từ 22 kV đến dưới 110 kV a) Giờ bình thường 1,068 b) Giờ thấp điểm 670 c) Giờ cao điểm 1,937 1.1.3 Cấp điện áp từ 6 kV đến dưới 22 kV a) Giờ bình thường 1,093 b) Giờ thấp điểm 683 c) Giờ cao điểm 1,999 1.1.4 Cấp điện áp dưới 6kV a) Giờ bình thường 1,139 b) Giờ thấp điểm 708 c) Giờ cao điểm 2,061 1.2 Bơm nước tưới tiêu 1.2.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên a) Giờ bình thường 956 b) Giờ thấp điểm 497 c) Giờ cao điểm 1,415 15 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công 1.2.2 Cấp điện áp dưới 6 kV a) Giờ bình thường 1023 b) Giờ thấp điểm 521 c) Giờ cao điểm 1,465 2 Giá bán lẻ điện cho khối hành chính sự nghiệp 2.1 Bệnh viện, nhà trẻ, mẫu giáo, trường phổ thông 2.1.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,117 2.1.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,192 2.2 Chiếu sáng công cộng 2.2.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,217 2.2.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,291 2.3 Đơn vị hành chính sự nghiệp 2.3.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,242 2.3.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,291 3 Giá bán điện cho kinh doanh 3.1 Cấp điện áp từ 22 kV trở lên a) Giờ bình thường 1,713 b) Giờ thấp điểm 968 c) Giờ cao điểm 2,955 3.2 Cấp điện áp từ 6 kV đến dưới 22 kV a) Giờ bình thường 1,838 b) Giờ thấp điểm 1,093 c) Giờ cao điểm 3,067 3.3 Cấp điện áp dưới 6 kV a) Giờ bình thường 1,862 b) Giờ thấp điểm 1,142 c) Giờ cao điểm 3,193 4 Giá bán lẻ điện cho sinh hoạt 4.1 Giá bán lẻ điện sinh hoạt Cho kWh từ 0-50kWh (diện người nghèo) 993 Cho kWh từ 0-100 kWh (không thuộc diện người nghèo) 1,242 Cho kWh từ 101- 150 1,304 Cho kWh từ 151-200 1,651 Cho kWh từ 201- 300 1,788 Cho kWh từ 301- 400 1,912 Cho kWh từ 401 trở lên 1,962 4.2 Giá bán lẻ điện sinh hoạt dùng công tơ thẻ trả trước 1,639 2.2 .Thực hiện đánh thuế và trợ cấp nhằm không khuyến khích hoặc khuyến khích khu vực tư sản xuất và cung cấp hàng hóa công Thực tế ở các nước phát triển cho thấy nếu nhà nước giữ vai trò chi phối trong cung ứng dịch vụ công thì hiệu quả sẽ không cao, nhưng nếu không có nhà nước cũng sẽ thất bại. Mặc dù có những hạn chế nhất định, trên một số lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cụ thể, song thực tế cho thấy rằng chỉ có nhà nước mới có đủ khả năng cung ứng các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ công cộng mà không thể tư nhân nào cũng có thể không vì lợi nhuận mà đảm nhận, và việc đảm nhận tốt vai trò này của Nhà nước là điều kiện cho sự phát triển bền vững của xã hội. 16 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Ở Việt Nam, cho đến nay nhà nước vẫn là chủ thể chủ yếu trong cung cấp dịch vụ công.. Trong xu thế hội nhập, với mục tiêu xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân” thì việc nhà nước cung cấp các DVC phục vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững là điều tất yếu. Tuy nhiên, xuất phát từ thực trạng cung ứng DVC hiện nay cho thấy, vai trò của Nhà nước trong cung cấp DVC là hết sức quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà khu vực tư nhân vẫn chưa đủ mạnh để có thể đảm nhận được những lĩnh vực thiết yếu. Chính sách quốc phòng: việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với máy vi tính hay nhà ở: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản lực. Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều này được coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng. Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín 17 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các chương trình này. Chính sách giáo dục của nhà nước. Khi bạn đến với trường học cuả mình, bạn đang tìm kiếm cách cải thiện cho chính mình và gia đình chứ không cần thiết phải cải thiện cho cả một cộng đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng cao học vấn của bạn đã trở thành một thành viên hữu ích và được đào tạo cao hơn trong cộng đồng của bạn. Bạn hiện giờ có những kỹ năng mới và đã xây dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ hội và việc làm cho những người khác. Như vậy, học vấn của bạn đã làm lợi cho những người khác, điều này khác với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Giáo dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh cho một quốc gia do những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng suất hơn, và chắc chắn là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá nhân không phải chi tiêu vào việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn đề xã hội khác, cũng như tăng mức độ kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của lực lượng lao động. Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích ngoại sinh đáng kể hoặc lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc trợ cấp hoặc khuyến khích tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các lợi ích ngoại sinh đó có thể được tính bằng giá cả thị trường và sản lượng đầu ra của các sản phẩm đó. Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dư thừa một số hàng hóa nhất định thì việc tồn tại lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dưới mức cầu các hàng hóa và dịch vụ khác. Ví dụ : Hiện nay, thuế TTĐB đang được căn cứ vào số chỗ ngồi: dưới 5 chỗ chịu thuế suất 50%, từ 6 - 15 chỗ là 30% và từ 16 - 24 chỗ là 15%.điều này chứng tỏ là nhà nước khuyến khích và tạo ưu đãi hơn cho việc tiêu thụ xe ôtô có nhiều chõ ngồi Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu và trợ cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại sinh đáng kể. Chúng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. 1 đặc điểm xuyên suốt của hàng hóa công. Nó hoạt động để cung cấp lợi ích cho mọi người. Tất cả mọi người đều có được lợi ích như nhau. Khu vự tư cung cấp hàng hóa công : Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng: 18 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra.. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá. Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi. Tuy vậy khu vực tư nhân có thể cung cấp hàng hóa công mà trước đây người ta cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện. 19 Nhóm 11
- Thảo luận tài chính công Công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học đạt giải Nobel Elinor Ostrom cho thấy người ta rất giỏi sử dụng những hoạt động mang tính chất xã hội hóa để giải quyết những vấn đề mà các sách giáo khoa kinh tế cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện. Cung cấp các “hàng hóa công” (như là hệ thống thủy lợi cho một cộng đồng nông thôn) thường hứa hẹn đủ lợi ích để có thể tạo ra tính sáng tạo của những người mà - nếu được trao đủ tự do và sự đảm bảo về quyền lợi thì có thể xác định rõ ràng cách thức hợp tác với nhau để cung cấp các hàng hóa đó. Sự hợp tác này thường được thực hiện dưới những hình thái khác nhau mà chúng ta có thể thấy trên thị trường giống như những hàng hóa đặc trưng của khu vực tư nhân (giầy dép chẳng hạn). Theo cách tiếp cận tương tự, các học giả khác sau nhiều năm đã phát hiện ra vô số những ví dụ trong lịch sử về việc khu vực tư nhân đã cung cấp thành công những “hàng hóa công”. Đôi khi là các công ty tư nhân thực hiện việc này để tìm kiếm những lợi nhuận được tính bằng tiền, một số các trường hợp khác là do người dân hợp tác để có được những lợi ích chung trong thực tế, chỉ có điều là chúng không được quy ra tiền hoặc được trao đổi trên các thị trường truyền thống. Việc phát hiện những ví dụ như vậy thường làm các nhà kinh tế học đặc trưng - những người mà tư duy của họ thường bị đóng khung trong những mô hình tương tác kinh tế sai lầm - ngạc nhiên. Có lẽ một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất là về việc người ta phát hành ra tiền tệ tư nhân (hay “hoạt động ngân hàng tự do”). F. A. Hayek, George Selgin, và người bạn đồng môn của tôi tại George Mason University là Larry White đã đi đến kết luận rằng không chỉ những gì tương tự tiền đều có khả năng được khu vực tư nhân cung cấp mà trên thực tế chúng đã được khu vực tư nhân cung cấp - đặc biệt là khoảng thời gian từ 1716 đến 1844 tại Scotland. Về đường xá Với các đường cao tốc giới hạn việc tham gia thì không có vấn đề gì. Những nhà xây dựng đường cao tốc tư nhân có thể dựng các trạm soát vé tại đầu đường và cuối đường để thu phí việc sử dụng đường của họ. Không một kẻ lậu vé nào có thể làm hỏng những nỗ lực thu phí từ những khách hàng sẵn lòng chi trả. Tuy nhiên các khu phố thì lại khác. Thực hiện việc thu phí tại các ngã tư quả là một điều bất tiện khủng khiếp. Các hình thức hợp tác công – tư: 20 Nhóm 11
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nghiên cứu đề tài “Đánh giá ruỉ ro trong quá trình hoạt động của Công ty Cổ phần đường Biên Hòa”
43 p | 615 | 334
-
Đề tài “Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế”
38 p | 605 | 280
-
Luận văn tốt nghiệp Dược sĩ: Nghiên cứu sử dụng tinh bột làm chất bảo vệ trong quá trình tạo nguyên liệu Probiotic chứa Lactobacillus acidophilus- Nguyễn Mai Hương
61 p | 388 | 110
-
Tiểu luận Triết học số 16 - Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay
21 p | 762 | 106
-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Khảo sát ảnh hưởng của một số yếu tố trong quá trình lên men tỏi đen và phân tích một số hoạt chất trong tỏi đen
51 p | 380 | 104
-
Tiểu luận Triết học số 18 - Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
41 p | 410 | 86
-
Luận văn: Đánh giá chất lượng của dầu đầu cá ngừ thu được bằng phương pháp thủy phân và sự biến đổi của dầu trong quá trình bảo quản
61 p | 213 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Thực trạng và giải pháp trong quá trình chuyển đổi số của các đơn vị viễn thông
113 p | 72 | 39
-
ĐỀ TÀI : BIÊN SOẠN TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN DÀNH CHO CHA MẸ TRẺ KHIẾM THÍNH TRONG QUÁ TRÌNH CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ KHIẾM THÍNH TỪ 0 ĐẾN 3 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
6 p | 198 | 19
-
Báo cáo "Những biến đổi nhận thức của cư dân ven đô trong quá trình đô thị hoá"
6 p | 89 | 19
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Hóa học: Nghiên cứu đặc tính nhiệt phân của gỗ keo và quá trình khí hóa tạo khí nhiên liệu
24 p | 63 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về phát triển cở hạ tầng trong quá trình xây dựng nông thôn mới huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
107 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong quá trình hội nhập
111 p | 27 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Toán: Vận dụng một số kĩ thuật đánh giá quá trình học tập của học sinh vào dạy học chương Đạo hàm - Đại số và Giải tích 11
79 p | 28 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Đo lường và đánh giá trong giáo dục: Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả khoa học của học sinh Việt Nam - Nghiên cứu từ dữ liệu học sinh trong Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) chu kỳ 2015
165 p | 26 | 5
-
Luận án Tiến sĩ Đo lường và đánh giá trong giáo dục: Mối tương quan giữa sự gắn kết của sinh viên trong quá trình học tập với kết quả học tập của sinh viên (Nghiên cứu trường hợp tại trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp đại học Thái Nguyên)
107 p | 29 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định theo đuổi công việc của ứng viên trong quá trình tuyển dụng tại tổ chức công Quận 3
118 p | 57 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn