intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đột biến kháng thuốc trên bệnh nhân viêm gan virus B mạn đang điều trị bằng các thuốc tương tự nucleos(t)ide

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

40
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu với mục tiêu nhằm xác định tỷ lệ đột biến kháng thuốc trên bệnh nhân (BN) VGVB mạn đang điều trị bằng các thuốc tương tự nucleos(t)ide từ 1 năm trở lên. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết cửa đề tài nghiên cứu này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đột biến kháng thuốc trên bệnh nhân viêm gan virus B mạn đang điều trị bằng các thuốc tương tự nucleos(t)ide

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM GAN VIRUS B MẠN<br /> ĐANG ĐIỀU TRỊ BẰNG CÁC THUỐC TƯƠNG TỰ NUCLEOS(T)IDE.<br /> Nguyễn Thị Nhã Đoan*, Bùi Hữu Hoàng*, Phạm Hùng Vân**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Hiện nay, có 2 nhóm thuốc được công nhận là thuốc đặc trị của bệnh viêm gan virus B<br /> (VGVB) mạn, bao gồm nhóm Interferon và nhóm thuốc tương tự nucleos(t)ide. Các thuốc tương tự nucleos(t)ide<br /> có hiệu quả ức chế sự nhân lên của virus nhưng khi sử dụng lâu dài dễ phát sinh đột biến kháng thuốc.<br /> Mục tiêu: Xác định tỷ lệ đột biến kháng thuốc trên bệnh nhân (BN) VGVB mạn đang điều trị bằng các<br /> thuốc tương tự nucleos(t)ide từ 1 năm trở lên.<br /> Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, Các BN được điều trị bằng thuốc tương tự nucleos(t)ide từ<br /> 1 năm trở lên tại phòng khám Viêm gan, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới từ 07/2010 đến 10/2010 được đưa vào<br /> nghiên cứu. Những BN này phải tuân thủ điều trị và có một trong các dấu hiệu xuất hiện đột biến kháng thuốc<br /> như: thất bại tiên phát (HBV DNA giảm < 2 log10/ml tại thời điểm 6 tháng) hoặc bị bùng phát về virus hoặc<br /> bùng phát về sinh hóa. Kỹ thuật xác định trình tự chuỗi được sử dụng để phát hiện đột biến kháng thuốc.<br /> Kết quả: Có 60 BN VGVB mạn được nghiên cứu: 20 trường hợp xuất hiện đột biến kháng thuốc (chiếm<br /> 33,3%), trong đó 19 BN bị đột biến kháng Lamivudin (32,75%), chỉ có 1 BN bị kháng Adefovir (6%). Không ghi<br /> nhận trường hợp nào đột biến kháng Entecavir và Tenofovir.Tỉ lệ đột biến kháng Lamivudin lần lượt là 16%,<br /> 43%, 83% ở nhóm điều trị 1năm, 2 năm và ≥3 năm. Sự xuất hiện đột biến kháng thuốc xảy ra ít hơn trong<br /> nhóm phối hợp Lamivudin và Adefovir từ đầu (8,3%) so với nhóm khởi đầu đơn thuần với Lamivudin (41%),<br /> với p = 0,03. Đột biến kháng thuốc làm xuất hiện bùng phát sinh hóa 4,2 lần và bùng phát virus 7,9 lần. Không<br /> ghi nhận sự liên quan giữa kiểu gien cũng như tình trạng HBeAg (+) với sự xuất hiện đột biến kháng thuốc.<br /> Kết luận: Tỉ lệ đột biến kháng thuốc xuất hiện cao, chủ yếu là kháng Lamivudin, tỉ lệ này tăng dần theo thời<br /> gian điều trị.<br /> Từ khóa: viêm gan virus B (VGVB), nhóm thuốc tương tự nucleos(t)ides, đột biến kháng thuốc, bùng phát<br /> virus, bùng phát sinh hoá.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> ANTIVIRAL DRUGS RESISTANT MUTANTS AMONG CHRONIC HEPATITIS B PATIENTS<br /> TREATED BY NUCLEOS(T)IDE ANALOGS<br /> Nguyen Thi Nha Doan, Bui Huu Hoang, Pham Hung Van<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 87 - 93<br /> Background: Nowadays, two kinds of drug are approved for treating Hepatitis B (HBV), such as Interferon<br /> and nucleos(t)ide analogs. The nucleos(t)ide analogs inhibit effectivly the replication of virus but easely emerge<br /> drug resistant mutants when long term using.<br /> Objectives: To determine the rates of drug resistant mutants in chronic HBV patients treated by<br /> nucleos(t)ide analogs more than 12 months.<br /> Methods: The cross-sectional study was done in the out-patient department at Tropical Diseases Hospital<br /> from July 2010 to October 2010. The PCR-based sequencing technique were applied to detect the resistant<br /> mutations in the polymerase gene. These patients must adhere to medication more than 1 year and they are defined<br /> * Bộ môn Nội – ĐH Y Dược TP HCM<br /> ** Bộ môn Vi sinh – ĐHYD TPHCM<br /> Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Nhã Đoan ĐT: 0977520900,<br /> Email: doan.ntn@umc.edu.vn<br /> <br /> 110<br /> <br /> Chuyên Đề Lão Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> as antiviral drug resistance when presenting one of the situations such as primary non-response (decreasing of<br /> serum HBV DNA < 2 log10 IU/mL after at least 24 weeks of treatment) or virologic breakthrough or biochemical<br /> breakthrough.<br /> Results: 60 cases were enrolled in our study. 20/60 (33.3%) cases had at least one mutation. 19/58 (33,3%)<br /> case were Lamivudin resistant mutant, 1/28 ( 6% ) case was Adefovir resistant mutant. None of Entecavir or<br /> Tenofovir resistant mutation was founded. Mutation rates of Lamivudin were 16%, 43%, 83% in 1, 2, ≥3 years,<br /> respectively. Mutation rates were significantly lower in group treated by the combination of Lamivudin and<br /> Adefovir (8.3%) than that in goup treated by Lamivudin alone (41%), p value = 0.03. Drugs-resistant mutations<br /> increased the rates of virologic breakthrough to 7.9 times and biochemical breakthrough to 4.2 times. No relation<br /> between HBV genotype or HBeAg status and nucleos(t)ide analogs resistant mutations was found.<br /> Conclusion: Mutation rate is rather high in patients treated by nucleos(t)ide analogs, especially Lamivudin,<br /> and these mutations increase anually.<br /> Key words: Hepatitis B (HBV), nucleos(t)ide analogs, drugs-resistant mutation, virologic breakthrough,<br /> biochemical breakthrough.<br /> tương tự nucleos(t)ide từ 1 năm trở lên nhờ<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> vào kỹ thuật giải trình tự chuỗi.<br /> VGVB là một vấn đề y tế toàn cầu. Theo<br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> ước tính của Tổ Chức Y tế Thế giới, hiện nay<br /> có khoảng hơn 2 tỉ người đang nhiễm virus<br /> Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.<br /> viêm gan B (VVGB), tức là gần 1/3 dân số.<br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Trong đó, gần 400 triệu người đang bị nhiễm<br /> BN được điều trị bằng các thuốc tương tự<br /> VVGB mạn tính(11). Hiện nay, có 2 nhóm thuốc<br /> nucleos(t)ide từ 1 năm trở lên tại phòng khám<br /> được công nhận là thuốc đặc trị của bệnh<br /> Viêm gan, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. Những<br /> VGVB mạn, bao gồm nhóm Interferon và<br /> BN này phải tuân thủ điều trị và có một trong<br /> nhóm thuốc tương tự nucleos(t)ide. Những<br /> các dấu hiệu xuất hiện đột biến kháng thuốc<br /> thuốc nhóm tương tự nucleos(t)ide có hiệu<br /> như thất bại tiên phát (HBV DNA giảm < 2<br /> quả ức chế sự nhân lên của virus, được dung<br /> log10/ml tại thời điểm 6 tháng) hoặc có sự bùng<br /> nạp tốt và phải sử dụng lâu dài. Tuy nhiên,<br /> phát về virus hoặc bùng phát sinh hó(11).<br /> khi sử dụng thuốc dài hạn dễ phát sinh đột<br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> biến kháng thuốc, làm cho nồng độ virus gia<br /> tăng trở lại và có thể gây những đợt bùng<br /> phát sinh hóa hoặc bùng phát về virus(12).<br /> Ngòai ra, còn làm giảm tỉ lệ chuyển huyết<br /> thanh HbeAg và những đột biến kháng thuốc<br /> này có thể chuyển từ người này sang người<br /> khác do lây nhiễm, có thể ảnh hưởng đến vấn<br /> đề kháng thuốc trong cộng đồng. Hiện nay, ở<br /> Việt Nam có rất ít số liệu về vấn đề này, do đó<br /> chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục<br /> đích xác định tỉ lệ đột biến kháng thuốc trên<br /> BN VGVB mạn đang điều trị với các thuốc<br /> <br /> Đồng nhiễm HCV, HIV, đã từng điều trị với<br /> Interferon, ung thư gan nguyên phát, tăng men<br /> gan do các nguyên nhân khác như do rượu,<br /> thuốc, gan nhiễm mỡ.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Chúng tôi ghi nhận có 20 trường hợp bị đột<br /> biến trong tổng số 60 BN trong mẫu nghiên cứu,<br /> chiếm tỉ lệ 33,33%. Trong đó, các trường hợp đột<br /> biến kháng Lamivudin là 19 trường hợp 19/58<br /> (32,75%). Trường hợp đột biến kháng Adefovir<br /> là 1/28 trường hợp điều trị với Adefovir (6%), và<br /> <br /> Chuyên Đề Lão Khoa<br /> <br /> 111<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> không ghi nhận trường hợp nào bị đột biến<br /> <br /> M204I<br /> <br /> L80V<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5%<br /> <br /> kháng Entecavir và Tenofovir.<br /> <br /> M204I<br /> <br /> L80V/I<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5%<br /> <br /> Bảng 1 Đặc điểm dân số nghiên cứu<br /> Không đột Có đột<br /> biến<br /> biến<br /> Tuổi trung bình ( 31,2 ± 11,39 38,3 ±<br /> năm)<br /> 13,5<br /> Nam<br /> 26<br /> 12<br /> Nữ<br /> 14<br /> 8<br /> Thời gian điều trị 22,5 ± 12<br /> 34,1 ±<br /> (tháng)<br /> 23,4<br /> Khởi đầu bằng<br /> 26<br /> 18<br /> Lamivudin<br /> Khởi đầu bằng<br /> 11<br /> 1<br /> Lamivudin và<br /> Adefovir<br /> Kiểu gien B<br /> 28<br /> 17<br /> Kiểu gien C<br /> 12<br /> 3<br /> Không bùng phát<br /> 31<br /> 9<br /> sinh hoá<br /> Bùng phát sinh<br /> 9<br /> 11<br /> hoá<br /> Không bùng phát<br /> 29<br /> 5<br /> virus<br /> Bùng phát virus<br /> 11<br /> 15<br /> HBeAg (+)<br /> 38<br /> 16<br /> HBeAg(-)<br /> 2<br /> 4<br /> Các yếu tố<br /> <br /> Tổng<br /> cộng<br /> 33,5 ±<br /> 12,4<br /> 38<br /> 22<br /> 26,3<br /> ±17,4<br /> 44<br /> 12<br /> <br /> 45<br /> 15<br /> 40<br /> 20<br /> <br /> P<br /> <br /> 0,7<br /> 0,013<br /> <br /> 0,03<br /> <br /> Không<br /> đột biến<br /> 2<br /> 27<br /> 11<br /> 1<br /> 41<br /> <br /> Có đột<br /> biến<br /> 0<br /> 5<br /> 9<br /> 5<br /> 19<br /> <br /> Thời gian Tỉ lệ đột biến<br /> Tỉ lệ đột biến<br /> điều trị<br /> Lamivudin<br /> Lamivudin theo<br /> trung bình<br /> từng năm<br /> Chúng tôi 22 ± 13,17<br /> 32,75%.<br /> 16%, 45% và 83%.<br /> tháng.<br /> Hồ Tấn Đạt 30 ± 10,8<br /> 63,9%<br /> 27,8%, 63,4%,<br /> (5)<br /> và cs<br /> tháng<br /> 71,1%, 83,3%.<br /> Phạm Thị<br /> 34.9%<br /> Lệ Hoa và<br /> (17)<br /> cs<br /> (12)<br /> Lok và cs<br /> 24%, 42%,<br /> 53%,70%, 65%<br /> (6)<br /> Kao 2002<br /> 17%, 22%, 37%,<br /> 50%<br /> Lai và<br /> 23%, 46%,55%.<br /> (7),(9)<br /> cs<br /> 71%, 80%<br /> Leung và cs<br /> <br /> 0,068<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> 0%<br /> 16%<br /> 45%<br /> 83%<br /> 32,75<br /> %<br /> <br /> Đột biến<br /> thứ phát<br /> <br /> Đột biến<br /> thứ phát<br /> <br /> Số<br /> lượng<br /> <br /> L180M<br /> <br /> L80I<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 2<br /> <br /> 11%<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> <br /> M204I<br /> <br /> L180M<br /> <br /> M204I<br /> M204V<br /> <br /> L180M<br /> L180M<br /> <br /> L80I<br /> <br /> 1<br /> 6<br /> <br /> 5%<br /> 32%<br /> <br /> M204V<br /> M204V<br /> <br /> L180M<br /> L180M<br /> <br /> L80V<br /> V173L<br /> L80I<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> 5%<br /> 5%<br /> 11%<br /> <br /> L80I<br /> <br /> 2<br /> <br /> 11%<br /> <br /> M204I<br /> <br /> 112<br /> <br /> Tỉ lệ đột biến kháng Lamivudin<br /> Tỉ lệ đột biến kháng Lamivudin chung là<br /> 19/58 (32,75%). Trong đó, tỉ lệ đột biến tương ứng<br /> là 16%, 45% và 83% cho 1 năm, 2 năm và ≥3 năm.<br /> Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với<br /> các tác giả khác.<br /> <br /> 0,012<br /> <br /> Bảng 3: Sự phân bố các vị trí đột biến kháng<br /> Lamivudin<br /> Đột biến<br /> nguyên<br /> phát<br /> <br /> * Tỉ lệ đột biến kháng thuốc và vị trí các<br /> đột biến kháng thuốc<br /> <br /> Bảng 4: Tỉ lệ đột biến kháng Lamivudin theo các tác<br /> giả<br /> <br /> 0,0001<br /> <br /> Tổng<br /> cộng<br /> 2<br /> 32<br /> 20<br /> 6<br /> 60<br /> <br /> 5%<br /> 100%<br /> <br /> 0,343<br /> <br /> Bảng 2: Tỉ lệ xuất hiện đột biến kháng Lamivudin<br /> theo từng năm<br /> Năm điều<br /> trị<br /> 0 năm<br /> 1 năm<br /> 2 năm<br /> ≥3 năm<br /> Tổng cộng<br /> <br /> 1<br /> 19<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> 0,037<br /> <br /> 34<br /> 26<br /> 54<br /> 6<br /> <br /> M204V<br /> Tổng cộng<br /> <br /> Sở dĩ có sự khác biệt về tỉ lệ kháng<br /> Lamivudin chung là do thời gian điều trị có khác<br /> nhau giữa các nghiên cứu. Nghiên cứu nào có<br /> thời gian điều trị lâu hơn thì tương ứng sẽ có tỉ lệ<br /> đột biến chung cao hơn. Riêng Hồ Tấn Đạt và cs(5)<br /> cộng luôn các trường hợp có đột biến không ý<br /> nghĩa rtV207M vào trong các trường hợp đột<br /> biến kháng thuốc nên tỉ lệ này có tăng cao hơn so<br /> với các nghiên cứu khác.<br /> Về tỉ lệ các vị trí đột biến kháng Lamivudin,<br /> chúng tôi nhận thấy đột biến kháng thuốc<br /> nguyên phát rtM204I gặp trong 7 trường hợp,<br /> đột biến rtM204V trong 9 trường hợp. Các đột<br /> <br /> Chuyên Đề Lão Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> biến thứ phát làm phục hồi khả năng sao chép<br /> của virus cũng nhận thấy, bao gồm rtL180M,<br /> rtL80I/V, rtV173L. Có 3 trường hợp không bị đột<br /> biến nguyên phát mà chỉ là đột biến thứ phát.<br /> Chúng tôi tham khảo về những trường hợp này<br /> trong các nghiên cứu đánh giá tính kháng thuốc<br /> in vitro(1,14,15,18) đã nhận thấy rằng các đột biến<br /> kháng thuốc thứ phát có thể xuất hiện đơn độc<br /> như trường hợp của rtL80I/V, rtV173L hoặc<br /> rtL180M, nhưng sự xuất hiện đơn độc này làm<br /> cho virus tăng nhạy cảm với thuốc và giảm khả<br /> năng sao chép.<br /> Đột biến rtL80I/V lần đầu tiên được mô tả<br /> bởi Ogata và cs.(14), có thể hiện diện trong những<br /> trường hợp chưa được điều trị với nhóm thuốc<br /> tương tự nucleos(t)ide. Trong nghiên cứu của<br /> Warner, N và cs.(18) đột biến rtL80I có thể hiện<br /> diện đơn độc trong 5/ 2805 chuỗi HBV DNA lấy<br /> ra từ dữ liệu SEQHEPB trên những BN chưa<br /> từng sử dụng nhóm thuốc tương tự<br /> nucleos(t)ide. Tác giả cũng không quan sát thấy<br /> trường hợp nào đột biến rtL80I hiện diện đơn<br /> độc ở BN đã điều trị với Lamivudin. Khi xuất<br /> hiện đơn độc, đột biến này làm giảm khả năng<br /> sao chép của virus và làm tăng sự nhạy cảm của<br /> virus với Lamivudin cao hơn 10 lần với IC50 là<br /> 0,03 ± 0,01, so với chủng hoang dại với IC50 là<br /> 0,41± 0,19. Trái lại, đột biến rtL80I khi xuất hiện<br /> phối hợp với rtM204I/V có thể làm phục hồi khả<br /> năng sao chép của VVGB(18). Trong nghiên cứu<br /> này, chúng tôi nhận thấy có 2 trường hợp xuất<br /> hiện đột biến rtL80I đơn độc trên BN đã điều trị<br /> với Lamivudin, chiếm tỉ lệ 11% trong tất cả các<br /> đột biến. Đây là một tỉ lệ khá cao so với những<br /> gì y văn đã nêu, vì vậy chúng tôi đặt ra một giả<br /> thuyết về vai trò của đột biến rtL80I, liệu đây có<br /> phải là đột biến nguyên phát khác của<br /> Lamivudin hay không? Chúng tôi còn quan sát<br /> thấy có hiện diện 1 trường hợp đột biến rtL80I<br /> rtL180M. Có thể rtL180M là một đột biến thứ<br /> phát của rtL80I. Để kiểm chứng điều này, cần có<br /> thêm các nghiên cứu đánh giá tính kháng thuốc<br /> <br /> Chuyên Đề Lão Khoa<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> trên in vitro ở những BN mang đột biến này sau<br /> khi điều trị với Lamivudin.<br /> Bên cạnh đó, chúng tôi còn thấy sự xuất hiện<br /> của đột biến rtV207M trong 5 trường hợp, chiếm<br /> tỉ lệ 8,33% nhưng chỉ có 1 trường hợp xuất hiện<br /> kèm theo sự xuất hiện của đột biến kháng<br /> Lamivudin rtM204I rtL80V/I. Nghiên cứu của B.<br /> Zo¨llner và cs.(21) đánh giá tính kháng thuốc in<br /> vitro của đột biến rtV207M/I đã kết luận rằng sự<br /> hiện diện của đột biến rtV207M/I chiếm khoảng<br /> 1% các trường hợp VGVB mạn, có thể xuất hiện<br /> trên những BN chưa từng được điều trị với<br /> Lamivudin hoặc sau một thời gian điều trị với<br /> Lamivudin cùng với những đột biến khác,<br /> nhưng khi thực hiện nghiên cứu để đánh giá<br /> tính kháng thuốc của rtV207M/I thì tác giả<br /> vẫn chưa ghi nhận vai trò nào rõ rệt của<br /> rtV207M/I, nhất là vai trò làm phục hồi khả<br /> năng sao chép của VVGB. Nguyen.N.H và<br /> cs(13) thực hiện nghiên cứu khảo sát những đột<br /> biến kháng thuốc trên 472 BN chưa từng điều<br /> trị với nhóm thuốc tương tự nucleos(t)ide<br /> nhận thấy có đến 16,7% các trường hợp có đột<br /> biến rtV207M/I; có thể sự hiện diện của<br /> rtV207M/I khá nhiều trong dân số BN Việt<br /> Nam so với tỉ lệ 1% như B. Zo¨llner đã nêu.<br /> Tác giả này cho rằng đây là đột biến không có<br /> ý nghĩa., vì vậy chúng tôi không xếp đột biến<br /> này vào đột biến kháng thuốc mà chỉ xem như<br /> một đột biến xuất hiện kèm theo. Trong<br /> những tổng kết về các đột biến kháng<br /> Lamivudin, các tác giả khác trên thế giới vẫn<br /> chưa đưa rtV207M/I vào trong các bảng tổng<br /> kết chung.<br /> <br /> Tỉ lệ đột biến kháng Adefovir<br /> Chúng tôi chỉ ghi nhận 1 trường hợp kháng<br /> Adefovir trong 28 BN được điều trị bằng<br /> Adefovir, chiếm tỉ lệ 6%. Theo y văn, đột biến<br /> kháng Adefovir có khuynh hướng xảy ra trên<br /> BN VGVB mạn đã được điều trị với Lamivudin<br /> trước đó. Vì vậy, nhóm BN được khởi đầu dùng<br /> Adefovir đơn trị liệu hoặc kết hợp với<br /> Lamivudin thì không xảy ra đột biến (0%), còn<br /> <br /> 113<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> nhóm BN đã điều trị với Lamivudin trước đó<br /> mà nồng độ HBV DNA không giảm, khi thêm<br /> Adefovir vào thì có 1 trường hợp ghi nhận đột<br /> biến (7,14%). Nhận xét này cũng được ghi nhận<br /> trong các nghiên cứu của các tác giả khác.<br /> Bảng 5: Tỉ lệ đột biến kháng Adefovir giữa các tác giả<br /> Số<br /> BN<br /> NC chúng tôi chưa<br /> điều trị với<br /> Lamivudin<br /> NC chúng tôi<br /> đã điều trị với<br /> Lamivudin<br /> Hadziyannis (3)<br /> chưa điều trị với<br /> Lamivudin<br /> Scott K. Fung<br /> đã điều trị với<br /> Lamivudin (2)<br /> Yoon-Seon Lee đã<br /> điều trị với<br /> Lamivudin (8)<br /> <br /> 14<br /> <br /> 14<br /> <br /> Thời gian<br /> điều trị<br /> trung bình<br /> 20,57 ± 8,9<br /> tháng<br /> <br /> Tỉ lệ kháng<br /> Adefovir<br /> <br /> 20,71 ±<br /> 14,1 tháng<br /> <br /> 7,14%<br /> <br /> 0%<br /> <br /> 43<br /> <br /> 18 tháng<br /> <br /> 0%, 3%,<br /> 11%, 18%,<br /> 29%<br /> 14%<br /> <br /> 57<br /> <br /> 12 tháng<br /> <br /> 18%<br /> <br /> Mối liên quan giữa việc điều trị, thay đổi<br /> trên sinh hoá, nồng độ HBV DNA, kiểu<br /> gien của hai nhóm có đột biến và không<br /> đột biến<br /> Việc phối hợp thuốc và khả năng xuất hiện đột<br /> biến kháng thuốc<br /> Chúng tôi chỉ khảo sát cho đột biến kháng<br /> Lamivudin và nhận thấy có 12 trường hợp điều<br /> trị phối hợp Lamivudin và Adefovir từ đầu, chỉ<br /> có 1 trường hợp bị đột biến kháng thuốc, chiếm tỉ<br /> lệ 8,33%. Riêng 44 trường hợp điều trị một loại<br /> thuốc Lamivudin ban đầu thì xuất hiện 18 trường<br /> hợp bị đột biến, chiếm 40,9%. Như vậy, nhận thấy<br /> có sự khác biệt với p = 0,03. Quan niệm về virus<br /> học cho rằng điều trị phối hợp làm tăng hàng rào<br /> di truyền chống lại kháng thuốc, làm giảm tỉ lệ<br /> kháng thuốc, điều này cũng được Hezode và cs(4)<br /> nghiên cứu trên 50 BN VGVB mạn chưa dùng<br /> thuốc, trong đó 16 BN phối hợp Lamivudin và<br /> Adefovir ngay từ đầu, 9 BN khởi đầu bằng<br /> Lamivudin đơn thuần về sau được bổ sung thêm<br /> Adefovir mặc dù không có bùng phát virus. Còn<br /> lại 25 BN dùng Lamivudin đơn thuần và bổ sung<br /> <br /> 114<br /> <br /> thêm Adefovir khi có bùng phát virus. Tác giả<br /> nhận thấy trong 50 trường hợp điều trị, 16 trường<br /> hợp phối hợp Lamivudin và Adefovir từ ban đầu<br /> thì có 13 trường hợp tải lượng HBV DNA dưới<br /> ngưỡng phát hiện, 3 trường hợp tải lượng HBV<br /> DNA còn trên ngưỡng, không ghi nhận trường<br /> hợp nào bị bùng phát virus và không trường hợp<br /> nào bị đột biến kháng thuốc. Riêng trong nhóm<br /> 34 trường hợp điều trị Lamivudin ban đầu sau<br /> đó phối hợp thêm Adefovir thì có đến 27 BN bị<br /> bùng phát virus và ghi nhận 2 trường hợp xuất<br /> hiện đột biến kháng thuốc rtA181V.<br /> <br /> Mối liên quan giữa sự xuất hiện đột biến và<br /> thay đổi men gan.<br /> Về sự thay đổi men gan trong quá trình điều<br /> trị, chúng tôi xem những trường hợp tăng men<br /> gan trở lại > 5 lần giới hạn trên của mức bình<br /> thường là có bùng phát về sinh hóa, và viêm gan<br /> bùng phát được định nghĩa khi có men gan tăng<br /> cao >10 lần giới hạn trên của mức bình thường.<br /> Khi khảo sát những trường hợp bùng phát sinh<br /> hóa, chúng tôi nhận thấy trong nhóm có đột<br /> biến, 11/20 trường hợp có bùng phát sinh hóa,<br /> chiếm tỉ lệ 55%; và trong nhóm không đột biến,<br /> có 9 /40 trường hợp,chiếm 22,5%. Sự khác biệt<br /> này có ý nghĩa thống kê với p = 0.012. Tỉ số<br /> chênh của nhóm có bùng phát sinh hóa so với<br /> nhóm không có bùng phát sinh hóa là 4,2 (CI<br /> 95%:1,3-13,3). Điều này có nghĩa là khả năng đột<br /> biến kháng thuốc làm xuất hiện bùng phát sinh<br /> hóa lên gấp 4,2 lần. Liaw và cs(10) cũng nhận thấy<br /> sự khác biệt trong những trường hợp có tăng<br /> bùng phát men gan trong nhóm có đột biến là<br /> 94,7% và không đột biến là 4,3%, với p = 0,003.<br /> Lai và cs(7) cũng nhận thấy trong những trường<br /> hợp không có đột biến kháng Lamvudin, nồng<br /> độ men gan ổn định chiếm 69%, trong khi nhóm<br /> có đột biến thì nồng độ men gan ổn định chỉ có<br /> 29% khác biệt có ý nghĩa, với p < 0,001.<br /> Mối liên quan giữa sự xuất hiện đột biến và<br /> thay đổi về nồng độ HBV DNA.<br /> Chúng tôi xem những trường hợp có gia tăng<br /> trở lại nồng độ HBV DNA > 1log10 là những<br /> trường hợp có hiện tượng bùng phát virus. Trong<br /> <br /> Chuyên Đề Lão Khoa<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2