intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển đô thị: Từ thực tiễn đến yêu cầu đổi mới

Chia sẻ: Lan Qi Ren | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

60
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển hiện nay, công tác quy hoạch của nước ta đã thể hiện rất nhiều yêu cầu cần được đổi mới toàn diện, đặc biệt là việc tích hợp các quy hoạch chuyên ngành với quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị. Theo đó, các sản phẩm quy hoạch khá cứng nhắc, lạc hậu trước sự thay đổi liên tục và nhanh chóng của thực tiễn. Vì vậy cần có những giải pháp cụ thể nhằm đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển đô thị: Từ thực tiễn đến yêu cầu đổi mới

  1. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP LUẬN QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ: TỪ THỰC TIỄN ĐẾN YÊU CẦU ĐỔI MỚI I. Các vấn đề cụ thể cần đổi mới Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển hiện nay, công tác quy hoạch của nước ta đã thể hiện   rất nhiều yêu cầu cần được đổi mới toàn diện, đặc biệt là việc tích hợp các quy hoạch   chuyên ngành với quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị. Theo đó, các sản phẩm quy hoạch   khá cứng nhắc, lạc hậu trước sự thay đổi liên tục và nhanh chóng của thực tiễn. Vì vậy cần   có những giải pháp cụ thể nhằm đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển   đô thị. Yêu cầu thực tiễn phải đổi mới Mặc dù đã qua hơn 30 năm chuyển đổi sang nền kinh tế  thị trường định hướng XHCN, hệ  thống Quy hoạch đô thị  (QHĐT) và phương pháp luận QHĐT nước ta vẫn bảo lưu những   đặc điểm căn bản của hệ  thống quy hoạch tổng thể  có nguồn gốc từ  thời kỳ  kinh tế  kế  hoạch hóa tập trung bao cấp với một hệ thống QHĐT theo tầng bậc phức tạp, các sản phẩm   quy hoạch khá cứng nhắc (quy hoạch vật thể) và khó đáp ứng được trước các yêu cầu đầu tư  thay đổi linh hoạt của thị trường và tốc độ phát triển đô thị nhanh. Trên thực tế hiện nay, vai trò của khối kinh tế tư nhân và đầu tư  nước ngoài đang dần thay   thế  vai trò độc tôn của Nhà nước trong đầu tư  phát triển đô thị  (PTĐT) như  trước đây, đặc  biệt là trong các lĩnh vực nhà ở và BĐS, du lịch, dịch vụ, hạ tầng đô thị. Vai trò của Nhà nước  đang chuyển từ chủ thể đầu tư  phát triển chính sang vai trò dẫn dắt, tạo ra môi trường thể  chế thuận lợi cho các chủ thể khác cùng tham gia phát triển đô thị. Tuy nhiên, những biến chuyển đó lại được phản ánh rất chậm trong công tác QHĐT. Quy   trình phức tạp và sản phẩm cứng nhắc của các đồ án quy hoạch đang tạo ra cản trở lớn cho   các nhà đầu tư. Việc các định hướng phát triển được đặt ra trong các đồ  án quy hoạch cấp  
  2. trên (quy hoạch chung – QHC), quy hoạch phân khu (QHPK) thường ít khi phù hợp với các   dự  án do các chủ  đầu tư  đề  xuất, cho thấy khả  năng tiếp cận thị  trường của đồ  án QHĐT  hiện nay bị hạn chế rất cơ bản. Từ đó dẫn đến thực trạng là, để  đáp ứng và thu hút các dự  án đầu tư, chính quyền địa phương thường xuyên phải tiến hành điều chỉnh cục bộ  các quy  hoạch cấp trên liên quan (QHC, QHPK) theo một quy trình phức tạp và mất nhiều thời gian,   điều này làm ảnh hưởng lớn đến cơ hội đầu tư và chi phí chung của DN. Trước đây, toàn bộ  công tác lập QHĐT là thẩm quyền của các cơ  quan Nhà nước và chính   quyền đô thị. Ngày nay, chính quyền đô thị chỉ tiến hành lập các QHC và QHPK; các QHCT  (1/500) được phân cấp cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, một thực tế đang diễn ra hiện nay là   các nhà đầu tư mong muốn được tham gia sâu hơn vào công tác lập các đồ án QHĐT, cụ thể  là trong việc lập các đồ  án cấp cao hơn như QHC và QHPK, thông qua các hình thức tài trợ  kinh phí tổ chức, nghiên cứu lập đồ  án… Điều này cho phép cập nhật sớm các nhu cầu của  thị  trường và nhà đầu tư  ngay trong quá trình nghiên cứu định hướng của các QHĐT cấp vĩ  mô, để hạn chế việc phải điều chỉnh cục bộ sau này. Tuy nhiên, khung pháp lý cho các hoạt   động này còn chưa rõ ràng khiến cho việc thực hiện bị hạn chế. Thực tế này một lần nữa   cho thấy vai trò đang ngày một rõ ràng hơn của khối tư nhân trong công tác lập QHĐT và đầu   tư phát triển đô thị hiện nay. Những biến chuyển lớn đó, đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ  thống QHĐT và phương pháp   luận quy hoạch hiện tại theo hướng gọn nhẹ và linh hoạt hơn về quy trình và sản phẩm để  đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư và thực tiễn phát triển; QHĐT phải chuyển đổi từ  một   công cụ  phân bổ  các nguồn lực theo kế  hoạch sang công cụ  kêu gọi, thu hút các nguồn lực   đầu tư phát triển cho toàn bộ đô thị. Mặt khác, trong xu thế  cải cách hành chính mạnh mẽ  và kiểm soát hiệu quả  đầu tư  công  hiện nay, Luật Quy hoạch năm đã ra đời năm 2017 và đề ra các yêu cầu đổi mới căn bản cho   công tác quy hoạch nói chung và QHĐT nói riêng, như: Đảm bảo tính liên tục, tinh gọn của   hệ thống quy hoạch, trong đó QHĐT, quy hoạch nông thôn là một trong 5 loại hình thuộc hệ  thống quy hoạch quốc gia; Thay đổi phương pháp QHĐT tích hợp các quy hoạch ngành, lĩnh  
  3. vực và quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội để đảm bảo quản lý, phát triển đồng bộ; Thống  nhất quy định sử dụng đất trong lĩnh vực tài nguyên môi trường và sử dụng đất trong QHĐT.   Ở  cấp độ  đô thị, sau khi Luật Quy hoạch có hiệu lực, các quy hoạch chuyên ngành và quy  hoạch sản phẩm không còn tồn tại, QHĐT trở thành quy hoạch duy nhất dẫn hướng toàn bộ  quá trình phát triển đô thị cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Do vậy, một yêu cầu tất yếu đề  ra là QHĐT phải được điều chỉnh nội dung để trở thành một quy hoạch mang tính tổng thể,   tích hợp đa ngành để  đủ  khả  năng định hướng toàn bộ  các mặt phát triển của đô thị. Điều  này đem lại vai trò và vị thế được khẳng định và nâng cao nhưng đồng thời cũng tạo ra sức   ép phải đổi mới, nâng tầm về mặt nội dung và chất lượng của QHĐT. Các vấn đề cụ thể cần đổi mới Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý PTĐT là cả một quá trình với sự khởi đầu   từ đổi mới tư duy nhận thức đến thay đổi về quy trình, phương pháp và thể  chế thực hiện.  Tuy nhiên, để tạo sự chuyển biến rõ nét, cần ưu tiên tập trung nghiên cứu đổi mới 11 nhóm  vấn đề  thực tiễn đang tạo ra các rào cản trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị  hiện  nay: 1) Quy trình và phương pháp quy hoạch đô thị; 2) Tính tích hợp trong quy hoạch đô thị;   3) Cơ sở dữ liệu đô thị trong quy hoạch­quản lý PTĐT; 4) Kiểm soát phân vùng phát triển; 5)   Hệ thống chỉ tiêu quy hoạch; 6) Kiểm soát phát triển không gian cao tầng; 7) Quy hoạch và   quản lý phát triển tại khu vực ven đô; 8) Bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH trong quy   hoạch đô thị; 9) Nguồn lực tài chính trong quy hoạch và PTĐT; 10) Điều chỉnh quy hoạch và  11) Công tác đào tạo ngành QHĐT. Quy trình và phương pháp lập quy hoạch đô thị Quy trình lập quy hoạch đô thị: Quy trình QHĐT theo tầng bậc 3 bước hiện nay, gồm: QHC,   quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết, được cho là còn phức tạp, gây tốn kém về  thời   gian và kinh phí lập để phủ kín quy hoạch. Việc điều chỉnh một quy hoạch cũng rất phức tạp   do phải điều chỉnh đồng bộ toàn bộ các quy hoạch liên quan. Bên cạnh đó, quy trình thực hiện một đồ  án QHĐT cũng tồn tại nhiều vấn đề  bất cập: Quy  trình thực hiện để có được giấy phép đầu tư dự án còn quá dài. Từ lập QHC, QHPK, QHCT,  
  4. thiết kế đô thị, lập dự án, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công… nên làm mất cơ hội đầu tư.   Cần nghiên cứu rút ngắn quy trình hoặc có hướng dẫn làm song song các bước. Quy trình lập  và phê duyệt là rõ ràng và tạo cơ  sở  để  đồ  án quy hoạch đạt chất lượng tốt và tính khả  thi  cao, phù hợp với nhu cầu mục đích sử dụng của cộng đồng. Tuy nhiên việc thực hiện 2 lần   lấy ý kiến cộng đồng (bước nhiệm vụ  thiết kế  và lập quy hoạch) là rườm rà. Nên rút gọn   chỉ tổ chức lấy ý kiến cộng đồng ở bước lập quy hoạch nhằm rút ngắn thời gian thực hiện. Bất cập trong việc xin ý kiến cộng đồng. Chưa rõ đối tượng xin ý kiến. Hình thức xin ý   kiến. Nên giới hạn đối tượng xin ý kiến ở các loại QHĐT khác nhau. Thời gian xin ý kiến từ  30 – 45 ngày đối với QHC là dài. Chỉ  nên lấy ý kiến đến mức độ  QHPK. Việc lấy ý kiến   cộng đồng ở giai đoạn lập nhiệm vụ quy hoạch còn kém hiệu quả, do ở giai đoạn này chưa  có nội dung cụ  thể  để  dân góp ý được. Đối với các dự  án xây dựng mới hoàn toàn trên các   khu đất chuyển đổi từ đất nông nghiệp chưa có hướng dẫn cụ thể lấy ý kiến cộng đồng là   những đối tượng nào. QHCT 1/500 không nhất thiết phải lập nhiệm vụ quy hoạch. Quy định các chỉ tiêu quá cứng   trong nội dung lập nhiệm vụ quy hoạch làm bó cứng nội dung lập quy hoạch. Đối với quy   hoạch thị  trấn, đô thị  loại V nên lập QHPK thay vì quy hoạch chung như  hiện nay. Quy   hoạch KCN không nhất thiết phải lập QHCT 1/500. Trong Quy trình lập QHĐT, QHPK khó áp dụng vào quản lý xây dựng theo quy hoạch mà  phải lập QHCT 1/500. Hơn nữa trong đồ án QHC cũng có phân khu nên không nhất thiết phải   lập QHPK mà nên tích hợp luôn vào đồ  án QHC, sau đó lập QHCT. Trong quy trình QHĐT   còn thiếu nội dung về quy hoạch cây xanh và chiếu sáng cảnh quan đô thị. Điều chỉnh nhiều lần (do đánh giá hiện trạng chưa tốt, các ý tưởng đưa ra thiếu tính thực tế,   có nhiều thay đổi về kinh tế – xã hội….) mỗi lần điều chỉnh lại làm lại quy trình từ đầu dẫn  đến mất nhiều thời gian và kinh phí. Nên nghiên cứu xây dựng quy trình điều chỉnh quy   hoạch cho hiệu quả.
  5. Về phương pháp lập quy hoạch: Phương pháp lập quy hoạch của Việt Nam còn nhiều khác  biệt với phương pháp lập quy hoạch của các nước trong khu vực, chủ yếu tính toán quy mô  theo sức chứa nên đã lạc hậu. Tính tích hợp với các loại hình quy hoạch ngành khác còn hạn chế. Việc sử dụng kết quả  của các quy hoạch ngành khác vào QHĐT còn hạn chế. Thiếu các công cụ  trong việc đánh  giá hiện trạng và dự báo phát triển. Thiếu tính chiến lược và toàn diện trong nghiên cứu. Tình trạng thường xuyên tại các đô thị Việt Nam là các loại quy hoạch ngành được thực hiện   song song, do đó việc cập nhật và lồng ghép trong các loại quy hoạch chưa được thống nhất.   Ví dụ như Quy hoạch sử dụng đất được lập trên cơ  sở  Luật Đất đai, QHĐT được lập trên   cơ  sở  Luật Quy hoạch đô thị  và Luật Xây dựng, dẫn đến các định hướng chung của 2 loại   quy hoạch này thường có mâu thuẫn (Ví dụ: QHĐT định hướng một tuyến đường, bố trí quỹ  đất công cộng chẳng hạn… Quy hoạch sử dụng đất lại không định hướng là đất công cộng,   hay xác định mục đích khác…). Phương pháp lập quy hoạch mang nhiều cảm tính, làm theo chủ trương, chỉ đạo thiếu công   cụ  lập quy hoạch mang tính khoa học, logic. Việc lập quy hoạch chỉ  đơn thuần về  không   gian, sử dụng đất chưa nghiên cứu những tác động đến đời sống xã hội, nhất là tầng lớp thu   thập thấp. Vì vậy trong phương pháp lập quy hoạch cần có đánh giá tác động xã hội khi đồ  án đi vào thực tiễn. Kinh tế đô thị  chưa được nghiên cứu, tính toán trong đồ  án QHĐT. Dự  báo phát triển và cấu trúc đô thị  là những nội dung quan trọng của đồ  án. Hiện nay việc dự  báo chưa tốt, cấu trúc đô thị  chưa được nghiên cứu sâu. Cần có những hướng dẫn về  kỹ  năng, kiến thức về dự báo. Các đồ  án QHĐT hiện nay được lập còn thiếu công tác điều tra   xã hội học, nhất là đồ án QHC. Việc quy định chặt số người trong khu vực (thành phố) nhưng chưa kiểm soát chặt được vấn   đề  này và trở thành bài toán khó khăn trong QHĐT. Hàng loạt các vấn đề liên quan đến dân   số  cần giải quyết như  tắc đường, cải tạo chung cư  cũ, quá tải hạ  tầng xã hội… cần một   phương pháp mới về  lập quy hoạch mà không phụ  thuộc quá nhiều vào sự  biến động của  dân số đô thị.
  6. Vấn đề  dự báo thường khác so với thực tế. Các dữ liệu, số liệu dùng trong nghiên cứu cần  được tổng hợp, phân tích mang tính khoa học. Việc xác định nguồn lực còn hạn chế, thiếu  luận cứ để xây dựng tài chính quy hoạch. II. Hệ thống chỉ tiêu và cơ sở dữ liệu quy hoạch đô thị Tính tích hợp trong QHĐT Hệ thống quy hoạch (QH) ở Việt Nam trước năm 2017 gồm 3 nhóm: Nhóm I: QH tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, gồm: (i) QH tổng thể phát triển kinh tế – xã  hội vùng, lãnh thổ; (ii) QH phát triển ngành, lĩnh vực; (iii) QH sản phẩm. Nhóm II: QHXD, gồm: (i) QHXD vùng, (ii) QHXD các khu chức năng đặc thù, (iii) QHĐT,  (iv) QHXD nông thôn. Nhóm III: QH sử dụng đất đai, tài nguyên khoảng sản và quy hoạch bảo vệ môi trường. Hệ  thống QH quốc gia (QHQG) được quy đinh tại Điều 5 Luật QH 2017 gồm: 1. QH cấp   quốc gia (gồm: QH tổng thể quốc gia; QH không gian biển quốc gia; QH sử dụng đất quốc  gia; QH ngành quốc gia); 2. QH vùng; 3. QH tỉnh; 4. QHĐT, QH nông thôn. 5. QH đơn vị hành   chính – kinh tế đặc biệt.
  7. (1) Hệ thống QHQG trước năm 2017 còn mang tính phân lập, thiếu sự phối hợp hài hòa và sự  lồng ghép khách quan giữa các loại QH, nên không phát huy được tính khá thi, hiệu quả và tác  dụng. (2) Hệ thống QHQG được thiết lập theo Luật QH 2017 là tiền đề để  xây dựng cơ  chế phối  hợp giữa các loại QH, tạo điều kiện để  đổi mới thể  chế  QHĐT dựa trên cơ  chế  phối hợp,   lồng ghép với các loại QH lãnh thổ và ngành. (3) Luật QH ra đời đã quy định hủy bỏ quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội và hệ thống các   QH ngành cấp vùng và tỉnh, giữ lại và có điều chỉnh hệ thống QH ngành cấp quốc gia gồm   39 ngành. Đây là cơ hội để nghiên cứu đổi mới công tác lập QHĐT, trong đó việc tích hợp đa  ngành sẽ bao gồm (1) QHĐT đảm nhận nhiệm vụ của QH tổng thể kinh tế – xã hội, QH sử  dụng đất và các QH ngành cấp địa phương và (2) QHĐT cụ thể hóa QH ngành quốc gia theo   quy trình đổi mới, đảm bảo đánh giá được tổng hợp nhu cầu của các ngành, xác định được  yếu tố  nổi trội và lĩnh vực  ưu tiên, tạo được cơ  chế  tham gia đa ngành để  cùng nhau xây  dựng mục tiêu, tầm nhìn, ý tưởng chung cũng như cam kết thực hiện của các bên liên quan. (4) Các vấn đề  cần giải quyết: Xây dựng cơ  sở  khoa học đổi mới thể  chế  và nội dung   phương pháp lập QHĐT trong hệ  thống QHQG; Làm chính xác vị  trí, vai trò, chức năng và  phạm vi giới hạn của QHĐT trong hệ  thống đô thị  quốc gia; Đổi mới nội dung, phương   pháp, quy trình, sản phẩm, thiết kế QHĐT thống nhất; Đổi mới thể chế  QHĐT theo hướng   thích hợp, liên ngành trong lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh quy   hoạch. Hệ thống chỉ tiêu QHĐT Chỉ  tiêu quy hoạch là các thông số  kỹ  thuật nhằm thể  hiện các mục tiêu, chiến lược, định   hướng quy hoạch nhằm phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị. Hệ thống các chỉ tiêu   QH đã được quy định tại các Luật, nghị  định, thông tư, quy chuẩn, tiêu chuẩn và được xác  định trong hồ sơ đồ  án QH (thuyết minh, bản vẽ, quy định quản lý theo đồ  án quy hoạch…)  và các công cụ  quản lý đô thị  khác như  (thiết kế  đô thị, quy chế  quản lý quy hoạch kiến 
  8. trúc…). Các chỉ tiêu quy hoạch hiện nay đã đáp ứng phần nào nhu cầu quản lý phát triển đô  thị. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, cụ thể như sau: (1) Chưa thực sự thống nhất giữa các quy định mang tính pháp quy (Luật, nghị định, thông tư,   quy chuẩn, tiêu chuẩn…) về các chỉ tiêu QH (đặc biệt là các chỉ tiêu về sử dụng đất giữa các   hệ thống luật khác nhau như: Luật Xây dựng, Luật QHĐT với Luật Đất đai…). (2) Chức năng sử dụng đất đô thị không phải cố định mà luôn thay đổi để đảm bảo đạt được   lợi ích kinh tế – xã hội cao nhất, bên cạnh đó chức năng sử  dụng đất cũng không còn mang   tính đơn nhất và có sự giao thoa các chức năng, tạo ra khái niệm đất hỗn hợp nhằm đạt được  hiệu quả cao nhất về sử dụng mà không gây ra các tác động xấu trong bản thân việc tích hợp   các chức năng sử dụng đất trong một lô, thửa cũng như cho cả khu vực. Tuy nhiên hiện nay   khái niệm về đất hỗn hợp còn chưa rõ ràng và còn tạo ra nhiều kẽ hở trong công tác quản lý   phát triển đô thị, dẫn đến các hậu quả  về  môi trường cũng như  các vấn đề  đô thị  khác (ùn   tắc, an toàn đô thị, quá tải hạ  tầng…), trong khi đó lại vẫn có sự  cứng nhắc trong công tác   quản lý đô thị, không tạo ra sự linh hoạt trong việc chuyển đổi mục đích, chức năng sử dụng   đất. Đồng thời việc quy định cứng các chỉ tiêu quy hoạch sẽ không tạo điều kiện cho sự phát   triển đô thị. (3) Chưa thống nhất về các chỉ  tiêu sử  dụng đất cho các mục đích quản lý khác nhau: giữa  quản lý lập QH và quản lý phát triển đô thị, giữa QHĐT và phân loại đô thị… Chưa thực sự  thống nhất về hệ thống chỉ tiêu QH tại các vùng miền, địa phương (khái niệm, số lượng, giá   trị và phương pháp quản lý). Một số khái niệm chưa có định nghĩa rõ ràng dẫn đến việc cách  hiểu chưa thống nhất giữa các ngành, địa phương (đất xây dựng đô thị, đất đơn vị ở, đất khu   ở, đất ở, đất cây xanh và đất cây xanh sử dụng công cộng…). Một số khái niệm mặc dù chỉ  có phạm vi áp dụng hạn chế theo cấp độ QH, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể về phạm vi  áp dụng nên dẫn đến việc tham chiếu, áp dụng sai: như khái niệm về đất đơn vị ở trung bình   toàn đô thị… Bên cạnh đó là sự  liên quan mật thiết giữa các chỉ  tiêu sử  dụng đất với mục   đích sử dụng đất (ở, thương mại, dịch vụ, văn phòng… hay hỗn hợp nhiều mục đích sử dụng  đất) cũng như  cách thức quản lý không gian của khu đất (hệ  số  sử  dụng đất, mật độ  xây  
  9. dựng, tầng cao – chiều cao xây dựng…) dẫn đến quy định không hoàn chỉnh sẽ  tạo khe hở  trong công tác quản lý hoặc dẫn đến những yêu cầu chồng chéo, mâu thuẫn. (4) Thiếu các chỉ  tiêu về  ngưỡng phát triển (đô thị, phân vùng, dự  án…), các chỉ  tiêu nhằm   xác định ranh giới phát triển, khu vực hạn chế, khu vực kiểm soát và ngưỡng chịu tải…  Thiếu chỉ tiêu QH cho một số đối tượng như: khu vực phát triển cao tầng, siêu cao tầng, khu  vực tái thiết, khu vực đô thị  cũ, khu vực nông thôn đô thị  hóa và các khu vực đặc biệt khác   …). Thiếu các chỉ tiêu về công trình hạ tầng xã hội có tính phúc lợi công cộng (đảm bảo tiếp   cận an toàn, dễ dàng về các mặt: giao thông, khả năng chi trả…), công trình hạ tầng kỹ thuật  đô thị (sử dụng chung kết cấu hạ tầng, xã hội hóa…). Đang có sự lẫn lộn giữa công trình hạ  tầng xã hội và công trình hạ tầng xã hội có tính phúc lợi công cộng cũng như việc không tính   đến sự  phân bổ  hợp lý theo không gian dẫn đến tình trạng tổng chỉ  tiêu thừa nhưng vẫn   không đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp dân cư đô thị. Cơ sở dữ liệu QHĐT Thiếu dữ liệu cơ bản phục vụ công tác nghiên cứu lập QH và quản lý phát triển đô thị là một   vấn đề  lớn và  ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các đồ  án QH hiện nay. Hiện nay, tại   Việt Nam không có hệ  thống cơ  sở  dữ liệu chuyên ngành thống nhất phục vụ cho công tác   QHĐT và QLPTĐT mà phân tán trong hệ  thống dữ  liệu của các Bộ, Ngành, cơ  quan địa  phương. Các dữ liệu không những thiếu, không đồng bộ mà ít được cập nhật. (1) Dữ  liệu QLPTĐT bao gồm các nhóm: bản đồ, kinh tế  – xã hội, dân số  – lao động, sử  dụng đất, hạ  tầng xã hội, hạ  tầng kỹ  thuật, môi trường, QLPTĐT. Một số  vấn đề  tồn tại   bao gồm: Loại hình dữ liệu: cần phải bổ sung các loại hình dữ liệu về bản đồ chuyên đề, dữ liệu biến  đổi khí hậu, cảnh báo thiên tai. Đối với các dữ liệu sử dụng đất dân số, hạ tầng kỹ thuật cần   phải bổ  sung các thông tin chuyên sâu và chi tiết: sự biến thiên của dân số, giao thông công  cộng đô thị, lưu lượng và mật độ xe trên các tuyến đường, lưu lượng từng loại rác thải,…
  10. Chất lượng dữ  liệu: trong các văn bản có quy định, tuy nhiên việc  ứng dụng trong thực tế  còn thiếu, không đủ  tính cập nhật (do sử dụng các dữ  liệu cũ), đặc biệt là nội dung các dữ  liệu còn sơ sài như dữ liệu về lao động, nhà ở… Theo Thông tư  số  12/2016/TT­BXD quy định về  phần bản vẽ  trong hồ  sơ  QHĐT, hầu hết   bản vẽ của các bộ môn và nội dung bản vẽ đều quy định đo vẽ trên bản đồ nền địa hình theo  tỷ lệ thích hợp. Như vậy bản đồ nền địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội   dung thông tin của các đồ án QHĐT. Để đảm bảo tính đầy đủ của dữ liệu, qua qua khảo sát và phân tích, dữ liệu QH cần phải có  đủ 72 lớp thông tin chính phân chia theo các nhóm và đã được liệt kê trong bảng thuyết minh  tổng hợp. (2) Việc  áp dụng công nghệ  GIS đã được số  nước áp dụng như  Mỹ, Trung Quốc, Hàn  Quốc… Các quốc gia này đã phát triển chính sách đầu tư  và xây dựng cơ  sở  hạ  tầng GIS   quốc gia. Việc hoàn thiện GIS quốc gia đã được chú trọng đầu tiên nên đã đưa lại nền tảng   cơ bản cho các ứng dụng chuyên ngành. Các ứng dụng nâng cao tiếp tục được phát triển dựa  trên dữ liệu không gian đã được xây dựng đối với đô thị  là hệ  thống hỗ  trợ  quyết định như  PSS­hệ  thống hỗ  trợ  quy hoạch, DSS­hỗ  trợ  mô phỏng một vấn đề  cụ  thể  nhằm trợ  giúp  quy hoạch, SDSS­hỗ  trợ  các nhà ra quyết định lựa chọn, với sự  tham gia của các bên liên  quan. Tại Việt Nam, việc áp dụng công nghệ  được thí điểm khá sớm nhưng đến nay vẫn ở  mức   thấp so với thế  giới, hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia vẫn chưa được hoàn thiện. Việc   phát triển ứng dụng GIS hiện nay còn đơn lẻ chưa có sự đồng bộ trong các ngành nói chung  và ngành Xây dựng nói riêng, do vậy hiệu quả của ứng dụng mới giới hạn ở các lĩnh vực lưu   trữ, in  ấn, các tư  liệu bản đồ  bằng công nghệ  GIS. Trong lĩnh vực quản lý, điều hành, trợ  giúp quyết định hầu như  mới dừng  ở  mức thử  nghiệm. Các quy định  ứng dụng công nghệ  GIS đến nay vẫn chưa có một văn bản cụ thể nào được ban hành trong ngành QH. Bên cạnh   đó còn có một số  khó khăn trong việc  ứng dụng GIS tại Việt Nam được đúc kết từ  những 
  11. kinh nghiệm  ứng dụng GIS đã và đang triển khai, các vấn đề  phương tiện máy móc, phần  mềm… được nêu dưới đây: – Máy móc: nhiều cơ  quan, đơn vị  chưa phát huy được hiệu quả  hạ  tầng các thiết bị  đúng   mức. Nhiều nơi tuy đầu tư mua sắm trang thiết bị nhưng việc ứng dụng CNTT trong chuyên  môn nghiệp vụ rất hạn chế. – Phần mềm: công nghệ phần mềm chủ yếu tự phát, nhiều nơi vẫn còn sử dụng phần mềm   không có bản quyền. – Dữ  liệu: chưa có khung chuẩn về cơ sở địa lý do vậy xây dựng dữ  liệu tại các đơn vị  có  ứng dụng GIS không đồng nhất. CSDL nền dùng chung chưa thống nhất giữa các cơ  quan,   đơn vị… Các sản phẩm dữ liệu được xây dựng từ các đề tài, dự án mới chỉ ứng dụng ở mức   độ phục vụ chuyên môn nghiệp vụ. – Con người: một số  nơi đã đào tạo được một lực lượng cán bộ  chuyên môn có trình độ  nghiệp vụ tương đối chắc chắn, đảm bảo là nhân tố nòng cốt cho việc tiếp quản, vận hành   và phát triển các dự án GIS. Tuy nhiên số lượng những đơn vị này chưa nhiều. – Cơ  chế: đây là một trong những nguyên nhân lớn cho việc  ứng dụng GIS còn nhiều hạn  chế. Do chưa ban hành quy định ứng dụng công nghệ GIS trong ngành QH nên một số dự án  mặc dù đã xây dựng phần mềm GIS với mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu GIS và vận hành   hệ thống, tuy nhiên sau khi phần mềm được chuyển giao cho đơn vị chỉ vận hành được thời   gian ngắn và bị bỏ dở hay không hoạt động thường xuyên. III. Kiểm soát phân vùng phát triển của đô thị Công tác điều chỉnh quy hoạch Công tác điều chỉnh quy hoạch (QH) đang diễn ra thường xuyên, ở mọi cấp đồ án QHĐT, với  các quy mô và mức độ khác nhau. Nội dung điều chỉnh có thể là những thay đổi lớn về quy   mô, chức năng, chỉ tiêu quy hoạch…, làm biến đổi các định hướng lớn và biến đổi cấu trúc  của đô thị; nội dung điều chỉnh cũng có thể  là những chi tiết rất nhỏ và ít ảnh hưởng. Việc   điều chỉnh QH do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến các hệ quả từ lãng phí thời gian và   tài chính, làm mất các cơ hội đầu tư phát triển đô thị  cũng như  khiến đô thị  phát triển thiếu  
  12. đồng bộ  và thiếu kiểm soát. Cần thiết nghiên cứu công tác lập và điều chỉnh quy hoạch  nhằm giảm thiểu việc phải điều chỉnh quy hoạch cũng như  thực hiện các điều chỉnh quy  hoạch cần thiết đảm bảo đô thị phát triển có kiểm soát. Kiểm soát phân vùng phát triển của đô thị Mục đích kiểm soát phân vùng là cơ sở để định hướng và chia nhỏ các khu vực kiểm soát phù  hợp với quy mô quản lý và điều kiện phát triển từng khu vực, nhưng vẫn đảm bảo tính   thống nhất trong cấu trúc toàn đô thị. (1) QHPK được quy định trong Luật QHĐT 2009 và Luật Xây dựng 2014 theo hướng chuyển  đổi đồ án QHCT tỷ lệ 1/2000 trước đây thành sản phẩm đồ án quy hoạch phân khu với tỷ lệ  bản đồ 1/2000­1/5000. Tuy nhiên trong thực tế triển khai từ năm 2012 các đồ  án QHPK mới  bắt đầu được nghiên cứu lập và phê duyệt tại các đô thị. Đối với các đô thị  lớn như  Hà Nội và TP.HCM, các đồ  án QHPK được quy định cụ  thể  về  chức năng sử dụng đất từng lô đất QH (Luật QHĐT 2009) trên nền tảng hiện trạng và dự án   đã có, thiết kế tương đối cụ thể hệ thống hạ tầng cấp khu vực. Kết quả đạt được cho thấy   quy định về sử dụng đất không đảm bảo tính hệ  thống, được điều chỉnh cục bộ khi có nhu  cầu đầu tư  mới phát sinh, do đó hệ  thống hạ  tầng xã hội, không gian cảnh quan, công viên  vườn hoa rất thiếu do khống chế quy mô dân số  thấp trong QHC so với thực tế phát triển,   công trình cao tầng phát triển khá tùy tiện trong đô thị. Đối với TP.HCM, thực hiện chuyển  đổi các QHC quận huyện trước đây thành các QHPK tỷ lệ 1/5000 (chỉ bao gồm QH sử dụng   đất và giao thông theo ô quy hoạch lưới đường trung bình 400 – 600 m) để giảm thủ tục triển   khai lập QH, kết quả  khi QH thực hiện theo QHCT c ủa các dự  án cụ  thể, sẽ  hạn chế  các   QHPK được duyệt, hạn chế rất nhiều tác đụng điều tiết quản lý phát triển đô thị. Phát sinh  những vấn đề hạ tầng kỹ thuật đô thị trong giai đoạn vừa qua như ách tắc giao thông, ngập   lụt, ô nhiễm môi trường do không có hướng xử lý từ hệ thống hạ tầng khung. Đối với các đô thị tỉnh lỵ, thuộc tỉnh, QHPK đã xác định chức năng, theo phân vùng cấu trúc   đô thị, theo mô hình đơn vị ở… với quy mô lập QH khác nhau, đưa ra các quy định khá cụ thể  về  tầng cao, về mật độ  xây dựng. Do áp dụng cùng hệ  thống chỉ  tiêu và phương pháp phân 
  13. vùng (thực chất là quy định chỉ  tiêu sử  dụng đất cho từng lô đất QH). Thực tế  sau QHPK   được phê duyệt, các dự án triển khai do các nhà đầu tư thực hiện có những cách thức và nhu   cầu đầu tư khác nhau cũng đã làm thay đổi các định hướng của QHPK. (2) Quy định về an toàn, vệ  sinh môi trường và phòng chống thiên tai đã được quy định. Do  đó việc xác định khu vực nào áp dụng hệ  thống quy chuẩn, tiêu chuẩn chung khu vực nào  không là hết sức cần thiết và cần bổ sung các công cụ kiểm soát khác ngoài quy chuẩn, tiêu   chuẩn. Các khu vực cần bổ sung hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn là: – Các khu vực không phù hợp cho đô thị hóa. – Các khu vực gặp nhiều rủi ro thiên tai. – Các khu vực phải bảo tồn nông nghiệp. (3) Quy định về phân vùng trong hệ thống QHĐT hiện nay được triển khai qua 3 cấp đồ  án  QHC, QHPK và QHCT và mỗi một loại đồ  án có hệ  thống các quy định quản lý theo đồ  án   QH được phê duyệt. Các nội dung về  phân vùng kiểm soát cũng được triển khai theo hệ  thống đó từ tổng thể cho tới chi tiết, từ toàn đô thị tới từng lô đất phát triển trong đô thị. Theo  quy định của hệ  thống pháp luật QHĐT, quy chuẩn, tiêu chuẩn các quy định về  phân vùng   được cụ  thể  hóa trong các lô QH, phụ  thuộc cấu trúc QH giao thông đô thị, bình quân diện  tích các ô quy hoạch từ 50 – 100ha đối với đồ án QHC, 5 – 15ha đối với QHPK và 1 – 5ha đối  với QHCT 1/500. (4) Cơ chế kiểm soát phân vùng thực chất là dựa trên các quy định về sử dụng đất theo các lô   QH, chỉ có quy định trong đồ  án QHCT 1/500 là sát với thực tế triển khai dự án đầu tư  phát   triển hoặc các hoạt động xây dựng tư nhân khác (loại đất sử dụng, chỉ tiêu diện tích…). Do  đó mục tiêu đảm bảo các dự án phát triển tuân thủ các dự báo phát triển của đô thị trong đồ  án QHC là rất khó khăn, do quy trình quy hoạch qua 3 bước nêu trên, tạo ra những khó khăn  trong công tác giám sát thực hiện, kéo dài thời gian, hệ  thống chỉ  tiêu tầng bậc, qua nhiều  bước trung gian, phương pháp triển khai lập QH và quản lý khác nhau.
  14. Đối với một số các đồ án hiện nay có áp dụng phần nào công cụ phân vùng trong đồ án QHC,   nhưng khi triển khai cụ  thể  hóa thành QHPK, hoặc QHCT không tuân thủ  ranh giới phân  vùng trong QHC và các nội dung quản lý sử dụng đất theo phân vùng đã được xác định. (5) Một vấn đề  khác nữa là ranh giới lập đồ  án QHPK thường khác biệt so với quy định   “phân vùng” trong đồ án QHC (một phần do nhu cầu thực tế quản lý). Điều này càng làm cho   công tác quản lý giám sát tuân thủ  QHC lại thêm một bước trung gian nữa, và dễ  dẫn tới  những sai lệch so với định hướng của phân vùng QHC. Thực tiễn quản lý theo các chỉ  tiêu QH dẫn tới thực tế  chưa đáp  ứng yêu cầu quản lý phát  triển tại các khu vực có giá trị  cảnh quan, yếu tố  bảo tồn văn hóa… Do các đồ  án QH, quy   định quản lý, quy chế quản lý đô thị mới chỉ dựa trên hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn để xác   định yêu cầu kiểm soát phát triển. Đây mới chỉ  là điều kiện cần và chỉ  áp dụng đối với   những khu vực phát triển mới hoàn toàn và không có yêu cầu quản lý riêng như đã đề cập ở  trên. Vì các quy định quy chuẩn, tiêu chuẩn chỉ  áp dụng phù hợp đối với những khu vực có  điều kiện chung đồng nhất, như  khu đô thị  mới, phát triển tại vùng đất trống, đất nông   nghiệp, đồng bằng… không có yếu tố thiên tai, vùng không có dân cư truyền thống, trung tâm  đô thị  lịch sử… Điều này dẫn tới thực tế  mâu thuẫn, một là các khu vực cần bảo tồn sẽ  được xây dựng như một khu vực mới và không có sự khác biệt, hai là khu vực đó sẽ không   thể thực hiện công tác kiểm soát phát triển (nếu hoạt động đô thị ở đó diễn ra sôi động). Do đó việc xác định khu vực nào áp dụng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn chung khu vực nào   không là hết sức cần thiết và cần bổ sung các công cụ kiểm soát khác ngoài quy chuẩn, tiêu   chuẩn. (6) Các yếu tố  thiên tai chưa được lồng ghép trong quy trình QH và phân vùng, hạn chế  những giải pháp QH sử dụng đất thích ứng thiên tai, biến đổi khí hậu. Các khu vực cần bổ  sung quy định trong phân vùng là: – Các khu vực không phù hợp cho đô thị hóa. – Các khu vực gặp nhiều rủi ro thiên tai. – Các khu vực phải bảo tồn nông nghiệp.
  15. – Các khu vực giàu môi trường tự nhiên, nguồn nước, kiểm soát xói lở. Kiểm soát phát triển không gian cao tầng Công tác quản lý chiều cao và khối tích xây dựng tại các đô thị Việt Nam hiện nay đang tồn   tại nhiều bất cập. Ở các đô thị trẻ, ngưỡng giới hạn tầng cao tối đa trong QHC thành phố có  phần khó hiểu đối với người dân, giới đầu tư  và cả  giới chuyên môn. Thậm chí có nhiều ý  kiến cho rằng những giới hạn còn thiếu lý luận này đang phần nào cản trở những phát triển  cần thiết của đô thị. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, nhiều dự án phát triển mật  độ cao và cao tầng vượt quá ngưỡng cung  ứng hạ tầng đang đe dọa nghiêm trọng cân bằng   đô thị, gây nhiều bất đồng trong dư luận. Trong khi đó, tại hầu hết các thành phố, những khu  phố  lịch sử hay khu vực có di tích danh thắng cần bảo tồn đang thiếu vắng những công cụ  khống chế  cần thiết đối với các công trình xây mới – cải tạo nhằm bảo tồn cấu trúc thiên  nhiên – đô thị. Chính bởi thiếu công cụ  phù hợp, các nhà quản lý đã vô tình để  cho những   công trình mới tự  do chen vai thích cánh mọc lên một cách không phù hợp, khiến chúng phá   vỡ cấu trúc cảnh quan, làm lu mờ tính nhân văn của đô thị. Hiện nay phương pháp QH và quản lý xây dựng ở nước ta còn dựa nhiều vào cảm tính, thiếu  cơ  sở  lý luận. Điều này đang phần nào khiến lung lay niềm tin của người dân về  sự  công   bằng, hợp lý trong phân bổ  quyền phát triển trong đô thị, nhất là trong thời kỳ  đô thị  hóa  mạnh mẽ  hiện nay. Đây chính là lúc cần có những hướng dẫn cụ  thể  đối với nguyên tắc   quản lý của cả  Trung  ương và địa phương, không chỉ  về  kiểm soát chiều cao mà toàn diện  khối tích xây dựng công trình, thông qua sử  dụng hiệu quả  công cụ  QH và thiết kế  đô thị,   nhằm đạt được sự cân bằng, mỹ quan, bảo tồn, và bền vững trong phát triển đô thị. Thiếu lý luận về giới hạn tầng cao tối đa trong QHC thành phố, giới hạn tầng cao có phần   khó hiểu cho các chủ thể liên quan (người dân, giới đầu tư và cả giới chuyên môn); nhiều dự  án phát triển mật độ cao và cao tầng vượt quá ngưỡng cung ứng hạ tầng đang đe dọa nghiêm  trọng cân bằng đô thị, gây nhiều bất đồng trong dư  luận. Hiện nay, thực tế  cho thấy hiện   tượng “bùng nổ” xây dựng các tổ hợp cao tầng hỗn hợp tại khu vực trung tâm nội đô lịch sử  các đô thị. Tuy vậy, đây là loại hình công trình quy mô lớn có mức độ  tập trung người sử 
  16. dụng cao (đặc biệt là tại các giờ cao điểm), là một trong những nguyên nhân gia tăng áp lực   lên hệ thống hạ tầng giao thông đô thị. Hệ thống văn bản pháp luật, quy chuẩn – tiêu chuẩn   còn chưa đề cập rõ các vấn đề trên. Do vậy cần có thêm các nghiên cứu tính toán quy định rõ  các chỉ tiêu – tiêu chí với loại hình công trình cao tầng này. Bên cạnh đó, do bộ  môn thiết kế  đô thị   ở  nhiều nơi còn chưa được áp dụng đúng đắn, nên  chưa phát huy được tác dụng đích thực của nó. Thiếu vắng những công cụ  khống chế  cần   thiết đối với các công trình xây mới – cải tạo nhằm bảo tồn cấu trúc thiên nhiên – đô thị. Tóm lại, công tác quản lý chiều cao và khối tích xây dựng tại các đô thị  Việt Nam hiện nay   chưa thực sự tạo ra sự công bằng, hợp lý trong phân bổ quyền phát triển trong đô thị.                                      
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0