intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật PCR trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

45
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu nhằm định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật PCR trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết của đề tài nghiên cứu này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Định loài sán lá gan nhỏ opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật PCR trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> <br /> ĐỊNH LOÀI SÁN LÁ GAN NHỎ OPISTHORCHIS VIVERRINI <br /> NHIỄM TRÊN NGƯỜI BẰNG KỸ THUẬT PCR TRÊN HỆ GEN TY THỂ  <br /> TẠI HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ <br /> Nguyễn Văn Chương*, Bùi Văn Tuấn*, Huỳnh Hồng Quang* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Đặt vấn đề: Sán lá gan nhỏ là vấn đề y tế công cộng quan trọng tại các vùng Đông Á và Đông Âu, bệnh <br /> gây ra bởi loài Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis và loài Opisthorchis lobatus mới. <br /> Hiện tại, có hơn 600 triệu người có nguy cơ nhiễm các sán lá này trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết bệnh nhân <br /> nhiễm sán không có triệu chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng biểu hiện các triệu chứng không đặc hiệu. Tuy <br /> nhiên, nhiễm nặng và kéo dài có thể dẫn đến một loạt bệnh gan mật (viêm đường mật, viêm túi mật, vàng da do <br /> tắc mật), đặc biệt trên cả mô hình thực nghiệm và dịch tễ học cho bằng chứng nhiễm các sán này là một trong các <br /> nguyên nhân dẫn đến ung thư biểu mô đường mật.  <br /> Phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế cắt ngang mô tả. Sử dụng kỹ thuật giám định loài PCR trên gen ty <br /> thể xác định và phân biệt loài Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini.  <br /> Kết quả: Kỹ thuật PCR đã xác định loài sán nhiễm trên người là loàiOpisthorchis viverrini. <br /> Kết  luận: Việc xác định đặc hiệu là rất cần thiết để hiểu biết về tính đa dạng loài sán lá gan nhỏ tại Việt <br /> Nam cũng như xây dựng bản đồ phân bố trong khu vực Mê Kông, đề ra các biện pháp phòng chống thích hợp. <br /> Từ khóa: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis <br /> <br /> ABSTRACT <br /> IDENTIFICATION OF Opisthorchis viverrini BY A MITOCHONDRIAL‐BASED MULTIPLEX PCR  <br /> IN HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE <br /> Nguyen Van Chuong, Bui Van Tuan, Huynh Hong Quang <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 540 – 545 <br /> Backgrounds:  Liver  fluke  infection  caused  by  Opisthorchis  viverrini,  Opisthorchis  felineus,  Clonorchis <br /> sinensis,  and  new  Opisthorchis  lobatus  is  a  major  public  health  problem  in  East  Asia  and  Eastern  Europe. <br /> Currently,  more  than  600  million  people  are  at  risk  of  infection  with  these  trematodes.  Most  people  with <br /> opisthorchiasis  or  clonorchiasis  have  no  symptoms,  only  5‐10%  of  infected  people  with  heavy  load  have  non‐<br /> specific  symptoms.  Nonetheless,  heavy,  long‐standing  infection  is  associated  with  a  number  of  hepatobiliary <br /> diseases (cholangitis, obstructive jaundice, cholecystitis), especially, both experimental and epidemiologic evidence <br /> strongly implicates these fluke infection in the aetiology of one of the liver cancer subtypes as cholangiocarcinoma.  <br /> Methods:  A  cross  sectional  study  was  conducted.  A  mitochondrial‐based  multiplex  PCR  was  used  to <br /> identify and discriminate of Clonorchis sinensis and Opisthorchis viverrini species.  <br /> Result: Themultiplex PCR technique in identification of adults fluke from infected patients was Opisthorchis <br /> viverrini.  <br /> Conclusion:  Specific  identification  is  necessary  for  understanding  of  the  liver  fluke  diversity  in  Vietnam, <br /> mapping of its distribution in Mekong region, and propose proper control measures. <br /> Key words: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis <br /> * Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn g <br /> Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang     ĐT: 0905103496 <br /> <br /> 540<br /> <br /> Email: huynhquangimpe@yahoo.com <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Bệnh  sán  lá  gan  nhỏ  (SLGN)  là  một  trong <br /> những  bệnh  ký  sinh  trùng  lây  truyền  qua  thức <br /> ăn  quan  trọng,  với  3  loài  chính  Opisthorchis <br /> viverrini  (O.viverrini),  Clonorchis  sinensis  (C. <br /> sinensis)  và Opisthorchis felineus (O. felineus),  gây <br /> ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người, <br /> đặc  biệt  dẫn  đến  ung  thư  biểu  mô  đường  mật. <br /> SLGN  hiện  là  mối  nguy  cơ  và  đe  dọa  đến <br /> khoảng  600  triệu  người  trên  phạm  vi  toàn  cầu, <br /> đặc biệt tại khu vực Đông Á và Đông Âu(3). Loài <br /> O.  viverrinilưu  hành  chủ  yếu  ở  các  quốc  gia <br /> Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Lào, Việt Nam và <br /> Campuchia; C. sinensis thường gặp ở vùng nông <br /> thôn  tại  Hàn  Quốc  và  Trung  Quốc(6).  Tại  Việt <br /> Nam,  bệnh  SLGL  nhỏ  lưu  hành  ít  nhất  25  tỉnh, <br /> thành, trong đó 15 tỉnh phía bắc và 10 tỉnh miền <br /> Trung‐Tây  Nguyên(7,8)  với  tỷ  lệ  nhiễm  từ  0,2  ‐ <br /> 37%. Hầu hết người bệnh SLGN không có triệu <br /> chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng xuất hiện <br /> các triệu chứng không đặc hiệu như đau hạ sườn <br /> phải,  khó  tiêu  và  suy  nhược.  Tuy  nhiên,  nhiễm <br /> trùng nặng và kéo dài  có  liên  quan đến một số <br /> loại bệnh gan mật, gồm có viêm đường mật, tắc <br /> mật vàng da, gan lớn, xơ gan viêm túi mật và sỏi <br /> túi  mật,  thậm  chí  gây  ung  thư  biểu  mô  đường <br /> mật hoặc ung thư đường mật(2,7).  <br /> Người bị mắc bệnh SLGN là do ăn phải một <br /> số loài cá nước ngọt có chứa ấu trùng sán chưa <br /> được nấu chín, hoặc ăn sống dạng gỏi cá. Vốn dĩ <br /> thói quen của một số vùng ven biển miền Trung, <br /> thích  ăn  các  món  cá  nước  ngọt  dưới  dạng <br /> “shasimi” (ăn với mù tạt hoặc dạng gỏi) hoặc xử <br /> lý  chưa  chín  (tái)  như  một  yếu  tố  nguy  cơ  cao <br /> nhiễm  mầm  bệnh  SLGN.  Huyện  Hướng  Hóa, <br /> tỉnh  Quảng  Trị  với  6  xã  vùng  rìa  giáp  với  biên <br /> giới Lào qua sông Sepon với đa dạng nhiều loài <br /> cá  nước  ngọt  có  thể  là  nguồn  thực  phẩm  hàng <br /> ngày cho người dân hai bên sông, cùng với tập <br /> quán  ăn gỏi  cá  nước ngọt  nên  khả năng  có  lưu <br /> hành  bệnh  SLGN  là  rất  lớn(6).  Với  ý  tưởng  xác <br /> định loài SLGN lưu hành cũng như đề xuất biện <br /> pháp  phòng  chống  thích  hợp,  đề  tài  này  tiến <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> hành nhằm mục tiêu xác định loài SLGN ký sinh <br /> ở  người  và  ở  các  vật  chủ  trung  gian  tại  điểm <br /> nghiên cứu bằng ký thuật phân tử.  <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Địa điểm và thời gian <br /> Xã  Thanh  và  Xy,  huyện  Hướng  Hóa,  tỉnh <br /> Quảng Trị (xã giáp với biên giới Lào); <br /> Từ tháng 4/2013 đến tháng 6/2013. <br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> Người dân trong 2 xã được chọn, chọn từ 5 <br /> tuổi trở lên; <br /> Mẫu SLGN thu thập được trên người và trên <br /> vật chủ trung gian cá. <br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu <br /> Thiết kế nghiên cứu. <br /> Theo phương pháp nghiên cứu ngang mô tả. <br /> Cỡ  mẫu  nghiên  cứu  tỷ  lệ  nhiễm  SLG  nhỏ,  theo <br /> công thức: <br />    <br /> <br />  <br /> <br /> p.(1 ‐ p) <br /> <br /> n = Z2(1‐ /2)  <br />    <br /> <br />  <br /> <br />     d2 <br /> <br /> Trong đó: <br /> n : Cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được; <br /> p:  Tỷ  lệ  nhiễm  SLGN  từ  một  điều  tra  thăm <br /> dò trước (pilot survey) = 13,5%    <br /> d: Sai số tuyệt đối, chọn 0,04. <br /> Z(1 ‐ /2): Hệ số tin cậy = 1,96 (với  = 0,05, độ <br /> tin cậy CI = 95% ) <br /> Vậy  cỡ  mẫu  sẽ  là:  n  ≈  280,3  cho  mỗi  điểm <br /> nghiên cứu. <br /> Cộng thêm những người mất mẫu + 10% số <br /> ca,  vậy  cỡ  mẫu  cuối  cùng  là  300  cho  mỗi  điểm. <br /> Tính trung bình mỗi hộ 4 người, chọn 75 hộ cho <br /> mỗi điểm. <br /> Nội dung nghiên cứu <br /> Nghiên cứu tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan <br /> bằng kỹ thuật Kato‐katz; <br /> Thu  thập  sán  trưởng  thành  trên  người  và <br /> định loại bằng hình thái học và giám định PCR; <br /> <br /> 541<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Kỹ thuật nghiên cứu <br /> Xét nghiệm phân  Kato‐Katz:  Các mẫu  phân <br /> thu thập được; <br /> Kỹ thuật định loại SLGN bằng hình thái học <br /> (phân loại Nguyễn Thị Lê, 1995); <br /> Kỹ  thuật  giám  định  loài  SLGN  bằng  PCR: <br /> ADN  tổng số  của  từng  con sán  riêng  biệt  được <br /> tách  chiết  bằng  QIAamp  DNA  Extraction  kit <br /> (QIAGEN  Inc,  USA).  Mồi  được  sử  dụng  trong <br /> phản  ứng này  là  các  cặp  mồi  đặc  hiệu  được sử <br /> dụng  để  chẩn  đoán  phân  biệt  O.  viverrini  với <br /> C.sinensis (Le và cs, 2006), cho sản phẩm PCR xác <br /> định O.viverrini có độ dài là 1357 bp và C.sinensis <br /> là 612 bp; <br /> <br /> Phân tích và xử lý số liệu <br /> Nhập  số  liệu  vào  phần  mềm  Epidata  và  xử <br /> lý trên chương trình Stata. <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br /> <br /> Thực trạng SLGN tại các điểm nghiên cứu <br /> Bảng 1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN chung ở 2 <br /> xã qua xét nghiệm phân <br /> Địa điểm<br /> Thanh<br /> Xy<br /> Cộng<br /> <br /> Số XN Số ca phát hiện Số trứng trên<br /> trứng sán<br /> 1 gam phân<br /> 302<br /> 35 (11,59%)<br /> 33,38<br /> 304<br /> 34 (11,18%)<br /> 29,52<br /> 606<br /> 69 (11,39%)<br /> 31,4<br /> <br /> Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm sán tại 2 xã là 11,39%, <br /> trong  đó  tại  xã  Thanh  là  11,59%  và  xã  Xy  là <br /> 11,18%.  Cường  độ  nhiễm  sán  tại  xã  Thanh  là <br /> 33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52 <br /> trứng/gam phân. <br /> <br /> Kết  quả  điều  tra  loài  SLGN  ở  người  và  ở <br /> vật chủ trung gian <br /> Bảng 2. Kết quả XN đãi phân thu thập SLGN <br /> trưởng thành <br /> Địa điểm Số ca XN phân Số ca có sán Lượng sán thu<br /> (+)<br /> được<br /> Xã Thanh<br /> 5<br /> 2<br /> 44<br /> Xã Xy<br /> 6<br /> 1<br /> 19<br /> Cộng<br /> 11<br /> 3<br /> 63<br /> <br /> Nhận xét: Trong số 35 ca (xã Thanh) và 34 ca <br /> (xã  Xy)  nhiễm  SLGN,  chỉ  chọn  5  ca  (xã  Thanh) <br /> và 6 ca (xã Xy) đưa đi đãi phân để xác định hình <br /> <br /> 542<br /> <br /> thái học và phân học phân tử định loài SLGN. Số <br /> ca  được  cho  uống  thuốc  và  đãi  phân  tìm  sán <br /> trưởng thành là 11 ca, song chỉ có 3 ca thu thập <br /> được  sán  trưởng  thành,  tổng  số  sán  lá  gan  nhỏ <br /> thu thập được là 63 con. <br /> Định loài bằng hình thái học <br /> <br />  <br /> Hình 1. Hình thể SLGN trưởng thành <br /> Nhận xét: Xác  định  hình thái 6  mẫu sán  cho <br /> thấy  cơ  thể  sán  mảnh,  màu  hồng  nhạt  khi <br /> nhuộm  Carmine,  giác  miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác <br /> bụng  tròn  nằm  ở  1/3  phía  dưới,  tử  cung  gấp <br /> khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh <br /> hoàn phân nhánh hình thùy nằm ở phía cuối cơ <br /> thể. Dựa vào khóa phân loại, căn cứ hình thái và <br /> kích  thước  của  sán,  loài  sán  ở  xã  Thanh  và  Xy <br /> thuộc  loài  Opisthorchis viverrini  (Cobbold,  1875), <br /> giống  Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ <br /> Opisthorchidae  (Braun,  1901),  bộ  Opisthorchiida <br /> (La Rue, 1957). <br /> Giám định SLGN bằng kỹ thuật PCR <br /> <br />  1  2  3  4  5  6  7   8  <br /> <br /> O. <br /> viverrini <br /> <br /> 1,5kb<br /> <br /> ~1357bp <br /> 1kb <br /> <br />  <br /> Hình  2.  Kết  quả  điện  di  sản  phẩm  PCR  của  mẫu <br /> SLGN  sử dụng  cặp  mồi  OvF‐OvR  Giếng 1:  Chứng  <br /> (‐) Giếng 2: Chứng (+) O. viverrini, 1357bp Giếng 3‐<br /> 8:  Mẫu  SLGN  thu  nhận  tại  điểm.  Giếng  9:  Thang <br /> chuẩn DNA (1kb DNA ladder). <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> Phản  ứng  PCR  thực  hiện  bằng  mồi  đặc <br /> hiệu C. sinensis (CsF‐CsR) với các mẫu sán, kết <br /> quả cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu <br /> được  từ  các  mẫu  sán  này,  ngoại  trừ  một  vạch <br /> DNA  của  C. sinensis  đã  được  giám  định  bằng <br /> phân tử dùng làm chứng (+) (612 bp, giếng 3). <br /> Từ  kết  quả  giám  định  này  cho  thấy  mẫu  sán <br /> thu nhận tại xã Thanh và xã Xy không phải là <br /> C. sinensis. <br /> BÀN LUẬN <br /> Bệnh  SLGN  gây  ảnh  hưởng  nghiêm  trọng <br /> đến  sức  khỏe  con  người,  song  các  hoạt  động <br /> phòng chống hiệu quả vẫn chưa được triển khai <br /> bao  phủ.  Bệnh  SLGN  lưu  hành  ở  những  tỉnh/ <br /> thành  có  tập  quán,  thói  quen  ăn  gỏi  cá  nước <br /> ngọt,  điều  kiện  vệ  sinh  môi  trường  kém.  Xã <br /> Thanh  và  xã  Xy,  là  2  xã  thuộc  huyện  Hướng <br /> Hóa,  tỉnh  Quảng  Trị  giáp  với  Lào  qua  sông <br /> Sepon, người dân ở đây chủ yếu là dân tộc Vân <br /> Kiều và một số ít người Kinh hoặc Paco vào đây <br /> buôn  bán  hoặc  là  cán  bộ  tăng  cường  và  bộ  đội <br /> biên  phòng.  Việc  quản  lý  phân  nói  riêng  và  vệ <br /> sinh môi trường nói chung còn “khoảng trống” <br /> (tỷ lệ hộ có hố xí chỉ khoảng 50%, nhưng đa số là <br /> hố xí đào chưa hợp vệ sinh). Tập quán ăn gỏi cá <br /> ở đây đã có từ lâu và người dân xem món ăn gỏi <br /> cá là món “khoái khẩu”. <br /> <br /> Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN tại hai xã <br /> nghiên cứu <br /> Để xác định tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm <br /> SLGN, xét nghiệm phân kỹ thuật Kato‐Katz cho <br /> 302  người  tại  xã  Thanh  và  304  đối  tượng  tại  xã <br /> Xy. Số liệu về tỷ lệ nhiễm SLGN chung tại 2 xã là <br /> 11,39%, trong đó tại xã Thanh là 11,59% và xã Xy <br /> là  11,18%,  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa <br /> thống kê. So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn <br /> Văn Chương năm 1992 tại Phú Yên (36,97%) và <br /> năm 2002 tại Bình Định (20,17%) thì kết quả này <br /> thấp hơn, điều này tùy thuộc vào tỷ lệ ăn gỏi cá <br /> của người dân, hoặc điều kiện vệ sinh,… Nhưng <br /> so với nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn và cộng sự <br /> năm 2007 tại xã Đăk Môn, huyện Đăk Glei, tỉnh <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Kon Tum(4,1) với tỷ lệ nhiễm SLGN là 10,45% thì <br /> kết quả này có cao hơn.  <br /> Theo kết quả của bảng 3.5, cường độ nhiễm <br /> SLGN  tại  xã  Thanh  là  33,38  trứng  trên  1  gam <br /> phân, tại xã Xy là 29,52 trứng trên 1 gam phân. <br /> Cường  độ  nhiễm  trung  bình  của  2  xã  là  31,4 <br /> trứng/  gam  phân.  Khi  so  sánh  với  kết  quả  của <br /> Nguyễn Văn Chương và Đỗ Thái Hòa, cho thấy <br /> cường độ nhiễm trung bình trong nghiên cứu tại <br /> xã Thanh và xã Xy thấp hơn so với ở Mỹ Chánh, <br /> Bình  Định  (228  trứng/gam),  An  Mỹ  (225  trứng/ <br /> gam) và Nga An (229,5 trứng/ gam). Điều này có <br /> lẽ  do  tần  suất  ăn  gỏi  cá  các  đối  tượng  trong <br /> nghiên  cứu  này  thấp  hơn  tần  suất  tại  các  điểm <br /> nghiên cứu tác giả trên. <br /> <br /> Xác định loài SLGN tại xã Thanh và xã Xy <br /> Loài SLGN trên người <br /> Trong  số  69  trường  hợp  nhiễm  SLGN  xác <br /> định qua chuẩn vàng soi trứng trong phân đều <br /> được điều trị thuốc đặc hiệu, song để phục vụ <br /> có định loại sán, số ca được cho uống thuốc và <br /> đãi phân tìm SLGN trưởng thành là 11 ca, tuy <br /> nhiên  chỉ  có  3/11  ca  đó  thu  thập  được  sán <br /> trưởng  thành,  với  tổng  số  sán  thu  được  là  63 <br /> con.  Thực  hiện  khâu  định  loại  bằng  hình  thái <br /> học và phân tích sinh học phân tử, trong số 63 <br /> mẫu  sán  đại  diện  từ  3  cá  thể,  chọn  ra  6  mẫu <br /> (mỗi  cá  thể 2  mẫu)  dùng  trong  định  loại  hình <br /> thái  và  6  mẫu  (mỗi  cá  thể  2  mẫu)  dùng  trong <br /> định loại theo PCR. <br /> Kết quả xác định 6 mẫu sán tại điểm nghiên <br /> cứu sán có cơ thể sán mảnh, màu hồng nhạt khi <br /> nhuộm  carmine,  giác  miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác <br /> bụng tròn nằm ở phần ba phía dưới, tử cung gấp <br /> khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh <br /> hoàn  hình  thùy  nằm  ở  phía  cuối  cơ  thể.  Đối <br /> chiếu  với  phân  loại,  căn  cứ  hình  thái  và  kích <br /> thước cho biết SLGN ở xã Thanh và xã Xy thuộc <br /> loài  O.  viverrini  (Cobbold,  1875),  giống <br /> Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ  Opisthorchidae <br /> (Braun,  1901),  bộ  Opisthorchiida  (La  Rue,  1957). <br /> Kết quả hình thái học, cho thấy loài SLGN giống <br /> như  loài  sán  thu  thập  được  ở  xã  Đăk  Môn, <br /> <br /> 543<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum mà nhóm nghiên <br /> cứu từng phát hiện(4,1). <br /> Để  giám  định  về  mặt  phân  tử  loài  sán  O. <br /> viverrini  tại  điểm  nghiên  cứu  đồng  thời  cũng <br /> không thể loại trừ khả năng loài SLGN tại đây có <br /> thể là một chủng lai giữa Opisthorchis ‐ Clonorchis <br /> nên cần thiết tiến hành kỹ thuật PCR. Phản ứng <br /> PCR  được  thực  hiện  với  mồi  đặc  hiệu  cho <br /> O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA  tổng  số  được <br /> tách chiết từ các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh <br /> và xã Xy, sản phẩm điện di cho thấy sản phẩm <br /> PCR  thu  được  từ  các  mẫu  SLGN  có  kích  thước <br /> bằng với kích thước mẫu sán O.viverrini đã được <br /> giám định bằng phân tử dùng làm chứng dương <br /> (kích  thước  1357  bp),  sản  phẩm  PCR  của  các <br /> mẫu sán được giám định loài là đoạn DNA hiển <br /> thị rất rõ và đơn băng, chứng tỏ chất liệu DNA <br /> của SLGN ở xã Thanh và xã Xy rất đặc hiệu với <br /> cặp mồi dùng giám định O.viverrini (OvF‐OvR), <br /> từ kết quả giám định này cho thấy mẫu sán thu <br /> nhận tại xã Thanh và xã Xy là O. viverrini. <br /> Phản ứng PCR được thực hiện bằng cặp mồi <br /> đặc  hiệu  cho  O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA <br /> tổng số(7)được  tách  chiết  từ  các mẫu  SLGN  thu <br /> nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả cho thấy sản <br /> phẩm  PCR  thu  được  từ  các  mẫu  SLGN  này  có <br /> kích thước bằng với kích thước của mẫu sán O. <br /> viverrini đã được giám định bằng phân tử dùng <br /> làm  chứng  dương  (kích  thước  khoảng  1357  bp, <br /> giếng 3), sản  phẩm PCR của  các mẫu  sán  được <br /> giám  định  loài  là  đoạn  DNA  hiển  thị  rất  rõ  và <br /> đơn băng, chứng tỏ khuôn DNA của SLG nhỏ ở <br /> xã  Thanh  và  xã  Xy  là  hết  sức  đặc  hiệu  với  cặp <br /> mồi  dùng  giám  định  O.viverrini  (OvF‐OvR).  Từ <br /> kết quả giám định này cho thấy các mẫu sán thu <br /> nhận  tại  xã  Thanh  và  xã  Xy  là  O.viverrini.  Kết <br /> quả giám định PCR cho thấy loài sán O.viverrini <br /> ở đây cũng giống như ở xã Đăk Môn, huyện Đăk <br /> Glei, tỉnh Kon Tum. <br /> Đồng  thời  phản  ứng  PCR  được  thực  hiện <br /> bằng  cặp  mồi  đặc  hiệu cho C.sinensis  (CsF‐CsR) <br /> với  DNA  tổng  số  được  tách  chiết  từ  các  mẫu <br /> SLGN thu nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả <br /> <br /> 544<br /> <br /> cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu được <br /> từ các mẫu SLGN này ngoại trừ một vạch DNA <br /> của C.sinensis đã được giám định bằng phân tử <br /> dùng làm chứng dương (kích thước khoảng 612 <br /> bp, giếng 3). Từ kết quả giám định này cho thấy <br /> các  mẫu  sán  thu  nhận  tại  xã  Thanh  và  xã  Xy <br /> không  phải  là  C.sinensis. Từ  kết  quả  giám  định <br /> cho thấy các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh và <br /> xã Xy là O.viverrini.  <br /> <br /> KẾT LUẬN <br /> Tỷ lệ, cường độ nhiễm SLGN tại các điểm <br /> nghiên cứu <br /> Tại  xã  Thanh  và  xã  Xy  có  bệnh  SLGN  lưu <br /> hành,  tỷ  lệ  nhiễm  chung  11,39%,  trong  đó  tỷ  lệ <br /> nhiễm  tại  xã  Thanh  là  11,59%,  tại  xã  Xy  là <br /> 11,18%. Cường độ nhiễm SLGN tại xã Thanh là <br /> 33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52 <br /> trứng/gam phân. <br /> <br /> Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu <br /> Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu thu thập <br /> trên  người  qua  định  loại  bằng  hình  thái  học  và <br /> giám định sinh học phân tử là loài O. viverrini. <br /> <br /> KIẾN NGHỊ <br /> Đẩy  mạnh  công  tác  tuyên  truyền  giáo  dục <br /> nâng  cao  kiến  thức  phòng  chống  bệnh  SLGN <br /> cộng đồng tại xã Thanh và Xy. Vận động người <br /> dân từ bỏ tập quán ăn gỏi cá, nâng cao tỷ lệ hộ <br /> có hố xí hợp vệ sinh; <br /> Nghiên  cứu  này  chưa  giải  trình  tự  đề  xác <br /> định sự tương đồng về loài O. viverrini tại hai <br /> điểm  này  nên  sẽ  là  một  hạn  chế  trong  phân <br /> tích sâu về mặt gen học, đồng thời điểm này sẽ <br /> là  định  hướng  nghiên  cứu  tiếp  theo  để  đánh <br /> giá  cũng  như  so  sánh  tương  đồng  trong  ngân <br /> hàng gen.  <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO <br /> 1.<br /> <br /> Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương (2011). Thực trạng nhiễm <br /> sán lá gan nhỏ tại xã Đak Môn. huyện Đak Glei. tỉnh Kon Tum. <br /> Tạp chí Y học thực hành. 796. 165‐168. <br /> <br /> 2.<br /> <br /> Honjo  S,  Srivatanakul  P,  Sriplung  H,  et al, (2005).  Genetic  and <br /> environmental determinants of risk for cholangiocarcinoma via <br /> Opisthorchis  viverrini  in  a  densely  infested  area  in  Nakhon <br /> Phanom. northeast Thailand. Int J Cancer. 117: 854–860. <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2