ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC – ĐỘNG LỰC CƠ BẢN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN<br />
XÃ HỘI VIỆT NAM THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA<br />
<br />
NGUYỄN LƯƠNG BẰNG(*)<br />
NGUYỄN THỊ ƯNG(*)<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Đại đoàn kết dân tộc là động lực của sự phát triển trong suốt tiến trình lịch sử Việt<br />
Nam trải qua những bước thăng trầm của lịch sử. Những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đổi<br />
mới ®ất nước là kết quả của nhiều động lực nhưng đại đoàn kết dân tộc là động lực cơ bản.<br />
Tuy nhiên, những năm gần đây nhiều mâu thuẫn xuất hiện, kìm hãm sức mạnh động lực đại<br />
đoàn kết dân tộc. Bài viết đã đề xuất những giải pháp để giải quyết các mâu thuẫn đó, kích<br />
thích hoạt động của con người theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là phát huy dân chủ xã<br />
hội chủ nghĩa; thực hiện công bằng xã hội; giáo dục truyền thống đoàn kết toàn dân tộc;<br />
chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội; đấu tranh chống lại những luận điệu tuyên truyền<br />
nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
The great national unity is the driving force of development process throughout the<br />
history of Vietnamthrough the steps of historical vicissitudes. The great victory in the<br />
innovation of the country as a result of more power but the grade unity is the basic motivation<br />
However, in the recent year, many conflicts occur, and they curb the power dynamics of the<br />
great national unity. Article has proposed solutions to resolve such conflicts, stimulating<br />
activities of oriented socialism, which is to promote socialist democracy, the implementation<br />
of social justice, religious education tradition of the nation, againsting the negative<br />
phenomena in society, fighingt against the propaganda argument to break the great national<br />
unity.<br />
<br />
Đại đoàn kết là nhân tố cơ bản nhất bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam<br />
trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong chiến tranh chống thực dân Pháp, sức mạnh của<br />
đại đoàn kết dân tộc đã làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu. Đại thắng mùa xuân năm<br />
1975- đại thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong<br />
công cuộc xây dựng đất nước, đã và đang được phát huy lên một tầm cao mới từ khi có Đảng<br />
cộng sản lãnh đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo động lực cơ bản để thực hiện mục<br />
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.<br />
<br />
Động lực phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm<br />
nhiều yếu tố: hoàn cảnh kinh tế xã hội, phương thức sản xuất và trao đổi, phân công lao động,<br />
sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn xã hội, đấu tranh giai cấp, trình độ quản lí,<br />
giao thông vận tải, nhu cầu và lợi ích, đoàn kết toàn dân tộc, v.v. Mỗi yếu tố có vai trò, vị trí,<br />
sức mạnh khác nhau trong việc thúc đẩy xã hội phát triển.<br />
<br />
Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn vốn của xã hội, nó có vị trí đặc biệt trong hệ thống<br />
các động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là sự đồng thuận, sự cố kết dân tộc, trong<br />
đó nòng cốt là liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí<br />
thức và các tầng lớp lao động khác. Hiện nay “đại đoàn kết toàn dân tộc đã được khẳng định ở<br />
<br />
<br />
TS, Đại học Vinh<br />
(*)<br />
<br />
ThS, Học viện Chính trị Hành chính Khu vực I<br />
(*)<br />
một tầm nhận thức mới, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa<br />
quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển bền vững của đất nước<br />
và dân tộc”(1). Khái niệm “đại đoàn kết toàn dân” trước đây, hiện nay được Đảng cộng sản<br />
Việt Nam đổi thành “đại đoàn kết dân tộc”. Khái niệm này được mở rộng ngoại diên để bổ<br />
sung thêm nguồn nhân lực cho đất nước trong thời kì quá độ định hướng xã hội chủ nghĩa.<br />
Chẳng hạn, có những người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không thể gọi là dân Việt Nam vì<br />
họ đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng nếu gọi là dân tộc Việt Nam thì họ có trong thành<br />
phần của cộng đồng dân tộc. “Đại đoàn kết dân tộc” tạo điều kiện cho đồng bào ở xa tổ quốc<br />
tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước, chống được khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, chống<br />
sự đoàn kết xuôi chiều, hình thức. Tư tưởng đại đoàn kết là tư tưởng của thời đại.<br />
<br />
Thực tiễn đã chứng kiến, cùng lâm vào cảnh khủng hoảng, khó khăn như nhau, nhưng<br />
ở châu Mỹ La tinh và gần đây nhất là Thái Lan thoát ra khỏi khủng hoảng rất khó khăn, vì sự<br />
chia rẽ, tranh chấp, lật đổ. Nhưng ở vùng Đông Bắc Á, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,<br />
xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc nên họ vượt qua khó khăn và phát triển nhanh.<br />
<br />
Truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta là kết tinh trí tuệ của toàn dân tộc Việt Nam.<br />
Do nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, nên Đảng cộng sản Việt<br />
Nam luôn luôn quan tâm, tìm các giải pháp để phát huy sức mạnh của nó trong mọi giai đoạn<br />
cách mạng, thể hiện trong nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm khai thác động lực đó để phát huy<br />
sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc. Đặc biệt từ sau Đại hội VI, các thế lực thù địch ra sức tìm<br />
cách kích động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây mâu thuẫn giai cấp, tôn giáo, vấn đề dân<br />
tộc càng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương<br />
Đảng (khoá IX) đã ra nghị quyết “về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu,<br />
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hội nghị khẳng định “khối đại đoàn kết<br />
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí<br />
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn<br />
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững<br />
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (2)<br />
<br />
Sự gắn kết của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là lợi ích, lîi Ých d©n téc lµ lîi Ých<br />
cña mäi giai cÊp vµ tÇng líp x· héi trong mét céng ®ång d©n téc. Lợi ích dân tộc là lợi ích<br />
của cả cộng đồng bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Lợi ích vật chất là lợi ích<br />
kinh tế, chủ quyền dân tộc với lợi ích quốc gia. Lợi ích tinh thần là truyền thống dân tộc, văn<br />
hoá dân tộc. Dân tộc gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân<br />
tộc có những đặc trưng cơ bản là cộng đồng về ngôn ngữ; cộng đồng về lãnh thổ; cộng đồng<br />
về kinh tế; cộng đồng về văn hoá. Dân tộc không phải là số cộng giản đơn của các quan hệ đó<br />
mà những quan hệ ấy có quan hệ nhân quả, tác động biện chứng với nhau một cách chặt chẽ<br />
và độc đáo, bền vững trong lịch sử lâu dài hình thành và phát triển của cộng đồng.<br />
<br />
Trong xã hội có giai cấp, một giai cấp tiến bộ phải dân tộc hoá được những mục tiêu<br />
giai cấp của mình, đồng thời phải giai cấp hoá được sức mạnh của cả dân tộc, tức là cả dân<br />
tộc đi theo mục tiêu của giai cấp thống trị. Đó là sự thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai<br />
cấp, tính dân tộc và tính giai cấp trong quá trình phát triển đất nước. Lợi ích dân tộc gắn bó<br />
hữu cơ với lợi ích giai cấp. Giai cấp thống trị chỉ tồn tại khi nào lợi ích của nó phù hợp với lợi<br />
ích của dân tộc. Nếu giai cấp thống trị không bảo tồn và phát triển được truyền thống tốt đẹp<br />
của dân tộc, chủ quyền dân tộc, lợi ích của nó đối lập với lợi ích của dân tộc, nó sẽ bị dân tộc<br />
loại bỏ. Ngoài giai cấp thống trị, các giai cấp, tầng lớp khác trong cộng đồng dân tộc cũng chỉ<br />
tồn tại khi lợi ích của nó phù hợp với lợi ích dân tộc. Trong lịch sử, để bảo vệ lợi ích của giai<br />
cấp cầm quyền, các giai cấp thống trị sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn bạo ngược nhất, kể cả “khổ<br />
nhục kế” để duy trì, huy động sức mạnh của dân tộc, phục vụ lợi ích ích kỷ của chúng. Tuy<br />
nhiên, những giai cấp đó sớm hay muộn cũng sẽ bị dân tộc lọc bỏ và tôn vinh giai cấp khác<br />
lên nắm ngọn cờ dân tộc.<br />
<br />
Trong những năm qua, với chủ trương đúng đắn của Đảng, chúng ta đã và đang từng<br />
bước kết hợp hài hoà, hợp lí lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong cộng đồng dân tộc. Theo<br />
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay “35 triệu người Việt Nam đã thoát nghèo,<br />
95% dân số đã được sử dụng điện và 90% được sử dụng hệ thống đường bộ” (3). Lợi ích của<br />
nhân dân gắn liền với lợi ích của Đảng và Nhà nước.<br />
<br />
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nhiều nhân tố thuận lợi để phát huy khối đại đoàn kết<br />
mất đi, xuất hiện nhiều nhân tố, thời cơ mới và nảy sinh không ít những nhân tố kìm hãm, làm<br />
rạn nứt khối đại đoàn kết, đưa đến sự chia rẽ cộng đồng dân tộc. Những nhân tố đó như là<br />
phần chìm của tảng băng, khó phát hiện, và khi phát hiện được thì việc ngăn chặn sự phát<br />
triển, lây lan cũng không dễ dàng.<br />
<br />
Trước hết là âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực phản động.<br />
Chống phá cách mạng nước ta là chiến lược lâu dài của chủ nghĩa đế quốc, chúng đang sử<br />
dụng hàng loạt các biện pháp và âm mưu thâm độc phá hoại nhiều mặt, tìm những sơ hở của<br />
chúng ta để thực hiện “diễn biến hoà bình”, khai thác khuynh hướng tư bản chủ nghĩa để làm<br />
suy yếu, triệt tiêu động lực cách mạng nước ta, chúng không từ một thủ đoạn thâm độc nào để<br />
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xúi giục các phần tử phản động, cơ hội, các tôn giáo gây rối,<br />
phá hoại công cuộc xây dựng đất nước. Về kinh tế chúng gây sức ép, tạo ra sự bất bình đẳng,<br />
gây khó khăn, tranh chấp, giành giật tài nguyên, năng lượng bằng các biện pháp trừng phạt,<br />
bán phá giá, huỷ hoại môi trường sinh thái làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng<br />
lớp trong xã hội ngày càng lớn. Tạo cơ hội cho các thế lực kinh tế lợi dụng sức mạnh của<br />
mình để chèn ép, áp đặt chính trị, lợi dụng khủng bố và chống khủng bố để thực hiện mưu đồ<br />
chính trị của mình. Đất nước luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ phá vỡ khối đại đoàn kết dân<br />
tộc, mất ổn định về kinh tế chính trị - xã hội.<br />
<br />
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có nhiều tác động tiêu cực, trái chiều đến<br />
mọi lĩnh vực của đời sống - kinh tế - xã hội. Xuất hiện nhiều mầm mống mới của sự chia rẽ,<br />
mất đoàn kết trong nội bộ dân tộc nảy sinh. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa, những<br />
trào lưu tư tưởng của xã hội phương Tây tràn vào với những quan điểm "phi hệ tư tưởng"<br />
nhằm mục đích vô hiệu hoá chức năng thế giới quan của các nguyên lí Mác - Lênin và thay<br />
vào đó là những tài liệu phản động, lừa đảo, tuyên truyền chống phá chế độ. Coi việc chia rẽ<br />
là một biện pháp lợi hại nhất để làm suy yếu cách mạng nước ta.<br />
<br />
Bài học về mất đoàn kết dân tộc dẫn tới triệt tiêu động lực phát triển đã diễn ra ở nhiều<br />
quốc gia dân tộc, điển hình là ở nước Nga trước đây, khi chính quyền Xô-viết ra đời, quyền tự<br />
quyết dân tộc đã được thực hiện. Khi các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, về cơ bản, quan hệ<br />
giữa các nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi. Vấn đề dân tộc ở<br />
các nước xã hội chủ nghĩa cơ bản đã được giải quyết. Nhưng sau này do những sai lầm chủ<br />
quan, do siêu hình, nóng vội, vận dụng không đúng quan điểm về dân tộc của chủ nghĩa Mác,<br />
mâu thuẫn giữa các dân tộc trong cộng đồng nảy sinh dẫn tới sự tan rã của chủ nghĩa xã hội.<br />
Ý thức rõ được vấn đề đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “động lực chủ yếu để phát<br />
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và<br />
trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi<br />
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” (4).<br />
Để giải quyết những mâu thuẫn hiện nay, phát huy động lực của khối đại đoàn kết dân<br />
tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những năm tới chúng ta cần thực hiện tốt hơn nữa<br />
những giải pháp sau:<br />
<br />
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Muốn huy động được sức mạnh toàn dân tộc<br />
phải phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, đó là thước đo của dân chủ. Bằng cách<br />
đổi mới từng bước hệ thống chính trị, tăng cường dân chủ hoá đời sống xã hội, thực hiện quy<br />
chế dân chủ từ cơ sở, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào<br />
các sinh hoạt chính trị của đất nước, góp phần xoá bỏ dần những ngăn cách giữa các giai cấp,<br />
tầng lớp, làm cho các thành viên trong xã hội cởi mở, xích lại gần nhau hơn. Xây dựng Nhà<br />
nước ta thực sự là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Thực hiện đồng bộ những<br />
nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội<br />
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Cải cách nền hành chính nhà nước về thể chế hành<br />
chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tổ chức và hoạt động<br />
tư pháp, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.<br />
Xử lí nghiêm, kịp thời mọi hành vi tham nhũng, tội phạm. Từng bước hoàn thiện Nhà nước<br />
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm tránh bệnh dân chủ hình thức, "lợi dụng dân chủ",<br />
mất dân chủ, né tránh, ẩn náu, tự vệ.<br />
<br />
Thực hiện công bằng xã hội. Cơ chế thị trường buộc chúng ta phải chấp nhận bất<br />
bình đẳng giữa các giai cấp, tầng lớp, nhưng sự bất bình đẳng ấy phải có giới hạn, không<br />
được để phát triển thành mâu thuẫn đối kháng. Mất công bằng trong xã hội hiện nay diễn ra<br />
trong nhiều lĩnh vực xã hội. Khoảng cách giàu nghèo lớn tạo ra nhiều tiêu cực xã hội như<br />
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, v.v. Tuổi thọ bình quân của nhóm những người giàu đang mỗi<br />
năm một tăng lên, trong khi nhóm người nghèo chưa được cải thiện trong nhiều năm qua, việc<br />
ngày càng nhiều người giàu lên khiến giá cả có xu hướng tăng. Với thu nhập thấp, người<br />
nghèo hầu như không thể mua được nhà ở với giá như hiện nay. Theo định hướng xã hội chủ<br />
nghĩa, chúng ta không thể lựa chọn động lực phát triển dựa trên các nhóm lợi ích, như cách<br />
làm của một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, v.v. Một số tổ chức kinh tế lớn có nhiều<br />
quyền lực đến độ có thể tạo ra ảnh hưởng cho những chính sách của chính phủ. Rồi sau đó,<br />
chính phủ có thể sẽ đứng về lợi ích của các nhóm thay vì lợi ích của nhân dân, không thiết lập<br />
được sự công bằng xã hội, làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày<br />
càng xa, sự bất ổn của xã hội ngày càng tăng.<br />
<br />
Chống các hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong xã hội. Do cơ chế quản lí yếu kém<br />
dẫn tới tiêu cực, lãng phí tài nguyên của đất nước. Sự độc quyền của các tập đoàn kinh tế nhà<br />
nước làm cho một số Đảng viên, cán bộ thực dụng khi leo lên vị trí nào đó họ làm ăn chụp<br />
giật, cục bộ, phụng sự cho một nhóm quyền lợi chứ không phụng sự cho dân tộc để vươn ra<br />
thế giới.<br />
<br />
Để nhường đất cho các dự án, nhiều hộ dân phải di dời, tái định cư, không kế sinh<br />
nhai, nhiều vướng mắc trong công tác bồi thường, ổn định đời sống cho dân vẫn còn ngổn<br />
ngang, khiến đời sống một số đồng bào phải di dời, tái định cư hết sức khó khăn. Chất lượng<br />
nhà quá kém, cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng đồng bộ, dân tái định cư không đất sản xuất.<br />
Lòng tốt của dân bị lạm dụng do tính toán vụ lợi bởi những chủ đầu tư chỉ quan tâm đến lợi<br />
ích kinh tế, mà thiếu quan tâm đến lợi ích của dân. Nhiều cuộc đình công, bãi công của công<br />
nhân diễn ra, xung đột lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội có nguy cơ rạn nứt khối<br />
đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay chúng ta đang tích cực mở rộng quan hệ quốc tế trên tất cả các<br />
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở giữ<br />
vững độc lập chủ quyền của đất nước, không thể mở rộng bằng mọi giá hoặc trả giá quá đắt.<br />
Giáo dục truyền thống đoàn kết toàn dân tộc. Trong bài viết Nên học sử ta, Hồ Chí<br />
Minh đã khẳng định: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người<br />
như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước<br />
ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên<br />
mãi...” (5) Theo tinh thần đó thì thời bình cũng như thời chiến, sự nhất trí về chính trị và tinh<br />
thần trong nhân dân tăng lên, trở thành một nhân tố căn bản đảm bảo sự ổn định chính trị-xã<br />
hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội<br />
tại để cùng tìm thấy lợi ích chung đều tạo ra được động lực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc.<br />
Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên phong phú, dân<br />
số đông đúc, vẫn bị triệt tiêu sức mạnh, vị thế quốc tế suy giảm. Ở nước ta hiện nay, cùng với<br />
sự phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì giữa con người với con người ngày càng<br />
thiếu chất keo kết dính. Hiện nay Việt Nam đang “có trên 500.000 người lao động ở nước<br />
ngoài” (6), nếp sống gia đình truyền thống đang ngày càng mai một, lối sống ngày càng Tây<br />
hoá. Sắp tới, “hàng năm sẽ đưa được 80.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài” (7), đời sống<br />
vật chất sẽ được cải thiện. Nhưng cái mất không phải là nhỏ, nhiều gia đình đổ vỡ, trẻ em<br />
thiếu tình thương yêu của bố mẹ. Trong một số trường học quan hệ thầy trò và các hoạt động<br />
giáo dục xã hội khác bị hạn chế, ý thức cộng đồng, ý thức đoàn kết dân tộc trong tầng lớp sinh<br />
viên ngày càng mơ hồ, mai một.<br />
<br />
Con người Việt Nam vốn sống nghĩa tình với nhau, nhưng sự tăng tốc của xã hội hiện<br />
đại làm cho sinh hoạt cộng đồng chưa thích ứng kịp. Để bù đắp những hẫng hụt đó, người ta<br />
thường tìm đến với nhau bằng các hình thức hoạt động: hội đồng hương, hội đồng môn, họp<br />
lớp, đồng đội cùng chiến trường xưa, v.v. những hoạt động tự phát đó góp phần không nhỏ<br />
củng cố, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Các nhà trường hiện nay chưa thật sự tìm<br />
được chất keo kết dính trong ý thức đoàn kết của sinh viên. Thậm chí trong đời sống của một<br />
số thanh niên thành thị hiện nay còn nảy sinh bệnh “sống chết mặc bay”.<br />
<br />
Hiện nay có một số người lãng quên ý thức dân tộc, hi sinh lợi ích dân tộc, hoạt động<br />
của họ thuần túy vì lợi ích cá nhân. Có thể họ chưa hiểu hoặc vô cảm, bị chi phối bởi lợi ích<br />
nhóm, bởi tư tưởng thực dụng, họ sẵn sàng bỏ ra hàng chục tỷ đồng, hàng triệu USD để mua<br />
máy bay, du thuyền cá nhân chủ yếu cho mục đích “làm hàng” trưng bày, với các chi phí duy<br />
trì, bảo dưỡng đắt đỏ hàng triệu đô la mỗi năm, để thể hiện đẳng cấp vượt trội của mình trong<br />
xã hội. Trong khi bản thân trốn thuế, tham nhũng, kinh doanh bất hợp pháp, phá hoại tài<br />
nguyên, môi trường, thờ ơ, vô tâm trước nỗi khổ của những người lao động trong doanh<br />
nghiệp của mình, của đồng bào nghèo và trước những khó khăn chung của dân tộc. Đối với<br />
tầng lớp này phải giáo dục cho họ hiểu rằng: Đất nước ta là của cả dân tộc, mọi người Việt<br />
Nam phải có trách nhiệm đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước và<br />
có quyền được sống, được hưởng các thành quả lao động, cống hiến trên giang sơn của mình.<br />
Họ phải dũng cảm vượt qua sự cám dỗ của các nhóm lợi ích, dứt khoát đặt lợi ích của dân tộc<br />
lên trên hết. Sự giàu có của họ không thể đạt được nếu không có sự hi sinh, góp sức lao động<br />
của quần chúng nhân dân. Vì vậy, cả hệ thống chính trị phải tích cực tham gia giáo dục giá trị<br />
tinh thần truyền thống đoàn kết toàn dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.<br />
<br />
Đấu tranh chống lại những luận điệu tuyên truyền nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết<br />
dân tộc.<br />
<br />
Các thế lực thù địch luôn tìm những sơ hở của chúng ta để thực hiện “diễn biến hoà<br />
bình” coi việc chia rẽ là một biện pháp lợi hại nhất để làm suy yếu cách mạng nước ta. Nếu<br />
chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước, xây<br />
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện công bằng xã hội, chống tham nhũng, hoàn thiện<br />
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn tình trạng kinh tế chậm phát triển, trì trệ,<br />
lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân, khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường như tranh<br />
chấp lợi ích, xã hội phân hoá thành các đẳng cấp, v.v. thì đã tạo ra được sức đề kháng trong ý<br />
thức mỗi người dân để chống lại những luận điệu gây mất đoàn kết của các thế lực thù địch.<br />
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế chỉ<br />
dựa vào các tập đoàn lớn trong nước, xuất khẩu nguyên liệu thô, vốn FDI, gia công hàng hoá,<br />
v.v. như hiện nay là khó bền vững.<br />
<br />
Xử lí nghiêm một số người "do thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái và có biểu<br />
hiện vụ lợi cá nhân, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội", những người có<br />
chức có quyền trong hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng thoái<br />
hoá, biến chất, chạy theo chức quyền, tiền, danh và lợi. Những cá nhân này dễ bị kẻ địch lợi<br />
dụng, gây tác hại không nhỏ cho dân tộc, làm cho một bộ phận trong nhân dân ta ngày càng<br />
giảm lòng tin vào Đảng, ảnh hưởng đến truyền thống đại đoàn kết dân tộc.<br />
<br />
Cùng với những biện pháp đó, cần cñng cè vµ t¨ng c-êng bé m¸y Nhµ n-íc, ®Êu tranh<br />
chèng c¸c tÖ n¹n lµm gi¶m uy tÝn vµ hiÖu lùc cña Nhµ n-íc. Cuéc ®Êu tranh ®Ó kh¾c phôc<br />
nh÷ng khuyÕt tËt cña bé m¸y Nhµ n-íc kh«ng thÓ t¸ch rêi cuéc vËn ®éng x©y dùng, chØnh ®èn<br />
§¶ng, §¶ng m¹nh th× Nhµ n-íc m¹nh. §Ó chØnh ®èn l¹i bé m¸y Nhµ n-íc, kh¾c phôc tÖ n¹n<br />
quan liªu, lợi dụng quyền lực để tham nhũng, lợi dụng quyền hành để sử dụng phung phí công<br />
quỹ, tiền thuế của dân. §¶ng ph¶i tù chØnh ®èn, ph¶i nªu g-¬ng vÒ mÆt trong s¹ch, v÷ng m¹nh.<br />
Đó là nhân tố cơ bản và then chốt, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc - động lực cơ bản<br />
của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.<br />
<br />
CHÚ THÍCH<br />
<br />
(1) Đinh Đức Lập, tư tưởng đại đoàn kết – ngọn đưốc soi đường dân tộc, báo Đại đoàn kết,<br />
ngày 31/07/2010.<br />
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khoá<br />
IX, Nxb Chính trị quốc gia, HN – 2003.<br />
(3) Thời báo kinh tế Việt Nam, số 93, ngày 14-4-2010, tr.1.<br />
(4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001, tr.86.<br />
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, tr.217.<br />
(6) (7) Quỳnh Lan. Vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp<br />
chí Cộng sản, số 60, ngày 24-11-2009.<br />