intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Di dân con lắc và di dân mùa vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước - Đặng Nguyên Anh

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

123
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết "Di dân con lắc và di dân mùa vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước" phân tích, xem xét loại hình di dân tạm thời dưới hai hình thức con lắc và mùa vụ. Loại hình di dân này tuy đã có từ lâu trong nền sản xuất nông nghiệp truyền thống ở nước ta, song vẫn tiếp tục tồn tại và trở nên phổ biến trong giai đoạn phát triển hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Di dân con lắc và di dân mùa vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước - Đặng Nguyên Anh

Xã hội học số 4(120), 2012 40<br /> <br /> <br /> DI DÂN CON LẮC VÀ DI DÂN MÙA VỤ<br /> TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC<br /> <br /> ĐẶNG NGUYÊN ANH<br /> <br /> <br /> Quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung với vai trò điều hành<br /> trực tiếp của nhà nước sang một nền kinh tế có sự chi phối ngày càng tăng của các quy<br /> luật thị trường đã kéo theo sự chuyển dịch và phân bố lại lực lượng lao động và dân cư<br /> trong 25 năm qua. Việc xóa bỏ bao cấp và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã<br /> tạo nên sức tăng trưởng kinh tế của khu vực ngoài quốc doanh, tạo cơ hội tăng thu nhập<br /> và việc làm. Chuyển dịch của lao động và dân cư trở nên dễ dàng hơn, với chi phí thấp<br /> hơn, và có sự tham gia của nhiều thành phần, nhóm xã hội khác nhau (Tổng cục Thống<br /> kê, 2008).<br /> Trước những khó khăn thách thức về kinh tế-xã hội hiện nay, sản xuất kinh doanh<br /> đình đốn, thu nhập bấp bênh và giảm sút, di dân con lắc và di dân mùa vụ trở thành<br /> phương thức được người dân nông thôn lựa chọn. Mô hình di dân “ly hương – bất ly<br /> nông” trong đó lao động nông nghiệp dư thừa ra khỏi làng quê tìm việc nhưng không từ<br /> bỏ đất lúa. Hộ gia đình ở quê vẫn giữ ruộng, thực hiện các nghĩa vụ và đăng ký nhân<br /> khẩu tạm vắng khi cần thiết cho người ra đi. Lao động “bất ly hương” quay về tham gia<br /> vào các hoạt động nông nghiệp mùa vụ, lễ hội hoặc giỗ tết truyền thống. Khi về thăm nhà<br /> hỗ trợ tiền mặt cho gia đình, người thân ở quê. Không ít lao động tiếp tục làm nông<br /> nghiệp và các dịch vụ liên quan đến sản xuất trồng trọt, chăn nuôi tại địa bàn nơi đến nên<br /> đối với nhóm này, mô hình “bất ly nông” rất rõ nét.<br /> Phân tích này đi sâu xem xét loại hình di dân tạm thời dưới hai hình thức con lắc và<br /> mùa vụ. Loại hình di dân này tuy đã có từ lâu trong nền sản xuất nông nghiệp truyền<br /> thống ở nước ta, song vẫn tiếp tục tồn tại và trở nên phổ biến trong giai đoạn phát triển<br /> hiện nay. Đây là loại hình di dân phù hợp với nhu cầu của phần lớn lao động nông thôn,<br /> đồng thời góp phần vào sự phát triển đồng đều giữa nông thôn và đô thị, tạo nên sự liên<br /> kết giữa các khu vực, vùng miền (VAPECHN, 2009).<br /> 1. Di dân con lắc và di dân mùa vụ<br /> Về hình thức, di dân con lắc về cơ bản cũng giống như di dân mùa vụ, tuy nhiên có<br /> khác nhau về hướng di chuyển và diễn ra ở hầu hết các tháng trong năm. Di dân mùa vụ<br /> còn được xem như là một hình thái đặc thù của di dân con lắc, diễn ra theo chu kỳ rõ rệt<br /> hơn về thời gian. Mặc dù nhiều công trình nghiên cứu khi nói đến di dân con lắc đã hàm<br /> chứa di dân mùa vụ, song cần có sự phân biệt nhất định giữa hai loại hình này:<br /> Di dân con lắc: loại hình di dân có thời hạn liên quan đến việc làm hoặc những lý<br /> do khác đòi hỏi người di chuyển phải ngủ qua đêm xa nhà và lặp đi lặp lại tương đối<br /> thường xuyên dù họ không nhất thiết phải thay đổi nơi cư trú chính thức (thường trú). Di<br /> <br /> <br /> <br /> PGS.TS, Viện Xã hội học.<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Xã hội học số 4(120), 2012 41<br /> <br /> <br /> dân con lắc khác với việc đi đi về về hàng ngày của người lao động đến nơi làm việc.<br /> Di dân mùa vụ: hình thái đặc thù của di dân tạm thời. Thuật ngữ "mùa vụ" không<br /> nhất thiết gắn với mùa thu hoạch, mặc dù đối với nhiều người nó có thể là như vậy. Thuật<br /> ngữ này còn hàm ý những hoạt động mùa vụ khác như mùa xây dựng hoặc mùa du lịch,<br /> mùa lễ hội, mùa cafe và bao gồm cả loại hình đi làm ăn xa khác nhau ở nông thôn. Một<br /> số nghiên cứu dựa trên khoảng thời gian vắng mặt khỏi nơi cư trú 1-3 tháng như một<br /> trong những tiêu chí của di dân mùa vụ (Goldstein và Goldstein, 1991).<br /> Cả hai hình thái di dân đều bao hàm sự di chuyển khỏi địa bàn cư trú. Đi kèm với<br /> nó là sự thay đổi về nơi ở (dù là tạm thời), và sự thay đổi về công việc. Sự khác nhau chủ<br /> yếu là trong lý do di chuyển (mùa vụ thường gắn với yếu tố kinh tế như tìm việc, thu<br /> nhập, trong khi di dân con lắc có thể là do cả lý do gia đình). Người di chuyển con lắc<br /> thường thay đổi chỗ ở thường xuyên hơn, diễn ra cơ động hơn. So với di dân mùa vụ, di<br /> dân con lắc diễn ra tại bất cứ thời điểm nào trong năm. Di chuyển con lắc thường bao<br /> gồm những trường hợp một chốn đôi nơi, sinh sống và làm việc, không có ý định cư trú<br /> lâu dài. Công việc của nhóm này có thể không thật sự ổn định, khả năng thay đổi việc, và<br /> chủ sử dụng lao động thường xuyên, không theo chu kỳ ổn định.<br /> Di dân mùa vụ diễn ra trong kỳ nông nhàn, hướng di chuyển chủ yếu là nông thôn-<br /> thành thị. Thời gian chiếm đến 2/3 số tháng trong năm. Lao động ra đi vào các tháng 1,<br /> tháng 6, tháng 9, và trở về vào khoảng tháng 5, tháng 12 hàng năm (âm lịch). Do lượng<br /> thời gian rỗi ngày càng gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, việc đi lại diễn ra với<br /> khoảng cách xa hơn, phổ biến hơn với nhiều thời điểm trong năm hơn. Đây là một đặc<br /> điểm mới của loại hình di dân mùa vụ. Nguồn nhân công rẻ, tay nghề thấp, dễ dàng huy<br /> động này được thu hút vào khu vực kinh tế phi chính thức, lễ hội du lịch hoặc các trang<br /> trại ở trung du, miền núi.<br /> 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 (Tháng Âm lịch)<br /> <br /> <br /> <br /> Đi Về Đi Đi Về<br /> Các kết quả nghiên cứu hiện cho thấy lao động di dân mùa vụ bao gồm cả nam và<br /> nữ, nhưng phần đông là nữ đến từ nông thôn, đã kết hôn, tuổi từ 25-40. Chị em phụ nữ ra<br /> thành thị phần lớn làm trong các ngành dịch vụ như bán hàng, giúp việc gia đình, quán<br /> xá, bán hàng rong, phục vụ quán cà phê, tiếp viên nhà hàng, thu mua phế liệu,...Việc<br /> đồng thời làm những nghề này không nhất thiết loại trừ nhau, vì có rất nhiều phụ nữ<br /> không đủ sống nếu như họ chỉ làm một nghề.<br /> Qua các khảo sát trên địa bàn Hà Nội, phần lớn đó là lao động từ các tỉnh lân cận<br /> của Đồng bằng sông Hồng (và tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh phần lớn ở các<br /> tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long), có thể chia thành 5 nhóm di dân mùa vụ như sau. Trong<br /> số này thì ba nhóm b, c, d chiếm đa số (55-60%) số lao động nông thôn ra thành phố tìm<br /> việc. Hầu hết đến từ vùng nông thôn, ít được đào tạo chuyên môn và thiếu tiền vốn:<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Xã hội học số 4(120), 2012 42<br /> <br /> <br /> a. Nhóm lao động có trình độ học vấn, có chuyên môn kỹ thuật qua đào tạo, làm<br /> việc tại các doanh nghiệp tư nhân, trong khu vực kinh tế phi chính thức.<br /> b. Nhóm lao động có một số tay nghề hoặc kỹ năng tự học đáp ứng nhu cầu của<br /> một số ngành nghề và dịch vụ xã hội (xây dựng, làm mộc, bán quán xá, giúp việc gia<br /> đình, sửa chữa xe máy, rửa ô-tô xe máy,...).<br /> c. Nhóm lao động có phương tiện hoặc thuê phương tiện hành nghề (chạy xe ôm,<br /> xích lô, chuyên chở vật liệu, đẩy xe bán dạo,…).<br /> d. Nhóm lao động phổ thông không có nghề chuyên môn kỹ thuật, không có<br /> phương tiện hành nghề ngoài sức lao động, chủ yếu làm việc cơ bắp hoặc giản đơn với<br /> tiền công thấp, không ổn định.<br /> e. Nhóm tự kiếm sống bằng mọi cách để có thu nhập, kể cả một số ngành nghề bị<br /> pháp luật nghiêm cấm.<br /> Tại một số tỉnh ven biển còn có loại hình di chuyển ra khơi đánh bắt cá, hầu hết bao<br /> gồm nam giới đi ghe cá, làm thuyền viên hay tự khai thác hải sản. Mức thu nhập của<br /> nhóm này tuy cao hơn song không đều. Việc tuyển dụng lao động được các chủ ghe, vốn<br /> là người cùng quê, tiến hành thông qua quan hệ anh em trong họ hàng. Thông thường đó<br /> là mô hình người chồng đi làm, vợ con gia đình ở lại đất liền. Tuy nhiên những rủi ro do<br /> thời tiết, bão tố, nguy cơ đắm tàu thuyền và bị tàu nước ngoài uy hiếp luôn luôn rình rập<br /> đe doạ tính mạng của những lao động đi biển. Nghiên cứu về các nhóm lao động đi biển<br /> còn chưa nhiều, và thiếu hơn nữa là sự hỗ trợ hiệu quả cho các hộ gia đình chài lưới đã<br /> gắn bó cả cuộc đời với biển, nhiều thế hệ bám biển, góp phần gìn giữ và bảo vệ Tổ quốc.<br /> 2. Di dân khoảng cách gần<br /> Đây là loại hình di dân diễn ra với quy mô nhỏ và tùy thuộc vào khoảng cách giữa<br /> nơi đi và nơi làm việc (5-10 km). Với con số khá khiêm tốn trên địa bàn mỗi xã nông thôn<br /> hiện nay, nhóm lao động này chủ yếu đi xây, đi làm mộc, làm phụ hồ, làm cỏ thuê, hoặc<br /> đến lao động sản xuất tại các làng nghề ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Họ chấp nhận<br /> tiền công thấp hơn tiền công của lao động sở tại để làm những công việc mà người dân địa<br /> phương không muốn làm do công việc vất vả, nặng nhọc. Mức trả tính theo ngày công<br /> hoặc khoán theo sản phẩm, công trình,... phù hợp với nhu cầu tiền mặt của người lao động.<br /> Loại hình di chuyển theo khoảng cách gần này không diễn ra theo mùa vụ mà thiên<br /> về hình thái di dân con lắc, trong đó việc đi về của người di chuyển được lặp đi lặp lại<br /> giữa hai địa điểm nhiều lần trong khoảng thời gian ngắn. Hình ảnh “một chốn, đôi nơi”<br /> này khá phổ biến trong nhóm di chuyển lao động làm thuê trên địa bàn một huyện, hoặc<br /> giữa các xã lân cận tỉnh lỵ.<br /> Qua kết quả thu được của một nghiên cứu tại Đồng bằng Sông Hồng (VAPECHN,<br /> 2009) di dân khoảng cách gần đã trở thành phong trào, đặc biệt trong nhóm nam giới<br /> trung niên. Phương thức đi theo nhóm xây dựng, làm mộc ở Phủ Lý, Hà Nam hoặc các xã<br /> ven trung tâm huyện rất phổ biến. Ai may mắn thì có được công việc thường xuyên và<br /> tương đối lâu dài, những người khác thì chủ đi vài tháng trong năm, khi hết việc lại quay<br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Xã hội học số 4(120), 2012 43<br /> <br /> <br /> về chờ cơ hội. Thu nhập sau mỗi công trình là tiền mặt của hộ gia đình, trong nhà lại đỡ<br /> được một miệng ăn. Vào độ tuổi con cái đã lớn, có thể đảm đương công việc đồng áng<br /> cùng với người phụ nữ, người đàn ông trong gia đình mong muốn cải thiện thu nhập cho<br /> gia đình, được ra ngoài thôn xóm bằng anh bằng em như các hộ gia đình xung quanh,<br /> trong khi vẫn hiện diện ở gia đình.<br /> Loại hình di dân theo khoảng cách gần nếu ổn định sẽ có thể phát huy tốt vai trò<br /> sinh kế ở nông thôn, góp phần tạo thu nhập tiền mặt. Tuy nhiên, loại hình di dân khoảng<br /> cách gần này gặp nhiều khó khăn do công việc không nhiều và không đều tại địa phương.<br /> Hình thái di dân này ít được thanh niên ưa chuộng do tính thời vụ và khoảng cách “gần<br /> nhà” không cho phép họ thoát ly khỏi địa phương như những hình thái di dân khác<br /> (Đặng, Tacoli và Hoàng, 2004).<br /> 3. Những vấn đề đặt ra<br /> Trước hết, các thông tin dữ liệu về hình thái di dân này chưa được nắm bắt đầy đủ.<br /> Các cơ quan chức năng và chính quyền ở nhiều địa phương chủ yếu dựa trên con số di<br /> chuyển chính thức, và dân số đăng ký. Số liệu vênh nhau lớn về quy mô giữa các nhóm<br /> cư trú và thời điểm. Đây là những thách thức hiện nay. Số liệu di dân con lắc và di dân<br /> mùa vụ không được phản ánh và không thể thu thập qua các cuộc Tổng Điều tra dân số<br /> do tính ngắn hạn và thường xuyên của loại hình di dân này.1 Trên thực tế, di dân mùa vụ<br /> thường được ước tính bằng một vài con số không chính xác, thiếu thống kê chi tiết. Tại<br /> một số địa phương, quy mô di dân mùa vụ và di dân con lắc có thể lên đến hàng chục<br /> nghìn người nhưng khó có thể nắm được thông tin đầy đủ về các nhóm di dân này.<br /> Trong khi đó, chính quyền địa phương nơi đi đều không hạn chế, thậm chí tạo điều<br /> kiện cho người dân đi làm ăn, cải thiện thu nhập. Nhiều địa phương sẵn sàng cấp giấy<br /> tạm vắng cho các trường hợp cần thiết. Theo quy định, trong trường hợp người ra đi<br /> không có giấy tạm vắng của địa phương nơi cư trú và không có chứng minh thư nhân<br /> dân, về nguyên tắc họ sẽ không được đăng ký tạm trú tại nơi đến và có thể bị xử phạt<br /> hành chính. Việc thực hiện các thủ tục khai báo tạm trú, tạm vắng nói trên là quy định<br /> cho mọi công dân. Tuy nhiên trên thực tế, công tác khai báo và đăng ký khá linh hoạt và<br /> lỏng lẻo. Người sử dụng, quản lý lao động hoặc chủ nhà trọ có thể chỉ cần báo cho công<br /> an hộ khẩu trên địa bàn số lượng lao động. Nhiều trường hợp chỉ đến khi địa phương nơi<br /> tạm trú yêu cầu thì người lao động, thông qua gia đình ở quê, mới đứng ra làm thủ tục<br /> tạm vắng để có giấy trình báo chính quyền nơi đến.<br /> Ở nhiều địa phương, di dân mùa vụ là loại hình di chuyển có sự tham gia đông đảo<br /> của lao động nông nghiệp đến những nơi có nhu cầu ngành nghề, dịch vụ. Sẽ còn nhiều<br /> người muốn tìm việc ngoài nơi cư trú và nơi đến không hẳn các khu công nghiệp, khu<br /> chế xuất. Khu vực kinh tế phi chính thức với sự bùng nổ của dịch vụ, buôn bán, kinh<br /> doanh và nhu cầu thuê mướn lao động của đô thị sẽ là lực hút mạnh đối các dòng lao<br /> <br /> 1<br /> Số liệu Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở liên quan đến nhóm di chuyển lâu dài hoặc thay đổi<br /> nơi thường trú vĩnh viễn. Sự vắng mặt khỏi nơi thường trú dưới 5 năm không được tính là di<br /> cư trong Tổng Điều tra.<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Xã hội học số 4(120), 2012 44<br /> <br /> <br /> động phổ thông đến từ nông thôn trong những năm tới. Phương thức "ly hương, bất ly<br /> nông" trên thực tế vẫn chưa thể thay thế bởi mô hình "ly nông, bất ly hương" như mong<br /> muốn chính sách. Các kết quả nghiên cứu về di dân đều cho thấy tỷ lệ lao động di cư<br /> tham gia hoạt động kinh tế cao hơn dân sở tại, tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn, và thu nhập cao<br /> hơn nơi xuất cư và người di dân nhìn chung hài lòng với quyết định di chuyển. Hầu hết<br /> lao động di cư có thu nhập tích lũy, góp phần phát triển cuộc sống gia đình. Các khoản<br /> tiền do người di dân mang về hoặc gửi về được đầu tư cho xây dựng nhà cửa hoặc phát<br /> triển sản xuất còn tạo cơ hội cho lao động không di cư có thêm việc làm và tăng thêm thu<br /> nhập ngay tại quê nhà. Ở cấp độ vĩ mô, di dân mùa vụ và di dân con lắc là góp phần thúc<br /> đẩy liên kết vùng, nhất là giữa nông thôn và thành thị theo hướng phát triển bền vững.<br /> Những đóng góp tích cực của di dân đến tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước<br /> là không thể phủ nhận. Tuy nhiên do thiếu tầm nhìn trong quy hoạch, hạn chế về nhận<br /> thức đối với di dân, và yếu kém trong quản lý nên vô hình chung các luồng di dân ra<br /> thành phố đã làm trầm trọng thêm sức chịu tải của kết cấu hạ tầng và thách thức năng lực<br /> quản lý của chính quyền các cấp.<br /> Giai đoạn phát triển hiện nay đòi hỏi việc xem xét kịp thời đối với di dân mùa vụ và<br /> di dân con lắc. Mặc dù không mới mẻ trong bối cảnh Việt Nam, song mức độ phổ biến và<br /> tác động kinh tế-xã hội của các loại hình di dân này cần được nghiên cứu. Vai trò điều<br /> chỉnh và tự điều chỉnh về lao động giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền có<br /> thể thực hiện thông qua di dân mùa vụ. Trước hết cần quan tâm đúng mức đến loại hình<br /> di dân này. Hiện nay, các cuộc Tổng Điều tra dân số và Khảo sát mức sống hộ gia đình<br /> không cho phép thu thập số liệu về loại hình di dân ngắn hạn. Trong điều kiện hệ thống<br /> đăng ký dân số còn yếu kém như hiện nay, cần thực hiện những điều tra chuyên biệt<br /> nhằm thu thập số liệu chi tiết về loại hình di dân còn ít được biết đến này.<br /> Di dân trở thành một thành tố không thể thiếu được trong đời sống nông thôn Việt<br /> Nam (Đặng, 2008). Trong giai đoạn hiện nay, loại hình di dân mùa vụ sẽ gia tăng do yêu<br /> cầu phát triển và đất đai canh tác ở khu vực nông thôn bị thu hẹp. Thêm vào đó, tình<br /> trạng chênh lệch về thu nhập và tiền công lao động giữa đô thị và nông thôn gia tăng<br /> cũng kéo theo lực lượng lao động mùa vụ gia tăng. Cùng với việc quy hoạch các khu<br /> công nghiệp, đô thị hoá, phát triển các trang trại, khu du lịch, quá trình tích tụ ruộng đất ở<br /> nông thôn, người nông dân ngày càng có ít đất hơn để sản xuất. Đất đai ở nông thôn là<br /> nguồn sống, là “thùng vàng” lớn khi chuyển đổi mục đích sử dụng, song người nông dân<br /> sẽ khó có thể là đối tượng thụ hưởng trực tiếp của các chương trình, dự án tái định cư, đổi<br /> đất lấy tiền (không ngang giá và sòng phẳng) như hiện nay. Với trình độ học vấn, tay<br /> nghề thấp, người dân bị mất đất khó có thể đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các<br /> doanh nghiệp đầu tư tại chính nơi ruộng vườn trước đây của mình, cho nên việc họ phải<br /> rời quê hương tìm việc là tất yếu. Theo quy luật chung, những trường hợp có tay nghề<br /> cao thường tìm việc làm ở xa hơn và trả công cao hơn, trong khi đó những lao động thiếu<br /> tay nghề và học vấn thấp, không có điều kiện kinh tế thì tìm kiếm công việc gần nhà hơn,<br /> đi lại gần hơn và khoảng cách ngắn hơn.<br /> Trong bối cảnh và giai đoạn phát triển mới của đất nước, việc sử dụng luật pháp<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Xã hội học số 4(120), 2012 45<br /> <br /> <br /> hoặc các biện pháp hành chính nhằm hạn chế di dân là đi ngược lại quy luật phát triển.2<br /> Hệ lụy của những quyết sách mang nặng tính chủ quan là khó lường, khi mà đời sống<br /> nông thôn đang lệ thuộc rất nhiều vào việc làm, thu nhập và nguồn lực ở đô thị, và các<br /> thành phố lớn đang phụ thuộc rất nhiều vào vật phẩm, dịch vụ do lao động nông thôn<br /> cung ứng. Nông thôn sẽ mất năng lực phát triển, và đất nước sẽ có thể mất sức chống<br /> chịu nếu như không có di dân. Điều đó cũng có nghĩa là chênh lệch giàu nghèo tiếp tục<br /> gia tăng trong xã hội, thách thức mục tiêu phát triển bền vững đất nước./.<br /> <br /> Tài liệu trích dẫn<br /> <br /> Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli and Hoàng Xuân Thành. Ly nông, bất ly hương và làm<br /> thủ công tại làng. Nxb Thế giới, 2004.<br /> Đặng Nguyên Anh. “Vai trò của di dân trong quá trình phát triển nông thôn”, Tạp chí Xã<br /> hội học, Số 2 - 2008.<br /> Sidney Goldstein and Alice Goldstein. “Permanent and temporary migration differentials<br /> in China.” Working Paper, East-West Center, Honolulu: 1991.<br /> Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Hà Nội (VAPECHN). “Di dân mùa vụ ở các tỉnh<br /> Đồng bằng sông Hồng”, Báo cáo nghiên cứu. Hà Nội, 2009.<br /> Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên Hợp quốc. Điều tra Di cư Việt Nam 2004. Nxb<br /> Thống kê, 2005.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> Trong năm 2012, Đà Nẵng đã ban hành nghị quyết dừng đăng ký nhập khẩu và hạn chế lao động cư trú<br /> tại địa bàn thành phố. Hà Nội, nếu thông qua Luật Thủ đô, sẽ là thành phố đầu tiên ở châu Á sử dụng<br /> luật pháp để kiểm soát nhập cư và hạn chế người di cư.<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2