intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đổi mới cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam" tập trung đánh giá thực trạng cơ cấu thu NSNN Việt Nam, nhận diện những bất cập, hạn chế, từ đó đề xuất một số khuyến nghị đổi mới cơ cấu thu NSNN. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam

  1. ĐỔI MỚI CƠ CẤU THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Nguyễn Thị Thanh Hoài*, Lý Phương Duyên** 1 2 Nguyễn Trọng Thản***, Chu Văn Hùng**** TÓM TẮT: Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước (NSNN) có mối liên hệ chặt chẽ đối với sự ổn định, bền vững của NSNN và có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam tuy quy mô và tốc độ thu NSNN vẫn luôn có xu hướng tăng qua các năm, nhưng nguồn thu của NSNN vẫn còn thiếu tính bền vững do chưa hợp lý về cơ cấu thu. Để nâng cao tính bền vững của NSNN, điều cần thiết là xác định một cơ cấu thu ngân sách hợp lý, huy động được số thu cần thiết để vừa đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước và vừa phát huy được vai trò của thu NSNN nhằm điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Bài viết tập trung đánh giá thực trạng cơ cấu thu NSNN Việt Nam, nhận diện những bất cập, hạn chế, từ đó đề xuất một số khuyến nghị đổi mới cơ cấu thu NSNN. Từ khóa: Thu Ngân sách nhà nước, cơ cấu thu ngân sách nhà nước, cơ cấu thu nội địa, tính bễn vững của ngân sách Nhà nước, mở rộng cơ sở thuế 1. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CẤU THU NSNN Khi đề cập đến cơ cấu thu NSNN là nói đến các bộ phận hợp thành, cách thức tổ chức và sắp xếp các chỉ tiêu thu NSNN. Theo các tiêu thức khác nhau thì cơ cấu thu NSNN được chia thành các bộ phận hợp thành khác nhau. Nếu căn cứ theo nguồn hình thành, cơ cấu thu NSNN bao gồm: thu nội địa và thu từ nước ngoài. Nếu căn cứ theo nội dung thì thu NSNN bao gồm: thu từ thuế, phí, lệ phí; thu từ bán, cho thuê tài nguyên, tài sản quốc gia, thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; thu từ vay nợ và các khoản thu khác như viện trợ, đóng góp tự nguyện,... Căn cứ vào tác dụng của các khoản thu đối với quá trình cân đối ngân sách, thu ngân sách nhà nước được phân thành thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thiếu hụt NSNN. Nếu căn cứ theo phân cấp ngân sách thì thu NSNN bao gồm: thu ngân sách trung ương và thu ngân sách địa phương. Ngoài ra, thu NSNN còn có thể phân loại thu theo địa bàn lãnh thổ (thu từ các đơn vị lãnh thổ tỉnh, huyện, xã), ngành sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), và theo hình thức sở hữu hay khu vực kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài)... Cơ cấu thu NSNN hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đảm bảm cho NSNN có số thu bền vững, mà còn ảnh hưởng tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc nghiên cứu cơ cấu thu NSNN có ý nghĩa lớn trong xây dựng chính sách và chỉ đạo, điều hành quản lý thu NSNN nói riêng và quản lý NSNN nói chung. Từ số liệu về cơ cấu thu NSNN cho phép đánh giá được mức độ huy động các nguồn thu, đánh giá tính * Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam. ** Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam, Tel: +84976914979, email: lyphuongduyen@yahoo.com. *** Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam. **** Đại học Quốc gia, Hà Nội, Việt Nam.
  2. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 947 cân đối, bền vững, hợp lý về cơ cấu của các nguồn thu, từ đó có chính sách, biện pháp khai thác các nguồn thu, giúp cho việc hoạch định chính sách cũng như tổ chức điều hành thu chi NSNN phù hợp với các mục tiêu mà nhà nước theo đuổi trong từng thời kỳ. Trong những giai đoạn nhất định, xuất phát từ yêu cầu thực tế, nhằm đảm bảo tính bền vững của thu NSNN, vấn đề tái cơ cấu thu NSNN được đặt ra. Tái cơ cấu thu NSNN là quá trình nhà nước chủ động sử dụng các công cụ chính sách hoặc các biện pháp về quản lý điều hành nhằm thay đổi cơ cấu các bộ phận trong tổng thu NSNN, đảm bảo cho NSNN ngày càng bền vững, an ninh tài chính quốc gia được đảm bảo phù hợp với những điều kiện cụ thể về phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển. Cơ cấu thu NSNN chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau, cụ thể: - Cơ cấu nền kinh tế: Các bộ phận cấu thành của GDP tạo nên các cơ sở mà dựa vào đó các sắc thuế khác nhau sẽ thu được. Sự biến động về kinh tế sẽ gây ra các thay đổi về cơ cấu, tỷ trọng của các thành tố cấu thành nên GDP. Vì vậy, kết quả chung là sẽ làm thay đổi số thuế sẽ thu được và làm thay đổi cơ cấu thu NSNN. Trong một thời gian nhất định, với chính sách thu và chất lượng công tác quản lý thu ổn định tương đối, thì GDP là tiền đề quan trọng nhất quyết định đến số thuế thu được và cơ cấu thu ngân sách của một quốc gia. - Cơ chế, chính sách thu: Chính phủ sử dụng các cơ chế, chính sách thu không chỉ đáp ứng yêu cầu tạo số thu NSNN cần thiết, mà còn để điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo định hướng chiến lược của mình. Vì vậy, khi một chính sách thu thay đổi có thể làm thay đổi quyết định đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế. Xét về mặt sản xuất, các nhà đầu tư sẽ chú trọng đầu tư vào các ngành được ưu đãi về thuế, rút dần khỏi các ngành phải chịu mức thuế cao; xét về mặt tiêu dùng, thuế sẽ phân bổ lại các nguồn lực trong xã hội. Tất cả những hiệu ứng đó sẽ tác động trực tiếp đến nguồn thu ngân sách, tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế và quay trở lại, tác động đến số thu ngân sách. Vì vậy, khi chính sách thu thay đổi, sẽ có tác động kép đến cơ cấu thu của các sắc thuế, ngành nghề, địa bàn và lĩnh vực thu. Ngoài ra, sự thay đổi của các chính sách khác cũng có thể ảnh hưởng đến thu ngân sách, như chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, trong đó có miễn giảm thuế; chính sách hạn chế ô tô, xe máy ảnh hưởng đến thu lệ phí trước bạ,... - Nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia: ở nhiều quốc gia, tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu Nhà nước, do vậy các nước có nhiều nguồn tài nguyên với tỷ trọng khai thác lớn và xuất khẩu cao thì nước đó có số thu từ tài nguyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. - Công tác quản lý thu: bao gồm chất lượng các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thu NSNN thực hiện trong quá trình quản lý thu, như chất lượng công tác kiểm tra, thanh tra, chất lượng công tác quản lý hoá đơn,chứng từ,.... Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, khi trình độ quản lý thu thuế của cán bộ thuế không theo kịp thực tế, sẽ làm gia tăng tình trạng trốn thuế, tránh thuế, tham gia vào các hoạt động kinh tế ngầm để che giấu doanh số và trốn thuế, đặc biệt đối với những sắc thuế quản lý đòi hỏi trình độ quản lý cao như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân... Sự chênh lệch về trình độ quản lý thuế giữa các địa bàn, các quốc gia cũng sẽ tạo ra sự chuyển dịch địa điểm đăng ký kê khai, nộp thuế để trốn thuế, tránh thuế. Khi chất lượng quản lý thu được nâng lên, sẽ hạn chế các hiện tượng kinh tế ngầm, hạn chế thất thu ngân sách và theo đó sẽ làm thay đổi cơ cấu thu giữa các sắc thuế, các địa bàn. Vì vậy, chất lượng quản lý thu cũng có tác động nhất định đến cơ cấu thu giữa các địa bàn, ngành nghề... tuy nhiên, mức ảnh hưởng không lớn như ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách.
  3. 948 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 2. THỰC TRẠNG CƠ CẤU THU NSNN Ở VIỆT NAM 2.1. Quy mô thu NSNN so với GDP Thực tiễn những năm qua, cơ cấu NSNN của ta đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, từng bước phát huy được vai trò của NSNN với tư cách là phương tiện và công cụ để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế – xã hội. Trong các năm từ 2013 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không cao như những năm trước đó nhưng thu NSNN của Việt Nam vẫn tăng trưởng và chiếm tỷ lệ cao trong tổng GDP. Điều này thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Thu NSNN của Việt Nam và tỷ lệ động viên so với GDP Năm GDP theo giá thực tế Thu NSNN Tỷ trọng thu NSNN/ (tỷ đồng) (tỷ đồng) GDP(%) 2013 3.584.262 828.348 23,1 2014 3.937.856 877.697 22,3 2015 4.192.862 996.870 23,8 2016 4.502.733 1.101.377 24,5 2017 5.033.848  1.288.665 25,6  Nguồn: Tổng cục thống kê Bảng số liệu trên cho thấy: tỷ trọng thu NSNN trong GDP ngày càng tăng lên. Nếu như năm 2013, tỷ lệ này là 23.1% thì năm 2017, tỷ lệ này đã tăng thêm 2.5%, lên mức 25.6%. Đây là một tỷ lệ khá hợp lý và ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. 2.2. Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước Trong thời gian qua, số thu NSNN theo từng nguồn có xu hướng tăng lên, đồng thời, cơ cấu các khoản thu cũng có những thay đổi đáng kể. - Về tăng trưởng số thu NSNN thể hiện qua biểu đồ sau: SỐ THU NSNN 1.Thu nộ đị i a 2. Thu từhoạ độ XK, NK t ng 3. Thu từdầ thô u 4.Thu việ trợkhô ng hoàn lạ n i Tổ thu NSNN ng 1.400.000 1.200.000 1.000.000 800.000 600.000 400.000 200.000 0 N ĂM 2 0 1 3 N ĂM 2 0 1 4 N ĂM 2 0 1 5 N ĂM 2 0 1 6 N ĂM 2 0 1 7 Hình 1: Số thu NSNN Nguồn: Bộ Tài chính
  4. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 949 Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy tổng thu NSNN thời gian qua tăng lên. Nếu như năm 2013 tổng thu NSNN đạt 828.348 tỷ đồng thì đến năm 2017 đạt 1.288.665 tỷ đồng, tăng 55,6% so với năm 2013. Đóng góp và sự tăng trưởng về số thu NSNN có vai trò quan trọng là thu nội địa. Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy thu nội địa tăng nhanh, số thu nội địa năm 2017 đạt 1.032.164 tỷ đồng, tăng 81,9% so với năm 2013. Thu từ dầu thô từ năm 2013-2017 có xu hướng giảm, năm 2013 thu từ dầu thô đạt con số 120.436 tỷ đồng, thì đến năm 2017 chỉ đạt 49.583 tỷ đồng, số thu năm 2017 chỉ bằng 41,2% của năm 2013. Thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu có tốc độ tăng năm sau so năm trước, năm 2017 thu được 199.008 tỷ đồng, trong khi năm 2013 thu được 129.385 tỷ đồng, năm 2017 tăng 53,8% so với năm 2013. Thu từ viện trợ không hoàn lại trong 5 năm gần đây có xu hướng giảm, năm 2013 thu được 11.124 tỷ đồng, đến năm 2017 thu được 7.910 tỷ đồng. . - Về cơ cấu thu NSNN theo nguồn: Theo tiêu thức phân loại này, thì NSNN được chia thành 3 loại: thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, thu từ dầu thô và thu từ viện trợ không hoàn lại. Về cơ cấu thu NSNN theo nguồn trong 5 năm qua được thể hiện qua biểu đồ sau: 120.00% 100.00% 80.00% 60.00% 40.00% 20.00% 0.00% Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 1.Thu nội địa 2. Thu từ hoạ t động XK, NK 3. Thu từ dầ u thô 4.Thu vi ện trợ không hoàn lại Hình 2: Cơ cấu thu NSNN Nguồn: Bộ Tài chính Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy cơ cấu thu NSNN có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng thu nội địa ngày càng tăng lên, năm 2013 tỷ trọng thu nội địa chiếm 68,5% tổng thu NSNN, năm 2017 tăng lên 80,1%. Điều này có nguyên nhân là do hoạt động sản xuất kinh doanh của người nộp thuế có hiệu quả hơn, số lượng doanh nghiệp mới thành lập gia tăng, nhà nước áp dụng các ưu đãi thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển thuận lợi, cũng cần nói đến một nguyên nhân rất quan trọng là cơ quan thu NSNN, đặc biệt là cơ quan thuế đã thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý thu, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, chống thất thu nên cũng góp phần tăng thu nội địa. Tỷ trọng thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong các năm gần đây ngày càng giảm là do Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình. Thu từ dầu thô và tỷ trọng
  5. 950 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION trong tổng thu NSNN trong các năm 2013-2016 sụt giảm mạnh là do giá dầu thô trên thị trường giảm sâu. Năm 2017 do giá dầu tăng lên nên số thu từ dầu tăng so với năm 2016, và tỷ trọng đóng góp trong tổng thu NSNN cũng tăng lên, năm 2017 tỷ trọng thu từ dầu thô chiếm 3,84% tổng thu NSNN. Khoản thu từ viện trợ không hoàn lại chiểm tỷ lệ cực kỳ nhỏ trong tổng thu NSNN, chiếm 0,61% trong tổng thu NSNN năm 2017. - Về cơ cấu thu nội địa: Cơ cấu thu nội địa được thể hiện ở biểu đồ sau: Hình 3: Cơ cấu thu nội địa Nguồn: Bộ Tài chính Trong thu nội địa thì thu từ doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất, tuy nhiên, tỷ trọng thu trong tổng thu NSNN giảm trong các năm gần đây và tốc độ tăng thu từ doanh nghiệp nhà nước cũng thấp hơn so với tốc độ tăng của tổng thu NSNN. Năm 2013 thu từ doanh nghiệp nhà nước là 189.076 tỷ đồng, chiếm 33, 3% tổng thu NSNN. Năm 2017 thu từ doanh nghiệp nhà nước đạt 282.431 tỷ đồng, tăng 49, 4% so với năm 2013, nhưng tỷ trọng trong tổng thu NSNN giảm xuống còn 27, 4%. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước trong các năm gần đây giảm do kết quả của quá trình cổ phần hóa, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa cao nên tốc độ tăng thu từ doanh nghiệp nhà nước cũng thấp hơn so với tốc độ tăng thu NSNN nói chung. Thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ trọng trong tổng thu NSNN lớn đứng thứ hai, sau thu từ doanh nghiệp nhà nước. Với tốc độ tăng thu khá nhanh, nhưng tỷ trọng có xu hướng giảm trong các năm gần đây. Thu từ doanh nghiệpcó vốn đầu tư nước ngoài năm 2013 đạt 111.241 tỷ đồng, nhưng đến năm 2017 đã đạt 171.302 tỷ đồng, tăng 54%. Năm 2017 thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,6% trong tổng thu NSNN. Thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng một phần là do vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây, bên cạnh cơ quan thuế đã tăng cường kiểm tra, thanh tra thuế chống chuyển giá nên cũng góp phần tăng thu cho NSNN. Tuy nhiên nếu so với quy mô, tiềm năng thì thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn khiêm tốn, cần quan tâm quản lý để khai thác tăng thu. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày
  6. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 951 càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế và trong việc đóng góp số thu cho NSNN. Trong giai đoạn 2013-2017 thu từ khu vực công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh ngày một tăng và chiếm tỷ trọng 17-19% tổng thu NSNN. Nhờ có các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh nên số lượng các doanh nghiệp mới thành lập tăng lên, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng được cải thiện nên số thu NSNN từ khu vực này cũng tăng lên. Tuy nhiên, đặc trưng của khu vực kinh tế này là phần lớn các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, khả năng chấp hành quy định về kế toán, hóa đơn chứng từ cũng còn hạn chế, khá nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ tốt việc thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN, thất thu từ khu vực này còn tương đối lớn, nếu áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả hơn thì sẽ góp phần tăng số thu, tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực ngoài quốc doanh trong tổng thu NSNN. Thu thuế TNCN hàng năm chiếm tỷ trọng 7-8% tổng thu NSNN, do mức giảm trừ gia cảnh tưởng đối cao, phạm vi giảm trừ còn áp dụng cho nhiều đối tượng, số người nộp thuế chưa lớn, việc quản lý thu nhập của cá nhân còn gặp nhiều khó khăn, khả năng thất thu lớn nên số thu thuế TNCN chưa đạt kết quả như mong muốn. Khoản thu từ nhà đất chiếm tỷ lệ trong các năm gần đây trên 10% tổng thu NSNN, đây là khoản thu tiềm năng, nếu có chính sách thu hợp lý và có biện pháp quản lý thu thích hợp sẽ đem lại số thu đáng kể cho NSNN. Khoản thu có tốc độ tăng rất cao năm 2016 so với 2015 đó là thuế bảo vệ môi trường, do từ 01/05/2015 mức thu thuế bảo vệ môi trường đối với xăng tăng từ 1000 đồng/ lít trước đây lên thành 3000 đồng/ lít, năm 2016 thu được 43.632 tỷ đồng tiền thuế môi trường, tăng 61,5% so với năm 2015. Năm 2017 số thuế bảo vệ môi trường thu được là 44 666 tỷ đồng, chiếm 4,3% tổng thu NSNN. - Về cơ cấu thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: Hình 4: Cơ cấu thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Nguồn: Bộ Tài chính Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy hai sắc thuế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu NSNN từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đó là thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng (GTGT). Tỷ trọng thu thuế nhập khẩu có xu hướng giảm, năm 2013 thu thuế nhập khẩu chiếm 41,7% trong tổng thu NSNN từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng đến năm 2017 giảm xuống, chỉ chiếm 32,5%. Việc giảm tỷ trọng thu thuế nhập khẩu trong
  7. 952 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION các năm gần đây là điều bình thường, do Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế, ký kết nhiều FTA với cam kết giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu.Việc đẩy nhanh hội nhập quốc tế, giảm thuế nhập khẩu đã làm gia tăng lượng hàng hóa nhập khẩu, kéo theo thu thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu cũng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Nếu như năm 2013 thu thuế GTGT chiếm 39,6% trong tổng thu NSNN từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, thì đến năm 2017 đã tăng lên khá nhiều, chiếm 51,2% trong tổng NSNN từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với việc gia tăng số thu và tỷ trọng của thuế GTGT thì thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với hàng nhập khẩu cũng gia tăng trong các năm gần đây, do mặt hàng ô tô vẫn được nhập khẩu với số lượng lớn, đặc biệt trong năm 2016, 2017, dẫn đến tỷ trọng thu thuế TTĐB trong NSNN từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu chiếm lần lượt là 12,5% và 11.7%. Tỷ trọng thu từ thuế xuất khẩu rất nhỏ và giảm dần, điều này là hợp lý vì để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hàng xuất khẩu có thuế suất thuế xuất khẩu 0%. Hiện nay Việt Nam chủ yếu đánh thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô và khoáng sản khai thác chưa qua chế biến nhằm mục đích hạn chế, kiểm soát xuất khẩu. Như vậy, nhìn chung cơ cấu thu NSNN của Việt Nam thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế như: Một là, cơ cấu thu NSNN chưa thực sự bền vững. Nguồn thu trong nước tăng chậm do hiệu quả nền kinh tế còn thấp; nguồn thu NSNN chưa thực sự bắt nguồn từ kết quả sản xuất, kinh doanh, từ hiệu quả chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, một số khoản thu không ổn định như thu từ bán dầu thô, thu thuế xuất nhập khẩu, thu từ đất,…, điều này làm cho thu NSNN nhạy cảm với tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới và giá dầu thô trên thị trường quốc tế. Một khi giá dầu thô sụt giảm hoặc trữ lượng khai thác giảm sẽ ảnh hưởng đến thu NSNN từ dầu thô. Thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu cũng khiến NSNN chịu tác động không nhỏ của nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời tiến trình thực hiện giảm thuế theo các cam kết hội nhập như AFTA, WTO, tất yếu phải giảm thuế suất thuế nhập khẩu, điều này sẽ là sức ép không nhỏ với nguồn thu NSNN trong tương lai. Hai là, về chính sách thu NSNN nói chung, chính sách thuế nói riêng cũng còn có những hạn chế. Phạm vi điều tiết vĩ mô của các chính sách thu NSNN, nhất là các sắc thuế còn hẹp, chưa bao quát được các hoạt động kinh doanh của nền kinh tế đã và đang phát sinh, phát triển rất đa dạng trong nền kinh tế thị trường. Diện chưa thu thuế, ưu đãi thuế còn nhiều. Việc quy định danh mục đối tượng không chịu thuế GTGT còn nhiều, quy định nhiều trường hợp miễn giảm thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu, có quá nhiều ưu đãi thuế TNDN và có nhiều khoản thu nhập không tính thuế TNCN cũng như quy định quá nhiều đối tượng được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN đã làm cho cơ sở tính thuế bị thu hẹp, phức tạp về chính sách, điều này có thể dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng, và cũng gây khó khăn trong kiểm soát và quản lý thu thuế. Ba là, công tác quản lý và điều hành thu NSNN còn tồn tại tình trạng thất thu, trốn thuế, lậu thuế. Tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Không chỉ thất thu thuế, Việt Nam còn thất thu trong việc giao đất, giao rừng, giao mỏ khoáng sản…Hiện Việt Nam giao đất, rừng, mỏ khoáng sản theo cơ chế xin cho, thu tiền thuế hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm, nhìn chung chưa tương xứng với giá trị tài sản công. Mặc dù hoạt động kinh doanh và chuyển dịch tài sản, bất động sản đã chịu thuế nhưng vẫn còn nhiều đối tượng tận dụng tránh thuế, trốn thuế khiến khoản thu chưa tương xứng với thực tế. 3. KHUYẾN NGHỊ ĐỔI MỚI CƠ CẤU THU NSNN Ở VIỆT NAM Xuất phát từ những hạn chế của cơ cấu thu NSNN hiện hành, việc đổi mới cơ cấu thu là hết sức cần thiết. Mục tiêu của việc đổi mới cơ cấu thu là đảm bảo tính bền vững của NSNN, đảm bảo số thu cần thiết
  8. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 953 cho NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, khắc phục tình trạng thâm hụt NSNN lớn, đồng thời góp phần phát huy tác dụng tích cực của thu NSNN đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Các định hướng chủ yếu đổi mới cơ cấu thu NSNN trong thời gian tới bao gồm: Thứ nhất, tăng tỷ trọng thu nội địa, phấn đấu đến 2020 tỷ trọng thu nội địa chiếm khoảng 84-85% tổng thu NSNN, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ thuế đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và dầu thô, phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu khoảng 14 - 16%, như đã nêu trong trong Nghị quyết số 25/2016/QH14 về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020. Thứ hai, có chính sách thu và biện pháp quản lý phù hợp để tăng thu đối với một số đối tượng, lĩnh vực có số thu tiềm năng để tăng tỷ trọng thu như đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tăng tỷ trọng thu thuế TNCN, thuế tài sản trong tổng thu NSNN. Xuất phát từ các định hướng nêu trên, một số giải pháp cơ bản để đổi mới cơ cấu thu NSNN bao gồm: Một là, hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng cơ sở thuế, rà soát, thu hẹp diện miễn, giảm thuế. Cụ thể: - Đối với thuế GTGT cần thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT, nên giới hạn phạm vi không chịu thuế đối với một số hàng hóa, dịch vụ như y tế, giáo dục và dịch vụ tài chính. Hiện hành danh mục đối tượng không chịu thuế GTGT còn nhiều, theo Luật thuế GTGT gồm 25 nhóm đối tượng, do vậy trong thời gian tới cần rà soát danh mục hàng hóa dịch vụ không chịu thuế GTGT, nghiên cứu chuyển dần một số hàng hóa dịch vụ hiện nằm trong danh mục không chịu thuế sang chịu thuế GTGT. Trong thời gian trước mắt cần chuyển các nhóm hàng hóa, dịch vụ sau từ không chịu thuế sang chịu thuế GTGT: + Phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác. + Máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. + Vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản phẩm khác. + Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu. + Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống, cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền. Việc chuyển các nhóm này sang đối tượng chịu thuế không chỉ góp phần mở rộng cơ sở thuế, tạo thu cho NSNN, mà nhằm đảm bảo công bằng giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh, và sẽ giúp cho hoạt động bảo hộ sản xuất nội địa tốt hơn khi các hàng hóa này chịu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu. - Mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB. Trên cơ sở phân loại các nhóm mặt hàng cần thực hiện chủ trương điều tiết đúng hướng sản xuất, tiêu dùng và phân phối thu nhập để đưa thêm một số hàng hóa, dịch vụ và đánh thuế TTĐB. Hiện nay ở Việt Nam có khá nhiều mặt hàng tiêu dùng cao cấp nhưng chưa bị đánh thuế TTĐB như mỹ phẩm cao cấp, vàng bạc, đá quý, dịch vụ thẩm mỹ viện,....Do vậy cần có sự nghiên cứu để đưa dần các hàng hóa, dịch vụ này vào diện chịu thuế TTĐB, bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là những người có thu nhập cao trong xã hội.Việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB với những hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu, góp phần tăng tỷ trọng thu thuế TTĐB trong tổng thu NSNN.
  9. 954 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION - Bổ sung thêm một số mặt hàng vào đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường. Trong thời gian tới nên nghiên cứu để đưa mặt hàng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu vào đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường. Hiện nay ở Việt Nam, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu được sử dụng nhiều trong sản xuất nông nghiệp. Nếu sử dụng không đúng quy định sẽ gây đột biến gien, dị dạng, ung thư đối với con người, gây ô nhiễm nguồn nước, đất và không khí. Mặc dù mỗi loại có tính chất hóa lý khác nhau, cơ chế gây độc khác nhau nhưng ít nhiều đều có tác hại đối với con người, đối với tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Nhiều nước đã cấm sử dụng các nhóm hóa chất có độ độc hại cao.Việc đánh thuế bảo vệ môi trường đối với phân bón hóa học, thuốc trừ sâu sẽ góp phần tác động đến người sử dụng các hàng hóa này, họ có thể cân nhắc hạn chế sử dụng, đồng thời, có thể động viên số thu NSNN để sử dụng cho mục đích bảo vệ môi trường. - Thu hẹp diện miễn thuế nhập khẩu. Đối với những trường hợp có rủi ro gian lận cao thì không nên miễn thuế nhập khẩu. Nên nghiên cứu bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng trong nước chưa sản xuất được phục vụ trực tiếp cho giáo dục; hàng hóa nhập khẩu để phục vụ bảo đảm an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh vì trên thực tế các trường hợp này rất khó kiểm soát mục đích sử dụng thực tế ngay ở khâu nhập khẩu, có thể bị người nộp thuế lợi dụng để gian lận thuế. Thay vì quy định miễn thuế nhập khẩu đối với các trường hợp này, nhà nước có thể thực hiện chi ngân sách hỗ trợ các hoạt động này. - Đối với thuế TNDN: để mở rộng cơ sở thuế TNDN cần hoàn thiện chính sách như sau: + Giảm bớt đối tượng được hưởng ưu đãi thuế theo thời hạn: Việc quy định quá nhiều trường hợp được miễn giảm thuế làm cho cơ sở thuế bị xói mòn và tính công bằng theo đó cũng bị giảm sút. Đối với ưu đãi thuế có thời hạn, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Việc áp dụng hình thức ưu đãi này có khá nhiều hạn chế và có thể là động cơ gây ra các hiện tượng chuyển giá nhằm trốn thuế. Vì vậy, các nước thường có xu hướng thay thế dần bằng việc áp dụng các hình thức ưu đãi chi phí. Việc áp dụng hình thức miễn giảm thuế có kỳ hạn chỉ được áp dụng trong lĩnh vực sản xuất vật chất thay vì kinh doanh thương mại và phải kết hợp với quy định về chuyển lỗ phù hợp mới có thể phát huy được tác dụng mong muốn. Thay vì miễn giảm thuế có kỳ hạn, có thể sử dụng các ưu đãi thuế cho đầu tư thông qua việc áp dụng một số biện pháp như: chiết khấu đầu tư, khấu trừ thuế đầu tư, kết hợp với quy định về chuyển lỗ. Vì vậy, trong tương lai, có thể thay thế việc miễn giảm thuế có thời hạn bằng hình thức khấu trừ thuế đầu tư - tức là cho phép khấu trừ một tỷ lệ % nhất định trên tổng giá trị tài sản mới đầu tư trực tiếp vào số thuế TNDN phải nộp trong năm tính thuế. Hình thức ưu đãi này có tác dụng tương tự như việc Nhà nước hỗ trợ trực tiếp một phần vốn cho doanh nghiệp, tương ứng với khả năng tạo vốn và tạo thu nhập trên cơ sở kinh doanh có lãi và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Áp dụng ưu đãi này có thể hạn chế được những nhược điểm của việc áp dụng miễn giảm thuế có kỳ hạn mà vẫn có tác dụng ưu đãi đối với các đối tượng mới thành lập trong khi không bị hạn chế về thời gian (Nếu có quy định chuyển lỗ phù hợp). + Hạn chế ưu đãi thông qua quy định về khấu hao nhanh tài sản cố định: Đối với khấu hao nhanh, cần có quy định nhóm tài sản có tính chất đặc thù được tính khấu hao nhanh thay vì áp dụng chung cho các cơ sở kinh doanh hàng hóa dịch vụ ” có hiệu quả kinh tế cao” như hiện nay. + Rà soát giảm bớt các nhóm thu nhập được miễn thuế cho các đối tượng chính sách, hạn chế việc lồng ghép các chính sách xã hội vào chính sách ưu thuế TNDN. Các nước thường chỉ có những ưu đãi chi phí đối với lao động là người tàn tật khi cho phép tính trừ các chi phí liên quan đến hỗ trợ lao động là người tàn tật với điều kiện họ là các nhân viên trực tiếp của công ty. Hoặc Nhà nước có thể thực hiện hỗ trợ cho các nhóm đối tượng này thông qua các chương trình chi NSNN phù hợp thay vì thực hiện hỗ trợ thông qua chính sách ưu đãi thuế TNDN cho các doanh nghiệp. Khi thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ
  10. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 955 hưởng, tính minh bạch cũng sẽ cao hơn và việc quản lý và giám sát các chính sách này cũng dễ dàng hơn. - Đối với thuế TNCN: nhằm góp phần mở rộng cơ sở thuế TNCN cần hoàn thiện chính sách như sau: + Đưa một số khoản trợ cấp, phụ cấp vào thu nhập chịu thuế. Một số khoản phụ cấp, trợ cấp có bản chất là tiền công nói chung, không phải là khoản thu nhập mang tính chất bù đắp chi phí cần được soát xét và loại bỏ ra khỏi danh mục những khoản phụ cấp, trợ cấp không chịu thuế. + Thu hẹp đối tượng được giảm trừ gia cảnh, chỉ nên giới hạn là con, bố mẹ, anh chị em ruột không nơi nương tựa. Nên hạn chế quy định đối tượng là người phụ thuộc là cô dì, chú bác, các cá nhân khác để đơn giản trong kê khai, nộp thuế, thuận tiện cho công tác quản lý và tránh việc bị người nộp thuế lợi dụng. - Đối với thuế đánh vào tài sản: cần có sự nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách thuế đánh vào tài sản hiện có như thuế đánh vào đất, vào tài nguyên để khai thác, động viên hợp lý đối với những người nắm giữ tài sản có giá trị lớn. Hai là, tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công (đặc biệt với đất đai, tài nguyên, tài sản tại khu vực sự nghiệp công, tài sản là các loại kết cấu hạ tầng giao thông) nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ba là, tăng cường quản lý thu NSNN, mà đặc biệt là quản lý thuế. Việc mở rộng cơ sở thuế sẽ góp phần tăng thu cho NSNN, tuy nhiên nếu như công tác quản lý thuế chậm được cải thiện thì nó cũng sẽ không đem lại kết quả như mong muốn. . Cơ quan quản lý thuế cần chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện các trường hợp gian lận thuế, xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và cải cách thủ tục hành chính trong thu nộp ngân sách nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, vừa ngăn chặn tình trạng chuyển giá, trốn thuế. Bên cạnh đó, chú trọng đổi mới, áp dụng các biện pháp, kỹ năng quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, giảm tỷ trọng nợ đọng thuế. KẾT LUẬN Mặc dù cơ cấu thu NSNN của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, thích ứng với bối cảnh kinh tế- xã hội trong các năm gần đây, tuy nhiên nhìn chung cơ cấu thu NSNN của Việt Nam chưa thực sự hợp lý, thiếu bền vững. Trong thời gian tới cần điều chỉnh cơ cấu thu NSNN theo hướng mở rộng cơ sở thu NSNN để góp phần tạo số thu bền vững, tăng cường quản lý, hạn chế tình trạng gian lận, chống thất thu hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Bộ Tài chính, số liệu công khai Ngân sách trên website www.mof.gov.vn Chính phủ, (2017). Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về Chương trình hành động triển khai khai hoạch cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công.. Gangadha Prasad Shukla, Phạm Minh Đức, Michael Engelschalk, Lê Minh Tuấn,(2011).Cải cách thuế ở Việt Nam: hướng tới một hệ thống hiệu quả và công bằng hơn, Ngân hàng thế giới Trương Bá Tuấn (2015). Bền vững ngân sách ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra, Tạp chí Kinh tế tài chính, số 1, tháng 8/2015. Trương Bá Tuấn,(2017). Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và định hướng cải cách, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính Cơ cấu lại các khoản thu ngân sách, http://nhandan.com.vn/chinhtri/item/34963302-co-cau-lai-cac-khoan-thu-ngan-sach.html
  11. 956 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Tiếng Anh 1.Eric Zolt,(2015),Tax Incentives: Protecting the tax base, Paper for Workshop on Tax Incentives and Base Protection ,New York Jane G. Gravelle, Thomas L. Hungerford, ( 2012), The Challenge of Individual Income Tax Reform: An Economic Analysis of Tax Base Broadening, Congressional Research Service, USA. Rechard M. Bird and Milka Casanegra de Jantscher (1992), Improving Tax Administration In Developing Countries, International Monetary Fund.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2