Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
lượt xem 2
download
Bài viết "Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954" bàn về chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 mang tầm vóc vĩ đại nhất, là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Thắng lợi đó là tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là thắng lợi của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa, soi sáng cho dân tộc ta làm nên một Điện Biên Phủ “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
- HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VỚI CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954 ThS. Nguyễn Thị Xuân Quỳnh* - ThS. Đinh Quang Trung Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt Email*: quynhntx@dlu.edu.vn Tóm tắt: Trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được thể hiện rõ ràng và nhất quán, trở thành biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới thời đại Hồ Chí Minh. Từ khóa: Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc, chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận sáng tạo của cách mạng Việt Nam, Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam. Người là hiện thân và là ngọn cờ của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong tư tưởng của Người đoàn kết và thành công luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đoàn kết lớn sẽ tạo nên thành công lớn, đoàn kết càng nhiều, thành công càng rực rỡ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”1. Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có rất nhiều minh chứng thể hiện tinh thần đại đoàn kết đó. Trong đó, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 mang tầm vóc vĩ đại nhất, là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Thắng lợi đó là tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là thắng lợi của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa, soi sáng cho dân tộc ta làm nên một Điện Biên Phủ “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc Dân tộc Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong hành trình lâu dài ấy đã hình thành nên truyền thống đoàn kết vô cùng quý báu, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.120. 36
- quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”2. Tinh thần đó là ngọn nguồn sức mạnh của cha ông ta trong lịch sử. Kế thừa những giá trị trong công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của đất nước và quyền lợi cơ bản của Nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đó là nguyên tắc “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, cũng là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, với tư tưởng truyền thống lấy dân làm gốc. Người khẳng định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trên cơ sở “tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do.”3; “bao gồm tất cả những người yêu nước, thực tâm muốn đấu tranh cho độc lập dân tộc, không phân biệt dân tộc, chính kiến, tôn giáo...”4. Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của Nhân dân là nguyên tắc tối cao và xuyên suốt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã dành cả cuộc đời tạo dựng và chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc ngày càng đâm chồi nảy lộc, nở hoa kết trái. Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Mặt trận dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, Nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng được một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho tiền 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.38. 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.36. 4 Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.654. 37
- tuyến lớn ở miền Nam ruột thịt. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, Nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975) đưa đất nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội, bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trở thành người làm chủ đất nước. Tuy nhiên, niềm vui ấy thật ngắn ngủi. Với bản chất hiếu chiến, xâm lược, thực dân Pháp nhanh chóng quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Hành động này của thực dân Pháp nhằm cướp nước ta một lần nữa, đưa nhân dân ta trở lại ách nô lệ, lầm than, đã làm cho lòng căm phẫn và ý thức dân tộc của người Việt Nam lên cao chưa từng thấy, biến thành sức mạnh thiêng liêng: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”5. Với tinh thần ấy, từ năm 1950-1953, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta liên tiếp mở các chiến dịch lớn như: Chiến dịch Biên Giới năm 1950, Trần Hưng Đạo năm 1951, Quang Trung năm 1951, Lý Thường Kiệt năm 1951, Hòa Bình năm 1952, Thượng Lào 1953. Thắng lợi của các chiến dịch trên là tiền đề quan trọng để quân và dân ta tiến lên đánh tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp. Như một điểm hẹn lịch sử, Điện Biên Phủ trở thành nơi mà cả dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp dốc toàn lực để giành để chiến thắng. Việc quyết định chọn Điện Biên Phủ để tiến hành trận quyết chiến chiến lược là sự cân nhắc kỹ lưỡng của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chỉ đạo quân đội, các ngành, các địa phương hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”6. Chấp hành sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại mặt trận Điện Biên Phủ, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm kiên cường, ngày 7/5/1954, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ, là một trong những trận tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử đấu tranh vũ trang của các dân tộc bị áp bức chống lại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của đế quốc phương Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá về chiến thắng Điện Biên Phủ “là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử”7, đồng thời đó cũng là bản anh hùng ca bất tử của 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,Hà Nội, tr.534. 6 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.202 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.315. 38
- cuộc chiến tranh nhân dân, “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”8. 2.2. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định, nó được huy động trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng. Chính Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu cao nhận thức, muốn đánh bại kẻ thù xâm lược, các tầng lớp Nhân dân, các giai cấp cách mạng và tiến bộ trong nước phải đoàn kết lại. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, những khó khăn nặng nề chất đầy đôi vai của chính quyền Nhân dân non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi Nhân dân thực hành đoàn kết. Người nói: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”9. Tiếp đó, khi thực dân Pháp cố tình xâm lược nước ta, Nhân dân ta không còn con đường nào khác, buộc phải cầm súng kháng chiến. Một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng đánh giặc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”10. Khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận”, “Tất cả để chiến thắng” được Nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt cả ở vùng tự do cũng như ở nhiều vùng còn bị địch tạm chiếm. Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy ở mức cao nhất, quân và dân ta ở khắp các địa phương trong cả nước đều đẩy mạnh các hoạt động tiến công, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng nhiều địa phương buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó lại ta. Các hoạt động quyên góp, hỗ trợ cho chiến dịch diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ. Trong chiến dịch, Nhân dân ta đã “đóng góp 25.560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt công dân, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 ngựa thồ, và 3.130 chiếc thuyền”11. Đối với một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu thì sự góp sức 8 Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.50. 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.280-281. 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.534. 11 Tổng cục Hậu cần (1993), Lịch sử hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam (1944 -1954), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.305. 39
- đó là một sự cố gắng to lớn thể hiện tinh thần cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc. Trong chiến dịch lực lượng dân công đã có những đóng góp rất to lớn: “hơn 261.653 dân công chủ yếu được huy động từ nhiều xã, huyện khác nhau trong các tỉnh ở Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3 và Liên khu 4; tính trung bình mỗi dân công đã phục vụ 100 ngày công. Ngay tại tuyến đầu, đồng bào Điện Biên cũng đưa 3.000 người đi dân công với 64.670 ngày công phục vụ. Hậu phương tại chỗ, khu Tây Bắc huy động 31.818 dân công. Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến chung của cả nước cũng cung cấp cho mặt trận 36.518 dân công. Trong vùng địch hậu tỉnh Kiến An đã đóng góp 230.294 ngày công. Trong vùng tạm chiếm của các tỉnh Bắc Bộ, đồng bào đã chuyển ra vùng tự do hơn 20 vạn tấn thóc và 7,5 triệu ngày công đi dân công”12. Qua ba đợt huy động “từ đầu tháng 11/1953 đến ngày 15/3/1954 đã có 9.503 thanh niên ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh gia nhập lực lượng thanh niên xung phong. Đến tháng 2/1954, số lượng thanh niên xung phong của các tỉnh miền Bắc phát triển lên đến 10.063 đội viên, được biên chế thành 50 đại đội”,13 tham gia làm và sửa chữa hàng trăm kilômét đường, nhiều bến, cầu, phá bom mìn; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; giữ vững mạch máu giao thông quan trọng nhất của mặt trận. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… trở thành nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi. Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất” của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Theo báo cáo ngày 10/7/1954: “Có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong trực tiếp tham gia phục vụ chiến dịch. Ngoài thực hiện nhiệm vụ trên mặt trận giao thông vận tải, thanh niên xung phong đã dồn hết sức mình tiếp tế cho bộ đội 4.300 tấn gạo, 150 tấn thịt lợn, 450 tấn rau xanh phục vụ chiến dịch”14. Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến dịch, lực lượng công an đã tích cực tham gia phối hợp, thành lập “Ban Công an tiền phương” làm nhiệm vụ bảo vệ các lực lượng tham gia chiến dịch, bảo vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, các cuộc hành quân, chú quân của bộ đội chủ lực: “Tính từ tháng 1 đến tháng 5/1954, Công an Liên khu 3,4, khu Tây Bắc, Việt Bắc đã bắt hàng trăm tên tình báo gián điệp chuyên theo dõi thu thập tin tức về các cuộc hành quân, đóng quân của bộ đội ta từ các hướng lên Điện Biên Phủ”.15 Bên cạnh việc tích cực chuẩn bị cho tiền tuyến, Đảng ta cũng chủ trương thực hiện một số chính sách để phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân ở hậu phương. Từ 5/1953 đến tháng 7/1953 thực hiện Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ ba (1/12/1953 đến 4/12/1953) thông qua, Đảng đã lãnh đạo tiến hành 5 đợt giảm 12 Ban Khoa học xã hội Việt Nam – Viện sử học (1985), Mấy vấn đề về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.99. 13 Trương Mai Hương (2011), Thanh niên xung phong miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước những năm 1965 – 1975, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.33 14 Báo cáo của Hội đồng cung cấp mặt trận tháng 7/1957, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng. 15 Chiến thắng Điện Biên Phủ, sức mạnh thời đại Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2014, tr.329 40
- tô và 1 đợt cải cách ruộng đất. Với đường lối sáng suốt đó, Đảng đã động viên được các tầng lớp Nhân dân ở các vùng tự do, vùng mới giải phóng, vùng sau lưng địch, và cả cán bộ, chiến sĩ ở chiến trường tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tiếp tục tiếp viện cho chiến trường và vững tâm chiến đấu giành thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến dịch cũng đã động viên được nhiều địa chủ, tư sản dân tộc cùng con em và gia đình họ tham gia và ủng hộ cuộc kháng chiến trường kỳ của chúng ta. Điều này khẳng định rằng, chúng ta không bỏ sót bất cứ một cá nhân, một giai tầng nào trong xã hội để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh toàn dân, toàn diện trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc còn được thể hiện sâu sắc trong công tác binh vận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta không những làm phá sản kế hoạch dự định nâng số quân ngụy lên 29 vạn tên vào năm 1953-1954 của thực dân Pháp, mà chỉ tính riêng trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đã vận động được hơn 32.000 ngụy binh trở về với kháng chiến16, trong đó chị em phụ nữ đã vận động được 17.000 người17, làm cho khả năng tăng quân tiếp viện cho Điện Biên Phủ của địch vì thế bị hạn chế. Ngược lại, để tăng cường lực lượng chiến đấu cho mặt trận, Nhân dân các địa phương đã ra sức động viên thanh niên lên đường nhập ngũ giết giặc lập công. Đánh giá về tinh thần đại đoàn kết toàn dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chưa bao giờ trong suốt mấy năm kháng chiến, dân ta đã góp nhiều công sức như trong Đông Xuân 1953-1954 để chi viện cho quân đội đánh giặc… Bọn đế quốc… không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của Nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục được tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ địch”18. Để góp sức với Chiến dịch Điện Biên Phủ, Nhân dân các địa phương đã tham gia phục vụ tích cực cho các lực lượng vũ trang, chủ động mở các chiến dịch tiến công địch trên nhiều hướng. Nhờ đó, không những ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mà còn buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, các đơn vị địch bị giam chân ở nhiều nơi, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán của chúng vì thế càng thêm sâu sắc. Những cuộc tiến công vào các tuyến vận tải, đặc biệt là tuyến hàng không đã gây cho địch những thiệt hại nặng nề và hạn chế rất đáng kể khả năng tiếp tế cho Điện Biên Phủ. Đặc biệt, trong cả nước, Nhân dân các địa phương từ Nam đến Bắc đã nhất tề vùng lên diệt ác, phá tề, giành quyền làm chủ. Những cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh trên mặt trận văn hóa liên tiếp nổ ra, làm cho hậu phương của địch từ nông thôn đến các đô thị, luôn luôn bị náo động, không lúc nào bình yên. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 bắt nguồn từ nhiều nhân tố, song sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định. Sức mạnh đoàn kết ấy dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó đã phát huy cao 16 Báo Nhân dân, số ra ngày 27/6/1954. 17 Nguyễn Thị Thập (Chủ biên) (1980), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, tập 1, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr.162. 18 Võ Nguyên Giáp (1974), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.158-159 41
- độ lòng yêu nước của đồng bào, cổ vũ, động viên toàn dân tộc đứng lên kháng chiến, tạo nên chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Thời gian không ngừng trôi, lịch sử dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục đi lên trên những hành trình mới, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đặc biệt là tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong chiến dịch lịch sử này vẫn mãi là một biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; trở thành bài học kinh nghiệm mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, rất cần được chắt lọc và vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, tiến lên thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn minh. 3. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là một hệ thống lý luận sâu sắc, toàn diện, phong phú, được hiện thực hóa trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Nếu chúng ta có đường lối, phương pháp cùng nguyên tắc tập hợp lực lượng đúng đắn, phù hợp; tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới; có sự lãnh đạo của một chính Đảng cách mạng thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta nhất định sẽ thắng lợi. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, buộc thực dân pháp phải ngồi bàn đàm phán và ký hiệp định Giơnevơ vào ngày 20/7/1954 về việc kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Thắng lợi đó là thiên anh hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX về sự đoàn kết, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, được quân và dân ta tiếp nối phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, có sức mạnh cổ vũ chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh./. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Minh Nguyễn, “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, nguồn: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/chien-thang-dien- bien-phu--bai-hoc-ve-phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-436842.html. [3] Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nguồn: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90- nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/phat-huy-tinh-than-chien- thang-dien-bien-phu-trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-537724.html. [4] Lê Văn Phong, “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc thời đại Hồ Chí Minh”, nguồn: https://tapchimattran.vn/dai-doan-ket/chien-thang-dien- bien-phu-thang-loi-cua-suc-manh-dai-doan-ket-dan-toc-thoi-dai-ho-chi-minh-35688.html. [5] Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 42
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
19 p | 4689 | 1165
-
Bài tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
20 p | 4574 | 661
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương IV Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
7 p | 766 | 249
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 5 - GV. Lý Ngọc Yến Nhi
23 p | 577 | 139
-
Bài giảng Chương 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
64 p | 995 | 118
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 5 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
34 p | 1100 | 84
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế (26tr)
26 p | 752 | 62
-
Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
14 p | 367 | 52
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc - Phạm Thị Hải
26 p | 178 | 24
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
17 p | 198 | 23
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế
19 p | 64 | 13
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế (2022)
21 p | 47 | 13
-
Bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
4 p | 135 | 10
-
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
34 p | 23 | 8
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 5 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế (2023)
21 p | 26 | 7
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Bài 5 - PGS.TS. Phạm Ngọc Anh
10 p | 35 | 5
-
Từ minh triết Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đến sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
7 p | 7 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn