intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Na (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:40

102
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'đề tài: trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp việt na (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Na (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường

  1. ĐỀ TÀI Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường Giáo viên hướng dẫn : Ph ạm Nguyễn Cương & Nguyễn Trần Minh Thư S inh viên thực hiện : Hồng Đức & Đức Hải
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nhiều nă m đã đi qua sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bản đồ địa lý kinh tế, chính trị thế giới đã được phân bố lại. Sự thành công hay thất bại c ủa từng quốc gia đã được thời gian khẳng định như giá trị chung c ủa quá trình phát triển nhân loại. Một trong những nước thành công trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội phải kể đế n Nhật Bản và các nước NICs, Châu á... tất nhiên không thể dựa vào một vài khía cạnh kinh tế xã hội để định giá s ự phát triển, song nhiều công trình nghiên c ứu c ủa các nhà khoa học thế giới, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách đề u khẳng định được mấu chốt ở chỗ các nước đều phát triển nền kinh tế thị trườ ng và mở rộng giao lưu quốc tế. Quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế không còn là xu hướ ng mà đã trở thành quy luật khách quan. Tuy nhiên để thúc đẩ y nhanh chóng quá trình hội nhập phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện hoàn cảnh c ụ thể c ủa mỗi nước trong đó việc hoạch định chính sách đúng đắn và các biện pháp thực hiện có vai trò đặc biệt quan trọng. Việt Nam là một nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, thúc đẩ y xuất khẩu nó i riêng được coi là một trong những nội dung quan trọng hàng đầ u trong chiế n lược phát triển kinh tế xã hội. Thúc đẩ y xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế c ủa đất nước thực hiện quá trình hội nhập kinh tế trong phạm vi khu vực c ũng như quốc tế đồng thời phát triển nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đạ i hoá. Trong những năm gần đây, xuất khẩu c ủa Việt Nam đã đạt được kết quả nhất định, chẳng hạn như trong việc chuyển hướ ng và mở rộng thị trườ ng, trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp thay đổi cơ cấu mặt hàng ngà y càng phù hợp với yêu cầu c ủa thị trườ ng. Tuy nhiên vẫn còn một số điể m cầ n lưu ý đó là việc cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là sản phẩ m thô và sơ chế, khả năng cạnh tranh c ủa hàng Việt Nam trên thị trườ ng thế giới còn rất hạn chế, chủ yếu là do tiêu chuẩn và giá thành c ủa nhiều mặt hàng chưa đạt tiêu chuẩ n quốc tế. Do đó cần phải có một hệ thống các chính sách thúc đẩ y xuất khẩu, giả m thiểu những hạn chế trên. Chuyên đề : “Trong xu thế hội nhập c ủa thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp c ủa bạn) phải làm
  3. những gì đ ể nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường” ở Việt Nam là tên đề án môn học thương mại hướ ng tới hội nhập kinh tế quốc tế. CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC THI CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU Các nhà kinh tế học hiện đạ i đã chỉ ra rằng : có hai phương pháp thực hiệ n quá trình công nghiệp hoá (CNH) là chiến lược thay thế nhập khẩu và chiến lược hướ ng về xuất khẩu. Còn chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô được coi là chiến lược tạo nguồn vốn ban đầ u cho quá trình CNH. Đồng thời, họ cũng chỉ ra rằng việc lựa chọn chiến lược nào cho phát triển kinh tế đất nước là tuỳ thuộc vào đặc điể m, điều kiện c ủa mỗi nước.Tuy nhiên, đối với nước nào áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu cũng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và trong một phạ m vi nhất định là quy mô thị trường nhỏ dung lượ ng thương mại không lớn. Trong khi đó, công nghiệp hoá là một quá trình đa ngành công nghiệp tác động vào nền kinh tế xã hội một cách toàn diện, liên tục với trình độ công nghệ ngà y càng cao. Quá trình đó làm thay toàn diện nền kinh tế đa đất nước từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu lên một nước có nền công nghiệp hiện đạ i, phát triển. Điều đó có nghĩa là quá trình CNH đòi hỏi một khoảng thời gian dài để xây dựng một nền kinh tế có tiềm lực mạnh về mọi mặt. Đây c ũng được xác định là nhiê m vụ trung tâm trong chiến lược phát triển c ủa mọi quốc gia. Trong lịch sử phát triển CNH, các quốc gia đều bắt đầ u xây dựng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp phát triển còn hết sức sơ khai trở thành một nước xuất khẩu lương thực, công nghiệp hiện đạ i với công nghệ cao. Nhưng quá trình đó ở các nước khác nhau thời gian hoàn thành là không giống nhau : Anh cần khoảng 120 năm, M ỹ cần khoảng 80 năm, nhóm các nước NICs chỉ cần khoảng 30 nă m... Như vậy một xu hướ ng chung là những nước tiến hành CNH cần thời gian hoàn thành càng ngắn nhưng lại đạt được những kết quả rất cao. Sở dĩ có xu hướng trên là do quá trình CNH ở các nước khác nhau tiến hành vào các thời kỳ khác nhau, tại các thời kỳ đó trình độ phát triển c ủa khoa học công nghệ cũng không giống nhau mà c ụ thể là càng ngày càng phát triển, càng hiện đạ i. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá ở các thời kỳ khác nhau được tiế n hành theo các trình tự khác nhau từ thứ tự đến nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai và sự can thiệp c ủa Chính phủ vào quá trình đó cũng khác nhau. Đây là s ự khác biệt cơ bản của quá trình công nghiệp hoá ở Châu Á và các nước phương Tây. Đối với các nước NICs và ASEAN thì sự can thiệp c ủa Chính phủ có thể coi là
  4. một nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công c ủa quá trình CNH. Điều đó chứng tỏ vai trò cần thiết c ủa Nhà nước trong quản lý vĩ mô, lựa chọn đườ ng đi nước bước kết hợp với việc lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế, tạo ra hướng đúng để phát huy lợi thế so sánh c ủa đất nước. Từ đó, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩ y mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đất nước. Trong thời kỳ đầ u các nước NICs và ASEAN đề u lựa chọn chính sách phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực có sẵn trong nước và hàng tiêu dùng. Thờ i kỳ này, vai trò c ủa Chính phủ trong việc định hướ ng chiến lược, tạo khuôn khỗ pháp luật, đặc biệt là đầ u tư phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Khi chiến lược này bộc lộ những hạn chế đặt ra yêu cầ u khách quan là phải chuyển hướng chiến lược thì Chính phủ đã nhanh chóng định hướng lái nền kinh tế cho phù hợp với quy luật và thời đạ i .Như vậy, quá trình chuyển hướ ng chiến lược hướng về xuất khẩu là đúng đắ n và phù hợp với quy luật cái c ũ thay thế cái mới, bắt kịp xu hướng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để thấy được tính quy luật này, vai trò c ủa Chính phủ thể hiện như thế nào và tiện liên hệ với điều kiện, đặc điểm nên khái quát mô hình CNH ở các nước NICs và ASEAN ở những điểm sau : I - NỘI DUNG CỦA CHIẾN LƯỢC THAY THẾ NHẬP KHẨU . Chiến lược thay thế nhập khẩu là để đẩy mạnh các nghành công nghiệp trong nước trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các nghành công nghiệp khai thác, sản xuất sản phẩm nội địa thay thế sản phẩm từ trước đến nay phải nhập khẩu từ nước ngoài . Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rất rõ khi tôi mua một cái áo ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh có tiền. Khi tôi mua một cái áo ở M ĩ thì tôi có áo và nước Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đâ y một sự chú trọng vào thị trường nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh c ủa hàng ngoại là nhiệm vụ trung tâm c ủa chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược này được áp dụng rộng rãi từ cuối thập kỷ 50 đế n gần cận nhất là các nước NICs và ASEAN. Về cơ bản chiến lược này được áp dụng trong giai đoạn đầ u với khoảng thời gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
  5. Cụ thể là đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầ u tiên tạo điều kiện tăng dần dung lượng thị trường nội địa nhất là đẩ y mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng s ử dụng nhiều s ức lao động nhưng cần ít vốn như các ngành : dệt, may mặc, chế biến... Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lược phát triển ông nghiệp gắn với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằ m đáp ứng nhu cầu tiê u dùng nội địa và giải quyết việc là m. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này Đài Loan c ũng đã thấy được khuyết điểm c ủa chiến lược mà họ đang sử dụng đó là thị trường trong nước có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng trưở ng chậ m lại . Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 c ủa Malaixia thể hiện rõ đườ ng lối phát triể n kinh tế là thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu để khẳng c ủa Malaixia trong buôn bán c ũng như trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này Malaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là sản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà Malayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 1966-1970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấy cây lúa là m trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxia không những đả m bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệ m đượ c ngoại tệ làm tiền đề chuyển hướ ng chiến lược hướ ng về xuất khẩu. Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầ u đã có một cơ sở kinh tế khá vững vàng do M ỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộng với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩu với mục tiêu chính là đẩ y mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công nghiệp s ử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếu như Malayxia tong chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công nghiệp : cọ dừa, cà fê, ca cao... thì Thái Lan lại tập chung vào phát triển cây lương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản và những sản phẩ m dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là Thái Lan luôn là một nước xuất khẩu lương thực lớn ra thị trườ ng thế giới, đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đất nước .
  6. Tóm lại, việc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs cũng như các tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu các nước đều khắc phục được vấn đề lương thực và giải quyết được việc làm cho xã hội . Ngay từ nhận định ban đầ u, chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trong thời gian ngắn với quy mô thị trờng nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế của mình như giới hạn về thị trường trong nước, không cập nhật được với khoa học công nghệ hiện đạ i đặc biệt là là m chậm tiến độ công nghiệp hoá c ủa đất nước . II. HẠN CHẾ CỦA CHIẾN LƯỢC THAY THẾ NHẬP KHẨU . Những hạn chế c ủa chiến lược hướ ng nội là xuất phát từ phạm vi áp dụng của nó và yêu cầu để thực hiện chiến lược này có hiệu quả. Khi đối tượ ng áp dụng cho chiến lược này không phù hợp thì những ưu điể m c ủa nó không những không được phát huy mà còn bộc lộ những hạn chế làm kìm hãm xu hướng phát triển kinh tế của một đất nước . Thực vậy, khi thực hiện một đườ ng lối, vạch ra một phương hướng phát triển thì không thể không tính đế n thị trườ ng ảnh hưởng c ủa nó. Xuất phát từ nội dung c ủa chiến lược thay thế nhập khẩu là sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu tối thiểu c ủa đấ t nước tức là lấy thị trường trong nước làm trọng tâm để buôn bán và lưu thông hàng hoá thì chí ít về quy mô thị trườ ng đó trước hết phả i rộng rãi. Đối với một nước thị trường nội địa được coi là phù hợp với chiến lược này là một đất nước có quy mô dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Khi quy mô dân s ố đông và khả năng tiêu dùng lớn thì tương quan giữa sản xuất và tiêu dùng mớ i cân đối tức là sản xuất mở rộng c ũng tiêu thụ hết. Do đó, với những nước có quy mô dân số nhỏ bé thì dung lượng thị trườ ng nhỏ, chỉ cần sản xuất dướ i mức tối ưu c ũng đã đáp ứng đủ nhu cầu. Điều đó đồng nghĩa với không có động lực để mở rộng sản xuất hay tối ưu hoá các yếu tố nguồn lực.Thực tế điều này xảy ra ở những nước có quy mô nhỏ bé như Hàn Quốc. Như vậy với những nước có phạ m vi, quy mô thị trường nhỏ thì việc áp dụng chiến lược hướng nội là không phù hợp. Đây có thể coi là một yêu cầu để thực hiện chiến lược nhưng c ũng có thể coi là một hạn chế c ủa chiến lược. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là khi quy mô thị trường lớn thì áp dụng chiến lược hướng nội là thành công mà ngay khi điều kiện đó được đáp ứng thì những hạn chế khác c ủa chiến lượ c như làm giảm khả năng cạnh tranh
  7. của các doanh nghiệp trong nước lại tăng lên. Sở dĩ nảy sinh ra vấn đề này là xuất phát từ sự can thiệp c ủa Chính phủ. Khi mà động cơ có tác động mạnh mẽ nhất để các doanh nghiệp sản xuất cạnh tranh với nhau là lợi nhuận thì yếu tố này đã bị triệt tiêu khi có sự can thiệp của Chính phủ. Bởi vì, khi Chính phủ bảo hộ bằng hạn ngạch hay thuế quan tức là Chính phủ đã chịu phần thua lỗ thực sự mà các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả mang lại. Do được bảo hộ và mua nguyên vật liệu đầ u vào với giá rẻ nên các nhà sản xuất yên tâm không phải lo cạnh tranh tìm kiếm thị trường để mua được nguyên liệu rẻ, hay cải tiến công nghệ để nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm cạnh tranh với giá hàng nhập trên thị trường quốc tế. Tất cả các quá trình đó đáng nhẽ họ phải tìm tòi nghiên cứu thì họ lại trông chờ vào sự bảo hộ c ủa Chính phủ. Kết quả của sự bảo hộ này làm thất thu cho ngân sách nhà nước đồng thời làm tăng khoảng cách chênh lệch trình độ sả n xuất giữa các nước trong khu vực c ũng như trong thị trường quốc tế. Quá trình này nếu không kịp thời nhận ra, dần dần bãi bỏ bảo hộ thì sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ lạc hậu, ngày càng tụt hậu so với thời đại. Thực tế các nước NICs và ASEAN c ũng nhanh chóng nhận ra hạn chế này và họ khắc phục bằng cách giảm dần bảo hộ hoặc thay đổi chiến lược bảo hộ cho phù hợp với điều kiện c ủa đất nước mình. Hàn Quốc là một ví dụ: trong giai đoạn phát triển mậu dịch 1962-1971 Hàn Quốc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu gặp khó khăn là năng lực xuất khẩu hạn chế dẫn tới mất cân đối xuất và nhập khẩu. Hàn Quốc c ũng phát triển một số ngành công nghiệp nặng tạo điều kiện chuyển mạnh sang chính sách hướng về xuất khẩu. Như vậy, hạn chế thứ nhất c ủa chiến lợc hướng nội là là m giảm cạnh tranh c ủa các doanh nghiệp trong nước được xuất phát từ s ự can thiệp c ủa Chính phủ. Nhưng không vì thế mà Chính phủ bỏ mặc cho nền kinh tế tự vận động theo cơ chế thị trường mà cần phải khẳng định một cách chắc chắn rằng: vai trò của Chính phủ là một điều kiện quan trọng nhất để thực hiện chiến lược hướ ng nội thành công. Bởi vì, trong thời kỳ đầ u công nghiệp trong nước còn non trẻ chưa thể đa ra để cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì Chính phủ cần phải bảo hộ để nuôi dưỡng nó cho “ đủ lông đủ cánh” rồi phải đưa nó ra thi trườ ng cho nó tự vận động. Cho nên, biện pháp bảo hộ chỉ là biện pháp tạm thời và cần phả i được giả m dần khi các ngành sản xuất trong nước phát triển hơn.
  8. Hạn chế thứ hai c ủa chiến lược hướng nội đó là những tệ nạn phát sinh từ việc thực hiện không nghiêm túc c ủa các đối tượ ng chịu thuế và các cơ quan thuế vụ. Điều này dẫn đế n tình trạng trốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ cán bộ thuế quan gây ra thất thu cho ngân sách nhà nước, làm mất lòng tin c ủa nhân dân. Đây không còn là vấn đề vi phạm luật đơn thuần mà ngày nay đặc biệt đối vớ i nước ta nó trở thành một quốc nạn. Bên cạnh việc trốn lậu thuế là việc xin xỏ, hối lộ các quan chức phụ trách phân phối hạn ngạch nhập khẩu. Việc đánh giá sự thành công c ủa các doanh nghiệp sẽ không còn chính xác nếu nhìn vào đó mà đánh giá thực lực c ủa doanh nghiệp c ũng như khả năng quản lý c ủa lãnh đạo mà sự thành công đó có thể nhờ vào tài khéo léo, biết thương lượ ng có hiệu quả với các nhà chức trách phụ trách thuế quan hay hạn ngạch. Điều này không khuyến khích các tư nhân giỏi phát huy năng lực của mình. Một hạn chế nữa c ủa chiến lược thay thế nhập khẩu là hạn chế xu hướ ng công nghiệp hoá c ủa đất nước. Chiến lược này bắt nguồn từ công nghiệp hàng tiêu dùng sau đó tiếp tục tạo thị trường cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian. Thường thị trường trung gian nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên đầ u tư vào lĩnh vực này lại gặp những khó khăn nhất định. Do vậy, lại trông chờ vào bảo hộ điều này làm tăng giá đầ u vào đối với những ngành sản xuất hàng tiê u dùng. Để đả m bảo lợi nhuận c ủa các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu là m cho các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu trong nước không có khả năng phát triển hạ n chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp đa dạng c ủa đất nước. Theo một số nhà kinh tế hiện đạ i thì chiến lược thay thế nhập khẩu không đồng nhất với sự đóng c ửa nền kinh tế mà nó song song diễn ra hai quá trình : một mặt hạn chế thậ m chí ngăn cấ m việc nhập khẩu hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất, khuyến khích tiêu dùng nội địa, Mặt khác cho phép nhập khẩ u các yếu tố để sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu. Trong khi đó để khuyế n khích các nhà đầ u tư phát triển sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, Chình phủ áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hàng hoá sản xuất trong nước bằng thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, ưu đã i đầ u tư, Chính t ừ những ưu đã i này nên các sản phẩ m sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Do đó, không có khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu nhưng vẫn phải chi ngoại tệ để nhập khẩu máy móc
  9. thiết bị và ngyuên liệu từ nước ngoài dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài gia tăng. Nền kinh tế đó trái hẳn với mô hình kinh tế mà các nước đang phát triển xây dựng đó là : xây dựng một nền kinh tế độc lập, phát huy nội lực là chính, ít bị phụ thuộc vào nước ngoài. Do chiến lược hướng nội có những hạn chế trên, muốn khắc phục nó để đưa nền kinh tế phát triển đi lên tất yếu phải tìm cách thay đổi chiến lược. Các nước đang phát triển nhận thấy rằng để khắc phục vấn đề nợ nước ngoài, mất cân đối trong hoạt động xuất khẩu, quy mô thị trường nhỏ hẹp thì chỉ có cách là dựa vào thị trườ ng rộng lớn bên ngoài. Muốn vậy, phải mở cửa tiến hành chiế n lược hướ ng ngoại. III. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN THỰC THI CHIẾN LƯ ỢC HƯỚNG VÀO XUẤT KHẨU. Như đã phân tích ở trên, lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế cho một đất nước có tầm quan trọng như thế nào tới sự thành công hay thất bại c ủa nước đó. Nó quyết định nhanh chóng phát triển cùng với xu hướng thời đạ i hay không, hoàn thành quá trình CNH nhanh hay chậm. Chiến lược thay thế nhập khẩu đã nhanh chóng bộc lộ những hạn chế đặt ra một đòi hỏi tất yếu cho các n- ước đang áp dụng nó phải đổi hướng chiến lược. Điều đó là phù hợp với xu hư- ớng phát triển của nền kinh tế, phù hợp với quy luật khách quan đó là cái cũ phả i được thay thế bằng một cái mới tiến bộ hơn, là chiến lược hướng về xuất khẩu. Với chiến lược này các nớc khắc phục đượ c những điều kiện không phù hợp c ủa mình với chiến lược thay thế nhập khẩu đó là một thị trườ ng trong nước nhỏ hẹp, một nền kinh tế mất cân đối và nợ chồng chất nước ngoài. Đồng thời chiến lược này cho phép tất cả mọi nước tiêu dùng một lượng hàng hoá dịch vụ nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn sản xuất trong nước dựa vào lợi thế so sánh. Điều ấy có nghĩa là tôi có thể tiêu dùng một mức nhiều hơn khả năng tô i sản xuất nếu tôi trao đổi với anh và ngược lại anh c ũng được lợi khi anh trao đổi với tôi. Xét một cách khái quát hơn chiến lược hướng về xuất khẩu tác động vào phát triển nền kinh tế ở những mặt sau. -Tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động hơn. Sự phát triển c ủa ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu tác động đế n các ngành cung cấp đầu vào tạo ra một mối liên hệ ngượ c có hệ thống thúc đẩ y những ngành phát triển. Không những thế, khi có tích luỹ từ việc xuất khẩu sản phẩm tìm mối
  10. liên hệ xuôi giữa sản phẩ m thô và ngành công nghiệp chế biến phát triển. S ự phát triển c ủa tất cả các ngành này là m tăng thu nhập cho ngườ i lao động, tạo ra mối liên hệ gián tiếp cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Như vậy, chiến lược hướ ng ngoại kéo các ngành trong nền kinh tế lại gần nhau và buộc chúng phải có quan hệ với nhau. - Nếu như chiến lược thay thế nhập khẩu lấy thị trườ ng trong nước là m trọng tâ m cho phát triển thì chiến lược hướng vào xuất khẩu lại lấy thị trường quốc tế làm trung tâm cho mọi sự phát triển. Trong chiến lược hướng nội các doanh nghiệp Nhà nước ỷ lại vào Chính phủ, không có khả năng cạnh tranh thì trong chiến lược hướng ngoại các doanh nghiệp trong nước muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp không bị giới hạn bởi một quy mô thị trường nhỏ hẹp cho nên họ có thể mở rộng sản xuất để lợi dụng lợi thế quy mô. -Không những khi xây dựng nền kinh tế mở tiếp cận được với nền kinh tế có trình độ, phát triển cao hơn mà nhờ vào xuất khẩu đất nước còn có nguồn thu nhập là ngoại tệ, không phải nợ lần bị động mà còn có tiền để mua sắm má y móc thiết bị hiện đạ i, đầ u tư cho nghiên cứu phát triển máy móc điều đó giúp cho nền kinh tế chủ động hơn trong chiến lược của mình. Tất cả những ưu điể m mà chiến lược hướng ngoại khắc phục được hạn chế c ủa chiến lược hướng nội là một nguyên nhân để các nước chuyển hướng chiến lược phát triển thì nguyên nhân thứ hai là xu hướ ng hội nhập kinh tế quốc tế . Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết của quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh c ủa lực lượng sản xuất khiến thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia phải ngồi lại với nhau để tìm cách khơi thông dòng chảy c ủa hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Họ đấ u tranh thoả hiệp với nhau nhằm mở rộng hơn nữa thị trườ ng cho phát triển kinh tế. Xét cả về phương diện nhu cầu phát triển c ủa bản thân, cả về phương diện buôn có bạn, bán có phườ ng.Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
  11. IV. TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP HÌNH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM Hoạt động đối ngoại gồm ba nội dung cơ bản, hoạt động ngoại thương, hoạt động hợp tác và hoạt động du lịch-dịch vụ thì hoạt động ngoại thương chiế m vị trí quan trọng. Thông qua hoạt động ngoại thương các quốc gia phát hiện ra những lợ i thế c ủa mình và phát huy trên thị trườ ng quốc tế. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng đợc lợi thế so sánh, mà muốn tận dụng được thì phải thông qua buôn bán ngoại thương. Quan hệ giữa hội nhập quốc tế và hoạt động ngoại thương là quan hệ hữu cơ với nhau. Khi hội nhập càng mạnh mẽ thì ngoại thương cần được tự do hoá, xoá bỏ độc quyền. Do đó, hoạt động ngoại thương được quan tâm vào bậc nhất ở tất cả mọi quốc gia. Bản thân hoạt động ngoại thương có những tác động đế n tăng trưởng kinh tế. Kết quả c ủa hoạt động ngoại thương được đánh giá qua cán cân thanh toán xuất nhập khẩu biểu hiện sự tăng hoặc giảm thu nhập ngoại tệ c ủa đất nớc. Ở nước ta, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế là một chủ trương c ủa đạ i hội VIII mà đả ng ta đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động c ủa kinh tế đối ngoại. Kết hợp chặt chễ hoạt động ngoại giao của nhà nước hoạt động đố i ngoại c ủa Đả ng và hoạt động đối ngoại c ủa nhân dân. Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành s ức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực này. Nói tóm lại, do yêu cầu khách quan c ủa đất nước phải phù hợp với thực tiễn và thời đạ i nên hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoạ i thương nói riêng có những thay đổi đáng kể thể hiện ở những mặt sau : - Nước ta mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới trên tinh thần Viêt Nam muốn là m bạn và là đối tác tin cậy c ủa các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấ u vì hoà bình, độc lập và phát triển. - Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương lẫn nhau tô n trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. - Những ngành thay đổi trong hoạt động kinh tế đối ngoại dẫn tới những chuyển biến quan trọng trên toàn bộ hoạt động kinh tế c ủa đất nước ta nhiều lĩnh vực đầu tư, hợp tác quốc tế và đặc biệt là hoạt động ngoại thương . - Nhà nước xoá bỏ độc quyền ngoại thương sang tự do ngoại thương .
  12. - Cán cân thương mại dần dần được cải thiện đáp ứng đợc 4/5 kim ngạch ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị . - Cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu đợc mở rộng đặc biệt là nhóm, mặt hàng xuất khẩu chủ lực. - Thị trường xuất khẩu c ủa Việt Nam c ũng dần dần đựơ c khai thông, mở rộng trên quy mô và tỷ trọng trên từng thị trường. - Nhập khẩu c ũng có những thay đổi cơ bản về cơ cấu mặt hàng giả m mạnh nhập khẩu các thiết bị toàn bộ và tăng tỷ trọng c ủa các hàng lẻ gồ m nguyên nhiên liệu, thiết bị và phụ tùng … V- ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TRONG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA NƯỚC TA. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm là đẩ y mạnh CNH-HĐH thì hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vật chất nh vốn, thiết bị, vật liệ u mà nước ta đang rất thiếu và rất cần. Tuy nhiên để có thể thu hút đựợc nguồn vật chất đó, nớc ta phải tạo ra những cơ hội đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn nước ngoài, phải có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị tiến kịp khoa học và công nghệ hiện đạ i. Đồng thời phải đón đầu những kiến thức quản lý kinh tế hiện đạ i để vận dụng có hiệu quả . Hoạt động xuất nhập khẩu là một nội dung quan trọng trong hoạt động ngoại thương. Do đó hoạt động này chịu ảnh hưởng trực tiếp c ủa các chính sách ngoại thương. Những thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu làm thay đổi că n bản hoạt động ngoại thương, đến lượt mình, những thành công trong hoạt động ngoại thương thúc đẩ y hoạt động xuất khẩu phát triển. Trong những năm qua, nước ta đã có những chính sách đổi mới theo hướ ng mở cửa rất hấp dẫn thúc đẩ y hoạt động xuất khẩu thay đổi một cách toàn diện trên các mặt nhu : quy mô mở rộng và tốc độ tăng trưở ng nhanh, cơ cấu nhó m hàng, mặt hàng xuất khẩu c ũng đợc mở rộng theo chiều sâu cơ cấu thị trườ ng xuất khẩu được mở rộng đặc biệt là hàng xuất khẩu Việt Nam đã xâ m nhập vào một số thị trường khó tính nhất trên thế giới là Mỹ và EU . Bước vào thế kỷ mới Việt Nam vẫn phát triển trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhưng phải tận dụng các nguồn ngoại lực. Kết hợp nội lực với ngoại lực thành s ức mạnh tổng hợp tiến công mạnh mễ vào CNH- HĐH. Qua đó ta thấy hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới không những không bị xem
  13. nhẹ mà còn được quan tâm tạo điều kiện phát triển từ những chính sách ưu đã i. Đặc biệt là từ nay đế n 2006 Việt Nam phải dần dần hoàn thành giảm dần tiến tớ i xoá bỏ hạn ngạch và thuế quan theo hiệp định hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhth thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) đ ể tham gian trên. Sự phát triển nhanh chóng c ủa hoạt động xuất khẩu trong mười năm qua có thể xem là một thành tựu nổi bật c ủa công cuộc đổi mới. Điều đó thể hiện qua tốc độ tăng trưởng, quy mô xuất khẩu, cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu, cơ cấ u thị trường xuất khẩu và cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu. Năm 1989 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4.511,8 triệu rúp-USD trong đó xuất khẩu 1946 triệu, đến nă m 2000 con số này đã lên tới 23,16 tỷ USD trong đó xuất khẩu chiếm 11.540 triệu USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quâ n hàng năm c ủa thời kỳ 91-95 là 28%. Trong 6 nă m qua, toàn đả ng toàn dân ra s ức thực hiện Nghị quết Đạ i hội VIII nên đã đạt được những thành tựu sau : xuất khẩu nông nghiệp (gạo, hàng thuỷ sản và các sản phẩm cây công nghiệp) chiế m gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp tăng nhanh, giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thủ công năm 2000 khoảng 8,7 tỷ USD gấp 3 lấn so với năm 1995. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất từ trước tới nay khoảng 50 tỷ USD tăng bình quân 18,6%. Chênh lệch xuất, nhập khẩu giả m mạnh từ 49,6%(năm 1995) xuống còn 3,1% (năm 2000) so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Đạt được kết quả trên ngoài yếu tố xây dựng và phát triển thị trường còn phải kể đế n đầ u tư và phát triển năng lực s ản xuất ở mọi thành phần kinh tế mà biểu hiện rõ nhất lầ việc hình thành nhiều ngành hàng mũi nhọn. Số liệu thống kê cho thấy trên 78% kim ngạch xuất khẩu mười tháng đầ u nă m nay thuộc về những mặt hàng chủ lực bao gồm những nhóm, mặt hàng đạ t giá trị xuất khẩu từ 100 triệu USD trở lên. Nếu trong những năm 1991-1993 mới có lác đác một và i mặt hàng chủ lực thì đế n nay con số đã lên tới 12- 13 mặt hàng. Tuy đạt được những kết quả trên nhưng khi nhìn lại trong những năm qua thì thấy tốc độ tăng chậm lại biểu hịên c ụ thể là : năm 1994 tốc độ tăng xuất
  14. khẩu là 35,8%; năm 1995 tăng 34,4%; năm 1996 tăng 33,2%; năm 1998 chỉ còn 26%; năm 1999 chỉ còn 2,4% đế n năm 2000 là 23,1%. Một nguyên nhân quan trọng c ủa hiện tượng này là do cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có những thay đổi căn bản so với thời kỳ 91-95 để tạo ra những xung lượ ng mới cho tăng trưởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chuyển hướng các mặt hàng xuất khẩu đặc biệt là thịt chế biến vào thị trường Liên Xô (c ũ) gặp rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực c ũng như sự gia tăng xuất khẩu c ủa Trung Quốc đã làm cho việc xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Hồng Kông trở nên bế tắc. Về quy mô, xuất khẩu c ủa nước ta còn hết sức nhỏ bé xét cả về tương đố i lẫn tuyệt đối. Nếu tính bình quân đầ u người ngay từ những năm 1986 và hiệ n lên tới 80-90 tỷ USD. Thái Lan đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ từ những nă m 1987, hiện lên tới 55-60 tỷ USD. Philipin là nước kém hơn nhưng c ũng đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 1992 và hiện nay xấp xỉ 25 tỷ USD. Nế u tính kim ngạch xuất khẩu/đầ u ngườ i, năm 1996 Malaixia đã đạt 3700 USD, Thá i Lan đạt 930 USD và Philipin đạt 285 USD trong khi đó Việt Nam mới đạt 96 USD. Năm 2000 Indolexia đạt 267 USD, Philipin 344 USD, Thái Lan 943 USD, Malaixia 3750 USD, Hàn Quốc 3961 USD, Xingapo 4167 USD, VIệt Nam 150 USD/đầ u người. Thực tế cho thấy, nguy cơ này xa hơn là hiện thực nếu như chúng ta không có giải pháp để tạo ra những chuyển biến cơ bản cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Như trên đã phân tích một trong những nguyên nhân chủ quan quan trọng gây ra hiện tượ ng tốc độ xuất khẩ u ngày một chậ m dần là do cơ cấu mặt hàng ít có sự thay đổi căn bản. Trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu diện ra chủ yếu nhờ tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu c ủa bốn nhóm hàng : dệt may, giầy dép, sản phẩ m gỗ tinh chế và điện tử (bao gồm cả linh kiện máy tính ). Trong số này chỉ có sản phẩ m gỗ tinh chế là đạt hàm lượng nội địa cao các nhóm hàng còn lại chủ yế u dựa vao phương pháp gia công hàm ưlợng nội địa tương đối thấp. Song một điều không thể phủ nhận khi nhìn lại trong thời gia qua cơ cấu nhó m, mặt hàng xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần t ỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Nếu nh năm 1991, hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92%thì nay chỉ còn 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến trong đó có hàng chế tạo nă m 1991 chỉ chiếm khoảng 8% thì đế n nă m
  15. 2000 đã tăng lên 40%. Nhóm hàng nông lâm thuỷ-hải sản năm 91 chiếm 53% đến nay xuống còn 36,5%, nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nă m 91 chiếm 47%, năm 2000 đã lên tới 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhó m hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng đã có 16 nhóm mặt hàng hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm mặt hàng lần đầ u tiên thâm nhập vào một số thị trường. Nếu như năm 1991 mới có 4 nhó m mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ-hải sản, gạo và dệt may thì đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng chủ lực mới là cà phê, cao su, điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào diễn biến c ủa thị trường quốc tế mức đóng góp c ủa mỗi mặt hàng chủ lực trong từng năm có khác nhau. Nếu hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều đóng góp lớn vào việc tăng tốc độ tăng trưở ng xuất khẩu c ủa năm 97(26,6%) thì đầ u nă m đế n nay đế n lượt dầu thô, thuỷ sản, máy tính điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả đóng vai trò tiên phong trong việc tăng trưởng giá trị suất khẩu. Theo Tổng c ục Thống kê tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong mời tháng qua c ủa dầu thô là 51%; thuỷ sản là 16,3%; máy tính điện tử là 7,3%. Một điều nữa đáng ghi nhận là từ đầ u năm đến nay nhóm hàng nông sả n của Việt Nam (trừ gạo) luôn tỏ ra sung s ức về khả năng sản xuất và có mức xuất khẩu ngày một tăng. Trong nă m vừa qua, c ả nước xuất khẩu 74000 tấn lạc nhân (tăng gần 47%); 214000 tấn cao su (tăng 18,3%) ; 543000 tấn cà phê (tăng 65,4%) đã vượt kế hoach cả năm 8,5%; 34000 tấn chè (tăng 36% so với cùng k ỳ năm ngoái). Đặc biệt lần đầ u tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm qua không những vượt ngưỡng một tỷ mà còn đạt 1,16 tỷ USD tăng 49.45% so vớ i cùng kỳ nă m trước, vượt 6% so với kế hoạch nă m. Kết quả xuất khẩu c ủa nhó m hàng công nghiệp chế tác từ đầ u năm đế n nay vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá. Kim ngạch xuất khẩu c ủa hàng dệt may trong mư ời tháng qua đạt trê n 1.516 tỷ USD ( tăng 4.4% so với cùng kỳ năm trước), giầy dép đạt 1.163 t ỷ USD tăng 5.2%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 200 triệu USD tăng gần 49% và vượt kế hoạch năm 10.6%, điện tử đạt 132 triệu USD tăng 9%, máy vi tính đạ t 518 triệu USD tăng 38.6% so với cùng kỳ năm trước. Theo ông Lê Đức Gia-Phó vụ Trưởng Vụ tổ chức Bộ thương mại ba nhó m hàng nêu trên có tầ m quan trọng như ba chân kiềng c ủa hoạt động xuất khẩu nớc ta. Ông nhận định : “hàng nă m do nhiều yếu tố khác nhau có thể nhó m
  16. hàng này tăng nhó m hàng kia giả m nhưng nếu biết phát huy để bù trừ cho nhau thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng bền vững”. Nếu như trên phân tích cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng c ủa hiện tượng tốc độ tăng trưở ng giảm dần là do cơ cấu hàng xuất khẩ u chưa có những thay đổi trên tất cả các mặt hàng mà chủ yếu nhờ tăng nhanh kimh ngạch c ủa bốn nhó m hàng cơ bản : dệt may, giầy dép, sản phẩ m gỗ tinh chế và điện tử thì vấn đề thị trường xuất khẩu là lời giải cho câu hỏi vì sao cơ cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi tích cực mà tổng kim ngạch xuất khẩu vẫ n tiề m ẩn nguy cơ tăng trưởng chậ m. Hiện nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 60 nước và có thoả thuận đối xử tối hậu quốc (MFN) với 68 quốc gia và vùng lãnh thổ. Sự tan rã của khối SEV dẫn tới những thay đổi lớn trong cơ cấu thị trườ ng xuất khẩu c ủa nước ta thể hiện : Liên Xô (cũ) và Đông Âu, Việt Nam chỉ còn chiế m gần 2% kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD. Do đó, Châu Á trở thành thị trườ ng xuất khẩu chính ở nước ta. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cho thị trườ ng này tăng từ 26,73% vào năm 1989 lên 43,29% vào năm 1990 và nă m 1991 tăng lên tới 76,73% và luôn duy trì trong khoảng 72-74% từ đó đế n nay. Trong đó Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn ( Nhật Bản chiếm 15,8%; các nước ASEAN chiếm 21,3%). Nhìn chung, cơ cấu thi trường xuất khẩu đã có những chuyển hướng tích c ực. Ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do các thị trường trong khu vực đang trên đà khôi phục, sức mua tăng lên một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu tăng lên ( điện tử, lương thực, thực phẩ m…). Khu vực Âu- M ỹ hàng năm nước ta xuất siêu trên 2000 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: hàng may mặc, giầy dép, thuỷ sản, cao su…. Với thị trường Tây-Nam A-Châu Phi quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và khu vực này chưa được phát triển đáng kể, mặc dù ta có khả nâng xuất khẩu gạo, chè. đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép… có thể nhận định rằng đây là khu vực còn nhiều tiềm năng để khai thác nếu s ử lý tốt vấn đề thông tin, xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm. Bên cạnh nước ta là Trung Quốc, sự gia tăng c ủa Trung Quốc là một hạ n chế gây ảnh hưởng rất lớn cho thị trường xuất khẩu c ủa Việt Nam. Tuy nhiê n kim ngạch xuất khẩu chính sang Trung Quốc tăng từ 340, 2 triệu USD năm 1996 lên 858,9 triệu USD vào nă m 2000.
  17. Tỷ trọng xuất khẩu sang EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng dầ n trong những nă m qua. Nă m 1991, EU mới chiếm 5 - 6% kim ngạch xuất khẩ u thì đế n nay đã tăng lên 21,7%. Nhìn chung quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trườ ng suất khẩu đã diễn ra tương đối tốt trong thời gian qua, góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng trưở ng kim ngạch suất khẩu sau khi mất đi thị trườ ng truyền thống. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướ ng trên tầm nhìn dài hạn, chủ yếu mới là sự thích ứng với thay đổi đột biến c ủa tình hình và vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu. Từ chỗ trước đây phụ thuộc chủ yếu vào buôn bán với hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) xuất khẩu nước ta hiện nay lại phụ thuộc lớn vào thị trườ ng Châu á. Dẫn đế n cơ cấu thị trườ ng nước ta hiện nay vẫn thiên lệch, thậ m chí trên phương diện nào đó còn thiên lệch hơn cả trước đây. Thị trườ ng nước ta mới chỉ có chiều rộng mà chưa có chiều sâu, hàng hoá và dịch vụ c ủa nước ta chưa chiế m đước thị phần lớn tại các thị trườ ng đã xâ m nhập được, thậm chí còn bị mất chỗ đứng trên một số thị trườ ng. Một hạn chế nữa là ở một số thị trườ ng có dung lượ ng hàng hoá và dịch vụ c ủa ta chưa có mặt, việc tìm kiế m, mở rộng thị trườ ng c òn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thương mại và đầ u tư để xâ m nhập thị trườ ng chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác, việc chậ m trở lại với thị trườ ng truyền thống và mở lối để “ lách chân” vào các thị trườ ng khác trong những năm gần đây thể hiện sự bất cập trong chính sách bạn hàng xuất khẩu c ủa nước ta. Như vậy, mặc dù chúng ta chủ trương đa phương hoá thị trườ ng, đa phương hoá quan hệ nhưng trên thực tế lạ i thiếu những chính sách và giải pháp c ụ thể thúc đấ y quan hệ đó. Bên cạnh những chuyển động về cơ cấu thị trườ ng, cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu c ũng có những thay đổi lớn trong những năm vừa qua. Cơ chế xuất nhập khẩu đẫ được đổi mới một cách cơ bản, chuyển từ cơ chế nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho cacs địa phương, các ngành và các thành phầ kinh tế; từ cơ chế hành chính mệnh lệnh sang sự vận hành theo cơ chế thị trườ ng định hướ ng xã hội chủ nghĩa. Ngà y 30/7/1999, chính phủ đã ban hành nghị định số 57/1999 ND-OP quy định chi tiết về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và mua bán hàng hoá, đại lý với nước ngoài. Nghi định và xu hướ ng thay đổi cơ chế trên đã xoá bỏ hoàn toà n chế độ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Tới nay đã có 8.137 doanh nghiệp
  18. đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng hơn 3 lần so vớ i thời thời gian trước ngày 1/9/1999, trong đó các doanh nghiệp quốc doanh là 4.497, ngoài quốc doanh là 3.640. Cùng với sự thay đổi cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trườ ng, thì s ự thay đổi cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu được xem là sự thay đổi sâu rộng nhất. Điều đó chứng tỏ nhà nước ta đã có những nhận định ban đầ u đúng đắ n, những chính sách đưa ra dù chưa được là hoà n chỉnh thì c ũng đã phần nào phù hợp với xu hướ ng phát triển và điều kiện thực tiễn. Kết quả c ủa những cố gắng đó là “ kim ngạch xuất khẩu c ủa Việt Nam vẫ n tăng trưở ng bền vững” như phó vụ trưở ng vụ tổ chức Bộ thương mại nhận xét. Ngoài việc phát huy nội lực c ủa các doanh nghoiệp trong nước, để đạt được kết quả trên cong có phần đóng góp c ủa các doanh nghiệp cóa vốn đầ u tư nước ngoài chưa kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô (trên 2,75 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu c ủa các mặt hàng khác c ủa khu vực đầu tư nước ngoài c ũng đạ t trên 2,7 tỷ USD, tăng 29,7% so với kết quả 10 tháng đầu năm 2000. Tựu chung lại, xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua có những thay đổ i lớn cả về quy mô, tốc độ, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trườ ng và đặc biệt là cơ cấu chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu. Những chuyển biến này là m thay đổi cục diện nền kinh tế đất nước, góp phần lớn vào thu nhập quốc dân, cải thiện đờ i sống c ủa nhân dân, thay đổi căn bản cơ cấu công nghiệp của đất nước thúc đẩ y sự hình thành cơ cấu copong nghiệp đa dạng c ủa đất nước. Qua đó, phát hiệ n những ngành có tiềm năng phát triển lớn, có khả năng tạo bước đột phá và trở thành ngành xuất khẩu đầ u tầu như dệt may, dầy dép, điện tử và đặc biệt là ngành khai thác và chế biến thuỷ sản. Tình hình xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua Thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng c ủa Việt Nam. Nó không những đóng góp vào thu nhập quốc dân c ũng như là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao mà c òn là một ngành góp phần giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, cả i thiện bộ mặt của nông thôn miền biển, làm giầu cho đất nước. Hơn nữa ngành thuỷ sản nước ta còn có tiềm năng rất lớn, cần phải phát huy hơn nữa để tăng vai trò c ủa ngành thuỷ sản trong s ự nghiệp công nghiệp hoá hiện đạ i hoá đất nước. Ở Việt Nam, như chỉ thị 20 CT/TƯ c ủa Bộ chính trị đã nêu rõ: “vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển c ủa nước ta, là thế mạnh và tiềm năng quan trọng chọ s ự nghiệp CNH, HĐH” Do vậy chỉ thị c ũng nêu: “Dựa trên những tiến bộ về khoa
  19. học và công nghệ làm động lực vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý khai thác tiề m năng biển có hiệu quả...” Cùng với tốc độ tăng trưở ng c ủa hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu năm 1999 chiế m 8,17% toàn quốc đứng hàng thứ tư trong số mặt hàng thu nhiều ngoại tệ cho đất nước, trong thời gian 10 năm qua ngành thuỷ sản có mức tăng trưở ng bình quân hàng nă m về tổng sản lượ ng khoảng 4%, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 0 đế n 15% đạt 858,6 triệu USD vào năm 1999. Tuy nhiên đây mới chỉ là con số khởi đầ u (theo nhận xét c ủa ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trưở ng bộ thuỷ sản) bởi vì ngành khai thác và chế biến thuỷ sản vẫ n còn là ngành tiềm năng chưa được đầu tư và phát triển đúng mức. Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đang khẳng định vai trò chủ lực trong xuất khẩu ở Việt Nam. Hiện nay nước ta đứng thứ 29 trên Thế giới về xuất khẩ u thuỷ sản, xuất khẩu sang 45 nước. Trong 12 năm qua, tốc độ tăng trưở ng xuất khẩu bình quân là 20% /năm (từ 90 triệu USD năm 1988 năm 2001 dự kiến 1.2 tỷ USD) ước tính giá trị xuất khẩu thuỷ s ản quý 1/2001 sẽ đạt 212 triệu USD tăng 13,88% so với cùng kỳ nă m ngoái. Kết quả cao nhất là trong hai năm 1999 -2000 đã đưa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách năm hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị cao nhất c ủa Việt Nam và là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng trưở ng trên 10% về giá trị trong hai năm qua: nă m 1999 tăng 10,59% so với nă m 1998, năm 2000 tăng 13,08% so với nă m 1999. Nếu tính cả giai đoạn 11 năm 1990 đế n 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 4,06 lần so với năm 1990. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong hai năm 1999 và 2000 những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính là: đơn vị là %. Mặt hàng 1999 2000 Hàng khô 7 5 Cá đông lạnh 10 8 Tôm đông lạnh 59 35 Nhuyễn thể đông lạnh 11 9 Các loại khác 13 43
  20. Nhìn vào số liệu trên thì trong hai nă m 1999 và 2000 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chính c ủa thuỷ sản được mở rộng nhưng vẫn trọng điểm là hàng tô m đông lạnh chiế m 39%. Tính đế n hết tháng 8/2000, sản lượ ng khai thác thuỷ sản đạt 911233 tấn tăng 110,47% so với cùng kỳ năm 1999. Một số loài trước đây dùng chế biế n bột cá hoặc phơi khô rồi tiêu dùng nội địa như cá bò, cá cơm...nay c ũng tậ n dụng để chế biến xuất khẩu . Phương thức nuôi trồng c ũng được chuyển đổi : mức độ thâm canh cáo nâng sản lượ ng khai thác lên tới 442.888 tấn kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh như vậy là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; đó là “ thiên thời địa lợi “, nhu cầu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh đặc biệt là vớ i mặt hàng chế biến giá trị gia tăng và giá trị cao hàng thuỷ sản Việt Nam được đánh giá cao hơn so với những năm trướ c. Do đó, doanh nghiệp đưa tỷ trọng hàng giá trị gia tăng từ 19,7% năm 2000, lên khoảng 30% trong nă m nay. Mặt khác giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thuỷ sản chủ lực c ủa Việt Nam tăng lên đáng kể : riêng giá trị kim nghạch xuất khẩu tôm các loại trong năm 2000 đạt 428 triệu USD so với 282 triệu USD c ủa năm 1999. Kết quả trên là hệ quả tất yếu c ủa việc chủ động tìm khách hàng, lấy xuất khẩu làm trọng tâm c ủa ngành thuỷ sản. Cùng với chính sách hỗ trợ c ủa Chính Phủ về thuế, tín dụng, đầ u tư... các doanh ngiệp xuất khẩu thuỷ sản đã phát huy hết khả năng và tích cực mở rộng thị trường. Việt Nam hiện nằ m trong danh sách một xuất khẩu vào liên minh châu Âu (EU) và có 40 cơ sở nước ta có mã số cho thị trường này. Đây chính là bàn đạp quan trọng cho xuất khẩu thuỷ sả n Việt Nam vào các thị trườ ng khác. Trong những năm gần đây kim nghạch xuất khẩu c ủa nước ta sang M ỹ cũng tăng lên từ 39 triệu năm 1998 lên tới 80 triệu năm 1999 và 129 triệu năm 2000. Ước tính tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trườ ng này trong cả nă m 2001 sẽ đạt 250 triệu và Mỹ là thị trườ ng nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai c ủa Việt Nam. Về cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiệ n xuất khẩu sang thị trườ ng EU, có thể liệt kê ra một số doanh nghiệp như An Giang fisery import-export company, work shop No 1- AGIFISH Ngoc Ha
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2