intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư" góp phần tìm hiểu về mô hình tăng trưởng xanh, thực trạng thực hiện tăng trưởng xanh và đề xuất một số giải pháp thực hiện ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư

  1. ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, THỰC HIỆN TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ThS. Nguyễn Văn Nam1, TS. Nguyễn Văn Tươi2 (1),(2) Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải Trung ương V Tóm tắt: Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập của Đảng cộng sản Việt Nam, từ sau Đại hội lần thứ VI (1986), nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Một trong những thành tựu nổi bật là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm liên tục, đã góp phần quyết định vào việc nâng cao đời sống của nhân dân, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, những thành tựu to lớn đó hiện đang đứng trước nhiều thách thức do mô hình tăng trưởng hiện tại của nước ta đã trở nên lạc hậu. Nhằm khắc phục những hạn chế của mô hình tăng trưởng đó, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0), việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh là một lựa chọn tất yếu. Bài viết góp phần tìm hiểu về mô hình tăng trưởng xanh, thực trạng thực hiện tăng trưởng xanh và đề xuất một số giải pháp thực hiện ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khóa: cách mạng 4.0; khoa học công nghệ; tăng trương xanh; phát triển bền vững; mô hình tăng trưởng. 1. Đặt vấn đề Ở nước ta, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: tăng trưởng cao trong thời gian dài; cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định… Thành tựu đó đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm thay đổi bộ mặt đất nước. Tuy nhiên, những hạn chế của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào vốn, tài nguyên và lao động đã bộc lộ. Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững hay tăng trưởng xanh (TTX) là một yêu cầu cấp thiết. Từ năm 2012, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. Mục tiêu của Chiến lược là “tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội…”1. Để thực hiện mục tiêu trên, việc nghiên cứu đầy đủ hơn về mô hình TTX và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 để từ đó xây dựng các giải pháp phù hợp là việc làm cần thiết. 2. Khái niệm về tăng trưởng xanh Với nhiều phương diện tiếp cận khác nhau, đến nay đã có một số các định nghĩa về TTX được sử dụng rộng rãi: Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) định nghĩa: "TTX là định hướng mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những mô hình tiêu thụ và sản xuất bền vững, nhằm đảm bảo nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những nguồn lực và dịch vụ sinh thái mà đời sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ này cũng như cho những thế hệ mai sau” (Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc, 2006). Theo OECD, “TTX là thuc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường cần thiết cho cuộc sống chủng ta. Để thực hiện điều này, TTX phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới.” (Tổ chức hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD, 2005) 93
  2. Theo Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc cho rằng: “TTX hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để đạt được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng cho xã hội.” (Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc, 2007) Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song TTX bao gồm các nội dung cơ bản: (1) sản xuất và tiêu dùng bền vững; (2) giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu; (3) xanh hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua phát triển công nghệ xanh, phát triển các ngành công nghiệp cao, sử dụng ít tài nguyên, áp dụng các biện pháp sản xuất sạch; (4) xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững; (5) bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên; (6) cải tổ và áp dụng các công cụ kinh tế; (7) xây dựng và thực hiện các chỉ số sinh thái. (Vũ Tuấn Anh, 2015, Tr.19) Bản chất của TTX khác với bản chất của các loại hình tăng trưởng trước đây. Sự khác biệt nằm ở chỗ TTX không đặt ra (không chấp nhận đánh đổi) giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu bảo vệ môi trường. Việc ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế nhanh để tích lũy nguồn lực (chủ yếu là vốn) và sử dụng nguồn lực đó để quay lại tái tạo môi trường không tồn tại trong TTX. Sự thay đổi quan điểm đó xuất phát từ thực tế, nhiều nguồn lực đã biến mất trong quá trình tăng trưởng kinh tế vừa qua và những nỗ lực sau đó nhằm tái tạo các nguồn lực này trên cơ sở tích lũy từ phát triển kinh tế đã trở thành vô vọng. Trong mô hình TTX, các quốc gia phải hướng tới sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái. Ba trụ cột đó được đặt cùng mức ưu tiên. Thực hiện TTX đang trở thành một trong những ưu tiên của nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển để ứng phó với khủng hoảng kinh tế cũng như trong chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu và vấn đề ô nhiễm môi trường. Nhiều nước rất chú trọng vấn đề phát triển xanh trong các gói kích thích kinh tế và trong chiến lược phát triển dài hạn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… Ở Việt Nam, năm 2012 “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra mục tiêu: “…tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Trong đó, giai đoạn 2011 - 2020: “Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế”2..Để thực hiện đầy đủ và đạt được các mục tiêu trên là việc làm không đơn giản, nhưng không thể không thực hiện, vì nó là xu thế phát triển tất yếu và cũng là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh nước ta hiện nay. 3. Tăng trưởng xanh ở việt nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư 3.1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Thế giới đã trải quá 3 cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghiệp và đang ở những năm đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0- CMCN 4.0). CMCN 4.0 là thuật ngữ dù xuất hiện chưa lâu nhưng được sử dụng phổ biến hiện nay. Năm 2011 tại Hội chợ Công nghệ Hannover ở Cộng hòa liên bang Đức thuật ngữ "Công nghiệp 4.0" lần đầu tiên được đưa ra. Đến năm 2012, thuật ngữ "Công nghiệp 4.0" được sử dụng cho giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua "điện toán hóa". Ngày 20/01/2016, tại Davos, Thủy Sỹ, Diễn đàn kinh tế thế giới đã khai mạc với chủ đề "Làm chủ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư". Từ đó, đến nay, thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp 4.0" được sử dụng rộng rãi trên thế giới. 94
  3. CMCN 4.0 là một thuật ngữ với nội hàm bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, internet của vạn vật và internet của các dịch vụ tương tác với nhau và với con người theo thời gian thật. So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc CMCN 4.0 phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn nữa, nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Về cơ bản, cuộc CMCN 4.0 sẽ dựa trên ba lĩnh vực chính: Lĩnh vực Kỹ thuật số: Bao gồm dữ liệu lớn (Big Data), vạn vật kết nối Internet (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI); Lĩnh vực Công nghệ sinh học: Ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Lĩnh vực Vật lý: Robot thế hệ mới, in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…), công nghệ nano. CMCN 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các nhà máy thông minh. Trong các nhà máy này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với Internet kết nối vạn vật, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua Internet của các dịch vụ thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này. Có thể nói CMCN 4.0 không chỉ tạo ra “môi trường cộng sinh” giữa người và robot mà còn tạo ra “môi trường cộng sinh” giữa thế giới ảo và thế giới thực. Thực chất đấy cũng là sự “cộng sinh” giữa trí tuệ sáng tạo của con người và những sản phẩm trí tuệ nhân tạo trên phạm vi rộng lớn và có tính phổ quát.. - Đặc trưng phổ biến của CMCN 4.0: (1) Xu hướng kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối Internet vạn vật đang thúc đẩy phát triển máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh; (2) Công nghệ in 3D cho phép sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ. Công nghệ này cho phép in ra sản phẩm bằng những phương pháp phi truyền thống nhờ đó loại bỏ các khâu sản xuất trung gian và giảm chi phí sản xuất; (3) Công nghệ nano và vật liệu mới cho phép tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực; (4)Trí tuệ nhân tạo và điều khiển học có bước phát triển vượt bậc cho phép con người kiểm soát từ xa mọi thứ, không giới hạn về không gian, thời gian; tương tác nhanh hơn, tốt hơn và chính xác hơn (Hồ Tú Bảo, 2017). Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới, cả tích cực lẫn tiêu cực như sau: Trên khía cạnh kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - “thông minh”. Các thành tựu mới của khoa học - công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị... Từ góc độ cơ cấu ngành kinh tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm “mờ dần” tính chất giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn. Trên khía cạnh sản xuất, trong dài hạn, cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động tích cực. Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất chuyển dịch dần sang những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào truyền thống. 95
  4. CMCN 4.0 cũng đang vẽ lại bản đồ thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đối với doanh nghiệp, cách mạng công nghệ cao dẫn đến cải thiện chất lượng, tốc độ hay giá cả, tăng cường sự minh bạch, sự tham gia của người tiêu dùng xây dựng dựa trên các mạng di động và mạng dữ liệu, khiến các công ty phải định hướng lại quá trình thiết kế, thị trường và quá trình cung cấp các sản phẩm, dịch vụ. Dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng trở thành trung tâm của nền kinh tế. Trên khía cạnh xã hội, trong những thập niên gần đây, bất bình đẳng về thu nhập đã có xu hướng tăng nhanh, và cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm khuyếch đại thêm xu hướng này do lợi nhuận từ kỹ năng cao và quá trình số hóa, tự động hóa tăng mạnh. Trong khi đó, lợi nhuận của kỹ năng giản đơn bị thay thế và giảm mạnh. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng bất bình đẳng trên toàn cầu. Vì vậy, cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại có thể khiến cho sự bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng khi máy móc và trí tuệ nhân tạo thay thế cho sức người và tạo áp lực lớn lên thị trường lao động. Nhu cầu nhân công giá rẻ kỹ năng thấp sẽ nhường chỗ cho nhu cầu đối với nhân lực trình độ cao, từ đó, các quốc gia đang phát triển như Việt Nam sẽ đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và thất nghiệp. Bên cạnh vấn đề bảo tồn hệ sinh thái và môi trường, sự bất bình đẳng sẽ là vấn đề xã hội lớn nhất mà các quốc gia phải đối mặt trong quá trình khai thác các lợi thế của cuộc cách mạng công nghiệp để tăng trưởng kinh tế. Cuộc CMCN 4.0 cũng sẽ tạo sức ép lên chính các cơ quan quyền lực công. Kỷ nguyên số với các công nghệ mới, nền tảng điều hành mới liên tục thay đổi cho phép người dân được tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động hoạch định chính sách, đồng thời, các cơ quan công quyền có thể dựa trên hạ tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và điều hành xã hội theo kiểu chính phủ điện tử, đô thị thông minh... Bộ máy hành chính nhà nước vì vậy buộc phải cải tổ theo hướng minh bạch và hiệu quả. Các nhà hoạch định chính sách và pháp luật cũng phải đổi mới tư duy, trau dồi năng lực, hợp tác chặt chẽ với khu vực doanh nghiệp và các lực lượng xã hội để có thể thích nghi và ứng biến linh hoạt với các thay đổi, thấu hiểu được bối cảnh mới thì mới có thể điều tiết được các thay đổi trong hoạt động kinh tế, xã hội cho phù hợp. Bên cạnh đó, các thách thức trước tác động của làn sóng công nghệ mới, công nghệ cao đối với vấn đề an ninh quốc gia và khu vực rất cần giải pháp mạnh mẽ để nỗ lực ứng phó, đặc biệt đối với các tội phạm công nghệ cao, vũ khí sinh học, vũ khí tự động... có tầm ảnh hưởng xuyên quốc gia. 3.2. Thực hiện tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư Bảng 1. So sánh quốc tế và Việt Nam về tốc độ tăng GDP Năm 2007 2008 2010 2011 2013 2015 2016 Khu vực, nước Thế giới 5.1 2.5 3.3 3.5 3.5 3.2 3.1 Khu vực Euro 2.7 1.3 1.7 1.5 1.5 2.2 1.8 Châu Á-Thái Bình Dương 8.3 6.6 7.1 6.4 6.8 5.5 5.2 Việt Nam 6.48 6.18 6.42 6.24 5.42 6.68 6.21 Nguồn: Tổng cục thống kê và IMF Việt Nam đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng nhanh và toàn diện kể từ đầu những năm 1990. Từ sau “Đổi mới” năm 1986, Việt Nam đã chuyển hoá từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành một nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt 2200 USD năm 2016. Tăng trưởng với tốc độ cao đã giúp kéo tỉ lệ nghèo từ 49,2% năm 1993 xuống còn 9,79% vào năm 2016, kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội được tăng 96
  5. cường, thu nhập và đời sống của nhân dân không ngừng được tăng lên, vị thế quốc tế được củng cố (Tổng cục Thống kê, 2016). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều thách thức, cụ thể như sự giảm dần của tăng trưởng về năng suất lao động; vẫn còn tồn tại những vấn đề về phúc lợi xã hội của các dân tộc thiểu số (đại diện cho gần 14% dân số nhưng chiếm đến 60% người nghèo cả nước) và sự xuống cấp về môi trường đi kèm với những ảnh hưởng của biến đối khí hậu đang đe doạ phát triển bền vững của đất nước. (Bộ Lao động thương binh, xã hội, 2016). Bảng 2. Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng GDP Năng suất lao động Năm Vốn Lao đông (TFP) Giai đoạn 2001-2005 54,08 21,04 24,88 Giai đoạn 2006-2010 58 19 23 Giai đoạn 2011-2015 51,5 23 25,5 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Tổng cục thống kê Những năm gần đây, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới các thành tựu kinh tế là rất lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng nếu các biện pháp để thích nghi và giảm thiểu ảnh hưởng này không được áp dụng. Theo một kịch bản ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ 21, sẽ có khoảng 40% diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích vùng Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các địa phương khác thuộc khu vực ven biển sẽ bị ngập nước. Khi đó sẽ có khoảng 10-12% dân số Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp, với tổn thất khoảng 10% GDP. Đặc biệt, thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập trên 20% diện tích thành phố (Minh Quân, 2017) Những vấn đề về môi trường cũng như xã hội sẽ tiếp tục tăng lên khi thu nhập tăng và quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá sẽ tạo ra áp lực lên đất, nguồn nước, không khí và bắt đầu với năng lượng. Việc sử dụng các nguồn nhiên liệu hoá thạch của các nhà máy nhiệt điện đốt than đã và đang dẫn đến ô nhiễm không khí và hiệu ứng nhà kính. Hơn nữa với việc sử dụng năng lượng tăng khoảng 10% hàng năm cho tới 2030, phát thải khí nhà kính sẽ tăng gần gấp ba. Nếu cứ theo xu hướng phát triển như hiện nay, lượng than dùng cho năng lượng sẽ tăng từ 17% năm 2010 tới gần 60% năm 2030, trong đó 80% than được nhập khẩu (World Bank, 2016b). Bởi thế, yêu cầu cấp bách của Việt Nam là phải ngăn chặn các dự án đầu tư vào công nghệ và cơ sở hạ tầng đòi hỏi sử dụng nhiều năng lượng không có hiệu quả kinh tế để giảm bớt chi phí y tế, chăm sóc sức khỏe con người và theo đuổi chiến lược TTX, ít các bon. Việt Nam cần phải hướng tới các chính sách TTX bao trùm để đảm bảo sự bền vững cũng như thúc đẩy cạnh tranh trong nước và tạo ra các phúc lợi tức thời cho người dân địa phương. Từ thực trạng trên, TTX hướng tới nền kinh tế xanh để phát triển bền vững là nhu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển đất nước. Việt Nam thể hiện quyết tâm theo đuổi mô hình tăng trưởng phát triển thân thiện với môi trường bằng những chính sách và kế hoạch, bước đi cụ thể. Năm 2012 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, và năm 2014 ban hành Chương trình hành động Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 -2020, với 66 hành động. Tuy nhiên, việc thực hiện tăng trưởng xanh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra những thách thức to lớn. Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là TTX để xây dựng một “nền kinh tế xanh” hiện nay ở Việt Nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức được đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ có thực hiện. Thứ hai, về cách tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống-“nền kinh tế nâu”, xây dựng mô hình mới- “nền kinh tế xanh”, thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế 97
  6. có sự khác biệt thế nào và bắt nguồn từ đâu trong bối cảnh phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay là câu hỏi không giễ có lời giải thỏa đáng. Thứ ba, TTX gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cacbon thấp, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường…Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ phù hợp với nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ nếu không có sự hỗ trợ của các nước có công nghệ cao trên thế giới. Thứ tư, về việc huy động nguồn vốn cho TTX, mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích lũy của quốc gia so với các nước phát còn quá thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình triển khai hướng tới “Nền kinh tế xanh”. Thứ năm, cơ chế chính sách để thực hiện TTX ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, trong khi trên thế giới mới đề xuất hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới “nền kinh tế xanh” là thách thức không nhỏ (Nguyễn Mạnh Hùng, 2011). 4. Một số giải pháp thực hiện tăng trưởng xanh ở việt nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư Để chủ động ứng phó với các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, Việt Nam cần kiên trì thực hiện quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng TTX nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Từ tìm hiểu về tăng trưởng xanh ở một số nước trên thế giới và từ thực tế Việt Nam, trong thời kỳ CMCN 4.0 để thúc đẩy TTX cần tập trung vào một số giải pháp sau: Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục, kiên trì thực hiện quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Trong bối cảnh quy mô của nền kinh tế và các nguồn lực còn hạn chế, Chính phủ cần tiếp tục dành ưu tiên cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ như một trong ba đột phá chiến lược. Đối với nhóm người có thu nhập thấp trong xã hội, Chính phủ quan tâm thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp tạo việc làm, thu nhập thông qua đào tạo nghề và hỗ trợ tín dụng; chú trọng dạy nghề cho thanh niên nông thôn, nông dân, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và lao động nữ. Thứ hai, tăng cường nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan hoạch định chính sách cũng như lãnh đạo khu vực doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp trong ngành năng lượng, khai thác tài nguyên, công nghiệp chế tạo.. Bởi vì, đây là những ngành có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao và quy mô ảnh hưởng lớn. Việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm phải gắn với các chính sách cụ thể, có cơ chế giám sát trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc triển khai thực hiện trong thực tế phải được sự chung tay ủng hộ của Nhà nước và toàn xã hội, nhất là sự ủng hộ về cơ chế vay vốn của các ngân hàng và các định chế tài chính khác. Thứ ba, có các biệt pháp thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và tiêu tốn nhiều năng lượng, như: sản xuất xi măng, phân bón, giấy, sản xuất điện, giao thông, xây dựng... Công nghệ tiên tiến được áp dụng sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính vừa tạo ra lợi ích về kinh tế, đồng thời góp 98
  7. phần bảo vệ môi trường. Đối với ngành năng lượng, Chính phủ phải cải cách toàn diện, bao gồm các cải cách thể chế và tăng cường năng lực, giảm bớt việc trợ giá cho năng lượng hóa thạch, thực hiện đặt giá cho các-bon để kích thích hiệu quả năng lượng cũng như sản xuất và tiêu thụ năng lượng các-bon thấp. Nhà nước phải tăng cường đầu tư đa dạng vào các dự án, các quỹ nghiên cứu và phát triển cho năng lượng tái tạo. Thứ tư, thực hiện các biện pháp siết chặt giám sát, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường, nhất là từ hoạt động sản xuất công nghiệp. Để thực hiện tốt giải pháp này, một mặt Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống công cụ pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm đội ngụ cán bộ thực thi pháp luật. Mặt khác, cần có chính sách ứu đãi, khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ, từng bước tiếp cận với các công nghệ thân thiện môi trường mà vẫn đạt được các mục tiêu kinh tế. Thực hiện chính sách công nghiệp phù hợp để tăng cường mối liên kết chặt chẽ hơn giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là có các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp và một số doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả trong các lĩnh vực ứng dụng và phát triển công nghệ, nhất là công nghệ, công nghiệp hỗ trợ gắn với các chuỗi giá trị toàn cầu; thúc đẩy sự hợp tác hiệu quả giữa Nhà nước, khu vực doanh nghiệp và các trường đại học công nghệ để thúc đẩy sự phát triển một số ngành chọn lọc, đặc biệt là công nghệ thông tin. Thứ năm, giảm phát thải khí nhà kính thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Trong đó, cần bảo vệ và khai thác tài nguyên đất, rừng, tài nguyên nước, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng... để làm giảm phát thải khí nhà kính. Thực hiện các giải pháp công nghệ và chính sách, nhất là trong việc sản xuất và tiêu thụ năng lượng thông qua cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto,với sự giúp đỡ về công nghệ và tài chính từ các nước và các tổ chức quốc tế. Thứ sáu, thực hiện kích cầu, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững. Việc phát triển sản xuất và tiêu dùng bền vững hiện nay cần có sự chung tay của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, cộng đồng và đặc biệt là các doanh nghiệp. Cụ thể: xây dựng các chính sách liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững; nâng cao nhận thức của xã hội, cộng đồng đối với sản xuất và tiêu dùng bền vững; tạo cơ chế thúc đẩy phát triển các công nghệ, dịch vụ và sản phẩm thân thiện môi trường; cung cấp thông tin sản phẩm cho người tiêu dùng; phát triển mua sắm xanh, trong đó đặc biệt lưu ý đến hoạt động mua sắm công, đây là nội dung rất quan trọng mà nhiều quốc gia đã triển khai hiệu quả. Thứ bảy, thực hiện cải cách mạnh hệ thống giáo dục, đào tạo theo hướng hỗ trợ mạnh mẽ ưcho các ngành khoa học và công nghệ bằng các thể chế và chính sách hiệu quả. Tăng cường quảng bá để nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ, hướng sinh viên giỏi vào học các ngành khoa học và công nghệ; nuôi dưỡng các kỹ năng khoa học và công nghệ. Khuyến khích tinh thần học tập suốt đời, học tập liên tục trên cơ sở tận dụng những công nghệ học tập mới dựa trên internet. Có cơ chế để khuyến khích sự gắn kết giữa các doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục đào tạo. 5. Kết luận Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới đã làm thay đổi diện mạo của đất nước nhưng đồng thời cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức xuất phát từ những mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Các vấn đề về chất lượng tăng trưởng, bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện chất lượng cuộc sống…là những vấn đề ngày càng trở nên cấp bách. CMCN 4.0 đã mở ra cho các quốc gia cũng như có Việt Nam thêm nhiều lựa chọn để phát triển, trong đó thực hiện TTX là một tất yếu. Mặc dù với quy mô của nền kinh tế, trình độ và năng lực sản xuất cũng như khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế, nhưng Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng, lợi thế to lớn để thực hiện tăng trưởng xanh. Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang thực hiện TTX đòi hỏi phải có một nhận thức đầy đủ và quyết tâm chính trị cao, thậm chí dám chấp nhận hy sinh những lợi ích trước mắt. Vì vậy cần sự nỗ lực chung của toàn xã hội, mà 99
  8. trước hết là vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự chủ động, sáng tạo của các doanh nghiệp và ủng hộ của mỗi người dân, nhằm chung tay thực hiên TTX, hướng tới phát triển bền vững đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chu Ngọc Anh (2017), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, đăng ngày 27/1/2017. 2. Vũ Tuấn Anh (2015), Tiến tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam: Xanh hóa sản xuất, NXB khoa học xã hội, Hà Nội 2015. 3. Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Một số xu thế chuyển đổi sang nền kinh tế xanh của thế giới và hàm ý cho Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế “Chiến lược tăng trưởng xanh của Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Hà Nội, tháng 12/2011. 4. Võ Văn Lợi (2016), Tăng trưởng xanh ở các nước và Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016. 5. Minh Quân (2017), Báo Lao động online ngày 20/5/2017. 6. Nguyễn Anh Tuấn (2013), Chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, Việt Năng lượng Việt Nam. 7. ODCD (2011a) Thúc đẩy phát minh cho tăng trưởng xanh, ISBN978-92-64-11991-8. 8. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 09 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. 9. Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/03/2014, của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch Hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020. 10. Tổng cục thống kê, website http://www.gso.gov.vn 11. UNDP (2017), Thông cáo báo chí: Những tiến bộ Việt Nam đạt được trong việc thúc đẩy thực hiện tăng trưởng xanh, trên website: http://www.un.org.vn/vi/undp-agencypresscenter1- 99/4333-viet-nam-makes-progress-inpromoting-green-growth.html. 100
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
108=>0