intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới hình thức ôn tập cuối kì cho môn học “Văn học Anh Mĩ” nhằm phát huy tính tự chủ cho sinh viên khoa tiếng Anh trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Chia sẻ: ViColor2711 ViColor2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hình thức ôn tập kiến thức mỗi môn học vào cuối kì sao cho hiệu quả luôn là một thách thức cho cả SV và giảng viên ở các trường đại học hay cao đẳng. Bài viết đề cập tới hình thức đổi mới cho cách ôn tập cuối kì môn Văn học Anh-Mỹ nhằm phát huy tính tự chủ cho SV khối chuyên Anh tại khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới hình thức ôn tập cuối kì cho môn học “Văn học Anh Mĩ” nhằm phát huy tính tự chủ cho sinh viên khoa tiếng Anh trường Đại học Sư phạm Hà Nội

VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199<br /> <br /> <br /> ĐỔI MỚI HÌNH THỨC ÔN TẬP CUỐI KÌ CHO MÔN HỌC “VĂN HỌC ANH - MĨ”<br /> NHẰM PHÁT HUY TÍNH TỰ CHỦ CHO SINH VIÊN KHOA TIẾNG ANH<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI<br /> Đỗ Thị Phi Nga - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> <br /> Ngày nhận bài: 15/5/2019; ngày chỉnh sửa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 31/5/2019.<br /> Abstract: Ways of revising knowledge for each subject effectively at the end of term is always<br /> challenging for both students and lecturers at universities and colleges. This article discusses a new<br /> way to revise knowledge at the end of term for the subject “British-American Literature” to<br /> stimulate students’ autonomy of Faculty of English at Hanoi National University of Education<br /> Keywords: Effectiveness, revise, renew, autonomy<br /> <br /> 1. Mở đầu dựa dẫm vào sự thúc ép, bắt buộc phải học hay lĩnh hội kiến<br /> Sau mỗi một kì học, thời gian ôn tập cuối kì luôn mang thức từ phía người thầy. Có rất nhiều định nghĩa về tự chủ<br /> tới cho các sinh viên (SV) của các trường đại học và cao trong học tập. Nếu như Holmes & Ramos (1991) trích từ<br /> đẳng nói chung một tâm lí lo lắng vì trong một khoảng thời James và Garret (trang 198) cho rằng tự chủ trong học tập<br /> gian ngắn từ 2 hoặc 3 tuần, các em phải ôn tập, rà soát lại tất là “Để giúp người học có kiểm soát nhiều hơn về việc học<br /> cả các kiến thức đã học của tất cả các môn học trong học kì. tập của chính mình thì điều quan trọng là phải giúp họ nhận<br /> SV của Khoa Tiếng Anh của Trường Đại học Sư phạm Hà ra được và phát hiện ra được các chiến thuật học tập họ đã<br /> Nội cũng không là một ngoại lệ. Cuối kì học, SV thường sử dụng hoặc đã sử dụng một cách rất tiềm năng” [1] thì<br /> phải ôn tập cho 6 hoặc 7 môn học với số lượng khoảng 25- cũng tương tự như thế, David Little đã cho rằng: “Tự chủ là<br /> 30 đơn vị tín chỉ với thời gian rất ngắn. Mỗi một môn học một vấn đề then chốt trong mối quan hệ về mặt tâm lí của<br /> tính cho tới cuối kì học đều có một lượng kiến thức tương người học với quá trình và nội dung học tập”. Nhìn chung,<br /> đối lớn. Làm thế nào để mỗi SV có thể tiếp thụ một lượng các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở quan điểm cho rằng tự<br /> kiến thức của 15 tuần học trong mỗi kì theo cách nhẹ nhàng<br /> chủ trong học tập là sự tự giác chiếm lĩnh kiến thức và quá<br /> và hiệu quả nhất, không mang tính áp đặt? Đây chính là<br /> trình này phải tạo ra từ động cơ học tập tích cực xuất phát từ<br /> những trăn trở của mỗi giảng viên Khoa Tiếng Anh của<br /> mong muốn tự nguyện của người học. Có sự tự chủ trong<br /> Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.<br /> học tập tức là nói về chủ thể của sự tự chủ này: đó chính là<br /> Sau một vài năm nghiên cứu, thử nghiệm và rút kinh<br /> người học tự chủ. Khái niệm “người học tự chủ” phụ thuộc<br /> nghiệm, các giảng viên của Bộ môn Văn hóa văn minh Anh<br /> - Mĩ của Khoa Tiếng Anh của Trường đã mạnh dạn đổi mới vào người đưa ra khái niệm, hoàn cảnh và mức độ của<br /> và áp dụng cách ôn tập mới cho môn Văn học Anh - Mĩ cho những nhà giáo dục tranh luận với nhau và đây có thể coi là<br /> SV chuyên tiếng Anh thông qua buổi ôn tập có tên “Ngày một khái niệm mang đặc điểm của sinh vật ưu tú nhất trên<br /> Sân khấu” (On the Stage Day). Buổi ôn tập là sự hội tụ của hành tinh trái đất đó là loài người; khái niệm “tự chủ” còn<br /> một loạt các hoạt động khác nhau nhằm sinh động hóa cách được coi như là một “phép đo” về động cơ chính trị, hay<br /> ôn tập môn học, khai thác triệt để tính tự chủ của tất cả các một động cơ của giáo dục. Những so sánh trên xuất phát từ<br /> SV, biến mỗi SV thực sự trở thành các diễn viên, nhà thơ thực tế sự tự chủ trong học tập được coi như vừa là một<br /> hay nhà văn trong một thời lượng nhất định và tự mình “hóa phương tiện cũng vừa là mục đích của giáo dục.<br /> thân” vào các tác phẩm văn học và theo chúng tôi thì đó 2.2. Tự chủ trong học ngoại ngữ<br /> chính là cách ôn tập kiến thức khá hiệu quả cho môn học Henri Holec (1981) - người có định nghĩa gần như đầu<br /> Văn học Anh - Mĩ có đặc thù riêng này. tiên về người học tự chủ đã đưa ra định nghĩa trong cuốn “Tự<br /> Bài viết nêu, phân tích một số hình thức đổi mới cho chủ và việc học ngoại ngữ” thì “Tự chủ là khả năng chịu trách<br /> cách ôn tập cuối kì môn Văn học Anh - Mĩ nhằm phát huy nhiệm về việc học tập của chính mình”. Một trong những vấn<br /> tính tự chủ cho SV khối chuyên Anh tại Khoa Tiếng Anh, đề tối cần thiết là cách chúng ta nhìn nhận thế nào là người<br /> Trường Đại học Sư phạm Hà Nội học tự chủ. Chúng ta phải quán triệt hai lựa chọn không thể<br /> 2. Nội dung nghiên cứu loại trừ nhau là dạy ngoại ngữ cho người học đồng thời dạy<br /> 2.1. Khái niệm “Tự chủ trong học tập” người học cách học và hai lựa chọn này cùng nhằm tới việc<br /> Theo các nhà sư phạm học thì tự học là quá trình mà học tập nói chung cũng như học ngoại ngữ nói riêng. Theo<br /> người học chủ động chiếm lĩnh kiến thức, không trông chờ, như lí thuyết mới của tâm lí học Vygotsky vốn ủng hộ tinh<br /> <br /> 195 Email: phingadodhsp@gmail.com<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199<br /> <br /> <br /> thần học tập tự chủ thì sự trau dồi và phát triển các kĩ năng của người học phải rèn luyện để tự mình xây dựng kế hoạch học<br /> người học không bao giờ hoàn toàn tách biệt với nội dung học tập, tự tìm kiếm và xây dựng thời gian biểu để ôn luyện kiến<br /> tập coi việc học một thứ tiếng ngoại ngữ khác biệt với việc thức đã học, dựa trên cơ sở của những vấn đề đã biết để tiếp<br /> học một môn học bất kì nào khác. Điều quan trọng là người tục chinh phục những vấn đề mới hoặc áp dụng những kiến<br /> học phải tự mình phát hiện ra những vấn đề ngôn ngữ kèm thức đã học để bắc cầu phát triển kiến thức từ tầm gần vươn<br /> với sự chỉ dẫn khiêm tốn của người dạy để giúp họ hiểu thấu tới tầm cao.<br /> đáo vấn đề. Người học phải biến quá trình học thành quá trình 2.4. Đổi mới cách thức ôn tập môn Văn học Anh - Mĩ đối<br /> tự học. Tác giả Thái Duy Tuyên (2003) đã đưa ra khái niệm với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư phạm<br /> “tự học” trong bài giảng về chuyên đề Dạy tự học cho SV Hà Nội<br /> trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng 2.4.1. Thực trạng yêu cầu ôn tập môn Văn học Anh - Mĩ<br /> tại Trường Đại học Huế: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư<br /> lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, phạm Hà Nội<br /> sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,<br /> tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm Theo như phân bổ chương trình đào tạo cử nhân tiếng<br /> lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh Anh tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thì các SV Khoa<br /> nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu Tiếng Anh sẽ học môn Văn học Anh - Mĩ vào học kì 5, tức<br /> của chính bản thân người học” [2; tr 5]. Như vậy, người học là môn học được học khi SV là năm thứ ba của chương trình<br /> tự chủ là người chủ động tự đào tạo mình theo sự chỉ dẫn, gợi đào tạo cử nhân 4 năm với thời lượng theo yêu cầu là: trên<br /> mở của người dạy. lớp: gồm 4 đơn vị học trình hay 4 tín chỉ; tự học: gồm 8 đơn<br /> vị học trình hay 8 tín chỉ. Với chương trình học của 15 tuần<br /> 2.3 Đổi mới phương pháp giảng dạy là kết hợp người học của học kì thì khi kết thúc môn học, SV ôn luyện toàn bộ<br /> tự chủ với người dạy tự chủ chương trình học để đạt được yêu cầu về kiến thức cụ thể là:<br /> Trong những năm gần đây, khái niệm “người dạy tự chủ” 1) Nắm được nền tảng cơ bản và sự phát triển của hai nền<br /> được các nhà nghiên cứu cũng như các nhà sư phạm đều rất văn học Anh và Mĩ qua tất cả các giai đoạn hay các trào lưu<br /> quan tâm. Theo như tinh thần của bài báo “Người dạy tự chủ” văn học khác nhau theo chiều dài lịch sử hai quốc gia;<br /> (2014) của trang web có tên “Từ điển về đổi mới giáo dục” 2) Đọc được các nguyên tác và đưa ra được bình luận và sự<br /> (The Glossary of Education Reform) thì người dạy tự chủ đề phân tích của chính mình về các tác phẩm văn học của hai<br /> cập tới sự độc lập trong chuyên môn của người dạy ở cơ sở nền văn học; 3) Viết được tóm tắt hay bài bình luận hoặc<br /> đào tạo đặc biệt ở mức độ họ có thể đưa ra những quyết định cảm nghĩ về các tác phẩm văn học của hai nền văn học;<br /> tự chủ về việc dạy cái gì cho người học cũng như dạy người 4) Phát triển những kĩ năng ngôn ngữ có sẵn để nâng cao kiến<br /> học thế nào. Đây là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều quốc gia và thức về về việc học ngoại ngữ từ việc nghiên cứu, khảo sát<br /> vì hướng tới sự tự chủ của người dạy thì các chính sách về ngôn ngữ đích thông qua các văn bản thật của ngôn ngữ đó.<br /> giáo dục dường như hạn chế sự phát triển chuyên môn, tính Yêu cầu của bài thi hết môn học thường có ba câu hỏi:<br /> tự chủ, tính linh hoạt, sự sáng tạo cũng như sự hiệu quả của 1) Tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của một tác giả yêu<br /> người dạy rất nhiều. Các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm thích trong hai nền văn học; 2) Bình luận hay phân tích về<br /> phải làm sao để kết hợp sự tự chủ của cả người học lẫn người một tác phẩm của văn học Anh; 3) Bình luận hay phân tích<br /> dạy hoặc nói cách khác là đổi mới phương pháp giảng dạy để về một tác phẩm của văn học Mĩ.<br /> kết hợp người học tự chủ với người dạy tự chủ để tạo ra sản Từ yêu cầu trên của bài thi hết môn học, SV phải rà soát<br /> phẩm giáo dục tối ưu nhất. lại toàn bộ kiến thức về hai nền văn học Anh và Mĩ. Cùng<br /> Ở Việt Nam, sự kết hợp người học tự chủ với người dạy lúc các SV phải ôn lại lịch sử phát triển của hai nền văn học<br /> tự chủ là việc phải làm sao tìm ra phương pháp dạy và học trái qua các thời kì khác nhau là gì, trong mỗi giai đoạn phát<br /> phù hợp với các chính sách giáo dục và đạt được các mục triển thì có những đặc điểm gì về bối cảnh kinh tế, chính trị,<br /> tiêu giáo dục đề ra. Cụ thể sự đổi mới phương pháp giảng văn hóa, khoa học kĩ thuật dẫn tới sự ra đời của trào lưu văn<br /> dạy phải nhằm tới hiện thức hóa Nghị Quyết Trung ương 4 học và trong mỗi gia đoạn có những tác giả, tác phẩm nào<br /> khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII tiêu biểu nhất. Khi phân tích một tác phẩm văn học, các SV<br /> (12/1996) và như trong Luật Giáo dục sửa đổi ban hành phải nắm được hoàn cảnh, xuất xứ của tác phẩm cũng như<br /> ngày 27/6/2005, điều 2.4, đã xác định rõ ràng: “Phương tư tưởng sáng tác của tác giả. Sự phân tích cảm nhận về mỗi<br /> pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tác phẩm phải toát lên lăng kính và văn phong của tác giả<br /> tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học cũng như phải nêu được sự thống nhất của tác phẩm nằm<br /> năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập trong một giai đoạn văn học riêng biệt hoặc một trào lưu văn<br /> và ý chí vươn lên”. Để khơi nguồn và phát huy tính tự chủ học cụ thể được minh họa qua ngòi bút của tác giả để vừa<br /> của người học thì người dạy phải hướng dẫn các kĩ năng mà có cái chung vừa có cái riêng mang dấu ấn của từng tác giả.<br /> <br /> 196<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199<br /> <br /> <br /> 2.4.2. Những thuận lợi và khó khăn khi ôn tập môn Văn học này và làm thế nào để biến quá trình ôn tập trở thành một<br /> Anh - Mĩ đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học chuỗi các hoạt động sinh động và giúp người học ghi nhớ<br /> Sư phạm Hà Nội kiến thức một cách chủ động, hào hứng, các giảng viên của<br /> Khi ôn tập cho kì thi cuối kì SV chuyên Anh tại trường Bộ môn Văn hóa Văn minh Anh - Mĩ thuộc Khoa Tiếng<br /> có nhiều thuận lợi nói chung với tất cả các môn học trong Anh của Trường đã xây dựng chương trình ôn tập với các<br /> học kì cũng như với môn học Văn học Anh - Mĩ nói riêng. nội dung ôn tập đều được “sân khấu hóa” nhằm biến các nội<br /> Thứ nhất, chương trình học được thống nhất ngay từ đầu dung ôn tập cho môn học trở thành các phần thi sôi động và<br /> học kì với sự phân chia thời lượng cũng như nội dung cụ thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo, tự chủ của các SV.<br /> của từng tuần học và kèm theo cả nội dung ôn tập trên lớp, 2.4.3.1. Xây dựng chương trình ôn tập hiệu quả với các hoạt<br /> yêu cầu về kiến thức khi hoàn thành môn học một cách rất động sinh động, đa dạng<br /> rõ ràng. Do vậy, SV có thể lên kế hoạch học tập khoa học Chương trình ôn tập được gửi cho SV ngay từ đầu học<br /> cho cả kì học, không rơi vào tình trạng lúng túng với nội kì để mỗi SV đều có thể tự nguyện tham gia vào hoạt đông<br /> dung học cái gì hay học thế nào cho đủ lượng kiến thức yêu mà mình yêu thích và cảm thấy có khả năng nhất. Buổi ôn<br /> cầu. Thứ hai, chương trình học đã nêu rõ tỉ trọng của các tập được mang tên “Ngày sân khấu” đã trở thành một sự<br /> thành tố tạo nên điểm hết học phần của môn học trong cả kiện được SV mong chờ nhất trong kì học. Cụ thể trong<br /> học phần bằng hệ thống kiểm tra liên tục trong quá trình học. chương trình, 6 hoạt động lớn được nối tiếp nhau:<br /> Cụ thể: tỉ trọng chuyên cần: 10%, điểm kiểm tra giữa kì - Thi làm người kể chuyện (Story-teller contest): SV sẽ<br /> (gồm 02 bài thuyết trình theo nhóm - 01 bài thuyết trình về chọn một tác phẩm trong hai nền văn học Anh hoặc Mĩ và<br /> nền văn học Anh - 01 bài thuyết trình về nền văn học), chủ động vào vai của các nhân vật trong tác phẩm. Tác<br /> chiếm tỉ trọng 30% và bài thi cuối học phần chiếm tỉ trọng phẩm SV có thể chọn tác phẩm là trích đoạn của một vở<br /> 60%. Thuận lợi lớn nhất khi SV ôn tập môn Văn học Anh - kịch, tiểu thuyết hay truyện ngắn mà mình yêu thích và thời<br /> Mĩ đó là sự chăm chỉ, nhiệt tình và tình yêu dành cho môn lượng 5 phút trên sân khấu thực sự là sự hội tụ của một thời<br /> học của các SV. gian chuẩn bị rất công phu từ lời thoại, trang phục, bối cảnh<br /> Bên cạnh các thuận lợi trên, SV chuyên Anh của của SV dành cho tác phẩm mà mình yêu thích.<br /> Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng gặp không ít khó - Thi làm người đọc tài năng (Reader’s contest): SV sẽ<br /> khăn khi ôn tập môn học văn học Anh - Mĩ cuối học kì. thi theo đội 4 người - trong thời gian 2 phút mỗi đội sẽ trả<br /> Trước hết, đó là sự eo hẹp về thời gian. Với thời gian học lời 10 câu hỏi gồm vừa câu hỏi mở, câu hỏi lựa chọn A, B,<br /> trên lớp là 15 tuần và thời gian ôn thi khoảng 2 tuần cho rất C, D và câu hỏi phải điền từ vào chỗ trống để hoàn thành<br /> nhiều môn học cùng học trong học kì thường là 6-7 môn câu. Nội dung của tất cả các câu hỏi đều liên quan tới tác<br /> học với tổng số khoảng 25-30 tín chỉ, việc ôn tập cả một giả, tác phẩm, trào lưu văn học hoặc các khái niệm hay các<br /> chương trình của 15 tuần học trong một thời gian ngắn như thủ pháp nghệ thuật cơ bản trong chuyên ngành văn học như<br /> thế là một thách thức không nhỏ cho tất cả các SV. Thứ hai, phép lặp từ (alliteration), phép nhân cách hóa<br /> với môn học có đặc thù này thì bài thi hết môn luôn đòi hỏi (personification)…<br /> SV phải có sự chuẩn bị khá nhiều ở nhà vì đó là sự thẩm - Thi làm người ứng tác thơ (Improvisator’s contest):<br /> thấu kiến thức về các tác giả, tác phẩm cũng như khả năng các SV theo đội 4 người sẽ ứng tác một bài thơ theo thể bình<br /> ngôn ngữ trong việc viết các cảm nhận, tóm tắt hay bình hành (diamante), hoặc thơ vui (limerick)…<br /> luận của cá nhân. - Thi tìm thông thái (Wisdom contest): một truyện ngụ<br /> 2.4.3. Những đổi mới về cách thức ôn tập môn Văn học Anh ngôn được giáo viên lựa chọn và chia làm nhiều đoạn văn<br /> - Mĩ đối với sinh viên chuyên Anh tại Trường Đại học Sư ngắn rồi xáo trộn trình tự. Trong thời gian 2 phút, các đôi<br /> phạm Hà Nội SV dự thi phải sắp lại được trình tự đúng và tự viết bài học<br /> Với nội dung ôn tập nhiều và có thể nói không đơn giản về đạo đức hay ứng xử sau câu chuyện ngụ ngôn.<br /> cho SV theo đặc thù môn học, nếu giảng viên chỉ yêu cầu - Thi làm nhà văn (Writer’s contest): SV sẽ hoàn thành<br /> SV ôn tập bằng cách học vẹt về cuộc đời, sự nghiệp của các phần giữa một câu chuyện đã cho các phần đầu và cuối hoặc<br /> tác giả trong hai nền văn học hay học thuộc lòng những đặc hoàn thành phần kết của một câu chuyện đã cho phần đầu.<br /> điểm của các giai đoạn hay các trào lưu văn học thì thời gian - Thi minh họa tranh (Illustrator’s contest): SV sẽ phác<br /> ôn tập sẽ vô cùng căng thẳng cho SV và kết quả của thời họa một bức tranh theo nội dung của một tác phẩm văn học.<br /> gian ôn tập cũng không thể tốt vì SV không tương tác với 2.4.3.2. Phát huy tối đa tính tự chủ và sáng tạo của sinh viên<br /> thầy, cô cũng như với các bạn trong lớp và quá trình ôn tập Ở mỗi phần thi là sự phát huy tối đa tính tự chủ, sáng tạo<br /> sẽ chỉ là quá trình ghi nhớ kiến thức một cách thụ động. Từ của SV. Điều này thể hiện ở sự tự chủ tìm tòi kiến thức về<br /> những trăn trở làm thế nào để giúp SV giảm thiểu sự căng các lĩnh vực khác nhau như thời đại văn học, trào lưu văn<br /> thẳng khi ôn tập kiến thức cho môn học văn học Anh - Mĩ học, trang phục của con người thời đại đó, tiếng Anh được<br /> <br /> 197<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199<br /> <br /> <br /> nói hay dùng phổ biến của thời gian đó. Để chuẩn bị cho tối ưu hơn. Trong mỗi hoạt động, các nội dung cụ thể cũng<br /> mỗi phần thi cũng chính là các nội dung ôn tập cho môn học được rà soát lại kĩ hơn sao cho sát với nội dung SV cần phải<br /> cuối kì, mỗi SV đều phải tự tìm kiếm thời gian ngoài lớp ghi nhớ và thể hiện ra bằng các kênh giao tiếp sinh động<br /> học cũng như sự tự chủ của mình để chuẩn bị kĩ càng cho khác nhau. Ví dụ, khi mới thực hiện chương trình ở phần<br /> phần dự thi. Chẳng hạn, nếu chọn tham gia phần “Thi làm “Thi làm người kể chuyện” (Story-teller contest), lúc đầu<br /> người kể chuyện” (Story-teller contest), SV phải chủ động chương trình chỉ yêu cầu SV thể hiện đúng kịch bản từ<br /> chọn tác phẩm, hiểu được mỗi nhân vật trong tác phẩm, nguyên tác, sau đó yêu cầu đã thay đổi vì cho phép SV có<br /> thuộc lời thoại, diễn theo tâm lí và vai trò nhân vật trong tác thể thay đổi kịch bản từ nguyên tác sao cho sự thay đổi phải<br /> phẩm. Một phần nữa là khi trình bày tác phẩm, đội thi phải thể hiện được sự sáng tạo của người kể chuyện, các yếu tố<br /> kết hợp 3 yếu tố tạo nên thành công của phần dự thi: kết hợp mới hài hước, hoặc dí dỏm được đan xen giúp cả người kể<br /> khéo léo giữa lời thoại, bối cảnh và trang phục. Mỗi phần chuyện lúc này đã trong vai của các nhân vật trong tác phẩm<br /> dự thi là cả một sự nỗ lực không nhỏ của mỗi SV để thực thấy vui hơn vì được thỏa sức sáng tạo mà cả người nghe kể<br /> hiện tròn vai mình chọn và cho dù là phần làm thơ, vẽ tranh chuyện cũng vô cùng hào hứng theo dõi. Hoặc như ở phần<br /> minh họa hay sáng tác một phần tác phẩm thì yếu tố chính “Thi làm người ứng tác thơ” (Improvisator’s contest) đã<br /> tạo nên thành công chính là sự tự chủ và sáng tạo của SV tăng thêm nội dung cũng như thời lượng cho hoạt động này<br /> trong học tập được phát huy ở mức cao nhất. từ việc SV có 7 phút để ứng tác một bài thơ hình bình hành<br /> 2.4.3.3. Áp dụng nhiều hình thức khen thưởng tại chỗ (diamante) theo thể lệ đã cho nhưng sau đó có thêm 3 phút<br /> để viết 2 câu sử dụng phép ẩn dụ (metaphor) rồi có 1 phút<br /> Để động viên kịp thời những nỗ lực học tập của SV, đặc<br /> để thuyết trình về phép ẩn dụ đã thể hiện ở 2 câu mà cả nhóm<br /> biệt cho những kết quả rất đáng trân trọng của mỗi SV tham<br /> đã đưa ra thông qua sản phẩm là bài thơ. Sau khi đã dùng<br /> gia vào các phần thi khác nhau, các giảng viên bộ môn Văn<br /> phép ẩn dụ đặt được 2 câu và giải thích được ý nghĩa của 2<br /> hóa văn minh Anh - Mĩ đã có những hình thức khen thưởng<br /> câu thơ đó thì chắc chắn các SV sẽ nắm chắc được thủ pháp<br /> tại chỗ cho các SV ngay tại sự kiện “Ngày sân khấu”. Các<br /> nghệ thuật này trong văn học.<br /> phần thưởng tuy không lớn về giá trị vật chất nhưng thiết<br /> thực như các món quà là đồ dùng học tập hàng ngày như 3. Kết luận<br /> bút nhớ dòng, phiếu ghi nhớ, bút viết, ghim cài giấy…<br /> Phát huy tính tự chủ, sáng tạo của SV để biến quá trình<br /> nhưng là những sự ghi nhận sự tự chủ, sáng tạo và đầu tư<br /> đào tạo thành quá trình tự đào tạo, chủ động chiếm lĩnh tri<br /> nghiêm túc của các SV dành cho môn học. Các hình thức<br /> thức là yêu cầu tối cần thiết cho các SV ở các trường cao<br /> khen thưởng cũng đa dạng như có thể là lời khen của giáo<br /> đẳng và đại học. Trong thực tế, muốn quá trình tự đào tạo<br /> viên, lời nhận xét tích cực về một phần thể hiện nội dung<br /> của SV thực sự đạt kết quả tốt cũng như có tác dụng trong<br /> trong phần thi từ phía ban giám khảo, một món quà văn<br /> việc xây dựng thói quen học tốt thì yếu tố cốt lõi là nhờ<br /> phòng phẩm hay một túi đồ ăn dành cho đội chiến thắng hay<br /> vào sự hướng dẫn, định hướng của giảng viên và sự tự nỗ<br /> chính là sự trao tặng chính sản phẩm của phần thi như là các<br /> lực của SV. Ý thức xây dựng thói quen chủ động chiếm<br /> bài thơ trong phần ứng tác thơ, các bức tranh sau phần minh<br /> lĩnh tri thức, tự khám phá các môn học, tiếp thu kiến thức<br /> họa cho tác phẩm nhưng đều có tác dụng động viên tại chỗ<br /> một cách chủ động luôn là chìa khóa thành công cho mọi<br /> những SV đã hoàn thành tốt nhiệm vụ ôn tập của mình<br /> người học. Trong quá trình học tập, sự định hướng, giúp<br /> thông qua phần thể hiện ở phần thi.<br /> đỡ của giảng viên đóng vai trò quan trọng để sự tự chủ học<br /> 2.4.3.4. Rút kinh nghiệm và liên tục hoàn thiện chương trình tập của người học được phát triển đúng hướng, vừa tiết<br /> ôn tập kiệm thời gian học cũng như khơi dậy được tiềm năng, thế<br /> Sau mỗi một buổi tổ chức ôn tập có tên “Ngày Sân mạnh của người học; và quan trọng là giúp người học<br /> khấu” nhóm giảng viên của Bộ môn Văn hóa văn minh Anh trong thời gian ngắn nhất đi tới đích nhanh nhất. Để góp<br /> - Mĩ thuộc Khoa tiếng Anh của Trường Đại học Sư phạm phần cho người học tới đích trong thời gian ngắn nhất thì<br /> Hà Nội lại cùng rà soát lại chương trình của buổi ôn tập để việc đưa ra các chiến thuật học tập, ôn luyện kiến thức đã<br /> rút kinh nghiệm cho những lần sau có được chương trình có học để kiến thức thực sự không phải “dừng chân” chỗ<br /> các hoạt đông đặc sắc về nội dung cần ôn tập với thời lượng người thầy hoặc trong sách vở mà thực sự biến thành kiến<br /> của từng hoạt động phù hợp với những điều kiện về cơ sở, thức của người học là cả một nghệ thuật của khoa học, của<br /> vật chất của lớp học, độ thẩm thấu của SV với môn học cũng việc liên tục đổi mới các phương pháp học cũng như ôn<br /> như đảm bảo phát huy cao nhất sự tự chủ, sáng tạo của SV. luyện kiến thức đã học phù hợp rất quan trọng. Chỉ có sự<br /> Chương trình ôn tập đã trải qua một số năm thử nghiệm và nỗ lực không ngừng của người thầy “lấy người học làm<br /> sau mỗi lần thực hiện chương trình, những hoạt động thể trung tâm” nhằm tìm ra những biện pháp nhằm đổi mới<br /> hiện những ưu điểm được giữ lại để phát huy và những bất phương pháp ôn luyện kiến thức cuối môn học cộng<br /> cập được thay thế bằng những hoạt động mới hợp lí hơn và hưởng với sự ham mê học hỏi, sáng tạo và chủ động tiếp<br /> <br /> 198<br /> VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199<br /> <br /> <br /> thu tri thức của người học sẽ mang lại những kết quả tốt THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ…<br /> đẹp trong quá trình dạy và học. (Tiếp theo trang 179)<br /> <br /> Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo<br /> [1] Little, D. (1991). Learner Autonomy and second/ [1] Ban Thanh niên trường học (2007). Định hướng giá<br /> foreign Language Learning. Dublin: Authentik. trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB<br /> [2] Thái Duy Tuyên (2003). Dạy tự học cho sinh viên Thanh niên.<br /> trong các nhà trường cao đẳng, đại học chuyên [2] Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình Giáo dục kĩ<br /> nghiệp. Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học năng sống (dành cho sinh viên cao đẳng sư phạm).<br /> viên cao học, Đại học Huế. NXB Đại học Sư phạm.<br /> [3] Rindley, G. (1989). Assessing achievement in the [3] Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương (2012). Ứng<br /> learner-centered curriculum. Sydney: National xử sư phạm và giáo dục kĩ năng mềm trong nền giáo<br /> Center for English Language Teaching and dục hiện nay. NXB Hồng Đức.<br /> Research. [4] Lê Văn Chiến (2006). Kĩ năng sống dành cho bạn<br /> [4] Đặng Xuân Hải (2007). Tính tự chủ và tự chịu trách trẻ. NXB Trẻ.<br /> nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo [5] Chu Văn Đức (2005). Giáo trình kĩ năng giao tiếp.<br /> theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 175, tr 5-7. NXB Hà Nội.<br /> [5] Dominique Rabine-Bucknor (2010). Adult [6] Hoàng Thị Hiền (2014). Giáo trình kĩ năng mềm<br /> Teaching and Learning: Self Directed Learning, - Tiếp cận theo hướng sư phạm tương tác. NXB Đại<br /> Application Paper, Colorado State University. học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> [6] Henri Holec (1979). Autonomy and Foreign [7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện<br /> Language Learning, Council for Cultural pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học<br /> Cooperation, Strasbourg (France). Sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư<br /> [7] Lâm Quang Thiệp (2008). Về việc áp dụng học chế phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77.<br /> tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam. Kỉ yếu Hội thảo<br /> khoa học, Trường Đại học Vinh.<br /> [8] Leslie Dickinson (1992). Learner Autonomy: THỰC TRẠNG GIÁO VIÊN MẦM NON…<br /> Learner Training for Language Learning (Tiếp theo trang 146)<br /> (Volume 2). Paperback - November.<br /> [9] Lưu Xuân Mới (2000). Lí luận dạy học đại học.<br /> NXB Giáo dục. Tài liệu tham khảo<br /> [10] Nguyễn Thị Thu Huyền (4/2016). Vai trò của kĩ [1] Phạm Thị Mai Chi - Bùi Kim Tuyến - Lương Thị<br /> năng tự học (ngoài lớp học). Cổng thông tin điện tử Bình - Phan Lan Anh (2005). Hướng dẫn hoạt động<br /> Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. cho trẻ 1-3 tuổi. NXB Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.<br /> [11] Phil Banson (2005). Autonomy in language [2] Ngọc Thị Thu Hằng (2014). Giới thiệu phương pháp<br /> learning, Longman. giáo dục Montessori. Tạp chí Khoa học, Trường Đại<br /> [12] The glossary of Education Reform (2014). học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 57, tr 125-139.<br /> https://www.edglossary.org/teacher-autonomy/. [3] Ngô Hiểu Huy (2013). Phương pháp giáo dục<br /> [13] Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in Montessori - Phương pháp giáo dục tối ưu dành cho<br /> Childhood. Journal of Russian and East European trẻ 0-6 tuổi. NXB Văn hóa - Thông tin.<br /> Psychology, Vol. 42, No. 1, January-February, [4] Lý Lợi (2014). Phương pháp Giáo dục Montessori<br /> pp. 7-97, M.E. Sharpe, Inc. - Thời kì nhạy cảm của trẻ. NXB Đại học Sư phạm.<br /> [14] Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày [5] Maria Montessori (2008). Dạy con trước tuổi lên 3.<br /> 13/6/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển NXB Lao động.<br /> giáo dục 2011-2020. [6] Patricia Giardiello (2014). Pioneers in early<br /> [15] Citation: Huitt, W. (1998). Critical thinking: An childhood education. Routledge, London and New<br /> overview. Educational Psychology Interactive. York.<br /> Valdosta, GA: Valdosta State University. [7] Rambusch Nancy Mccormick (1988). Dr. Montessori's<br /> [16] De Bono, E. (1970). Lateral thinking: creativity step own handbook. Schocken books, New York.<br /> by step. Harper & Row, pp. 300. ISBN 0-14- [8] Aline D. Wolf. (1995). A parents' guide to the<br /> 021978-1. Montesssori classroom. Parent child press.<br /> <br /> 199<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2