intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc

Chia sẻ: Huynh Thi Mi Trang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

24
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc" nhằm tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc; Đưa ra một số đề xuất, ý kiến nhằm xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc

  1. 1 Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  2. 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..4 Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc..7 1.1.1. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam7 1.1.2. Tinh hoa tư tưởng Đông – Tây về đại đoàn kết dân tộc....................8 1.1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin về đại đoàn kết dân tộc................................8 1.1.4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam...........................................................9 1.1.5. Thực tiễn cách mạng thế giới............................................................10 1.1.6. Phẩm chất và năng lực Hồ Chí Minh.............................................. 10 1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.............11 1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng..........................................................................11 1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ............................................................................................................13 1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.................................13 1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng................15 1.2.5. Đảng cộng sản vừa là thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất lại vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc..................................................................17 1.2.6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.................20 Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  3. 3 Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO VIỆC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nước ta hiện nay................................................................................22 2.2. Một số đề xuất nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay..........................................................................................24 2.2.1. Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.................................................................................25 2.2.2. Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc...............................................26 2.2.3. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc................................27 2.2.4. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.............................................................................................29 2.2.5. Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng là hạt nhân lãnh đạo của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. ......................................................................................20 KẾT LUẬN....................................................................................................32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................34 Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta, một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc. Người tượng trưng cho sự kết hợp hài hoà giữa tinh hoa dân tộc Việt Nam với tinh hoa văn hoá nhân loại, tượng trưng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người đã để lại cho dân tộc Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam cũng như cho nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới một di sản tinh thần vô giá – một hệ thống tư tưởng nhiều mặt. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết dân tộc là một trong những tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của nhân loại. Đại đoàn kết là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt trong tư duy lí luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó của Người đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Tuy vậy, chúng ta đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ các cán bộ, Đảng viên đã và đang làm cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân, gây mất tình đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ với nhân dân được hình thành trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó, các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chúng ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  5. 5 Lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng và Nhà nước chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hóa giàu nghèo, về việc làm. Đó càng là điều kiện thuận lợi để các thế lực phản động lợi dụng gây mất đoàn kết dân tộc. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc luôn là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa lí luận và thực tiễn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc luôn giữ vai trò quyết định cho sự thành công của cách mạng nước ta. Từ những nhận định trên, tác giả mạnh dạn chọn và nghiên cứu chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc” 2. Đối tượng nghiên cứu -Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 3. Mục tiêu nghiên cứu -Tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc. - Đưa ra một số đề xuất, ý kiến nhằm xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu -Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 5. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu tác giả đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu. - Phương pháp logic-lịch sử. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp đánh giá. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  6. 6 6. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết thúc, đề tài gồm hai chương: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  7. 7 Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc; tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác- Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng tạo , phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể ở Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng. 1.1.1. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam nảy sinh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ huyền thoại bà Âu cơ sinh ra trăm trứng, đến tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau; từ Hội nghị Diên hồng quân nhân cùng bàn bạc việc quân cho đế trên dưới một lòng, tướng sĩ uống chung chén rượu hoà nước sông. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc; chúng là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hi sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữu nước. Dù lúc thăng lúc trầm song chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng ngàn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và bảo vệ tổ quốc. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển lên chất mới chủ nghĩa yêu nước và truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  8. 8 1.1.2. Tinh hoa tư tưởng Đông – Tây về đại đoàn kết dân tộc Cùng với chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc còn là sự tiếp thu có chọn lọc những giá trị nhân văn của văn hoá Đông - Tây như tư tưởng “đại đồng”, “nhân ái” của Nho giáo, tư tưởng “lục hoà” của Phật giáo và “tự do bình đẳng, bác ái” của phương Tây. Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên… đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy”. đó là những tinh hoa tư tưởng của nhân loại được Hồ Chí Minh chắt lọc trong qua trình xây dựng chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình. 1.1.3. Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin về đoàn kết lực lượng trong cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sự kế thừa và phát triển biện chứng những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong đó có luận điểm: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là chủ thể và là người sáng tạo ra lịch sử, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế được C.Mác và ph.Ăngghen cô đọng trong khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước, liên hiệp lại” sau đó được Lênin phát triển phù hợp với thời đại của mình thành “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, liên hiệp lại”. Khi chỉ ra sự cần thiết của khối liên minh giai cấp, Lênin cho rằng, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức là giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Người còn viết: việc giai vấp vô sản giành được sự đồng tình, ủng hộ của đa số nhân dân lao động, mà sự đồng tình đó không bị nhạt phai khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền mà ngay cả sau khi giành được chính quyền, sự đồng tình, ủng hộ đó giành cho giai cấp vô sản vẫn được tiếp tục, nhưng dưới hình Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  9. 9 thức khác; bởi lẽ, trong mỗi thời kì cách mạng phải có những hình thức tập hợp quần chúng tham gia thực hiên các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trên cơ sở giải quyến đúng đắn các vấn đề về lợi ích. Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử cũng như vị trí của đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng vô sản. Đây là một trong những cơ sở lí luận quan trọng để Hồ chí Minh phát triển thành tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc trong từng giai đoạn cụ thể. 1.1.4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, Hồ chí Minh nhận thức được lịch sử đấu tranh Việt Nam thời phong kiến, tuy chỉ là những cuộc cách mạng thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại nhưng tấm gương tâm huyết dựng nước và giữ nước của ông cha ta như tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức”. Người đánh giá cao nguyên nhân thành công trong sự nghiệp phục nước của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428- 1527), của Quang Trung Nguyễn Huệ… đó là chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử đã có những tác động mạnh mẽ đến tư tưởng Hồ chí Minh và người đã ghi nhận chúng như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc. Trong một lần đến thăm và nói chuyện với bộ đội tại đền Hùng, Người nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” để ghi nhớ công lao gây dựng và bảo vệ đất nước của công cha nhờ vào sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Phong trào yêu nước ở Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân pháp xâm lược nước ta với nhiều xu hướng khác nhau: xu hướng phong kiến (phong trào Cần Vương), xu hướng tư sản (phong trào Đông Du, Duy Tân, khởi nghĩa Yên Bái)… nhưng cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều thất bại. Khâm phục lòng yêu nước của các nhà cách mạng Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng Hồ chí Minh không hoàn toàn tán thành cách làm cách mạng của một cụ nào, vì: cụ thì chỉ yêu cầu thực dân Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  10. 10 Pháp thực hiện chính sách cải lương, cụ thì hy vọng vào sự giúp đỡ của người Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp; cụ thì trực tiếp chống Pháp nhưng lòng còn nặng cốt cách phong kiến. Hồ chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế của họ trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lí do, là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. 1.1.5. Thực tiễn cách mạng thế giới Gần mười năm trời (1911-1920) thâm nhập và tìm hiểu phong trào cách mạng của giai cấp bị áp bức ở các nước tư bản và các dân tộc bị bóc lột ở thuộc địa, các điểm nổi bật trong thời gian này là Hồ chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp, bước chuyển đầu tiên để người trở thành chiến sĩ cộng sản; việc tiếp cận sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề về thuộc địa của Lênin đã giúp Người xác định được kẻ thù của nhân dân lao động là chủ nghĩa đế quốc, bạn đồng minnh của nhân dân lao động của Việt Nam là nhân dân lao động ở các nước thuộc địa và chính quốc. Đại hội Tua (1920) đã đánh giấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Hồ chí Minh. Từ đây, Hồ chí Minh đã bước đầu khẳng định con đường giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng nhân loại, xác định được phương hướng và chủ trương nhiệm vụ chiến lược đại đoàn kết dân tộc tạo sức mạnh giải phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tiếp cận với chân lí của thời đại: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. 1.1.6. Phẩm chất và đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời đấu tranh và hoạt động cách mạng của Người, trong đó chủ nghĩa nhân văn và đạo đức trong sáng của Hồ chí Minh là một trong những cơ sở đực biệt hình thành chiến lược quan trọng hình thành chiến lược đại đoàn kết của Người. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  11. 11 Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước trên dải đất Nghệ - Tĩnh có lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường ngay từ thuở thiếu thời, Người đã tiếp thu được những tinh hoa của vùng đất địa linh nhân kiệt đó. Có thể khẳng định rằng, truyền thống anh dũng của quê hương và tinh hoa văn hoá cuả xứ sở đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách, tâm hồn Hồ Chí Minh. Những ảnh hưởng đó đã đi cùng Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trở thành nguồn lực nuôi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Không chỉ là tấm gương về đoàn kết, kêu gọi và vận động mọi người đoàn kết, Hồ Chí Minh còn luôn gần gũi và quan tâm đến đời sống của nhân dân, luôn động viên thăm hỏi từng đối tượng, từ cụ già đến trẻ thơ. Người đã cảm hoá, lôi cuốn, tập hợp nhân dân bằng cả tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, bằng cuộc đời hoạt động cách mạng “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, bằng phẩm chất “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” và tình hữu ái vô sản. Sự thống nhất giữa tư tưởng, hành động và đạo đức Hồ Chí Minh đã làm cho đại đoàn kết không chỉ là tư tưởng, khẩu hiệu và thực sự trở thành động lực, thành sức mạnh quy tụ toàn dân tộc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 1.2. Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc 1.2.1.Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng - Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người có ý nghĩa chiến lược. Đó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Điều này được thấy rõ qua tình hình lịch sử của nước ta ngay sau khi dành được độc lập dân tộc, khi đó trong ngân hàng nước ta chỉ có 2 vạn đồng tiền rách, tình trạng dân số thì có đến 98% là mù chữ, các tổ chức cách mạng thì mới bắt đầu được hình thành, 2,5 triệu dân chết đói, thực dân Anh thì nhăm nhe vào nước ta Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  12. 12 để giải rác vũ khí, Pháp quay lại xâm lược, Tưởng vào giải rác vũ khí, Mỹ chống phá, Nhật chống phá, trong nước thì việt quốc, việt cách nổi dậy. Một chính phủ mới thành lập mà đã vấp phải nhiều khó khăn và đặc biệt là không được sự thừa nhận của thế giới, nước ta đang rơi vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Trước hoàn cảnh đó Hồ Chí Minh đã ký 2 hiệp ước quan trọng 14-9 và 6-3, với hai hiệp ước này thì dân tộc việt nam đã có được điều kiện để chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại được bớt được kẻ thù là Mỹ, Anh và Tưởng. Độc lập dân tộc là bất biến và tất cả những hiệp ước hay tạm ước chỉ là những sách lược để phục vụ cho một tư tưỏng cơ bản xuyên suốt đó là độc lập dân tộc và đại đoàn kết toàn dân. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh cứ khi nào dân tộc Việt Nam đoàn kết thì ta dành độc lập và khi nào nước ta đánh mất sự đoàn kết thì sẽ bị mất chủ quyền. Hồ Quý Ly là một trong những ông vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng cũng là người lãnh đạo cuộc kháng chiến thất bại nhanh nhất trong lịch sử Việt Nam khi quân Minh xâm lược, bởi ông đã không đoàn kết được toàn dân. - Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. - Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng khác nhau. Tức là đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhưng trong từng giai đoạn thì phải có cách thức đoàn kết khác nhau. Ví dụ như: trước năm 1945 chúng ta có khẩu hiệu: “Đánh đổ thực dân, phong kiến dành độc lập dân tộc chia ruộng đất cho dân cày”, nhưng đến năm 1945 khi Bác Hồ đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Đánh đuổi thực dân dành độc lập cho dân tộc”, vốn dĩ có sự khác biệt đó là vì khi này ta cần phải lôi kéo thêm tầng lớp phong kiến ủng hộ cho cách mạng để vừa bớt kẻ thù đồng thời thu hút được của cải để có tiền để làm cách mạng. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  13. 13 1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: ”Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. 1.2.3.Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, “đoàn kết toàn dân tộc”. Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người theo tín ngưỡng với người không theo tín ngưỡng…. “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao động trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng, người dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất việt”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  14. 14 đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Theo người, muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì ta phải: - Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc. - Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng. Người Việt Nam ta có truyền thống “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến và khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn nhưng tất cả đều nằm trên cùng một bàn tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi. Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa thì khối đại đoàn kết dân tộc cũng sẽ mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân. - Phải tin ở nhân dân, yêu dân. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi mờ che mắt, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Dân tộc, toàn dân thì là một khối rất rộng lớn gồm Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  15. 15 hàng chục triệu con người vì vậy phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” Người chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nhân và nông dân, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” về sau. Người có nêu thêm: lấy liên minh công nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. 1.2.4.Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cả dân tộc, toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, và được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thế thì quần chúng dù đông nhưng cũng chỉ là số đông không có sức mạnh.Thất bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng giới, từng ngành nghề và lứa tuổi, tôn giáo và phù hợp với các bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó là hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay phụ nữ…bao trùm lên tất cả là Mặt trận dân tộc thống nhất, đó là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con người Việt Nam không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt Nam… Tuỳ theo từng giai đoạn thời kỳ mà Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau như: Hội phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ, Mặt trận việt Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  16. 16 minh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Nhưng thực chất chỉ là một – đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái…phấn đấu vì một mục tiêu chung là độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông (sau đó là liên minh công- nông- lao động trí óc), dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. - Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. - Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Để có thể đại đoàn kết thì cần phải làm sao để mọi người thuộc bất cứ tầng lớp nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc có được đảm bảo thì lợi ích của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện. Mỗi bộ phận, mỗi con người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích chính đáng và phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc cần được tôn trọng. Ngược lại ngững gì riêng biệt không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc. Mặt trận cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt, mặt khác Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Tự nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt để củng cố đoàn kết nội bộ. Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  17. 17 lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận. - Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc. Đảng cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận xây dựng khối đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận, điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất chặt chẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân, sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn dết của dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng. 1.2.5.Đảng cộng sản vừa là thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất lại vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân, mà còn cả phong trào yêu nước Việt Nam. Bở lẽ, Đảng ra đời trong bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn với cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Những người tham gia Đảng Cộng sản không chỉ là những người tiên tiến thuộc giai cấp công nhân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ hệ tư tưởng và lợi ích giai cấp của mình, giác ngộ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy. Đảng vừa là Đảng của giai cấp công Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  18. 18 nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Luận điểm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với luận điểm về “đảng toàn dân” của những người theo chủ nghĩa xét lại đã nêu trong những năm 60 của thế kỉ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân vì Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt”. Là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì Đảng ra đời trong lòng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng lại đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết, vì nếu không dành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp công nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản mang bản chất quốc tế nhưng trước hết nó lại diễn ra ở từng quốc gia dân tộc. Vì vậy giai cấp công nhân và Đảng của nó trước hết phải trở thành dân tộc, như Mác và Ăngghen đã từng nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, điều đó đã là đương nhiên từ khi Đảng Cộng sản ra đời cũng như trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc, tập hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh cách mạng đã trở thành vấn đề máu thịt của Đảng. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam đã coi Đảng Cộng sản là Đảng của mình, đó cũng là điều dễ hiểu. Đây là đặc điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, khác rất nhiều so với Đảng Cộng sản ở Tây Âu. Vinh dự ấy rất to lớn, nhưng trách nhiệm của Đảng trước dân tộc cũng rất nặng nề. Như Hồ Chí Minh đã nói, muốn quy tụ được cả dân tộc thì Đảng phải “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”. Điều này hoàn toàn thống nhất với mệnh đề của Lênin mà người thường nhắc lại “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc và thời đại”. Văn minh cũng có nghĩa là trí tuệ; danh dự, lương tâm là đạo đức. Tiên phong về trí tuệ, mẫu mực về đạo đức, Đảng đã được nhân dân ủng hộ và đã trở thành hạt nhân của khối đại đôàn kết toàn dân tộc. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  19. 19 Là tổ chức chính trị chắc chắn nhất, to lớn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận thống nhất. Quyền lãnh đạo không phải Đảng tự phong cho mình mà được nhân dân thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích rất cặn kẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng. “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng, công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống yêu nước và đoàn kết hết sức vẻ vang của dân tộc ta”. Mặt trận dân tộc theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đảng lãnh đại Mặt trận trước hết phải thực hiện sự lãnh đạo của mình theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương lấy lòng chân thàng để đối sử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh, không được và không thể lấy uy quyền của mình để buộc các thành viên khác trong Mặt trận phải tuân theo. Đảng phải thực sự tôn trọng các tổ chức và các thành viên của Mặt trận nếu Đảng muốn lấy được sự tôn trọng thực sự của họ. Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ Đảng viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng, cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại, coi mình tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người… Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
  20. 20 Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng. 1.2.6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã nêu rõ: “để có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản khắp mọi nơi”. Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới được làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước chính quốc và các nước tư bản. Đó là nước Nga Xô viết, là liên xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Người đặc biệt coi trọng viẹc xây dựng khối đại đoàn kết Việt – Miên – Lào, ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng mặt trận: - Mặt trận đại đoàn kết dân tộc. - Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào. - Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Chuyên đề môn đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Trịnh Hoàng Dương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0