intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình

Chia sẻ: Nguyenthien Thoai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

270
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái quát về phương pháp phát triển cộng đồng, tổng quan về ý thức pháp luật và việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta hiện nay, thực trạng hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã Vũ Chính,... là những nội dung chính trong đề tài "Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình". Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình

  1. Cowvũ chính TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA CÔNG TÁC Xà HỘI ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP  ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH CÔNG TÁC XàHỘI ĐỀ TÀI:  VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG GÓP  PHẦN NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦANGƯỜI DÂN  TRÊN ĐỊA BÀN XàVŨ CHÍNH TP THÁI BÌNH                           Học viên thực hiện: NGUYỄN THIỆN THOẠI Lớp: Đại học Công tác xã hội K4 ­ TPTB Hệ đào tạo: VHVL 1
  2. MỞ ĐẦU  1. Lý do chọn và thực hiện đề tài     Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống,nâng cao ý thức pháp luật của người   dân được bắt đầu bằng hoạt động phổ  biến và giáo dục pháp luật, đây là  khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải pháp  luật vào cuộc sống. Vì thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào như  tuân   thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật thì  trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật.   Bên cạnh đó việc giáo dục pháp luật còn giúp hình thành ý thức pháp luật  trong nhân dân, tạo lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn trọng pháp  luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong   cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy   công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức cho người  dân không ngừng được đẩy mạnh thực hiện và đặt ra những kế  hoạch hoạt  động phù hợp với đặc thù riêng của địa phương mình.  Tuy nhiên trên thực tế vũ chính là một xã vùng ven còn nhiều khó khăn ý thức   pháp luật trong nhân dân còn nhiều hạn chế do đó đòi hỏi công tác phổ biến,  giáo dục pháp luật để  nâng cao ý thức pháp luật của người dân phải được   tiến hành thường xuyên liên tục với nhiều biện pháp thích hợp hơn. Là một   sinh viên cuối khoá được phân công về thực tập,nghiên cứu, tìm hiểu làm bài   điều kiện tốt nghiệp dùng phương pháp phát triển cộng đồng nâng cao ý thức  pháp luật của người dân tại địa phương , trong quá trình làm bài em đã được   tiếp cận, tìm hiểu với công tác phổ  biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật  qua đó thấy được phần nào những khó khăn vướng mắc cũng như những kết  quả đã đạt được của công tác này tại địa phương. Do đó em chọn đề tài “vận  dụng phương pháp phát triển cộng đồng nâng cao ý thức pháp luật người dân  trên địa bàn ” là nội dung chính trong bài điều kiện của mình. Tuy nhiên do  kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập không dài nên không thể tránh khỏi  những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô   và các bạn để nhận thức của em về vấn đề này được hoàn thiện hơn. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. ­ Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến việc thực  hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh   quốc phòng và đời sống sinh hoạt, học tập của toàn thể  cán bộ, công chức,  2
  3. viên chức, người lao động, các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, nhằm nâng cao   hơn nữa nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức tự giác, chủ động tìm   hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân; đồng thời tạo điều kiện để cán bộ và  nhân dân sử  dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ  bảo vệ  quyền và lợi  ích hợp pháp của mình, góp phần giữ  gìn trật tự, kỷ  cương, ngăn ngừa có   hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật. ­   Tạo   bước   phát   triển   mới   trong   công   tác   phổ   biến,   giáo   dục   pháp   luật  (PBGDPL), đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý cho   cán bộ và nhân dân trên địa bàn. ­ Thực hiện xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đẩy mạnh thực  hiện cơ  chế  phối hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ  động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đơn vị đối  với công tác PBGDPL; huy động sức mạnh tổng hợp của cả  hệ  thống chính  trị  và toàn xã hội tham gia, đưa công tác PBGDPL thành hoạt động thường  xuyên, liên tục của mọi cơ quan, tổ chức, công dân. Yêu cầu ­ Kế thừa những kết quả đạt được, bảo đảm tính liên tục và phát triển trong  thực hiện các nội dung, hình thức, biện pháp PBGDPL. Sử dụng và khai thác  có hiệu quả  các hình thức PBGDPL; kết hợp việc PBGDPL trên diện rộng  với các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở, khai thác  tủ sách pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp, xử lý vi   phạm pháp luật và các hoạt động văn hóa khác. ­ Phổ  biến giáo dục pháp luật phải gắn với việc quán triệt các chủ  trương,   chính sách của Đảng về  phát triển kinh tế  ­ xã hội, củng cố  quốc phòng an   ninh trên địa bàn. ­ Coi trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra và thực hiện nghiêm túc chế  độ  thông tin báo cáo, sơ  kết, tổng kết nhằm đánh giá đúng tình hình và kết quả  thực hiện; kịp thời đưa ra những giải pháp phù hợp để  tăng cường và nâng   cao hiệu quả thực hiện công tác PBGDPL trong địa bàn. 3.  Đối tượng, địa bàn thực hiện.   Đối tượng cần nâng cao ý thức , tuyên truyền, phổ biến pháp luật là toàn dân  trên địa bàn xã, trình độ  hiểu biết pháp luật chưa cao và mục tiêu của tuyên   truyền, phổ biến pháp luật là làm cho các công dân hiểu mình là ai, mình làm  gì và làm như thế nào, công dân hiểu và nắm được các quy định của pháp luật   để  giải quyết công việc, để  bảo vệ  quyền lợi của mình trước các cơ  quan   nhà nước. Do vậy nội dung tuyên truyền cần được giải thích bằng ngôn ngữ  3
  4. đơn giản, càng dễ  hiểu bao nhiêu càng tốt để  tiếp cận được mọi đối tượng   một cách hiệu quả, đặc biệt là các nội dung liên quan đến kiến thức pháp luật   cơ bản, các khái niệm, các quy phạm pháp luật...                                        NỘI DUNG 1.    KHÁI   QUÁT   VỀ   PHƯƠNG   PHÁP   PHÁT   TRIỂN   CỘNG  ĐỒNG 1.1. Khái niệm cộng đồng, phát triển và phát triển cộng đồng 1.1.1. Khái niệm cộng đồng : Cộng đồng là một thực thể  xã hội có cơ  cấu tổ  chức ,là một nhóm   người cùng chia sẻ  và chịu sự  ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích chung   được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên. 1.1.2. Khái niệm phát triển cộng đồng    Phát triển cộng đồng là một tiến trình làm chuyển biến cộng đồng nghèo,   thiếu tự tin, có vấn đề, có nhu cầu thành cộng đồng tự  lực và giải quyết các   vấn đề  đặt ra thông qua việc giáo dục giúp đỡ  các thành viên trong cộng   đồng, nhận thức rõ tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy hết khả năng   và tài nguyên sẵn có của họ.   Phát triển cộng đồng là một tiến trình qua đó có sự nỗ lực của chính dân cư  trong cộng đồng kết hợp với nỗ  lực của chính quyền để  cải thiện các điều  kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của cộng đồng và để  cộng đồng có điều kiện   hội nhập và tham gia tích cực vào đời sống của toàn xã hội. Thực chất của  phương pháp tổ chức và phát triển cộng đồng là người làm CTXH sử dụng kiến  thức, kỹ  năng, xây dựng, thực hiện chương trình, dự  án dựa trên sự  huy động  nguồn lực bên trong cộng đồng (nội lực) kết hợp với nguồn lực của xã hội, có   sự tham gia của nhà nước hoặc các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài (tổ chức phi chính  phủ, tổ chức xã hội), để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, tăng   cường khả năng tự lực của cộng đồng trong việc giải quyết vấn đề của mình. Đối tượng tác động của phương pháp này là cộng đồng người, sinh sống trên   một địa bàn dân cư  có những đặc điểm chung cơ  bản về  kinh tế, xã hội và   văn hóa, có vấn đề hoặc nhu cầu xã hội. Mục đích của CTXH với cộng đồng  là thông qua việc nhận diện vấn đề  của cộng đồng, đánh giá các nguồn lực,  khai thác và phát huy tiềm năng của cộng đồng, từ đó tổ chức hoạt động, thực  thi những chương trình hành động mang lại những chuyển biến tích cực cho  4
  5. cộng đồng: từ chỗ  khó khăn, kém phát triển trở thành cộng đồng tiến bộ, ổn   định, phát triển. Quá trình ứng dụng phương pháp CTXH tác nghiệp với cộng đồng, người làm  CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng cùng với cộng đồng xác định vấn đề  gặp phải, phân tích tìm ra nguyên nhân của những trở  ngại khó khăn  ảnh   hưởng tới sự  phát triển của cộng đồng và tạo ra mối quan hệ, liên kết giữa  các thành viên trong cộng đồng, giữa cộng đồng với các cơ  quan chức năng,  tổ  chức, thông qua các chương trình, dự  án hoạt động làm thay đổi, chuyển  biến tích cực cộng đồng: từ yếu, kém, có vấn đề, có nhu cầu trở thành cộng  đồng thức tỉnh, lên khá và phát triển ­ cộng đồng tự lực.     1.2. Bối cảnh ứng dụng phương pháp phát triển cộng đồng.  ­ phương pháp này là cách tiếp cận nhắm vào năng lực, có khả năng hay chắc   chắn tăng năng lực cho cộng đồng, thúc đẩy người dân tạo ra sự thay đổi đầy  ý nghĩa và tích cực từ  bên trong cộng đồng. Thay vì nhắm vào nhu cầu của   cộng đồng, mặt thiếu sót, khiếm khuyết và vấn đề, cách tiếp cận giúp họ  (cộng đồng) trở nên mạnh mẽ hơn và tự lực tự cường hơn qua khám phá, liệt   kê, nhận dạng (sắp đặt) và huy động tất cả các nguồn lực tại chỗ của họ. Ít người nhận thức (hiểu biết) có bao nhiêu nguồn lực của một cộng đồng  bất kỳ như: Kỹ  năng của người dân, từ  người trẻ  đến người khuyết tật, từ  người có  chuyên môn, thành đạt đến người nghệ sĩ nghèo,… Sự cống hiến, đóng góp của các hội đoàn dân sự  như: nhà thờ, các nhóm văn  hóa, câu lạc bộ, hội đồng hương/ hàng xóm,… Các nguồn lực từ  các tổ  chức (thiết chế) chính thức như: kinh tế/ doanh  nghiệp, trường học, thư viện, trường học cộng đồng, bệnh viện, công viên,  các tổ chức xã hội. ­  một chiến lược phát triển cộng đồng bền vững. Vượt trên sự huy động của  một cộng đồng riêng biệt. Cách tiếp cận quan tâm đến việc làm thế  nào để  nối kết nguồn lực vi mô với môi trường vĩ mô. Nói một cách khác, quan tâm   đến những  ranh giới của cộng đồng và làm thế nào đặt cộng đồng trong mối  quan hệ với các thiết chế, tổ chức hội đoàn ở địa phương và môi trường kinh  tế bên ngoài mà  truyền “lửa” cho các hội đoàn thể  địa phương và những mạng lưới không  chính thức. nhận thức về vai trò và những khả năng của cộng đồng trong việc  lèo lái tiến trình phát triển bằng cách nhận dạng và huy động những nguồn  5
  6. lực hiện có nhưn­ sự phồn vinh liên tục của cộng đồng tùy thuộc vào đó.Cách  tiếp cận chú ý đến g thường không được nhận ra hay không được tận dụng,   vì thế đáp ứng và tạo ra cơ nguồn lực xã hội: tài năng, năng lực của cá nhân,   và mối quan hệ xã hội mà nó hội tại địa phương. ­ phát triển cộng đồng với tư cách là một chiến lược, nhằm kích thích và duy  trì sự  phát triển trong các vùng gần thành thị  và các cộng đồng  ở  nông thôn.  Nó cũng thu hút sự  đồng tình của một số  người tuy không nhiều nhưng tận   tâm. Đó là những người đã bị  vỡ  mộng với cách tiếp cận phát triển cộng   đồng dựa trên nhu cầu, do đó, nó mở ra triển vọng là kích thích sáng kiến địa  phương và tăng cường hành động tập thể. 1.3. Nguyên tắc tác nghiệp của phương pháp phát triển cộng đồng. Đ ố i t ượ ng tác nghi ệ p c ủ a ph ươ ng pháp tổ  ch ứ c và phát tri ể n c ộ ng   đồ ng  là   cộ ng   đ ồ ng  có  nhu  c ầ u,  có  v ấ n   đ ề ;  v ớ i   đặ c  thù  cộ ng  đồ ng  là  mộ t thành t ố  c ủ a c ấ u trúc xã h ộ i, đ ượ c xác đ ị nh d ự a trên nh ữ ng tiêu chí   nh ấ t đị nh, th ườ ng đ ượ c hi ể u khái quát là mộ t t ậ p h ợp dân c ư  sinh s ố ng  trên cùng m ộ t đ ị a bàn, do đó ph ả i có nh ữ ng nguyên t ắ c tác nghi ệ p phù  h ợ p. Cùng v ới nh ững nguyên t ắ c chung, tr ở  thành nh ữ ng nguyên t ắ c cụ  th ể  nh ư:  kh ẳ ng  đ ị nh và coi tr ọ ng  đặ c   điể m riêng củ a c ộ ng  đồ ng; tôn   tr ọ ng quy ề n t ự  quy ết, t ự  ch ịu trách nhiệ m c ủ a c ộ ng đồ ng; cộ ng đồ ng  v ừ a là đố i t ượ ng tác đ ộ ng, v ừ a là nguồ n l ự c và l ự c l ượ ng ch ủ  y ế u gi ả i   quy ế t v ấ n đề , đáp  ứ ng nhu c ầ u c ủ a c ộng đồ ng… còn có nhữ ng nguyên   t ắ c đ ặ c thù.  Nh ữ ng nguyên t ắ c tác nghi ệ p đ ặ c thù bao g ồ m:  + Các hoạt động phát triển cộng đồng phải dựa trên nhu cầu thiết yếu   của cộng đồng. Tác viên phát triển cộng đồng không làm thay, áp đặt chương   trình phát triển từ trên hoặc từ bên ngoài vào mà phải được xuất phát từ bên   trong cộng đồng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, quyết định đến  động lực, sự  tham gia ­ điều kiện thành công của chương trình/dự  án phát  triển cộng đồng. + Phát triển cộng đồng phải dựa trên cơ sở và hướng tới thực hiện công  bằng, bình đẳng, dân chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi công bằng, bình đẳng, dân  chủ về thông tin, về quyền tham gia, về mối quan hệ giữa lợi ích cộng đồng  với lợi ích cá nhân và về  hưởng thành quả  từ  trước, trong và sau quá trình  triển khai thực hiện chương trình/dự án phát triển cộng đồng. 6
  7. + Khai thác và sử  dụng tối  ưu các nguồn lực cho chương trình/dự  án  phát triển cộng đồng. Các nguồn lực phát triển cộng đồng bao gồm nguồn lực   vật chất và nguồn lực tinh thần, nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài.  Nguồn lực bên trong cộng đồng cần khai thác, phát huy như sức mạnh từ tinh   thần cộng đồng, đoàn kết cộng đồng, văn hóa cộng đồng, cố kết cộng đồng,  kinh nghiệm cộng đồng, cá nhân có uy tín trong cộng đồng... Nguồn lực bên   ngoài có thể là nguồn lực tài chính, khoa học – kỹ thuật, chính sách... và đặc  biệt là vai trò của tác viên phát triển cộng đồng. + Giải quyết vấn đề, đáp  ứng nhu cầu chung và chú trọng những  ưu   tiên. Chương trình/dự  án phát triển cộng đồng, bên cạnh việc quan tâm đến   nhu cầu chung của cộng đồng cũng cần chú trọng đến những đối tượng  ưu   tiên như người nghèo, người yếu thế, thiệt thòi, trình độ thấp... + Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và  sự  liên kết chặt chẽ: bắt đầu từ  những hoạt động nhỏ  để  đạt được những  thành công nhỏ. Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự  hợp tác và sự  liên kết, nó đòi hỏi phát triển phải được coi như  là một tiến   trình, trong đó có các bước đi thích hợp từ  thấp đến cao, từ  chỗ  nhận diện,   đánh giá nhu cầu đến những hành động dựa trên việc khai thác, sử dụng, phát  huy nguồn lực, chuyển biến cộng đồng ở tình trạng yếu kém, chưa thức tỉnh  tiến lên cộng đồng thức tỉnh, tự lực và phát triển. Trong toàn bộ tiến trình, sự  chia sẻ về kinh nghiệm, chia sẻ về phương pháp, kĩ thuật và các sáng kiến...   từ đó có thể tránh được những mâu thuẫn, những xung đột xảy ra làm tổn hại   đến  sự phát triển cộng đồng là hết sức quan trọng. + Có niềm tin vào sức mạnh của cộng đồng. Khuyến khích người dân  phát huy khả năng, tiềm năng của họ để cùng thảo luận, ra quyết định và thực  hiện hành động trong các chương trình hành động giải quyết vấn đề, phát  triển cộng đồng. Niềm tin và sự  khích lệ  sẽ  tạo ra những sự  thay đổi trong  cộng đồng, từ cộng đồng. 1.4. Tiến trình phát triển cộng đồng . Tiến trình phát triển cộng đồng là quá trình bao gồm các bước hoạt động  thể hiện sự tương tác giữa người làm CTXH (tác viên phát triển cộng đồng)  với một cộng đồng cụ  thể nhằm đạt được mục đích và các mục tiêu đặt ra.  Thực chất tiến trình phát triển cộng đồng là quy trình thực hiện các bước   7
  8. trước, trong và sau của một chương trình, dự án hoạt động đối với một cộng  đồng. Tiến trình này bắt đầu từ  lựa chọn, tiếp cận, nhận diện vấn đề, đánh  giá nhu cầu, tiềm năng, những điều kiện thuận lợi, khó khăn của một cộng  đồng đến việc thiết kế/xây dựng, thực hiện chương trình, dự  án phát triển  cộng đồng và những hoạt động phát triển sau chương trình, dự án. + Tìm hiểu và đánh giá cộng đồng: bước chuẩn bị, tạo tiền đề  đi đến   quyết định xây dựng và thực hiện chương trình, dự  án phát triển cộng đồng.  Mục đích của bước tìm hiểu, đánh giá cộng đồng là nghiên cứu, khảo sát thực tế  nhằm xác định tình trạng hiện thời của cộng đồng, nhận diện, phát hiện những   vấn đề gặp phải của cộng đồng, đánh giá nhu cầu, tiềm năng, những thuận lợi,  khó khăn đối với hoạt động, tổ  chức đời sống của cộng đồng và dân cư  trong  cộng đồng. Để  đạt được mục đích đặt ra, tác viên phát triển cộng đồng phải  thực hiện các nhiệm vụ: tiếp cận cộng đồng, thu thập, xử lý, phân tích thông tin  thông qua sử  dụng các phương pháp và kỹ  năng chuyên nghiệp; thảo luận với  cấp trên, với lãnh đạo và đại diện cộng đồng về những kết luận, đánh giá hiện   trạng, nhu cầu, tiềm năng của cộng đồng, từ đó đề xuất giải pháp đáp ứng nhu  cầu, giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực, hướng tới thiết kế, xây dựng chương   trình, dự án phát triển cộng đồng. + Xây dựng chương trình, dự  án phát triển cộng đồng: đáp  ứng nhu cầu,  giải quyết một hay một số  vấn đề  của cộng đồng với sự  tham gia tích cực   của nhiều lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng, trong đó đối   tượng tham gia, đích tác động hướng tới là bản thân cộng đồng, thể  hiện  bằng một kế hoạch can thiệp hay một chương trình hành động được xác định  bởi một khung thời gian, nguồn lực và hoạt động quản lý. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động hay dự  án phát triển   cộng đồng là trọng tâm, là nội dung quan trọng nhất của một tiến trình phát  triển cộng đồng, thể hiện vai trò của tác viên phát triển cộng đồng trong mối   quan hệ  tương tác với một cộng đồng cụ  thể. Một chương trình/dự  án phát  triển cộng đồng phải được xây dựng, triển khai hoạt động dựa trên những   nguyên tắc phát triển cộng đồng và bao gồm những nội dung cơ bản: (1)Tên  chương  trình/dự  án;  (2)Mục đích, các mục tiêu cụ  thể; (3) Thời gian,  địa  điểm, phạm vi hoạt động, ban/người điều hành, quản lý hoạt động và đối  tượng tham gia, hưởng lợi/đích tác động hướng tới của chương trình/dự  án;  (4)Nội dung, nhiệm vụ, kế  hoạch chi tiết của từng hoạt động trong chương  8
  9. trình/dự  án; (5)Nguồn lực và các điều kiện cơ  sở  vật chất, cơ  sở  pháp lý,  chính sách cần thiết cho hoạt động của chương trình/dự án; (6)Thuận lợi, khó  khăn và những vấn đề  có thể  phát sinh, cần giải quyết trong quá trình triển  khai thực hiện chương trình/dự  án; (7)Dự  báo những kết quả  đạt được của  dự án dựa trên khả năng sử dụng nguồn lực đáp ứng nhu cầu, mục tiêu. + Hoạt động chuyển giao, phát triển sau chương trình/dự  án: nâng cao  năng lực của cộng đồng – cộng đồng tự lực. Phát triển cộng đồng không chỉ  dừng lại  ở  việc thực hiện những dự án đơn lẻ, có tính giai đoạn, nhất thời,  đáp ứng một hay một số nhu cầu, giải quyết một hay một số vấn đề  nào đó   mà điều quan trọng hơn, hướng tới mục đích cao hơn phải là sự chuyển giao  quy trình tác động, tiếp diễn chuyển biến từ cộng đồng yếu kém, thụ  động,  có vấn đề sang cộng đồng thức tỉnh và lên cộng đồng chủ động, tự lực, sáng  tạo. Một mục tiêu quan trọng, một tiêu chí đánh giá thành công của chương   trình dự án là trong quá trình triển khai thực hiện có những hoạt động hướng  tới nâng cao năng lực nhận thức, tổ  chức, giải quyết vấn đề  của cộng đồng  sau khi chương trình/dự án kết thúc. Những kết quả, kinh nghiệm, kiến thức,   kỹ năng đạt được của cộng đồng từ chương trình/dự án là điều kiện, yếu tố  động lực thúc đẩy cộng đồng giải quyết những vấn đề  đáp  ứng những nhu   cầu và theo những mục tiêu mới – phát triển bền vững. Vì vậy, sau khi kết   thúc chương trình/dự án, mặc dù không còn sự tham gia trực tiếp của tác viên  phát triển cộng đồng nhưng cộng đồng vẫn luôn tiếp diễn việc nhận thức,  phát hiện, huy động nguồn lực bên trong và bên ngoài để  giải quyết những   vấn đề nảy sinh nhằm duy trì và đảm bảo sự ổn định, nâng cao đời sống mọi   mặt của cộng đồng. 1.5. Dự án/chương trình phát triển cộng đồng. ­ Khái niệm dự án phát triển cộng đồng: Dự  án phát triển cộng  đồng là một loại dự   án phát triển nhằm giải  quyết một hay một số  vấn đề  của cộng đồng với sự  tham gia tích cực của   nhiều lực lượng xã hội, thể  hiện bằng một kế  hoạch can thiệp, hỗ trợ hay   một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời gian, nguồn   nhân lực, tài chính và quản lý. Dự  án phát triển cộng đồng là dự  án hướng trực tiếp vào cộng đồng  nhằm mục đích giải quyết vấn đề, đáp  ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng  tới sự  phát triển toàn diện của cộng đồng thông qua việc nâng cao năng lực  9
  10. của người dân và các tổ chức trong dân chúng. Như  vậy, dự  án phát triển cộng đồng phải hướng vào những mục tiêu  phát triển cụ  thể, nó không phải là một dự  án cứu trợ  hay giải quyết tình  huống khẩn cấp, tạm thời, trước mắt, nó được thực hiện có sự phối hợp của  nhiều nguồn lực, lực lượng và đối tượng của dự án là tạo ra sự thay đổi tích  cực tại cộng đồng, từ bên trong cộng đồng. ­ Quy trình thiết kế, thực hiện dự án phát triển cộng đồng: + Thiết kế dự án: Bao gồm các khâu từ nhận diện cộng đồng, xác định  nhu cầu, xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ  thể, đánh giá nguồn lực,   thuận lợi, khó khăn cho đến việc hoạch định các hoạt động. + Triển khai dự án: Là quá trình triển khai các hoạt động đã được hoạch  định – lên kế hoạch, bao gồm các hoạt động phối hợp, hoạt động giám sát và   hoạt động quản lý. + Đánh giá dự án: Là quá trình gồm các hoạt động đánh giá mức độ đạt được   trên cơ  sở  đối chiếu với mục tiêu chung và mục tiêu cụ  thể  đã đề  ra, tương   ứng với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được sử dụng và  triển khai. ­ Thiết kế dự án – khung lý thuyết chung của một dự án phát triển cộng đồng * Tên dự án * Địa điểm thực hiện * Đối tượng tham gia, đối tượng đích hướng tới, quản lý thực hiện * Thời gian triển khai + Cơ sở – lý do xây dựng, thực hiện dự án + Xác định nhu cầu của cộng đồng + Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của dự án + Các nguồn lực huy động thực hiện dự án + Thuận lợi và khó khăn của việc thực hiện dự án + Tiến độ thực hiện dự án: nôi dung hoạt động theo kế hoạch cụ thể + Dự kiến kết quả đạt được của dự án 2. TỔNG QUAN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC NÂNG CAO  Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 10
  11. 2.1. Khái niệm pháp luật, ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ­ pháp luật là hệ  thống các quy tắc xử  sự  do nhà nước ban hành (hoặc thừa   nhận) và bảo đảm thực hiện, thể  hiện ý chí của giai cấp thống trị  trong xã   hội và là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.  ­ ý  thức  pháp luật  là tổng thể  các học thuyết,tư  tưởng,tình  cảm của con   người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng   ,đúng đắn hoặc không đúng dắn của pháp luật hiện hành,pháp luật trong quá  sử sự của con người,trong hoặt động của các cơ quan, tổ chức. ­giáo dục pháp luật được xem là hoạt động có tính định hướng khứ  và pháp   luật cần phải có,về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong cách của các cơ  quan đảng,nhà nước và tổ  chức xã hội,trong đó người giáo dục và người   được giáo dục luôn tác động qua lại lẫn nhau,thiết lập những hành vi sử  sự  phù hợp các quy phạm pháp luật.hoạt động của giáo dục pháp luật nhằm hình   thành ở con người thói quen sử sự phù hợp với đòi hỏi của pháp luật. Giáo dục pháp luật là quá trình tác động có tính liên tục,lâu dài,thường   xuyên.vì thế  giáo dục pháp luật phải thong qua nhiều cơ quan,tổ chức chính  trị, xã hội,trong đó hội đồng phối hợp PBGDPL giữ vai trò quan trọng,nhưng   cần phải có sự kết hợp chặt chẽ với các ban nghành lien quan nhằm mục đích  hướng dẫn hành vi con người sử sự phù hợp với quy định của pháp luật. 2.2.Thực trạng hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân ở  nước ta   hiện nay: ­  Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu   hiện tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam,  chính sách của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công  tác tuyên truyền pháp luật của các cơ  quan chức năng; tất cả  những nhân tố  đó đã tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về  pháp   luật, từ đó, người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự  giác, chủ  động và nghiêm chỉnh. Ví dụ  như  có nhiều vụ  tham nhũng của các  cán bộ công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người  dân. . . đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các  chủ trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khoát, không tránh né dù   đối tượng có cương vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu  công bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ  đem lại quyền lợi cho người dân mà thể  hiện tính dân chủ  của nhà nước.   11
  12. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng   cố và nâng cao. Sự  phát triển về  kinh tế  với những chính sách kinh tế  thuận lợi; đường lối  chính trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống và  những đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ  thống  pháp lý chặt chẽ  đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật một   cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có điều  kiện phát triển kinh tế xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động thực   hiện   pháp   luật   của   con   người   được   đảm   bảo,   duy   trì   và   giữ   vững.       Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp  luật  ở nước ta hiện nay thì trong thực tế  vẫn còn tồn đọng một số  hạn chế,  bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các cơ  quan chức năng có thẩm quyền, đường lối chính trị  đúng đắn của nhà nước,  tuy nhiên, trong xã hội vẫn tồn tại một bộ  phận không nhỏ  thực hiện pháp   luật trái với quy định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội phạm.  Điều này cho thấy ý thức pháp luật của những bộ  phận này chưa cao, kém  hiểu   biết   và   ảnh   hưởng   xấu   tới   sự   ổn   định   và   trật   tự   xã   hội.     Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm   pháp luật là trình độ  hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự  tôn trọng pháp  luật của một bộ  phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Trong thời gian qua,   việc tuyên truyền pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và  các phương tiện khác đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với  yêu cầu nâng cao trình độ, ý thức pháp luật cho nhân dân thì những kết quả đó  vẫn chưa tương xứng. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ  pháp luật cho   nhân dân theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay là vấn đề  cấp thiết.    ­   Thực trạng ý thức pháp luật của người dân Với nhiều chủ trương, chính   sách, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà  nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa, công tác xây dựng hoàn thiện hệ  thống  pháp luật ngày càng nâng cao và có chất lượng tốt tạo ra sự chuyển biến rõ  rệt so với thời kỳ bao cấp trước đây. Với các quy định phù hợp của pháp luật   về các quyền cơ bản của con người (như ăn, ở, đi lại, kinh doanh...) đã tạo ra   hành lang pháp lý thuận lợi cho sinh hoạt của mọi người dân. Ý thức pháp  luật của người dân cũng có sự  chuyển biến tích cực, nhận thức về  vị trí vai   trò của pháp luật đối với đời sống ngày càng cao. Xuất phát từ  nhận thức  đúng đắn vai trò của pháp luật trong cuộc sống người dân có ý thức chấp   12
  13. hành, tuân thủ  pháp luật tốt hơn. Ý thức pháp luật của nhân dân Việt Nam  không ngừng được hoàn thiện, nâng cao về  mọi phương diện. Sự  hiểu biết   về tri thức pháp luật nói chung, pháp luật chuyên ngành của cán bộ công chức  và người dân ngày càng nâng cao không chỉ về số lượng văn bản pháp luật mà  về bản chất nội dung các quy định pháp luật. Điều này thể hiện qua tình hình  ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã  hội như kinh tế, văn hóa, giao thông, môi trường, y tế, hội nhập kinh tế quốc   tế... được cải thiện rõ rệt thông qua việc tuân thủ  đúng các yêu cầu, đòi hỏi   của pháp luật. Ví dụ  các chủ  thể  kinh doanh tuân thủ  đúng các quy định về  thành lập, hoạt động của doanh nghiệp; chấp hành tốt các quy định của pháp  luật về cạnh tranh lành mạnh; kinh doanh thương mại; tỷ lệ tảo hôn ở miền   núi, vùng sâu, vùng xa đã thuyên giảm đáng kể, tỷ lệ tội phạm và các vi phạm  pháp luật khác cũng giảm rõ rệt,... Đồng thời, ý thức tự bảo vệ quyền, lợi ích   chính đáng của người dân được nâng cao. Chính nhờ  có tri thức pháp luật  đúng đắn giúp họ  có thể  tụ  hành động để  bảo vệ  quyền lợi của mình mà   không xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ  thể  khác và Nhà nước.  Tuy nhiên, trong mấy năm trở  lại đây tình hình ý thức pháp luật của đội ngũ  cán bộ, công chức và người dân Việt Nam có nhiều yếu kém, đặc biệt có   nhiều vấn đề  mới phát sinh có chiều hướng gia tăng đến mức "báo động" là  "điểm nóng" đối với tình hình chính trị, an ninh, xã hội.  2.3. sự cần thiết nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta. Chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa của dân, do dân, vì dân với mục đích thực hiện quyền làm chủ Sự cần   thiết nâng cao ý thức pháp luật của người dân  ở  nước ta của nhân dân theo  chủ trương, đường lối của Đảng. ­Nhà nước pháp quyền XHCN lấy pháp luật làm căn cứ điều tiết các hành vi  cá nhân, các quan hệ  xã hội, bảo đảm cho xã hội  ổn định và phát triển bền   vững. ­Để có được xã hội pháp quyền như vậy, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như  xây dựng hệ  thống luật pháp hoàn chỉnh, có hệ  thống tổ  chức bộ  máy nhà  nước từ Trung ương xuống cơ sở vững chắc, trình độ  văn hóa pháp luật và ý  thức của người dân đạt tới sự hiểu biết, tự giác cao, các cơ quan giám sát thi  hành pháp luật nghiêm minh... Trong số những yếu tố trên, yếu tố nào cũng có  vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng suy cho cùng, hệ  thống luật pháp  ấy có  đến được với người dân không, nhân dân có hiểu biết và tự  giác thực hiện  13
  14. pháp luật hay không là vấn đề quyết định. Nếu luật pháp vẫn chỉ là luật pháp  cho dù có hoàn chỉnh đến mấy; nếu người dân cứ  tự  do sống theo kiểu của   mình không cần biết đến luật pháp, thì không những xã hội không phát triển   mà còn rất tồi tệ  và bất  ổn. Mấu chốt của vấn đề   ở  chỗ, pháp luật phải đi   vào cuộc sống, nhân dân thấy cần pháp luật như  cần không khí để  hít thở  vậy. Cho nên, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân là việc làm   không thể thiếu và cũng không thể làm một, hai lần, làm một thời gian ngắn   là xong mà phải rất kiên trì, sáng tạo, linh hoạt, được toàn xã hội tham gia. Tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân có nhiều việc phải làm, bằng   nhiều cách, do nhiều lực lượng tham gia như đã nêu. Các phương tiện thông tin đại chúng với những ưu thế đặc biệt đã thực sự là  một công cụ tuyên truyền giáo dục pháp luật có hiệu quả xã hội cao. Các  phương tiện thông tin đại chúng làm cho mỗi người dân trong đời sống   sinh hoạt thường ngày của mình được tiếp cận với các phương tiện   thông tin đại chúng một cách trực tiếp, cập nhật, phong phú, đa dạng,  sinh động, dễ  dàng. Thông qua các phương tiện nghe, nhìn của đài phát  thanh, đài truyền hình, sách báo in, báo mạng, báo  ảnh, tạp chí... người  dân có thể thấm nhuần những nội dung pháp luật, những điều cần phải  làm, những vấn đề phải quan tâm... Các phương tiện thông tin đại chúng  cũng phê phán, nêu rõ các hiện tượng sai trái coi thường pháp luật, không  hiểu pháp luật đã dẫn đến những hậu quả  khó lường cho cá nhân, gia   đình và xã hội. Việc làm này có tác động mạnh tới nhận thức tư tưởng,   tình cảm của mỗi người, khiến họ phải tự điều chỉnh hành vi của mình  theo quy định của pháp luật. Cho nên việc tuyên truyền giáo dục pháp  luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết, có nhiều  ưu thế  và là một trong những phương pháp, phương thức tuyên truyền  giáo dục pháp luật hiện nay có hiệu quả cao, được nhiều người ở nhiều   lứa tuổi quan tâm. 2.4. quan   điểm,  định  hướng giáo dục nâng cao  ý thức pháp luật  của  người dân ở nước ta.     ­  Thể chế hóa đường lối, chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà nước   về  công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần và nội dung của các  Nghị  quyết của Bộ  Chính trị: Nghị  quyết số  48­NQ/TW ngày 24/5/2005 về  Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định  14
  15. hướng đến năm 2020; Nghị  quyết số  49­NQ/TW ngày 02/6/2005 về  Chiến   lược Cải cách tư  pháp đến năm 2020; Chỉ  thị số  32­CT/TW ngày 09/12/2003   của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong  công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật   của cán bộ, nhân dân; thực hiện cải cách hành chính, phân cấp cụ thể để  địa  phương chủ động đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hướng về cơ sở;  đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân;   ­   Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời cũng  là trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự  lãnh đạo của Đảng, thể  hiện  bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân dân,   vì nhân dân; từng bước xã hội hóa công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật,   trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động   sự tham gia, đóng góp của xã hội vào công tác này;   ­   Điều chỉnh toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, quy định cụ  thể về  nguyên tắc phổ  biến, giáo dục pháp luật; người được phổ  biến, giáo  dục pháp luật; tổ chức và người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; hình  thành các chuẩn mực,  quy tắc nghề  nghiệp trong công tác này; huy động  nguồn lực bảo đảm hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước   nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;   ­   Thống nhất quản lý nhà nước về  lĩnh vực phổ  biến, giáo dục pháp luật   vào một hệ  thống cơ quan nhà nước từ  trung ương đến địa phương là ngành  Tư pháp, với cơ quan trực tiếp thực hiện là đơn vị làm công tác phổ biến, giáo  dục pháp luật ở trung ương và địa phương. Ngành Tư pháp vừa có nhiệm vụ  quản lý Nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước về công tác phổ  biến,   giáo dục pháp luật, vừa là Cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công  tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ. Tăng cường sự chủ động và  cơ   chế   phối   hợp   hiệu   quả   giữa   các   bộ,   ngành,   đoàn   thể   trong   công   tác  PBGDPL.   Phân   cấp   mạnh   mẽ   hoạt   động   PBGDPL   cho   địa   phương   với  phương châm hướng công tác PBGDPL về cơ sở.    ­  Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế  thừa những quy định của pháp luật  hiện hành về  phổ  biến, giáo dục pháp luật; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc   kinh nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các nước trên thế giới.       ­   Sự   cần   thiết   xây   dựng   Luật   Phổ   biến,   giáo   dục   pháp   luật.       Công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi   hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp   chế  XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân,  do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công   15
  16. tác phổ  biến, giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến   công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước  đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.  Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh   mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các  đoàn thể  chính trị, xã hội, nghề  nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng   tham gia các đợt  vận  động thiết lập trật tự,  kỷ  cương  và các hoạt  động  thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ  quan  nhà nước và trong xã hội’’. Nghị  quyết số  08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của  Bộ  Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian   tới chỉ  rõ cần: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ  biến, giáo dục pháp  luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên  toà xét xử  lưu động và bằng những phán quyết công minh để  tuyên truyền,  nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”.  Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ  nhiệm vụ: “Tổ  chức và lãnh đạo công  tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn  bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công  tác   phổ   biến,   giáo   dục   pháp   luật   như:   Chỉ   thị   số   02/1998/CT­TTg   ngày  07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo  dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Quyết định số  03/1998/QĐ­TTg về  việc ban hành Kế  hoạch triển khai công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật từ  năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng Phối hợp công tác phổ  biến,  giáo dục pháp luật… Đặc biệt, Chỉ  thị  số  32­CT/TW ngày 09/12/2003 của  Ban Bí thư  Trung  ương Đảng về  tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng trong  công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật   của cán bộ, nhân dân (Chỉ  thị  số  32­CT/TW) đã khẳng định: “Phổ  biến, giáo   dục pháp luật là một bộ  phận của công tác giáo dục chính trị, tư  tưởng, là  nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.    3.  THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA  NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN Xàvũ chính.           3.1. Khái quát về địa bàn xã vũ chính. 3.1.1. Về điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số. 16
  17.    Xã vũ chính TP Thái Bình, cách trung tâm thành phố chừng 3,5 km, có vị trí  địa lý  ở  phía Nam thành phố,địa giới hành chính phía Đông Nam giáp xã Vũ  Ninh (huyện Kiến Xương); phía Đông giáp xã Vũ Lạc; phía Đông Bắc và phía  Bắc giáp phường Trần Lãm; phía Bắc giáp phường Kỳ Bá; phía Tây Bắc giáp  phường Quang Trung; phía Tây giáp xã Vũ Phúc; phía Nam giáp với xã Việt  Thuận và xã Vũ Hội huyện Vũ Thư.  Vũ Chính có diện tích là 558 hecta với dân số ước khoảng 12.700 người gồm   hàng   chục   dòng   họ,   trong   đó   đông   nhất   là   ba   họ   Nguyễn   Xuân   (Nguyễn   Ngọc), Phan Văn, Vũ Đình. Mỗi dòng họ  có trên dưới 1.000 người. Dân cư  sống tập trung ở thành 3 làng Tống Vũ (phía Đông xã gồm các thôn Tống Vũ,  Tây Sơn, Hòa Hải, Đông Hải, Tống Vũ, tổ  dân phố  2, dân số   ước tính trên  5.000 người), làng Tống Văn (phía Tây xã gồm các thôn Tống Văn, Nam   Hùng, Trấn Tây, Quyến, Trung Hòa, Tiên Sơn, tổ dân phố 1, dân số ước tính  7.000 người), làng Lạc Chính (phía Tây Bắc, đồng thời cũng là thôn Lạc  Chính có khoảng 1.000 người). Tổng cộng xã có 12 thôn và 2 tổ dân phố bao  gồm các thôn: 1. Tống Văn (xóm 6+7 cũ) 2. Nam Hùng (xóm 8 cũ) 3. Trấn Tây (xóm 9+10 cũ) 4. Quyến (xóm 11 cũ) 5. Trung Hòa (xóm 12 cũ) 6. Lạc Chính (xóm 13 cũ) 7. Tiên Sơn (xóm 14 cũ) 8. Tống Vũ (xóm 5 cũ) 9. Tây Sơn (xóm 4 cũ) 10.Hòa Hải (xóm 3 cũ) 11.Đông Hải (xóm 2 cũ) 12.Vũ Trường (xóm 1 cũ) 13.Tổ dân phố 1 (xóm 15 cũ) 14.Tổ dân phố 2 (gồm 1 bộ phận của xóm 1 và xóm 2 cũ. Xã Vũ Chính gồm 3 làng Tống Vũ, Tống Văn, Lạc Chính. Vùng đất Vũ Chính  hình thành vào khoảng 400 năm về trước, đầu thế kỷ 17, di dân từ các nơi đã  lập lên làng Tống Vũ và làng Lạc Chính. Đến khoảng thế  kỷ  19, làng Tống   Vũ tách thành Tống Vũ và Tống Văn. Thời Pháp thuộc, tại Thái Bình làng  được gọi là xã, hai xã Tống Vũ và Tống Văn thuộc tổng Hội Khê, xã Lạc   17
  18. Chính thuộc tổng Lạc Đạo đều thuộc huyện Vũ Tiên, phủ  Thư  Trì, Đến sau   cách mạng tháng 8­1945, xã Tống Văn và xã Lạc Chính được hợp nhất thành  xã Vũ Chính. Xã Tống Vũ và xã Lạc Đạo (tổng Lạc Đạo) được hợp thành xã   Vũ Lãm. Ngày 18­12­1976, xã Vũ Chính và xã Vũ Lãm được thành lập thành  xã Chính Lãm, lúc này xã Chính Lãm rộng khoảng 800ha, dân số  lên đến 15  ngàn người. Ngày 5­04­1982, thôn Lạc Đạo xã Chính Lãm được tách ra để  thành lập phường Trần Lãm, xã Chính Lãm được đổi tên thành xã Vũ Chính.   Xã Vũ Chính lúc này còn diện tích 558ha, dân số  có trên 10.000 ngườii chia  làm 15 xóm từ 1­15, trong đó làng Tống Vũ gồm 5 xóm từ 1­5, làng Lạc Chính   là xóm 13, một phần nhỏ các xóm 12, 14. Làng Tống Văn gồm gần 8 xóm. Ngày 25­06­ 1986 xã Vũ Chính được nhập về  vào thị  xã Thái Bình (Nay là  thành phố Thái Bình).Đến năm 2004, xã được điều chỉnh lại thành 12 thôn và  2 tổ dân phố như hiện nay. Về giao thông, cắt ngang qua phía Tây của xã Vũ Chính (qua làng Tống Văn)  là đoạn cuối của đường Lý Bôn (ngã ba chợ  Tông), tức là đường 223. Hiện   trên địa bàn xã đang triển khai xây dựng đường vành đai thành phố. Tuyến  đường vành đai qua xã dài trên 7 km sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển  kinh tế  ­ văn hóa địa phương. Bên cạnh đó, xã Vũ Chính có hệ  thống đường   giao thông liên xã, liên thôn tương đối hiện đại đáp  ứng được nhu cầu sinh   hoạt và sản xuất của nhân dân. 3.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa ­ xã hội      Là một đơn vị ngoại thành, xã Vũ Chính có điều kiện phát triển tương đối  toàn diện cả  về  nông nghiệp, tiểu thủ  công nghiệp và dịch vụ. Về  nông  nghiệp, Vũ Chính là một trong những nơi đầu tiên của cả  nước xây dựng  được cánh đồng 100 triệu/ha, nổi tiếng với rau màu và trồng hoa cung cấp  cho thành phố Thái Bình. Về dịch vụ ­ tiẻu thủ công nghiệp, xã có hàng chục   cơ  sở  tiểu thủ  công nghiệp đan, may.... giải quyết công việc cho hàng trăm   lao động. Ngoài ra, xã có khoảng 1000 lao động đang làm việc tại các nhà máy  ở thành phố Thái Bình. Tổng thu nhập toàn xã một năm ước đạt 300 tỷ đồng,   bình quân đầu người đạt 23 triệu/người/năm. Địa bàn xã hiện nay cũng nằm trong quy hoạch xây dựng nhiều cơ  quan,  doanh nghiệp của tỉnh Người dân xã Vũ Chính nổi tiếng với truyền thống thơ ca và tính tếu táo hay  đùa. Chẳng hạn về kinh nghiệm lập gia đình, người thôn Tống Văn có câu: 18
  19. "Trai đô Tống Vũ, gái mềm cọi khê" Ngụ  ý chọn chồng thì lấy con trai làng Tống Vũ vì sức khỏe (làng Tống Vũ   trước đây chuyên sản xuất gạch). Lấy vợ thì phải xuống làng Cọi Khê (xã Vũ   Hội) vì con gái ở đây đảm đang, giỏi buôn bán. Tếu táo hơn, người Vũ Chính có câu: "Hỡi em mặc áo xanh xanh Có về Vũ Chính quê anh thì về Quê anh lắm ruộng nhiều nghề Sáng trồng cải bắp, tối về trồng khoai" Ngụ ý nói về xã Vũ Chính là địa phương chuyên trồng màu. Một bài thơ thất truyền khác được cho là của một tác giả người Vũ Chính khi   địa phương có phong trào trồng cà vào những năm 2000 "Bà con toàn thể  xã ta Đồng tâm hiệp lực giồng cà dái dê Dái dê to mập dài  ghê Năm sau ta cứ dái dê ta trồng". 3.1.3. Sự  thể  hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ  của các tổ  chức  chính trị, đoàn thể xã hội trên địa bàn xã.   * Vai trò,nhiệm vụ,chức năng của Hội đồng nhân dân xã vũ chính. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời   là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.  Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển   kinh tế  ­ xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương;  quyết  định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định   các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp  bảo đảm việc thi hành pháp luật  ở  địa phương, quyết định những vấn đề  thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính  quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.  Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng  nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp  ứng điều kiện thực tiễn, thể  hiện cụ thể trong các hoạt động sau: ­ Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên  thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử  dụng đất đai, quỹ  công, tài sản công,  kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do   Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. ­ Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn   trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên,  19
  20. gắn bó với dân như  tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ  hoà   giải, các tổ chức tự quản khác của dân...   * Vai trò,nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã vũ chính.    Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp,   là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước   một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ  chức thực hiện nghị  quyết của Hội   đồng nhân dân cùng cấp. UBND xã xây dựng và tổ  chức thực hiện kế  hoạch phát triển kinh tế, văn   hóa, xã hội  hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm  an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về  dân tộc, tôn   giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương. Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa  nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung: ­ Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế  hoạch, đề  án khuyến khích  phát triển nông, lâm, ngư  nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ  chức thực  hiện các biện pháp  ứng dụng tiến bộ  khoa học công nghệ  để  phát triển sản  xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ  cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi   trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung.  ­ Đào tạo nâng cao trình độ  đội ngũ công chức xã và thực hiện chế  độ  bổ  nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà  cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã   hoạt động có hiệu quả. Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả  các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống   chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp  và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ  bản thành một  nước công nghiệp vào năm 2020.   * Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.       Ủy ban Mặt trận tổ  quốc xã có vị  trí đặc biệt quan trọng trong đời sống   chính trị   ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành   viên, thực hiện dân chủ  và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ  của  công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò   của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù  hợp, phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo,  xây dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong   việc phối hợp với các tổ  chức Đảng và chính quyền cơ  sở  tham gia tích cực   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0