86 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC<br />
CÔNG NGHỆ THEO HƯỚNG TỰ CHỦ<br />
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
Đỗ Kim Cương, Nguyễn Thị Phương Anh<br />
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
<br />
<br />
Tóm tắt: Hoạt động nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại<br />
học vì không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức<br />
mới, sản phẩm mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập. Hướng<br />
tới mục tiêu “Mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu”, trường Đại học Thủ đô Hà<br />
Nội đã sớm nhận thức và triển khai đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động khoa học công<br />
nghệ theo hướng tự chủ dựa trên nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hiện có. Từ việc đánh<br />
giá thực trạng hoạt động khoa học công nghệ những năm vừa qua, bài viết đưa ra một số<br />
giải pháp đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian sắp tới.<br />
Từ khóa: đổi mới cơ chế quản lý, định hướng, tự chủ, hoạt động khoa học công nghệ<br />
<br />
Nhận bài ngày 10.3.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 10.4.2019<br />
Liên hệ tác giả: Đỗ Kim Cương; Email: dkcuong@hnmu.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
<br />
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thế giới đã và đang hình thành<br />
nền kinh tế tri thức, trong đó, khoa học và công nghệ (KH&CN) giữ vai trò quyết định sự<br />
gia tăng giá trị của sản phẩm. Sự liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với các<br />
cơ sở sản xuất, doanh nghiệp ngày càng bền chặt. Hoạt động nghiên cứu khoa học trong<br />
các trường đại học được đề cao. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung<br />
ương Đảng khóa VIII cũng đã chỉ rõ: “Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu<br />
khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống”.<br />
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội hiện là trường đại học đa ngành phát triển theo định<br />
hướng ứng dụng, nhưng vốn là một trường Cao đẳng Sư phạm. Các kết quả nghiên cứu<br />
trước đây của trường chủ yếu thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục, phục vụ trực tiếp sự<br />
nghiệp đào tạo giáo viên từ Mầm non đến Trung học Cơ sở cung cấp cho Thủ đô. Đội ngũ<br />
các nhà nghiên cứu cũng như cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ nghiên cứu còn nhiều<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019 87<br />
<br />
hạn chế. Đứng trước nhiệm vụ và yêu cầu mới, nhà trường buộc phải tận dụng mọi nguồn<br />
lực để đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu; đặc biệt, đổi mới cơ chế tổ<br />
chức, quản lý hoạt động KH&CN theo hướng tự chủ để gắn kết nghiên cứu với thực tiễn,<br />
tăng cường hiệu quả và khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc phát triển kinh tế,<br />
văn hoá, xã hội của Thủ đô và cả nước.<br />
<br />
2. NỘI DUNG<br />
<br />
2.1. Các lĩnh vực của hoạt động KH&CN<br />
Ở cấp vĩ mô, hoạt động KH&CN được hiểu là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ<br />
thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con người, tự nhiên và<br />
xã hội, nhằm sử dụng những kiến thức đó để tạo ra những ứng dụng mới.<br />
Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ, hoạt động KH&CN<br />
bao gồm các hoạt động: nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ<br />
khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản<br />
xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN. Trong đó:<br />
- Nghiên cứu khoa học là loại hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật,<br />
quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực<br />
tiễn. Nghiên cứu khoa học gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng;<br />
- Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản<br />
phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm;<br />
- Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học để làm<br />
thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới;<br />
- Sản xuất thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản<br />
xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào<br />
sản xuất và đời sống;<br />
- Dịch vụ Khoa học và Công nghệ là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học<br />
và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công<br />
nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức<br />
KH&CN vào thực tiễn.<br />
<br />
2.2. Thực trạng hoạt động KH&CN ở trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
Trước yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập, giáo<br />
dục đào tạo cần đổi mới toàn diện từ định hướng, mục tiêu, chương trình lẫn cách thức,<br />
phương pháp... nhằm tạo nguồn nhân lực mới với đầy đủ phẩm chất, tri thức và kĩ năng cần<br />
88 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
thiết, đặc biệt, các tri thức, kĩ năng nghề nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, các cơ sở giáo<br />
dục đào tạo nhất thiết phải gắn liền và đẩy mạnh đồng thời hai hoạt động giáo dục đào tạo<br />
và KH&CN. Giáo dục đào tạo ngoài giáo dục phẩm chất, tri thức, nhân cách..., còn phải<br />
bồi dưỡng, khuyến khích, nâng cao tiềm năng, kỹ năng sáng tạo, ứng dụng KH&CN vào<br />
thực tiễn đời sống của người học, ngược lại, KH&CN gắn bó và thông qua nguồn nhân lực<br />
được đào tạo để thâm nhập sâu vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Các hoạt động<br />
KH&CN của các trường đại học, do đó, phải hướng tới phát triển năng lực nghiên cứu và<br />
khả năng ứng dụng KH&CN của giảng viên, sinh viên; tạo ra các sản phẩm thiết thực phục<br />
vụ trực tiếp quá trình đào tạo và nghiên cứu, ứng dụng.<br />
Những năm gần đây, hoạt động KH&CN của nhiều trường đại học, trong đó có trường<br />
Đại học Thủ đô Hà Nội, đã và đang có sự thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và phương<br />
thức tổ chức thực hiện, yêu cầu chất lượng. Sở dĩ có điều này cũng là bởi yêu cầu bức thiết<br />
của thực tiễn. Các nghiên cứu lý thuyết thường có tính chuyên sâu, còn các nghiên cứu ứng<br />
dụng thì đa dạng, dễ phối hợp, dễ triển khai và nhanh chóng đánh giá được hiệu quả. Hơn<br />
nữa, sự liên kết, phối hợp giữa các ngành, các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp sử dụng<br />
lao động và các cơ sở giáo dục đào tạo hiện nay cũng thông thoáng và thực chất hơn trước.<br />
Tất nhiên, như đã nói, NCKH cần có nguồn lực cả về con người và vật chất, trí tuệ và trang<br />
thiết bị, kinh nghiệm và khả năng. Công việc cũng như tố chất của nhà khoa học, nhà<br />
nghiên cứu hiển nhiên khác nhà sư phạm, nhà quản lý. Dù vậy, NCKH là một trong hai<br />
nhiệm vụ chính yếu của giảng viên; mỗi giảng viên cần xác định nghiên cứu trước hết là để<br />
phục vụ hoạt động giảng dạy, đào tạo của mình; phải hoàn thành nghĩa vụ, giờ chuẩn<br />
NCKH. Vấn đề không phải là ý thức hay trách nhiệm, mà là cần tổ chức, quản lý, thúc đẩy<br />
hoạt động này như thế nào, theo phương thức nào để khai thác, phát huy được nội lực, khả<br />
năng sẵn có của cán bộ, giảng viên... Tất cả những điều này là tiền đề để trường Đại học<br />
Thủ đô Hà Nội đẩy mạnh đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động KH&CN theo hướng từng<br />
bước tự chủ, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.<br />
Có thể thấy rất rõ việc phát triển và ứng dụng KH&CN là nội dung được tập trung đầu<br />
tư trong các nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường liên tục mấy năm vừa qua. Bên cạnh việc<br />
ban hành Quy chế tổ chức, quản lý hoạt động khoa học công nghệ (năm 2015, chỉnh sửa bổ<br />
sung năm 2018); chú trọng chất lượng đội ngũ cán bộ có khả năng và kinh nghiệm nghiên<br />
cứu, chú ý khuyến khích, đẩy mạnh các nghiên cứu về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội,<br />
khoa học kĩ thuật và công nghệ...; ưu tiên phát triển khoa học giáo dục nhằm phát huy thế<br />
mạnh sẵn có; nhà trường còn mạnh dạn thực hiện phân cấp kinh phí, quản lý, tổ chức hoạt<br />
động KH&CN đến từng đơn vị và cá nhân. Nhờ vậy, số lượng đề tài, công trình nghiên<br />
cứu và các hoạt động KH&CN trong trường đã có thay đổi, chuyển biến rõ rệt.<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019 89<br />
<br />
Số lượng đề tài NCKH các cấp năm 2018 so với trước năm 2015 tăng đáng kể. Điều<br />
này được thể hiện ở bảng 1 và bảng 2.<br />
Bảng 1: Số lượng đề tài KH&CN các cấp trước năm 2015<br />
<br />
TT Nội dung<br />
<br />
1 Nghiên cứu khoa học<br />
Đề tài cấp Nhà nước/Đề tài, dự án giao trực tiếp 01<br />
Đề tài cấp Bộ/Thành phố 03<br />
Đề tài cấp cơ sở 15<br />
2 Hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học 0<br />
<br />
Bảng 2: Số lượng đề tài KH&CN các cấp năm 2018<br />
<br />
TT Loại hình Số lượng Kết quả<br />
1 Đề tài KH&CN liên kết nước ngoài 02 Đang thực hiện<br />
2 Đề tài KH&CN cấp Nhà nước 01 Đang thực hiện<br />
(NAFOSTED)<br />
3 Đề tài KH&CN cấp Thành phố đang triển 02 Đang thực hiện<br />
khai (2016-2018)<br />
4 Đề tài KH&CN cấp Thành phố năm 2018 03 Đã tuyển chọn<br />
5 Đề tài KH&CN cấp Thành phố năm 2019 10 Đăng kí<br />
6 Đề tài KH&CN cấp Trường (trọng điểm 46 Đã nghiệm thu<br />
và thông thường) - Đạt 46/46<br />
- Xuất sắc 16/46<br />
7 Hợp tác quốc tế về KH&CN 02<br />
<br />
Sản phẩm KHCN là bài báo cũng không ngừng tăng qua từng năm. Các bài báo quốc<br />
tế (ISI/SCOPUS) năm 2015 là 7 bài, năm 2018 là 19 bài, tăng gần 3 lần. Bài báo<br />
(Procesdings) năm 2015 là 65 bài thì năm 2018 là 130 bài, tăng gấp 2 lần. Qua các số liệu<br />
trên, có thể thấy cán bộ, giảng viên của trường đã có ý thức và tinh thần nghiên cứu, sáng<br />
tạo tích cực, chủ động không ngừng, bất chấp những khó khăn, hạn chế về cơ sở vật chất,<br />
điều kiện nghiên cứu.<br />
Việc tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học cấp khoa và cấp trường với mục đích nâng<br />
cao trình độ chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hợp tác được thực hiện nghiêm<br />
túc, có hiệu quả và tăng mạnh về số lượng cũng như chất lượng. Xin xem biểu đồ<br />
dưới đây:<br />
90 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
<br />
120<br />
<br />
100<br />
<br />
80<br />
Cấp Trường<br />
60<br />
Cấp Khoa<br />
40 Lượt GV tham dự<br />
<br />
20<br />
<br />
0<br />
2015 - 2016 2016 - 2017 2017 - 2018 2018 - 2019<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1: Số lượng Hội thảo, Hội nghị khoa học<br />
<br />
Kinh phí cho hoạt động KH&CN đảm bảo chi ngân sách thường xuyên tăng theo yêu<br />
cầu và nhiệm vụ phù hợp với mục tiêu, định hướng ứng dụng của nhà trường. Năm 2017 là<br />
544.000.000 VNĐ, chiếm 5% tổng chi và năm 2018 là 847.350.000 VNĐ, chiếm 7% tổng<br />
chi. Kinh phí phân bổ về các đơn vị đào tạo cụ thể như sau:<br />
Bảng 3: Kinh phí phân bổ về các khoa/đơn vị từ năm 2014 đến 2019 (đơn vị: triệu VNĐ)<br />
<br />
Đơn vị 2014-2015 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019<br />
Khoa CN-MT 80 18 36 38.05<br />
Khoa CNTT 50 60 24 30<br />
<br />
Khoa GDCT 10 30 30<br />
<br />
Khoa GD Mầm non 30 20 24.4 30.3<br />
<br />
Khoa GDTC&SK 20 50<br />
Khoa GD Tiểu học 30 55 39 30 56<br />
Khoa KH Tự nhiên 70 30 54 146.5 64<br />
Khoa KH Xã hội 30 146 23 45 30<br />
Khoa Kinh tế - Đô thị 30 135<br />
Khoa Ngoại ngữ 5 10 8 32 10<br />
Khoa Tâm lí- Giáo dục 50 76 8 20 20<br />
Khoa VH-DL-DV 28 120<br />
TT GD Nghề nghiệp 30 24<br />
Các Phòng, TT 10 15 374 285.9 180<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019 91<br />
<br />
Ngoài việc cấp kinh phí trực tiếp trên, căn cứ trên tình hình triển khai và kết quả hoàn<br />
thành nhiệm vụ NCKH của cán bộ, giảng viên năm học 2017-2018, Hiệu trưởng nhà<br />
trường đã ra Quyết định 955/QĐ-ĐHTĐHN khen thưởng cho 92 cán bộ giảng viên với<br />
tổng số tiền là 100.178.000 đồng. Có thể nói, số tiền động viên, khen thưởng không lớn; số<br />
tiền phân bổ để các khoa/đơn vị chủ động tổ chức các hoạt động KH&CN nội bộ cũng<br />
không nhiều; song điều đó, một mặt thể hiện sự coi trọng phát triển, đẩy mạnh hoạt động<br />
KH&CN của lãnh đạo nhà trường, mặt khác, thể hiện một cách làm mới, một phương thức<br />
mới giúp cho mỗi đơn vị, cá nhân có thể chủ động đăng kí và triển khai mọi công việc liên<br />
quan đến nghiên cứu, ứng dụng. Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Khoa học khoa, đơn vị,<br />
do vậy cũng được nâng cao.<br />
<br />
2.3. Định hướng đổi mới quản lý hoạt động KH&CN theo hướng tự chủ ở<br />
trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
Tự chủ hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước và pháp luật là xu thế tất yếu của mọi<br />
đơn vị, tổ chức công lập và ngoài công lập, đặc biệt các trường đại học, cơ sở giáo dục<br />
trong những năm sắp tới. Điều này buộc các trường phải chủ động đề xuất và xây dựng<br />
phương án tự chủ phù hợp với tình hình và điều kiện hiện có. Với trường Đại học Thủ đô<br />
Hà Nội, tự chủ hoạt động đã được áp dụng thí điểm ở một số lĩnh vực, đơn vị phục vụ đào<br />
tạo. Phương án tự chủ từng phần, tiến tới tự chủ hoạt động KH&CN đã và đang được tính<br />
toán, cân nhắc. Điểm căn bản và cũng là bước đi đầu tiên của việc tiến tới tự chủ hoạt động<br />
KH&CN ở trường Đại học Thủ đô Hà Nội chính là việc đổi mới cách thức tổ chức, quản lý<br />
hoạt động này bằng việc phân quyền trực tiếp cho từng đơn vị, bộ phận. Theo đó, phòng<br />
chức năng là phòng Quản lý Khoa học Công nghệ và Hợp tác phát triển<br />
(QLKHCN&HTPT) chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch và triển khai hoạt động KH&CN<br />
hàng năm theo định hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học của trường; hướng dẫn, đôn đốc,<br />
giám sát quá trình thực hiện; tổ chức đánh giá và tổng kết. Các khoa, đơn vị trực tiếp, chủ<br />
động lựa chọn các hoạt động, đề tài KH&CN do cán bộ, giảng viên của mình đăng kí, đề<br />
xuất; Hội đồng Khoa học khoa, đơn vị... chịu trách nhiệm chính trước nhà trường về chất<br />
lượng, kết quả của các hoạt động, đề tài KH&CN đó. Sự phân cấp này có hiệu quả hai mặt,<br />
vừa giảm tải công việc hành chính sự vụ cho phòng QLKHCN&HTPT, để phòng tập trung<br />
cho các công việc lớn hơn như tìm kiếm nguồn lực đầu tư cho hoạt động KH&CN; tìm<br />
kiếm đối tác liên kết, hợp tác trong nghiên cứu; xây dựng kế hoạch hoạt động trước mắt và<br />
lâu dài v.v...; vừa tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong tổ chức, điều hành và<br />
quản lý hoạt động KH&CN của các đơn vị theo hướng thiết thực, cụ thể. Tuy nhiên, việc<br />
giao quyền tự chủ hoạt động KH&CN cho các đơn vị cũng làm nảy sinh một số vấn đề<br />
chưa hoàn toàn hợp lý, gây thắc mắc tranh cãi, cần nghiên cứu giải quyết, chẳng hạn như<br />
92 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
Ban Chủ nhiệm và Hội đồng Khoa học một số khoa mới còn chưa đủ kinh nghiệm và uy<br />
tín để điều hành; nhiệm vụ và hoạt động KH&CN của mỗi đơn vị khác nhau; các lĩnh vực,<br />
mảng, đề tài KH&CN khác nhau có đặc thù và đòi hỏi sự đầu tư, kinh phí khác nhau...<br />
Hiện việc giao quyền và phân bổ kinh phí hoạt động KH&CN vẫn dựa theo đầu việc và dự<br />
kiến, đề xuất đầu việc có tính chất liệt kê của các khoa, đơn vị (có đề tài nghiên cứu của<br />
cán bộ, có Hội nghị, Hội thảo khoa học...) chứ chưa tính đến các yếu tố bất hợp lý trên, ấy<br />
là chưa kể đến việc chưa có các phương án, dự trù kinh phí cho các chương trình nghiên<br />
cứu theo hướng chuyên sâu, lâu dài hay hỗ trợ cho các nghiên cứu ứng dụng, các sản phẩm<br />
nghiên cứu tiền khả thi, tiền thương mại.<br />
Tự chủ trong hoạt động KH&CN đương nhiên cần nguồn lực con người gồm các nhà<br />
khoa học, nhà nghiên cứu có chuyên môn, kinh nghiệm, uy tín, có khả năng liên kết, tổ<br />
chức, phối hợp và triển khai nghiên cứu với các tổ chức nghiên cứu, cá nhân khác. Nhà<br />
trường, bên cạnh việc khuyến khích cán bộ, giảng viên đăng kí triển khai đề tài KH&CN<br />
các cấp, ở các mức độ khác nhau, còn ủng hộ và hỗ trợ việc thu hút, đồng phối hợp, đồng<br />
triển khai đề tài, chương trình, kế hoạch nghiên cứu giữa cán bộ trường với các tổ chức, cá<br />
nhân khác. Điểm nhấn trong việc đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động KH&CN theo hướng<br />
tự chủ này chính là ở chỗ, vừa qua, nhà trường đã thành lập ba nhóm nghiên cứu mạnh về<br />
khoa học giáo dục, khoa học tự nhiên và khoa học ứng dụng do ba đồng chí trong Ban<br />
Giám hiệu trực tiếp phụ trách. Theo đó, các hướng nghiên cứu có thể tận dụng, khai thác trí<br />
tuệ và kinh nghiệm từ đội ngũ cán bộ, giảng viên hiện có của nhà trường sẽ được huy động<br />
tối đa; đồng thời, đây cũng là các bộ phận đầu mối xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt<br />
động; nghiên cứu, tiếp nhận, đặt hàng nghiên cứu cho các đơn vị, cá nhân trong toàn<br />
trường.<br />
Đổi mới quản lý hoạt động KH&CN ở trường Đại học Thủ đô Hà Nội theo hướng tự<br />
chủ còn được thể hiện ở việc coi trọng sự chủ động đề xuất và tổ chức các Hội nghị, Hội<br />
thảo khoa học các cấp. Nhà trường khuyến khích và hỗ trợ các khoa tổ chức Hội nghị Khoa<br />
học cán bộ định kì, các Hội nghị, Hội thảo học thuật chuyên ngành ở nhiều cấp độ, đặc biệt<br />
các Hội nghị, Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành trong nước và nước<br />
ngoài. Việc tổ chức các Hội nghị, Hội thảo Khoa học cấp quốc gia trong hai năm 2018,<br />
2019, nhất là tổ chức thành công Hội thảo Khoa học quốc tế đầu tháng 1.2019 đã cho thấy<br />
hiệu quả bước đầu của việc đổi mới phương thức tổ chức, quản lý hoạt động KH&CN. Ý<br />
thức và tính chuyên nghiệp trong việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động KH&CN đã<br />
được hình thành. Đây có thể coi là sự khác biệt cơ bản về chất của hoạt động KH&CN của<br />
trường từ khi trở thành một trường đại học và là kết quả ban đầu của sự quyết tâm đổi mới<br />
các hoạt động theo hướng tự chủ.<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019 93<br />
<br />
<br />
2.4. Giải pháp đẩy mạnh đổi mới quản lý hoạt động KH&CN ở trường Đại học<br />
Thủ đô Hà Nội theo hướng tự chủ<br />
2.4.1. Giải pháp chung<br />
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội hiện tại là trường đại học đa ngành, phát triển theo<br />
định hướng ứng dụng, nên hoạt động KH&CN cũng phải theo hướng ứng dụng, thiết thực.<br />
Căn cứ thực tại đội ngũ cán bộ, giảng viên có khả năng nghiên cứu của trường, cần xác<br />
định rõ các lĩnh vực, phạm vi có thể đầu tư, hỗ trợ, đẩy mạnh nghiên cứu. Trước mắt, cần<br />
tập trung vào các lĩnh vực sau:<br />
- Ưu tiên hỗ trợ các nghiên cứu khoa học ứng dụng, tăng cường đầu tư nguồn lực cho<br />
các hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng; sản phẩm nghiên cứu phải được ứng dụng<br />
để giải quyết các vấn đề cấp bách của trường. Hiện một số khoa, đơn vị đã triển khai<br />
nghiên cứu và có một số sản phẩm bước đầu, chẳng hạn Trung tâm Khoa học Công nghệ<br />
với công trình nước sạch đóng chai phục vụ nội bộ, khoa Công nghệ Môi trường với dự án<br />
trồng nấm Linh chi, sản xuất rượu Đông trùng hạ thảo… Tuy nhiên, cần nghiên cứu mở<br />
rộng quy mô, tiến hành các thủ tục cần thiết để sản phẩm được xuất hiện và có chỗ đứng,<br />
sức cạnh tranh trên thị trường.<br />
- Phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản, chú trọng việc công bố công trình nghiên cứu<br />
khoa học trên các tạp chí có uy tín trong nước và quốc tế, đặc biệt là các tạp chí thuộc hệ<br />
thống ISI, SCOPUS. Ưu tiên các hướng nghiên cứu liên ngành trong đó có sử dụng công<br />
nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và lượng tử. Nhóm nghiên cứu mạnh về khoa học tự nhiên<br />
đã hình thành, nhưng cần tích cực hơn nữa trong việc đề xuất các ý tưởng, xây dựng các dự<br />
án, chương trình nghiên cứu… để lôi cuốn các nhà nghiên cứu cùng lĩnh vực, chuyên<br />
ngành tham gia; đặc biệt, cần thúc đẩy hoặc tìm cách tháo gỡ một số vướng mắc trong việc<br />
tiếp nhận một số trang thiết bị đã từng dự kiến được tiếp nhận; định hình một kế hoạch,<br />
chiến lược hoạt động, phát triển cụ thể, tránh việc thành lập ra rồi bỏ đấy.<br />
- Triển khai các nghiên cứu khoa học giáo dục và quản lí, tiếp tục triển khai các hoạt<br />
động nghiên cứu thuộc các lĩnh vực là thế mạnh của Nhà trường, nhằm tìm kiếm cách đi<br />
mới, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, bám sát nội dung đổi mới giáo dục, tiếp cận<br />
các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới. Chú trọng đặc biệt Khoa học quản lý,<br />
trong đó có Khoa học quản lí dữ liệu, quản lí tri thức gắn liền với cách mạng 4.0.<br />
Để làm được điều này cần có sự đổi mới về tư duy, ý thức tổ chức, lãnh đạo, quản lý<br />
các hoạt động nói chung, hoạt động KH&CN nói riêng của lãnh đạo Nhà trường. Nhà<br />
trường cần xây dựng chương trình, kế hoạch tổng thể đổi mới theo lộ trình và gắn với thực<br />
tiễn điều kiện cụ thể của trường, trong đó, cần nhanh chóng triển khai đồng bộ các vấn đề<br />
chính yếu sau:<br />
94 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Đảng ủy và Ban Giám hiệu<br />
nhà trường cần có chính sách thu hút, trọng dụng đội ngũ cán bộ KH&CN. Phát triển, bồi<br />
dưỡng các tài năng nghiên cứu từ đội ngũ cán bộ trẻ song song với việc tiếp nhận các nhà<br />
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực nhà trường đang quan tâm, đầu tư phát triển.<br />
- Xây dựng và ban hành chính sách hỗ trợ đối với cán bộ KH&CN chủ trì hoặc phối<br />
hợp tham gia các chương trình, đề tài, dự án các cấp ngoài trường (ít nhất là tạo điều kiện<br />
về thời gian); chính sách đãi ngộ khen thưởng với các tác giả công trình được công bố<br />
quốc tế, các công trình khoa học có trong danh mục được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà<br />
nước công nhận; chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ trình độ cao đã hết tuổi lao động có<br />
tâm huyết và đảm bảo sức khỏe làm việc phục vụ công tác NCKH.<br />
- Điều chỉnh phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động KH&CN theo hướng<br />
căn cứ vào kết quả, sản phẩm thực tiễn. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng đối với nhiệm<br />
vụ KH&CN; thực hiện cơ chế khoán kinh phí đến từng sản phẩm KH&CN theo đúng tinh<br />
thần của Thông tư 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN; xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý,<br />
sử dụng ngân sách để thực hiện nhiệm vụ KH&CN theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu<br />
trách nhiệm cho từng đơn vị, tập thể, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN.<br />
- Thực hiện cơ chế đầu tư đặc biệt để triển khai một số dự án KH&CN quy mô lớn,<br />
phục vụ sự phát triển của Nhà trường; xây dựng và phát huy hiệu quả thực chất của các<br />
trung tâm nghiên cứu; triển khai nghiên cứu và đẩy nhanh quá trình ứng dụng sản phẩm<br />
KH&CN vào thực tiễn.<br />
- Có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các cơ quan tổ<br />
chức hợp tác trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Phát triển thị trường<br />
khoa học và công nghệ. Thực hiện hợp tác theo phương châm: chủ động tích cực hội nhập<br />
quốc tế và hợp tác trong lĩnh vực KH&CN.<br />
2.4.2. Giải pháp cụ thể<br />
- Tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Quy chế tổ chức, quản lý hoạt động khoa học<br />
công nghệ theo hướng phù hợp thực tiễn, khoa học, hiệu quả. Đổi mới phương thức quản lí<br />
theo phương châm “nghiêm túc nhưng không gò bó, thông thoáng nhưng không buông<br />
lỏng”, nhằm phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của cá<br />
nhân và tập thể khoa học. Giảm tải các thủ tục, quy trình đăng kí, tuyển chọn, nghiệm thu<br />
rườm rà, bất hợp lý; tôn trọng công sức và kết quả nghiên cứu của nhà khoa học; tạo sự<br />
phối hợp đồng thuận, nhịp nhàng giữa phòng QLKHCN&HTPT với các đơn vị chức năng<br />
như phòng Đào tạo, phòng Tài chính - Kế toán trong việc tổ chức, thực hiện, thanh quyết<br />
toán các đề tài KH&CN.<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019 95<br />
<br />
- Tiếp tục cơ chế phân bổ kinh phí tự chủ hoạt động KH&CN đến các khoa, đơn vị, cá<br />
nhân trong trường, nhưng theo hướng có tính đến mục tiêu, kế hoạch, hoạt động cụ thể,<br />
thực chất để tạo sự cân đối, công bằng giữa các khoa, đơn vị. Nghiên cứu lập Quỹ hỗ trợ<br />
hoạt động KH&CN; điều chỉnh tăng mức kinh phí phân bổ hàng năm căn cứ vào thực tiễn<br />
của nhà trường và sự gia tăng, phát triển các hoạt động KH&CN.<br />
- Xem xét, tổ chức lại cơ cấu, hoạt động của các Hội đồng Khoa học; phát huy vai trò<br />
của các nhóm nghiên cứu mạnh; vai trò phản biện và tư vấn của các Hội đồng bao gồm cả<br />
Hội đồng đánh giá, nghiệm thu các đề tài.<br />
- Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo, đẩy nhanh các<br />
dự án ngắn hạn và trung hạn về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu<br />
khoa học và đào tạo; tập trung phát triển, nâng cao vai trò của Trung tâm Thí nghiệm thực<br />
nghiệm thực hành và Trung tâm Khoa học Công nghệ trong việc đẩy mạnh hoạt động<br />
KH&CN; xây dựng phương án tận dụng cơ sở vật chất hiện có (chẳng hạn khu phòng thí<br />
nghiệm, nuôi trồng ở cơ sở 2) để triển khai, hỗ trợ các nghiên cứu ứng dụng.<br />
- Phát huy vai trò đầu mối của phòng QLKHCN&HTPT trong việc mở rộng các mối<br />
quan hệ hợp tác trong nghiên cứu, triển khai các chương trình, đề tài, dự án KH&CN. Cần<br />
thiết lập các mối quan hệ gắn bó với các chương trình, dự án cấp quốc gia, các Bộ, ngành,<br />
các Sở KH&CN các địa phương để tạo cơ hội cho các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu<br />
của trường có thể chủ trì hoặc tham gia phối hợp thực hiện, ngoài các đề tài cấp trường và<br />
cấp Thành phố hiện nay. Điều này không chỉ khai thác được hết khả năng nghiên cứu<br />
chuyên sâu đa dạng, lôi cuốn, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, mà còn làm phong phú bức<br />
tranh tổng thể hoạt động KH&CN còn khá đơn điệu của nhà trường hiện nay.<br />
<br />
3. KẾT LUẬN<br />
<br />
Phải thừa nhận rằng, từ khi được nâng cấp lên đại học, trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
đã xác định rõ và có nhiều nỗ lực thúc đẩy hoạt động KH&CN, tuy nhiên, đầu tư cho<br />
KH&CN vẫn còn hạn chế. Kinh phí chi cho hoạt động KH&CN còn thấp và chưa xác định<br />
trọng điểm, nguồn thu từ các hoạt động KH&CN chưa có. Việc tổ chức, quản lý, điều hành<br />
các hoạt động KH&CN còn chưa khoa học, chưa hiệu quả. Thực tiễn trên đòi hỏi phải<br />
nhanh chóng đổi mới, bắt đầu từ đổi mới cơ chế, phương thức tổ chức, quản lý. Một số giải<br />
pháp đề xuất trên cũng chỉ là căn cứ từ thực tiễn hoạt động KH&CN hiện tại của nhà<br />
trường thời gian qua. Để hoạt động KH&CN phát triển, xứng đáng với vai trò, chức năng,<br />
hiệu quả của nó với một trường đại học nói chung, với mục tiêu, chiến lược phát triển bền<br />
vững của trường Đại học Thủ đô Hà Nội nói riêng, còn cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và<br />
thực hiện đồng bộ, quyết liệt.<br />
96 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 về định hướng<br />
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm<br />
vụ đến năm 2000.<br />
2. Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11 tháng 4 năm 2012<br />
về “Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011- 2020”.<br />
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, Luật Khoa học và Công nghệ,<br />
ngày 18 tháng 06 năm 2013.<br />
4. Bộ Tài chính - Bộ Khoa học và Công nghệ, Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN<br />
ngày 22 tháng 4 năm 2015 về việc “Hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết<br />
toán kinh phí đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước”.<br />
5. Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, Báo cáo tổng kết việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN các<br />
năm 2015-2016; 2016-2017; 2017-2018.<br />
<br />
<br />
INNOVATING THE TECHNOLOGY AND SCIENCE<br />
MANAGEMENT BASED ON THE AUTONOMY ORIENTATION<br />
AT HANOI METROPOLITAN UNIVERSITY<br />
<br />
Abstract: Scientific research plays an important role at higher education because it not<br />
only contributes to enhance the quality of training but also creates new knowledge and<br />
product for the industrialization and modernization. Heading towards the target “Each<br />
university is one of the research institutes”, Ha Noi Metropolitan University is step by<br />
step implemented the autonomy to technology and science basing on the available human<br />
resource and facility. The article shows the result on the renovation of management<br />
mechanism, organizational orientation and scientific development at Ha Noi<br />
Metropolitan University in the coming time.<br />
Keywords: The renovation of management mechanism, orient, autonomy, technological<br />
and science.<br />