Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐIỀU TRỊ RÒ BÀNG QUANG ‐ ÂM ĐẠO BẰNG PHẪU THUẬT <br />
NỘI SOI QUA Ổ BỤNG TẠI BỆNH VIÊN CHỢ RẪY. <br />
Trần Trọng Trí*, Trần Ngọc Sinh*, Dương Quang Vũ*, Châu Quí Thuận*, Hoàng Khắc Chuẩn*, <br />
Nguyễn Thị Thái Hà*, Nguyễn Vĩnh Bình**, Nguyễn Đức Huy*, Thái Kinh Luân** <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mở đầu và mục tiêu: Rò bàng quang – âm đạo là tai biến thường gặp trong can thiệp sản phụ khoa, bệnh <br />
ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Chúng tôi đánh giá tính hiệu quả và tính an toàn của <br />
phương pháp điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu thuật nội soi qua ổ bụng. <br />
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu <br />
thuật nôi soi qua ổ bụng cho 39 trường hợp tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2005 đến tháng 12/2011. Tuổi <br />
trung bình là 45± 11 tuổi, thời gian mang bệnh trung bình là 31 ± 74 tháng, kích thước lỗ rò trung bình là 1,5 ± <br />
0,6 cm. <br />
Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình là 204 ± 105 phút, 4 trường hợp phải truyền máu lúc mổ, lượng <br />
máu mất trung bình là 182 ± 142 ml, thời gian hậu phẫu trung bình là 11 ±4 ngày. Tỷ lệ thành công là 87,2%. <br />
Kết luận: Phẫu thuật nội soi ổ bụng vá rò bàng quang âm đạo là phương pháp điều trị ít xâm hại, hiệu <br />
quả,an toàn.Phương pháp này mang những ưu điểm của phẫu thuật nội soi vào điều trị dạng bệnh lý này.Phẫu <br />
thuật sớm giúp xua đi nỗi đau về tâm lý và sớm chữa lành bệnh. <br />
Từ khóa: rò bàng quang âm đạo, điều trị rò bàng quang – âm đạo bằng phẫu thuật nội soi ổ bụng <br />
<br />
ABSTRACT <br />
LAPAROSCOPIC TRANSABDOMINAL TRANSVESICAL VESICOVAGINAL FISTULA REPAIR AT <br />
CHO RAY HOSPITAL <br />
Tran Trong Tri, Tran Ngoc Sinh, Duong Quang Vu, Chau Qui Thuan, Hoang Khac Chuan, <br />
Nguyen Thi Thai Ha, Nguyen Vinh Binh, Nguyen Duc Huy, Thai Kinh Luan <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 365 ‐ 371 <br />
Background and purpose: A vesicovaginal fistula is a common complication of obstetric and gynecologic <br />
surgery. It impact on the physical and psychological quality of life. We studied the efficiency and safety of <br />
laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair. <br />
Patients and methods: We performed 39 cases of laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal <br />
fistula repair at Cho Ray hospital between October 2005 and December 2011. The mean age is 45 ± 11, the time <br />
of surgery is 31 ± 74 months, and the mean size of vesicovaginal fistula is 1.5 ± 0.6 cm. <br />
Results: The mean operative time is 204 ± 105 minutes, 4 cases had to have a blood transfusion, the mean <br />
blood loss is 182 ± 142 ml, there is no postoperative complication, and the mean postoperative hospital stay is 11 <br />
±4 days. The successful rate is 87.2%. <br />
Conclusions: Laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair is minimum invasive <br />
surgery, safe and efficient. Laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair has the <br />
laparoscopic advantages. Repair of vesicovaginal fistulae should be as expeditious as possible to minimize the <br />
* Khoa Ngoại Tiết Niệu Bệnh viện Chợ Rẫy <br />
Tác giả liên lạc: BS CK2 Trần Trọng Trí <br />
<br />
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu <br />
<br />
<br />
** Bộ môn Tiết Niệu, Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh. <br />
ĐT: 0918086162 <br />
<br />
Email: trantrongtricr70@gmail.com <br />
<br />
365<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br />
<br />
patientʹs suffering. <br />
Key words: vesicovaginal fistula, laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair <br />
<br />
MỞ ĐẦU <br />
Rò bàng quang‐âm đạo (rò BQ‐ÂĐ) thường <br />
do tai biến phẫu thuật (sau đây được gọi là rò <br />
BQ‐ÂĐ do phẫu thuật), ngoài ra còn có nguyên <br />
nhân khác như do sanh khó, vết thương do tai <br />
nạn, các bất thường bẩm sinh, vật lạ, bệnh lý ác <br />
tính, xạ trị(4,12)… . Trong đó nguyên nhân thường <br />
gặp nhất là do tai biến trong can thiệp sản phụ <br />
khoa(2). Đây là một trong những biến chứng <br />
đáng lo ngại nhất của phẫu thuật sản phụ khoa. <br />
Rò BQ‐ÂĐ gây ra những ảnh hưởng lớn về <br />
tinh thần và sức khoẻ của người bệnh nói chung, <br />
gây ra những ảnh hưởng tâm lý khó chịu làm <br />
giảm chất lượng cuộc sống(1,12). Bệnh nhân (BN) <br />
thường mang tâm lý nặng nề, mặc cảm do nước <br />
tiểu rỉ liên tục ra quần và mùi hôi khó chịu. <br />
Chính vì mặc cảm này mà nhiều BN đến với <br />
thầy thuốc hàng chục năm sau khi khởi bệnh. <br />
Bệnh thường phải can thiệp phẫu thuật vì <br />
điều trị bảo tồn hiếm khi mang lại kết quả thành <br />
công như mong đợi. Nhưng thành công phẫu <br />
thuật không phải lúc nào cũng mỹ mãn. Ngoài <br />
ra, theo cổ điển, phẫu thuật viên không can <br />
thiệp khâu rò ngay, BN thường phải chờ đợi đến <br />
nhiều tháng khi vết thương đã “ổn định” mới <br />
tiến hành mổ khâu rò (38). Việc điều trị phẫu <br />
thuật rò BQ‐ÂĐ là một trong những thách thức <br />
qua nhiều thập niên. Có nhiều phương pháp <br />
được đặt ra gồm mổ mở kinh điển, phẫu thuật <br />
nội soi và ngày nay là phẫu thuật nội soi dưới sự <br />
hỗ trợ của robot(7,8). Có nhiều cách tiếp cận: qua <br />
ngã bụng, ngã âm đạo, xuyên bàng quang, hoặc <br />
kết hợp, chọn lựa phương pháp phẫu thuật nào <br />
tùy thuộc vào tay nghề và kinh nghiệm của từng <br />
phẫu thuật viên. <br />
Trong điều kiện nước ta hiện nay, số trường <br />
hợp tai biến này dường như có giảm đáng kể do <br />
những tiến bộ đạt được trong chuyên ngành. <br />
Nhưng cũng do phát triển chuyên ngành về <br />
phẫu thuật nội soi mà có thêm dạng lâm sàng <br />
mới là rò BQ‐ÂĐ do phẫu thuật nội soi. <br />
<br />
366<br />
<br />
Giá trị của phẫu thuật khâu rò rất to lớn vì <br />
kết quả thành công không những giúp BN <br />
chữa lành bệnh mà còn xua đi mặc cảm tâm lý <br />
nặng nề. <br />
Cũng trong điều kiện phát triển của phẫu <br />
thuật nội soi, với ưu thế ít xâm hại, không phải <br />
mở lại vết mổ cũ, và cũng nhờ ưu điểm này <br />
chúng tôi không phải phá vết mổ chưa ổn định <br />
mà vẫn có thể can thiệp khâu lỗ rò bằng phẫu <br />
thuật nội soi. <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
Từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 12 năm <br />
2011, tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi tiến hành <br />
phẫu thuật nội soi ổ bụng vá rò BQ‐ÂĐ ở các <br />
trường hợp rò thể cao, rò không phức tạp. <br />
Chúng tôi có 39 BN với các đặc điểm trước mổ <br />
được liệt kê chi tiết ở Bảng 1. <br />
Bảng 1. Đặc điểm BN trước mổ. <br />
Tuổi trung bình<br />
45 ± 11<br />
Thời gian mang bệnh trung bình<br />
31 ± 74 tháng<br />
Mùi khai<br />
39<br />
Ra nước tiểu âm đạo<br />
39<br />
Triệu chứng nhiễm trùng<br />
9<br />
Thăm âm đạo phát hiện bất thường<br />
31/36<br />
Soi bàng quang phát hiện lỗ rò<br />
39/39<br />
Test xanh methylen dương tính<br />
36/36<br />
Soi âm đạo phát hiện lỗ rò<br />
9<br />
Siêu âm phát hiện lỗ rò<br />
1/39<br />
Giãn niệu quản và đài bể thận trên siêu âm<br />
1/39<br />
Dãn niệu quản trên UIV<br />
2/39<br />
Thuốc cản quang vào âm đạo trên hình ảnh<br />
1/1<br />
chụp bàng quang có cản quang<br />
Soi bàng quang phát hiện lỗ rò<br />
39/39<br />
Kích thước lỗ rò trung bình<br />
1,5 ± 0,6 cm<br />
<br />
Tất cả các BN nghiên cứu đều được khai <br />
thác bệnh sử, tiền sử và khám lâm sàng đầy đủ <br />
trước mổ. Chúng tôi thực hiện các test xanh <br />
methylene và soi bàng quang để xác định rò, <br />
chẩn đoán phân biệt, đánh giá vi trí và kích <br />
thước lỗ rò. BN được giải thích rõ về bệnh lý và <br />
phương pháp phẫu thuật kể cả khả năng thất <br />
bại sau mổ. Tất cả các trường hợp đều được gây <br />
mê nội khí quản, được theo rõi với máy gây mê <br />
<br />
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
có monitor theo dõi. BN nằm tư thế sản phụ <br />
khoa hoặc nằm đầu thấp 30o. Máy gây mê ở phía <br />
đầu BN. Phẫu thuật viên đứng bên trái BN, <br />
người phụ đứng đối diện, dụng cụ viên đứng <br />
cùng bên phẫu thuật viên chính. Màn hình điều <br />
khiển (monitor) đặt ở phía, dưới 2 chân BN. <br />
<br />
quang 2 lớp riêng biệt bằng chỉ Vicryl 2.0, khâu <br />
mũi rời hoặc mũi liên tục. <br />
<br />
Đưa thông niệu quản ngược dòng lên đến bể <br />
thận, thường chọn thông nòng niệu quản số 6‐7 <br />
Fr, đặt lên cao 20 – 25cm, sau đặt kiểm tra xem <br />
nước tiểu có ra tốt hay không, khi cần thiết <br />
chúng tôi di chuyển nòng niệu quản sao cho <br />
thông nòng hoạt động tốt. Thông niệu quản <br />
được đặt trong suốt quá trình phẫu thuật và tiếp <br />
tục lưu thêm 24 – 48 giờ sau mổ hoặc lâu hơn <br />
tùy trường hợp. <br />
<br />
Chúng tôi ghi nhận các thông số như thời <br />
gian mổ, lượng máu mất, các tai biến và biến <br />
chứng có thể xãy ra, tỷ lệ thành công được đánh <br />
giá 3 tháng sau mổ. Xử trí số liệu bằng phần <br />
mềm Epi Info 3.5.1. <br />
<br />
Soi bàng quang đưa dây hướng dẫn qua lỗ <br />
rò xuống âm đạo, qua đó từ âm đạo đặt thông <br />
Foley 10Fr hoặc to hơn tùy kích thước lỗ rò vào <br />
bàng quang, bơm bóng cố định Foley kéo xuống <br />
âm đạo. Một số trường hợp đầu chúng tôi tự chế <br />
một cuộn gạc tròn đặt trong bao cao su đưa vào <br />
âm đạo chèn vào lỗ rò để tránh xẹp bàng quang. <br />
Thường chúng tôi cần 3 hoặc 4 trocar tùy <br />
trường hợp. Vào trocar 10mm đầu tiên ở rốn, 1 <br />
trocar 10 mm ở hố chậu phải – 1 trocar 5 mm <br />
bên đối diện, vị trí đặt trung điểm của đường <br />
giữa mào chậu và rốn. Nếu cần thiết đặt thêm 1 <br />
trocar 5m trên xương mu. <br />
Thám sát ổ bụng, nếu có mạc nối bám vết <br />
mổ chúng tôi cắt mạc nối dính. Đưa ruột lên <br />
phía trên ổ bụng, tạo khoang trống vùng tiểu <br />
khung. Treo bàng quang lên thành bụng. Bóc <br />
tách mặt sau bàng quang và âm đạo. Mở phúc <br />
mạc túi cùng bàng quang âm đạo. <br />
Cắt mở bàng quang đi thẳng vào đường rò, <br />
sau khi vào bàng quang nhìn rõ 2 miệng niệu <br />
quản vì đã có 2 nòng niệu quản được đặt vào <br />
bàng quang trước đó. Khi bóc tách vào đường rò <br />
ta dễ dàng nhận thấy đường rò nhờ có thông <br />
Foley đã được đặt trước đó. Tiến hành tách mặt <br />
sau bàng quang và âm đạo thành hai lớp riêng <br />
biệt. Cắt lọc mô xơ chai hoặc hoại tử nếu có. <br />
Sau khi bóc tách 2 lớp âm đạo và bàng <br />
quang rõ ràng, tiến hành khâu âm đạo và bàng <br />
<br />
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu <br />
<br />
Đặt thông niệu đạo – bàng quang bằng <br />
thông Foley 20 – 24 Fr, bơm rửa kiểm tra. Kiểm <br />
tra lại ổ bụng, dẫn lưu cùng đồ Douglas, khâu <br />
lại lỗ trocar. <br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
Thời gian mổ trung bình là 204 ± 105 phút, <br />
Tất cả các trường hợp đều được thực hiện qua <br />
nội soi ổ bụng, một trường hợp phải chuyển mổ <br />
mở do dính. Có 3 trường hợp mất máu phải <br />
truyền trong lúc mổ, chiếm tỷ lệ 12,1%, các tai <br />
biến khác như thủng trực tràng, tổn thương niệu <br />
quản và các cơ quan lân cận không ghi nhận <br />
trong các trường hợp nghiên cứu. Tỷ lệ thành <br />
công là 34/39 trường hợp chiếm tỷ lệ 87,2%. <br />
Bảng 2. Kết quả phẫu thuật vá rò bàng quang âm đạo <br />
qua nội soi ổ bụng. <br />
Thời gian phẫu thuật trung bình<br />
Lượng máu mất trung bình<br />
Số ngày hậu phẫu trung bình<br />
Số ngày rút nòng NQ trung bình<br />
Số ngày rút dẫn lưu cùng đồ Douglas<br />
trung bình<br />
Số ngày rút thông NĐ trung bình<br />
Số trường hợp biến chứng<br />
Tỷ lệ thành công<br />
<br />
204 ± 105 phút<br />
182 ± 142 ml<br />
11 ± 4 ngày<br />
7 ± 5 ngày<br />
5 ± 2 ngày<br />
15 ± 6 ngày<br />
0<br />
87,2%<br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Về nguyên nhân sinh bệnh <br />
Nguyên nhân sinh bệnh của rò BQ‐ÂĐ khác <br />
nhau ở từng vùng trên thế giới. Ở các nước phát <br />
triển, hơn 75% trường hợp rò BQ‐ÂĐ là do tổn <br />
thương bàng quang trong phẫu thuật sản phụ <br />
khoa, phẫu thuật niệu khoa và phẫu thuật vùng <br />
chậu. Tổn thương do phẫu thuật đối với đường <br />
niệu dưới thường gặp nhất là sau cắt tử cung, ở <br />
các nước phát triển nguyên nhân gây rò BQ‐ÂĐ <br />
còn do các bệnh lý ác tính, xạ trị vùng chậu, sang <br />
chấn sản khoa. Tỷ lệ tổn thương bàng quang <br />
<br />
367<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br />
<br />
trong quá trình cắt tử cung ngã bụng là 0,5 đến <br />
1%. Trong đó tỷ lệ rò xuất hiện sau cắt tử cung là <br />
0,1 – 0,2%. Rò bàng quang âm đạo sau cắt tử <br />
cung thường do vô tình cắt bàng quang gần <br />
mỏm cụt âm đạo. Nếu không nhận biết trong <br />
mổ, nang nước tiểu vùng chậu sẽ hình thành và <br />
sẽ được dẫn lưu một cách tự nhiên qua mỏm cụt <br />
và đường rò sẽ hình thành. <br />
Ở các nước đang phát triển, rò bàng quang– <br />
âm đạo thường do cuộc chuyển dạ kéo dài do <br />
bất xứng giữa đầu thai nhi và khung chậu. <br />
Thành âm đạo, bàng quang, cổ bàng quang và <br />
đoạn niệu đạo gần cổ bàng quang bị chèn ép bởi <br />
thai nhi kéo dài gây thiếu máu nuôi và hoại tử. <br />
Những nguyên nhân khác gây rò BQ‐ÂĐ là <br />
do dụng cụ niệu khoa hoặc sản phụ khoa, các <br />
phẫu thuật sau phúc mạc, mạch máu hoặc phẫu <br />
thuật vùng chậu, các bệnh nhiễm trùng hoặc <br />
viêm, vật lạ, do bẩm sinh, sang chấn trong sinh <br />
hoạt tình dục(12)… <br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguyên <br />
nhân sinh bệnh chủ yếu là sau cắt tử cung, <br />
chiếm 29/39 TH (74,4%), đứng thứ nhì là do mổ <br />
lấy thai chiếm 8/39 TH (20,5%), các nguyên nhân <br />
khác như dị vật bàng quang… chiếm số lượng <br />
nhỏ. Bệnh viện chúng tôi là bệnh viện tuyến <br />
trên, nguồn bệnh chủ yếu từ 2 bệnh viện sản <br />
khoa lớn của khu vực miền Nam (bệnh viện <br />
Hùng Vương, bệnh viện Từ Dũ và một bệnh <br />
viện phía nam) nên nguyên nhân do phẫu thuật <br />
chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Trường hợp dị vật là <br />
một BN nữ chưa có gia đình, 24 tuổi được bệnh <br />
viện tỉnh phẫu thuật với chẩn đoán ban đầu là <br />
sỏi bàng quang, chẩn đoán sau mổ là dị vật âm <br />
đạo – bàng quang do BN thủ dâm, dị vật là một <br />
ống nhựa được để lâu trong âm đạo gần một <br />
năm. <br />
Có một dạng lâm sàng mới được chúng tôi <br />
ghi nhận là sau phẫu thuật nội soi ổ bụng đễ cắt <br />
tử cung gây biến chứng rò BQ _ ÂĐ 4/39TH <br />
(10,3%). Biến chứng này thường xảy ra ở những <br />
trung tâm mớ bắt đầu triển khai phẫu thuật nội <br />
soi.Một số trường hợp chúng tôi ghi nhận có <br />
những nơ chỉ khâu trong lòng bàng quang khi <br />
<br />
368<br />
<br />
soi bàng quang chúng tôi phát hiện. Có lẽ, ở lần <br />
mổ trước trong khi khâu cầm máu phẫu phuật <br />
viên đã khâu nhằm vào bàng quang mà không <br />
biết. Chưa có trường hợp nào được ghi nhận sỏi <br />
bám nơ chỉ khâu. <br />
<br />
Thời điểm phẫu thuật <br />
Thời điềm để phẫu thuật vá rò BQ‐ÂĐ hiện <br />
nay đang còn bàn cãi. Việc vá rò phải được tiến <br />
hành sớm để xua đi những gánh nặng về mặc <br />
tâm lý mà BN đang gánh chịu, đồng thời thời <br />
điểm phẫu thuật phải được xem xét sao cho các <br />
yếu tố phẫu thuật tốt, thuận lợi cho quá trình <br />
lành sẹo góp phần cho phẫu thuật thành công. <br />
Đa số quan điểm đồng tình nên phẫu thuật trì <br />
hoãn 3‐ 6 tháng sau cuộc sinh khó để việc phân <br />
định giữa mô lành và mô hoại tử rõ rệt, hiện <br />
tượng phù nề và quá trình viêm ổn định. Đối với <br />
các lỗ rò do xạ trị thời gian trì hoãn nên kéo dài 6 <br />
– 12 tháng. <br />
Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, <br />
mặc dù những giả thuyết trì hoãn được đưa ra, <br />
các đường rò đơn giản có thể được phẫu thuật <br />
tạo hình sớm ngay khi được chẩn đoán(3), điều <br />
này có ý nghĩa rất lớn vì nó giải tỏa sớm tâm lý <br />
nặng nề của BN. Tuy nhiên trong một vài <br />
trường hợp, thời điểm phẫu thuật tốt nhất tùy <br />
vào từng BN cụ thể (Blaivas và cộng sự, 1995). <br />
Raz và cộng sự (1993) khuyến cáo rằng những lỗ <br />
rò không phức tạp sau cắt tử cung ngã bụng có <br />
thể phẫu thuật ngay nếu có khả năng phẫu thuật <br />
qua ngã âm đạo. Tuy nhiên trong một vài <br />
trường hợp sau cắt tử cung ngã âm đạo cần phải <br />
chờ đợi 2 – 3 tháng mới phẫu thuật.Ngược lại, <br />
nếu phải tạo hình qua ngã bụng sau một cuộc <br />
phẫu thuật vùng bụng đặc biệt khó khăn, nên <br />
chờ đợi một thời gian để hiện tượng viêm ổn <br />
định. Nên khám âm đạo định kỳ mỗi 1 – 2 tuần <br />
để kiểm tra mô âm đạo và có kế hoạch phẫu <br />
thuật vào thời điểm thích hợp (Carr và Webster, <br />
1996). <br />
Tiếp cận qua ngã âm đạo có thể được tiến <br />
hành 2 – 3 tuần sau thương tổn ban đầu nếu <br />
điều trị bảo tồn thất bại và BN có thể trạng tốt. <br />
Mô âm đạo thường không bị biến đổi do lần <br />
<br />
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
phẫu thuật trước, đặc biệt là những phẫu thuật <br />
qua ngã bụng. <br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 13/39 <br />
trường hợp (33,3%) được phẫu thuật sớm (