intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay trình bày các nội dung: Tâm linh, văn hóa tâm linh và du lịch văn hóa tâm linh; Ngôi chùa Việt với đời sống xã hội Việt Nam trong lịch sử; Giải pháp phát triển du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo, góp phần củng cố và phát triển an sinh xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

  1. DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH PHẬT GIÁO GÓP PHẦN QUAN TRỌNG CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PGS.TS. DƯƠNG VĂN SÁU1* Tóm tắt: Hiện nay, du lịch ngày càng phát triển nhanh chóng với nhiều loại hình; trong đó loại hình du lịch Văn hóa tâm linh với đặc thù của mình đã vượt qua những giới hạn của không gian, thời gian và sự hữu hạn của hệ thống dịch vụ để phát triển mạnh mẽ. Trong loại hình du lịch đặc trưng này ở Việt Nam, nhiều danh lam cổ tự trên khắp miền đất nước với vị thế là điểm đến của các chương trình du lịch văn hóa tâm linh đã có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của các địa phương và đất nước. Hoạt động đó giúp giải quyết, thỏa mãn một phần lớn các nhu cầu văn hóa, tâm linh - tinh thần của nhiều đối tượng du khách khác nhau; góp phần bình ổn đời sống tinh thần của toàn xã hội. Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo mà điểm đến là các ngôi chùa còn góp phần thay đổi diện mạo xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tác động tới đời sống chính trị - tinh thần; góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội ở các địa phương nơi có các điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh. Bài viết dưới đây sẽ góp phần làm rõ điều đó… Từ khóa: Phật giáo, tâm linh, du lịch tâm linh, du lịch văn hóa tâm linh. Mở đầu Tâm linh - điều khó hiểu nhất trong những điều khó hiểu của con người. Nhu cầu tâm linh - tinh thần, nhu cầu đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Đã biết bao đời, người ta đã cố gắng để tìm hiểu tâm linh; đã cố gắng làm tất cả những gì có thể để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tâm linh - tinh thần của mình nhưng tất cả những cố gắng ấy chưa bao giờ là đủ! Để đáp ứng nhu cầu đó, có nhiều cách để thỏa mãn; một trong những phương cách được sử dụng rộng rãi hiện nay là đi đến những nơi tâm linh để trực tiếp “giao tiếp” với thần linh thông qua những thể thức khác nhau. Từ đó * Trưởng Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
  2. 680 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... hình thành và phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh; loại hình đó ngày càng phát triển ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo - tín ngưỡng, trong đó Phật giáo có vai trò cực kỳ to lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Phật giáo có tầm ảnh hưởng rất lớn (nếu không muốn nói là lớn nhất) tới đời sống văn hóa, tâm linh - tinh thần của đại đa số người dân Việt. Với hơn 2.000 năm lịch sử du nhập và phát triển, Phật giáo đã luôn đồng hành cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Dưới thời Lý - Trần, Phật giáo đã từng được coi như là quốc giáo, phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ đó đến nay, mặc dù có những thăng trầm nhất định theo dòng chảy của lịch sử nhưng cho đến nay, Phật giáo vẫn là một tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam. Dấu ấn vật chất và tinh thần của Phật giáo có mặt ở khắp mọi nơi, trong nhiều đối tượng, tầng lớp người trong xã hội. Bằng trí tâm và tài lực của nhiều người, nhiều thế hệ những nhà tu hành và các tầng lớp con dân Việt đã để lại những công trình văn hóa sáng giá, những danh lam cổ tự danh tiếng trên khắp miền đất nước. Với số đông người dân Việt, hai tiếng “ngôi chùa” là hết sức gần gũi, ấm áp và tin cậy mỗi khi nhắc tới. Với các học giả, nhà nghiên cứu, dù ở cấp độ nào, trình độ nào khi nói tới “Chùa Việt” đều cảm thấy hứng khởi, thân quen. Nhiều ngôi chùa danh tiếng đã trở thành các điểm đến tham quan du lịch nổi tiếng, thu hút rất đông tín đồ du khách trong và ngoài nước. Các chương trình du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo đã giúp du khách thỏa mãn một phần các nhu cầu văn hóa, tâm linh - tinh thần của họ đồng thời mang lại những lợi ích xã hội to lớn cho cộng đồng. Thực tế phát triển trong thời gian gần đây đã chứng minh: Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo trở thành một thành tố kinh tế, văn hóa - xã hội không thể thiếu trong tiến trình hội nhập, phát triển của đất nước; góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. 2. Tâm linh, văn hóa tâm linh và du lịch văn hóa tâm linh Tâm linh (Spiritualism) là một phần đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Nó là sự kết tinh và hội tụ tinh hoa của đời sống vật chất, được đẩy lên một mức cao hơn, trở thành niềm tin mang yếu tố tinh thần chủ đạo để góp phần điều chỉnh suy nghĩ và hành động của con người. Có thể nói, tâm linh là một trong những điều khó hiểu nhất trong những điều khó hiểu, khó lý giải trong cuộc sống hiện sinh của con người. Vào khoảng vài thập kỷ gần đây, những thuật ngữ tâm linh và văn hóa tâm linh xuất hiện ngày càng nhiều; nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học, khoa học xã hội trong nước và quốc tế thừa nhận có tồn tại yếu tố tâm linh - một trong bốn thuộc tính của con người (bao gồm 4 con người trong 1
  3. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 681 con người: con người sinh học - con người xã hội - con người tâm lý - con người tâm linh) thì tâm linh và văn hóa tâm linh được người ta nhắc tới ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm tâm linh vẫn còn là một vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất trong giới nghiên cứu. Theo Từ điển tiếng Việt, Tâm linh có các ý nghĩa sau đây: 1. Tâm hồn, tinh thần; 2. Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm1. Tâm linh là một từ Hán - Việt (心靈), trong đó Tâm (心) là tấm lòng, trái tim của con người; Linh (靈)là sự linh thiêng, linh nghiệm, thần bí. Vậy nên, theo nghĩa Hán Việt: “Tâm linh (心靈) là sự linh thiêng, thần bí trong trái tim, khối óc con người!”. Nhiều ý kiến thống nhất nhận định tâm linh là khái niệm chỉ những hiện tượng liên quan đến thế giới linh hồn của con người sau khi chết, gắn liền với những biểu hiện huyền bí, dị thường và đậm màu sắc mê tín. Có một số ý kiến khác thì cho rằng, tâm linh hay văn hóa tâm linh là một phạm trù đặc biệt, bao hàm những giá trị tinh thần phong phú, cao siêu, hư ảo của con người, cao hơn khái niệm đời sống tinh thần. Có thể thấy rằng trong tâm linh của mỗi con người đã hội đủ niềm tin, ý chí, đạo đức, sự hướng thiện, ước muốn tinh thần, biểu hiện/thể hiện linh hồn, v.v… của con người đó cũng như phản ánh đức tin chung của một cộng đồng nhất định trong những không gian và thời gian xác định. Như vậy, tâm linh chứa đựng tất cả đời sống tinh thần của mỗi con người, của một cộng đồng người; tâm linh là sự tồn tại siêu hình của con người trong thế giới hiện hữu. Nhà nghiên cứu Minh Chi, trong bài viết “Phật giáo và Tâm linh” cho rằng: “tâm linh chỉ cho cái gì cao cả nhất, sâu sắc nhất trong tâm người”2. Như vậy, tâm linh nghĩa là sự tốt đẹp, sâu thẳm, tiềm ẩn trong mỗi con người. Trong tiếng Anh, từ Spiritualism có nghĩa là “niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết; thứ nữa, đó là tâm trí, tâm hồn, tinh thần…”. Theo chúng tôi, tâm linh chính là những biểu hiện trong đời sống tinh thần của con người thiên theo hướng siêu hình, với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó. Không nên “tầm thường hóa”, đơn giản hóa, coi tâm linh là mê tín dị đoan, song cũng không nên “thần bí hóa”, “ghê gớm hóa” khái niệm tâm linh; gán cho nó những đặc tính cao siêu, phi thường, coi đó là cứu cánh của nhân loại, của khoa học. Hãy gắn tâm linh với những niềm tin hư và thực của con người trong những không gian và thời gian xác định, với những đối tượng cụ thể. Hãy tôn trọng và để cho Tâm linh có những trạng thái hư không, siêu tĩnh mà chúng ta không nên can thiệp vào. Tâm linh, nó tồn tại với vị thế 1 Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng (2004), Từ điển tiếng Việt 2004, tr. 897. 2 https://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/020-minhchi-tamlinh.htm
  4. 682 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... một thực thể tinh thần tất yếu trong mỗi chúng ta. Tâm linh: hãy tôn trọng như nó cần phải được tôn trọng! Tháng 11/2013, tại Hội nghị quốc tế lần thứ nhất với chủ đề “Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững” được Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Tổng cục Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình phối hợp tổ chức tại chùa Bái Đính (Ninh Bình, Việt Nam) TS Dương Văn Sáu, trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đưa đưa ra khái niệm tâm linh như sau: “Tâm linh là niềm tin, ước vọng của con người đối với đối tượng siêu hình mà người ta hướng tới đồng thời là những tác động từ các yếu tố siêu hình tới đời sống tinh thần của một số cá nhân trong những không gian và thời gian nhất định mà không phải khi nào chúng ta cũng giải thích được”1 [Dương Văn Sáu]. Tâm linh là cái vốn có trong mỗi con người, nhu cầu tâm linh là nhu cầu thiết yếu của con người. Nó gắn liền với cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Nhu cầu tâm linh dù có sự khác biệt nhưng không có sự phân biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, tuổi tác, nghề nghiệp... Nhìn chung, tâm linh - tinh thần là thuộc tính vốn có của con người, nó tồn tại và kết thúc cùng sự tồn tại và kết thúc của xã hội loài người. Tâm linh, tinh thần của con người rất phong phú, đa dạng, có mặt trong mọi không gian và thời gian của đời sống xã hội. Dù có mặt ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm và trong mọi hoạt động của con người nhưng thật không dễ hiểu về tâm linh, tinh thần. Vậy nên, việc nghiên cứu về tâm linh, vai trò của tâm linh trong đời sống xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng. Việc hiểu đúng hơn về tâm linh - tinh thần cho phép chúng ta tiếp cận sâu hơn những tâm hồn, tình cảm, niềm tin, ước vọng của nhiều người; kéo thế giới loài người xích lại gần nhau hơn… Tâm linh tinh thần có vai trò ổn định đời sống tinh thần của mỗi cá nhân khác nhau vốn rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương trước những biến cố trong gia đình và xã hội. Tâm linh tinh thần còn đóng vai trò cố kết cộng đồng trong những không gian và thời gian nhất định. Nó trở thành linh hồn chi phối hành động của một nhóm người, một tập đoàn người, một giai cấp nhất định trong những lát cắt của lịch sử. Tất cả những biểu hiện về ứng xử liên quan đến đời sống tâm linh của con người tạo nên cái mà chúng ta gọi là “Văn hóa tâm linh (spiritual culture)”. Văn hóa tâm linh là một khái niệm mở đồng thời là một phạm trù huyền ảo, luôn không xác định được giới hạn cả về không gian và thời gian nhưng luôn được con người ta nể sợ, tôn trọng và tin theo. Từ nghiên cứu thực tế xã hội Việt Nam, tôi đưa ra khái niệm: “Văn hóa tâm linh là cách thức giao tiếp ứng xử của con người đối với các đối tượng siêu hình trên những khía cạnh của đời sống tâm linh - tinh thần trong những không gian 1 Dương Văn Sáu, Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Lao động, Hà Nội 2019, tr. 46.
  5. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 683 và thời gian xác định nhằm đáp ứng những nhu cầu về mặt tinh thần để đạt được những mục đích, nguyện vọng nào đó của các cá nhân và cộng đồng người khi tham gia các hoạt động đó”. [Dương Văn Sáu]. Văn hóa tâm linh là những ứng xử văn hóa trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân, cộng đồng người. Nhu cầu về văn hóa tâm linh không giới hạn bởi những không gian và thời gian. Nó chỉ phụ thuộc vào các mối quan hệ giữa con người và con người, con người và thần linh ở các không gian nhất định trong những thời gian xác định. Văn hóa tâm linh luôn thường trực trong mỗi con người. Nó phụ thuộc vào giới tính, lứa tuổi, tôn giáo, nghề nghiệp, học vấn và địa vị xã hội của các cá nhân. Đồng thời, văn hóa tâm linh cũng phụ thuộc vào không gian, thời gian, môi trường, điều kiện mà nó xuất hiện và tồn tại. Nhu cầu tâm linh được hình thành, nuôi dưỡng, giáo dục và phát triển cùng với sự trưởng thành của mỗi con người. Xã hội càng phát triển văn minh, khoa học kỹ thuật càng hiện đại và tiên tiến song nhu cầu tâm linh không mất đi mà ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Đáp ứng được nhu cầu này và để đa dạng hóa sản phẩm của mình, từ lâu trên thế giới và mới đây ở Việt Nam đã hình thành một loại hình du lịch đặc thù được gọi là du lịch tâm linh đã và đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam trong điều kiện của một quốc gia đang phát triển về mọi mặt. Như vậy, loại hình du lịch tâm linh chính là một hoạt động xác thực, biểu hiện cụ thể để thực thi Văn hóa tâm linh. Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, tuy nhiên xét về nội dung và tính chất hoạt động, du lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, hay nói cho đúng, cho đầy đủ hơn là Du lịch văn hóa tâm linh; lấy yếu tố văn hóa tâm linh - tinh thần vừa làm cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh thần. Theo cách nhìn nhận đó, chúng tôi đưa ra khái niệm về du lịch văn hóa tâm linh như sau: “Du lịch văn hóa tâm linh (Spiritual cultural tourism) là loại hình du lịch đưa du khách tới những nơi có các cơ sở và điều kiện đặc thù về tôn giáo - tín ngưỡng để du khách có cơ hội được chiêm bái và thực hành các nghi thức tôn giáo - tín ngưỡng. Đồng thời ở đó du khách có thể tham gia các hoạt động tâm linh - tinh thần đặc biệt nào đó có liên quan đến giáo lý, đức tin được tổ chức bởi giáo hội và những cá nhân và tổ chức có liên quan. Những hoạt động đó giúp họ thỏa mãn các nhu cầu và đạt được các mục đích mang tính siêu hình của mình trong những không gian và thời gian xác định thông qua các chương trình du lịch cụ thể của các công ty du lịch” [Dương Văn Sáu]. Với khái niệm du lịch văn hóa tâm linh mở rộng như vậy đã làm đa dạng đối tượng khách, tăng nhu cầu và hoạt động của họ trong quá trình thực hiện tour du lịch từ đó giúp cho các nhà tổ chức các chương trình du lịch có điều kiện xây dựng
  6. 684 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... nhiều sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn, phù hợp với tiềm năng của các địa phương, đáp ứng các nhu cầu của các đối tượng du khách khác nhau. Trong điều kiện thực tế hiện nay, du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam hiện nay cũng là du lịch văn hóa tôn giáo - tín ngưỡng. Đây mới chỉ là du lịch văn hóa tâm linh ở cấp độ thấp, chưa đầy đủ nhiều hoạt động tâm linh - tinh thần ở các cấp độ cao hơn. Văn hóa tâm linh ở đây là những thể hiện của niềm tin và sự ngưỡng vọng của du khách đối với những đối tượng siêu hình nào đó hiện hữu tại các không gian xác định, trong các công trình di tích kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng mang đậm chất văn hóa nghệ thuật. Trong cách hiểu như vậy, một chương trình du lịch văn hóa đưa du khách tới thăm một ngôi chùa Phật giáo ở Việt Nam nằm trong loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Hệ thống cổ tự vô cùng đặc sắc, với số lượng nhiều, có mặt mọi nơi trên đất nước luôn sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu, những niềm tin cụ thể và cách hành xử đơn giản, mộc mạc mang tính đại đồng của hàng chục triệu người Việt Nam cùng đội ngũ du khách quốc tế. Những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ; điều đó đã khẳng định vai trò to lớn của Phật giáo đối với an sinh xã hội trong tiến trình hội nhập ở Việt Nam hiện nay. 3. Ngôi chùa Việt với đời sống xã hội Việt Nam trong lịch sử Là một tôn giáo quốc tế có mặt ở Việt Nam khá sớm từ ngay những năm đầu công nguyên. Từ đó đến nay, với “duyên nghiệp lịch sử” của mình, Phật giáo đã gắn bó mật thiết, không thể tách rời cùng lịch sử dân tộc. Dẫu lịch sử đất nước có những giai đoạn thịnh suy, thăng trầm nhất định nhưng trong suốt quá trình đó, Phật giáo đã luôn đồng hành cùng dân tộc; trở thành một phần tất yếu của lịch sử và để lại những dấu ấn văn hóa - lịch sử đặc sắc không thể phủ nhận. Một trong những dấu ấn văn hóa vật chất nổi bật là hệ thống kiến trúc chùa - tháp trên mọi miền đất nước. Cùng với nhiều thiết chế văn hóa tôn giáo nổi trội khác, ngôi chùa có vị thế đặc biệt trong đời sống xã hội Việt Nam. Theo Từ điển tiếng Việt, Chùa là “Công trình kiến trúc dùng làm nơi thờ Phật”1; “Ngôi nhà làm nơi thờ Phật, thường lợp ngói, mái uốn cong”2. Trong khi đó, theo Từ điển Phật học Việt Nam [越南佛學 辞典], của các tác giả Thích Minh Châu - Minh Chi, thì: “Chùa là nơi thờ Phật, nơi tu học của tăng ni, có thể gốc từ chữ stupa (Sanskrit), thupa (Pali). Hán dịch âm là Đồ bà hay Phù đồ nghĩa là bảo tháp. Người Việt phát âm chệch ra thành chùa”3. Đi cùng với ngôi chùa là những ngôi tháp Phật giáo với nhiều loại hình và chất liệu khác nhau. 1 Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng (2004), Từ điển tiếng Việt, tr. 191. 2 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin. H.1998, tr. 396. 3 Thích Minh Châu - Minh Chi, Từ điển Phật học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1991, tr. 132.
  7. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 685 Hai loại hình kiến trúc quan trọng này tạo nên hình thái kiến trúc đặc trưng trong đời sống văn hóa - tâm linh của người Việt Nam là hệ thống chùa - tháp Phật giáo Việt Nam. Trong đó, Tháp: là công trình xây dựng có chiều cao lớn hơn nhiều so với chiều ngang (thường trên đỉnh là hình chóp)1. Khảo về hai loại hình kiến trúc này dưới góc độ của Từ điển Hán - Việt, cho thấy: - Chùa: [寺]: tự gồm hai thành tố: thổ [土] - đất và thốn [寸] tấc. Do vậy [寺 tự = tấc đất]; theo truyền ngôn, đây chính là mảnh đất đầu tiên nơi Đức Ông Trưởng giả Cấp Cô Độc dâng cúng Đức Phật dùng làm nơi thuyết pháp cho chúng sinh ở buổi khởi nguyên của Phật giáo. - Tháp: [塔]: cấu trúc chiết tự của nó cho thấy ý nghĩa người ta sinh ra từ đất (bộ thổ 土), lớn nên, hành xử với đời rồi cuối cùng cũng trở về với đất, yên mình dưới cỏ (bộ thảo 艸) trong sự bình yên hòa hợp (chữ hợp 合). Do vậy có thể rút ra định nghĩa: - Chùa là công trình kiến trúc dùng làm nơi thờ Phật và một số tín ngưỡng dân gian bản địa khác. Đây cũng là nơi tu hành của các chức sắc Phật giáo; nơi thực hành các giáo lý, các sinh hoạt văn hóa tâm linh tinh thần của các tín đồ và chức sắc Phật giáo… - Tháp Phật giáo là công trình kiến trúc, điêu khắc thường được xây dựng trong khuôn viên các ngôi chùa; dùng để tưởng niệm, mang biểu tượng Phật hoặc lưu giữ xá lỵ Phật và di hài của các bậc tu hành trong giáo hội Phật giáo. Trong xã hội Việt Nam truyền thống cũng như hiện đại, ngôi chùa - tháp Phật giáo có một vị trí vô cùng quan trọng; luôn gắn bó mật thiết với đời sống xã hội. Tùy theo tính chất và đặc điểm các ngôi chùa khác nhau; trong những không gian và thời gian cụ thể, hệ thống chùa - tháp Phật giáo có những chức năng cơ bản sau đây: thứ nhất, chùa là công trình kiến trúc dùng làm nơi thờ Phật và các tông đồ thân tín của Ngài. Trong khuôn viên các ngôi chùa thường có hệ thống tháp Phật giáo để giữ gìn xá lỵ Phật và di hài các bậc tu hành. Xá lỵ là một phần di hài của Đức Phật thu được sau khi đã hỏa táng, như xương, răng, tro... Thứ hai, bên cạnh việc thờ Phật, trong chùa còn thờ các tín ngưỡng dân gian bản địa khác: tín ngưỡng thờ mẫu, thờ thần, thờ vong; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ hậu; tín ngưỡng thờ động thực vật; tín ngưỡng phồn thực, v.v... Rất nhiều tín ngưỡng dân gian truyền thống được phối thờ trong không gian văn hóa đặc sắc này; thể hiện sự “đa mang”, “dung hội”, thấm đẫm tinh thần nhân văn, thể hiện tư tưởng “Hòa quang - đồng trần” của Phật giáo Việt Nam. 1 Từ điển Tiếng Việt, sđd, tr. 902.
  8. 686 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Thứ ba, chùa còn là nơi cư trú, học tập, tu luyện của những người xuất gia tu hành hoặc một số người có hoàn cảnh và điều kiện đặc biệt khác trong xã hội. Một số người có hoàn cảnh khó khăn, gặp những yếm thế trong cuộc sống đời thường; họ đã tìm đến nương dựa vào ngôi chùa như một cứu cánh bình an nhất cho cuộc đời của mình. Trong quá khứ, ngôi chùa ngoài chức năng là một cơ sở tôn giáo dành cho người tu hành còn đóng vai trò một “cơ sở kinh tế” mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Điều này thể hiện rõ qua nguyên tắc do thiền sư Bách Trượng khởi xướng: ( 不作不食: bất tác bất thực - không làm thì không ăn). Nguyên tắc này được thiền sư Vô Ngôn Thông (thế kỷ IX) áp dụng trong chốn thiền môn. «Tăng sĩ trong thiền môn ai ai cũng làm việc lao động, trồng cây, cuốc đất, làm vườn, làm ruộng. Sự xen lẫn công tác lao động và công phu tọa thiền là một thói quen rất hay, gia tăng sự lành mạnh của cơ thể, sự hữu hiệu của thiền định và bảo đảm được phần nào đời sống kinh tế của tự viện”1. Thứ tư, một trong những loại công trình công cộng ra đời sớm nhất ở các địa phương, trước khi ngôi đình làng xuất hiện ở nông thôn làng xã thì hầu như xã thôn Việt Nam không có các công trình công cộng nào khác ngoại trừ ngôi chùa. Chính vì vậy mà có thể vào khoảng thế kỷ XV trở về trước thì ngôi chùa đôi khi còn kiêm chức năng như một ngôi đình. Nhiều nơi, trong những thời gian nhất định ngôi chùa đã từng được sử dụng như một trung tâm hành chính của các địa phương: họp hành, xử kiện, phạt vạ... những việc đời đã được tiến hành ở nơi thực hành đạo. Thứ năm, ngôi chùa chắc chắn là đã từng là trường học cho tăng sĩ và cư dân bản địa. Đây vừa là nơi truyền thụ giáo lý Phật giáo, vừa là nơi truyền thụ tri thức nhân văn cho nhân dân và con em của họ. Hiện nay, trong các ngôi chùa Khmer Nam Bộ của Phật giáo tiểu thừa vẫn còn là nơi dạy chữ cho con em nhân dân trong các phum sóc; đồng thời là trung tâm truyền bá nếp sống và văn hóa Phật giáo, nơi hội tụ mọi sinh hoạt cộng đồng của người Khmer. Thứ sáu, trong một số trường hợp, ngôi chùa còn kiêm chức năng như là một “bệnh viện” Phật giáo. Không chỉ là nơi tu tâm dưỡng tính; trong khuôn viên nội tự nhiều ngôi chùa, người ta trồng nhiều cây thuốc để chữa trị cho những người ốm đau. Ngôi chùa cũng còn là nơi nghỉ ngơi, an dưỡng hoặc luyện tập để nâng cao sức khỏe, trí lực cho một bộ phận tu hành và cư dân bản địa. Trên khu di tích - danh thắng Yên Tử (Uông Bí - Quảng Ninh) vẫn còn di tích Am Dược được coi là nơi chế biến dược liệu của các nhà sư xưa kia. Trong các vườn chùa ở các địa phương, hiện vẫn có nhiều nơi trồng nhiều cây thuốc và các cây cảnh để phục vụ chăm sóc sức khỏe cho các bậc tu hành và một bộ phận cư dân bản địa. 1 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội 2002.
  9. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 687 Điểm qua một số chức năng cơ bản của ngôi chùa như trên đã cho thấy ngôi chùa Việt có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với giáo hội Phật giáo mà ngôi chùa còn có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa - xã hội của cư dân ở các địa phương. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử, Phật giáo Việt Nam với những tư tưởng tiến bộ, nhân văn “Cư trần lạc đạo”, “Hòa quang - Đồng trần” trong những giai đoạn nhất định của lịch sử thông qua hoạt động tại các ngôi chùa của mình đã thể hiện rõ nét chức năng của mình là nơi góp phần quan trọng trong việc củng cố và phát triển an sinh xã hội. Chức năng này sẽ càng thể hiện cụ thể, rõ nét trong quá trình biến đổi và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay thông qua quá trình phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh đương đại. 4. Ngôi chùa Việt với vị thế là điểm đến tâm linh trong các chương trình du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần quan trọng củng cố và phát triển an sinh xã hội Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 thì số người theo “Phật giáo” với 4,6 triệu người, chiếm 35,0% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước1. Tuy nhiên, số lượng người tin theo hoặc chịu ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam thì lớn hơn rất nhiều, chiếm đa phần dân số Việt Nam; từ đó mà có tác động mạnh đến kinh tế du lịch. Hoạt động du lịch cần có các điểm đến du lịch. Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo cần có điểm đến là các ngôi chùa; nơi diễn ra các hoạt động văn hóa tâm linh gắn với các trải nghiệm tâm linh - tinh thần. Tùy theo nguồn tài nguyên du lịch về văn hóa truyền thống mà mỗi địa phương có thế mạnh khác nhau về loại hình du lịch này. Thời gian qua ở Việt Nam, nhiều chương trình du lịch văn hóa tâm linh được hình thành, quảng bá trên các thị trường khách du lịch; nhiều chương trình tour đã được thực hiện trong và ngoài nước. Đặc biệt vào mùa Xuân - mùa của lễ hội, là thời điểm mà hàng triệu người dân Việt Nam đã dành thời gian để “Du Xuân - đi lễ đầu năm” cầu cho năm mới bình an, “quốc thái dân an”. Điểm đến trong các chương trình này phần đa là những ngôi chùa Phật giáo, thu hút rất đông các tín đồ du khách. Phát triển loại hình du lịch này sẽ phát huy được thế mạnh to lớn của kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, tạo sự phát triển du lịch bền vững. Đem lại các lợi ích to lớn khác nhau, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội đồng thời cũng góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Do vậy, hoạt động du lịch mà điểm đến là các ngôi chùa Việt có rất đông du khách tham gia, có tác động lớn đến toàn xã hội. Loại hình du lịch văn hóa tâm linh 1 Tôn giáo tại Việt Nam, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, sửa đổi lần cuối vào ngày 6 tháng 1 năm 2020 lúc 05:49.
  10. 688 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Phật giáo với những hoạt động đặc thù góp phần làm tăng số tín đồ của Phật giáo; chí ít cũng luôn củng cố và giác ngộ tính thiện và lòng từ bi trong đội ngũ du khách; từ đó tác động đến mọi sự chuyển biến xã hội thông qua hành động của các tín đồ với vai trò đã từng là du khách trong các chương trình du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo. Điều đó sẽ tác động đến an sinh xã hội đầu tiên, xuyên suốt. Trong tiến trình phát triển, khi những lo toan về bát cơm manh áo không còn bức bách như trước, người ta lại cần tới những nhu cầu tâm linh - tinh thần, những nhu cầu văn hóa vốn tiềm ẩn lại có dịp để trỗi dậy, bùng phát trong điều kiện cho phép. Người dân đi lễ chùa, dự lễ hội không chỉ với mục đích cầu xin, nhờ cậy, nương tựa vào Thánh Thần mà còn đến với ngôi chùa đến với lễ hội như đến với sinh hoạt văn hóa ở một trình độ, điều kiện cao hơn, với vị thế và tâm thế, tâm thức mới. Người ta đi lễ chùa, dự hội với mục đích vui chơi, hưởng thụ và thưởng ngoạn nhiều hơn, đa dạng hơn, “mới” hơn. Để từ đó mở ra những chân trời mới với tầm nhìn mới và phong độ mới trên con đường tiến lên phía trước, vươn tới tương lai. Đến với những ngôi chùa Phật giáo trong các chương trình du lịch văn hóa tôn giáo - tín ngưỡng, du khách được hòa mình vào trong không gian văn hóa đặc sắc, cô đọng của các địa phương, được tắm mình trong tình cảm cộng đồng sâu sắc, thẩm nhận các giá trị văn hóa của mỗi địa phương được chung đúc và kiểm nghiệm qua thời gian. Đồng thời khách du lịch cũng sẽ trở thành đối trọng làm thay đổi một phần diện mạo ở nơi họ đến tham quan du lịch, tăng tính thu hút, hấp dẫn của di tích và lễ hội, góp phần xóa đi sự nhàm chán, đơn điệu của di tích ở các địa phương. Đưa du khách đến thăm các ngôi chùa, tham dự lễ hội cũng là quá trình đưa họ đến với tính thiêng trong đời sống tâm linh của mỗi người dân, mỗi du khách; vì đó là một nhu cầu không thể thiếu của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ du khách, đặc biệt là khách nội địa. Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần khai thác, phát huy hiệu quả giá trị của các điểm đến du lịch là các ngôi chùa ở khắp mọi miền đất nước. Du lịch là kinh tế dịch vụ mang tính tổng hợp; hoạt động này cần rất nhiều đội ngũ lao động trên các lĩnh vực xã hội. Do vậy, khi du lịch phát triển tới điểm đến là các ngôi chùa sẽ tạo công ăn việc làm cho cộng đồng cư dân bản địa. Tham gia hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, cư dân bản địa sẽ làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương; góp phần thay đổi đầu tư công của địa phương. Du lịch làm tăng thu nhập cho người dân bản địa thông qua việc tham gia kinh doanh dịch vụ, bán và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của địa phương; tạo ra xuất khẩu tại chỗ, góp phần điều tiết cơ cấu kinh tế của địa phương. Đó là những tác động lớn đến an
  11. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 689 sinh xã hội ở các địa phương nơi có hoạt động du lịch. Du lịch đem đến cho các địa phương nơi có những ngôi chùa trở thành điểm đến tham quan du lịch nguồn lợi kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương từ các hoạt động dịch vụ như vận chuyển khách, trông giữ xe, bán hàng hóa - đồ lưu niệm, các dịch vụ lưu trú, dịch vụ phục vụ ăn uống - giải khát... Nhân dân vùng có ngôi chùa vừa quảng bá hình ảnh về văn hóa, về đời sống mọi mặt của địa phương mình, vừa có dịp để giao lưu, học hỏi các tinh hoa văn hóa đem đến từ phía du khách. Điều này góp phần xóa đi sự “khu biệt văn hóa” một cách tương đối vốn có trong đời sống của cư dân các địa phương, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vốn chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Từng bước tạo điều kiện cho các địa phương phát huy nội lực, bằng những bước đi thích hợp, khai thác giá trị nội tại của địa phương, tham gia từng bước vào quá trình hội nhập vào giao lưu trong nước và quốc tế. Đến lượt mình, du lịch sẽ đem đến cho các di tích và lễ hội một sắc thái mới, một sức sống mới. Du lịch đem đến cho di tích và lễ hội môi trường, điều kiện để được trình bày, phô diễn những giá trị mà di tích và lễ hội hàm chứa. Thông qua những hoạt động nội tại của mình, di tích và lễ hội được hoạt động du lịch (với các đối tượng khách đa dạng) kiểm chứng, thẩm định... Từ đó, các di tích và lễ hội (nói cụ thể hơn là những người tổ chức, quản lý di tích và lễ hội, các chức sắc tu hành…) rút ra các bài học cho mình, để rồi tự đổi mới cho phù hợp với điều kiện mới. 5. Giải pháp phát triển du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo, góp phần củng cố và phát triển an sinh xã hội Trong kinh doanh du lịch, muốn phát triển các chương trình du lịch, trước hết cần xây dựng hệ thống các “điểm đến du lịch” khác nhau đạt chuẩn. Theo Luật Du lịch: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch được đầu tư, khai thác phục vụ khách du lịch”1. Như vậy, muốn trở thành điểm đến du lịch thì ở nơi đó phải có các tài nguyên du lịch; những tài nguyên này phải được đầu tư, khai thác để phục vụ các nhu cầu của khách du lịch. Điều nhấn mạnh ở đây là cần phải đầu tư cho các điểm đến du lịch; từ đó có cơ sở, điều kiện để khai thác, phát huy giá trị của điểm đến đó. Không chỉ thỏa mãn nhu cầu cho du khách mà cần phải định hướng và tạo ra nhu cầu mới cho cả du khách và người tổ chức kinh doanh, tạo sự phát triển du lịch bền vững. Muốn phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo ở Việt Nam là phải nói tới việc xây dựng đồng bộ nhiều yếu tố đảm bảo liên quan mật thiết với nhau, bao gồm: 1 Luật Du lịch, số: 09/2017/QH14, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2017
  12. 690 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... * Xây dựng các ngôi chùa trở thành điểm đến văn hóa tâm linh Du lịch văn hóa tâm linh muốn phát triển trước hết cần phải có các điểm đến tâm linh hấp dẫn; đó chính là Không gian thiêng. Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo có giá trị cốt lõi là các di tích lịch sử - văn hóa có bề dày lịch sử, chứa đựng sự linh thiêng, thần bí, hư ảo nhất định nào đó… Đó là các ngôi chùa danh tiếng, những quần thể di tích và danh thắng nổi tiếng của đất nước như các Khu di tích quốc gia đặc biệt Tây Thiên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc); Khu di tích và danh thắng Hương Sơn (Mỹ Đức, Hà Nội); Khu di tích và danh thắng Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh), v.v... và biết bao khu di tích - danh thắng, những ngôi cổ tự trên khắp miền đất nước. Muốn trở thành một điểm đến hấp dẫn của loại hình du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo; ở mỗi ngôi chùa gắn với tâm linh cần đầu tư nghiên cứu để xây dựng, chỉnh trang kiến trúc, bồi tụ di vật tăng sự trang nghiêm, vẻ đẹp, sức hấp dẫn. Nghiên cứu để hệ thống hóa những huyền thoại, truyền thuyết dân gian, Phật tích, thần thoại… có liên quan. Bên cạnh đó là việc tu chỉnh, sáng tạo, bổ sung những “sáng tạo văn hóa dân gian hiện đại”, bồi bổ, minh chứng, dẫn nhập cho công chúng bị hấp dẫn, thuyết phục bởi sự “có lý” của sự vật - hiện tượng, tính logic của vấn đề. Cần phải nghiên cứu cụ thể hơn, đặc trưng hơn về các đối tượng du khách khi đến thăm các ngôi chùa để có các phương án kinh doanh thích hợp. Các điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo với các giá trị cốt lõi của các ngôi chùa cần phải được “Bảo tồn động” tức là đưa các hoạt động xã hội phù hợp (đặc biệt là hoạt động du lịch) vào trong không gian và thời gian thích hợp tại các ngôi chùa đó. Phát triển đa dạng dịch vụ phù hợp nhưng phải giữ được tính Thiêng trong các di tích; đưa được tính Thiêng đến với công chúng, với các đối tượng du khách khác nhau. Để có thể tổ chức được các hoạt động đó, bên cạnh việc thay đổi tư duy, nhận thức, cách làm còn cần phải xây dựng các công trình dịch vụ bổ sung trong và xung quanh các ngôi chùa để trở thành điểm đến du lịch tức là có bổ sung hệ thống dịch vụ đồng bộ, đáp ứng nhiều nhu cầu du khách chứ không chỉ có nhu cầu tôn giáo - tín ngưỡng. Một điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh hiện đại có chứa lõi linh hồn của nó là sự linh thiêng, huyền bí nhưng hòa quyện trong hệ thống dịch vụ hiện đại của khoa học kỹ thuật và công nghệ với các dịch vụ thông minh, tiện ích nhưng lại “bán” các sản phẩm hàng hóa truyền thống và về nội dung và hình thức biểu đạt. Phấn đấu xây dựng mỗi điểm đến du lịch văn hóa tâm linh trở thành một công viên sinh thái văn hóa - tâm linh cho mọi đối tượng du khách. Khi đó, các tiềm năng, tài nguyên, nguồn lực du lịch
  13. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 691 sẽ được nhân lên gấp bội; thu hút đông đảo các đối tượng du khách khác nhau đến từ mọi miền đất nước. Kết nối các điểm đến là các ngôi chùa nổi tiếng hình thành các tuyến du lịch đồng bộ, đặc sắc thông qua xây dựng hệ thống giao thông công cộng đường thủy, đường bộ với các phương tiện đặc thù. Đi cùng với đó là việc xây dựng hệ thống giao thông tĩnh; tức là các điểm dừng, điểm đỗ ven đường, các bến cảng cho tàu thuyền cập bến trên hệ thống sông hồ ở các địa phương. Trên các trục giao thông, ở vào các cửa ngõ, nơi giao lộ cần ưu tiên cho xây dựng các mô hình tượng đài, biển báo, biển chỉ dẫn về di tích với chất liệu, kiểu dáng, kích thước, nội dung phong phú, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của công chúng. Phải coi các biển báo, biển chỉ dẫn này là các hình thức quảng cáo cho văn hóa, văn hiến của các địa phương, đồng thời là hình thức marketing cho du lịch văn hóa tâm linh của địa phương đó. Mỗi biển chỉ dẫn di tích mang tính chất như một biển hiệu quảng cáo cho sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh của nền kinh tế thị trường. Không chỉ đơn thuần là biển quảng cáo mà còn là những “chỉ dẫn địa lý” cho các hàng hóa văn hóa lưu thông trên một địa bàn. Ở các điểm đến văn hóa tâm linh Phật giáo, ngoài việc bồi tụ giá trị cốt lõi, cũng cần đầu tư, tu sửa các không gian phụ cận của các điểm đến tâm linh. Đầu tư cho quần thể các điểm đến du lịch văn hóa tâm linh cũng được xác định như đầu tư cho một khu công nghiệp hiện đại; chỉ có điều “đây là khu công nghiệp không ống khói” - công nghiệp du lịch. Tuy còn rất nhiều vấn đề cần được làm rõ và có rất nhiều các quan điểm, ý kiến khác nhau nhưng trường hợp các Khu du lịch văn hóa tâm linh Tràng An - Bái Đính (Ninh Bình), Tam Chúc - Ba Sao (Hà Nam), Ba Vàng (Quảng Ninh), Tây Yên Tử (Sơn Động, Bắc Giang)... là các biểu hiện cụ thể, rõ nét việc đầu tư cho du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo hiện nay. Để các khu du lịch văn hóa tâm linh này đi vào hoạt động đúng hướng, mang lại hiệu quả tích cực cho nhà nước - doanh nghiệp - địa phương - nhân dân - du khách thì Nhà nước và các địa phương cần xem xét, đánh giá lại tổng thể để xây dựng, điều chỉnh cơ chế chính sách thích hợp trong việc tổ chức và điều phối việc khai thác, phát huy tác dụng quần thể các khu du lịch văn hóa tâm linh này thông qua việc tổ chức hệ thống dịch vụ phù hợp. Từ đó đem lại cho lợi ích quốc gia về nhiều mặt chứ không chỉ đem lại lợi ích cho nhà đầu tư. Nếu làm được điều này sẽ góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tận dụng và phát huy được giá trị của cảnh quan thiên nhiên, kho tàng di sản văn hóa bản địa, tạo công ăn việc làm, tái cơ cấu kinh tế - xã hội của các địa phương... và tạo ra các lợi ích xã hội to lớn khác từ du lịch.
  14. 692 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... * Phát triển các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tổ chức các chương trình du lịch văn hóa tâm linh Muốn phát triển du lịch tâm linh, cần phải xây dựng và phát triển các doanh nghiệp lữ hành tổ chức các chương trình du lịch văn hóa tâm linh đến với đến với các điểm đến tâm linh trên địa bàn cả nước. Hiện nay, du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào mùa lễ hội. Do rất nhiều nguyên nhân, nhiều lý do khác nhau cho nên ở Việt Nam du lịch lễ hội, du lịch văn hóa tâm linh hiện đang trong giai đoạn phát triển đông đúc, ào ạt về mặt số lượng nhưng nhỏ lẻ, chắp vá về mặt quy mô, tính chất tổ chức. Dân chúng tín đồ thường “tự xử”, “tự sướng” cho các nhu cầu tinh thần của mình bằng việc tự thuê xe, tự thuê/mời thầy (cúng) đi cùng, tự sắm sanh lễ vật, tự lễ, tự hưởng… Điều này không tránh được với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam chúng ta; lại được ngập tràn trong không khí “tự do tín ngưỡng”,… Vậy muốn du lịch nói chung, du lịch văn hóa tâm linh nói riêng phát triển cần phải vượt qua tình trạng “tự chủ” này; cần tạo ra sự phân công lao động trong xã hội mang tính chuyên biệt, chuyên nghiệp. Muốn vậy, cần phải phát triển các doanh nghiệp lữ hành vững mạnh cả về nội dung và hình thức hoạt động. Muốn xây dựng các doanh nghiệp lữ hành kinh doanh loại hình du lịch văn hóa tâm linh mạnh cần có nhiều giải pháp đồng bộ: Các doanh nghiệp phải có các chương trình du lịch văn hóa tâm linh đặc hữu. Xây dựng nguồn nhân lực đặc thù, bao gồm đội ngũ hướng dẫn viên (HDV) am hiểu về văn hóa - lịch sử và tôn giáo - tín ngưỡng, có trình độ phù hợp trên nhiều mặt; có thể đáp ứng, định hướng và điều phối được nhu cầu tâm linh cho du khách. Các địa phương cần kết hợp với giáo hội để tổ chức, bồi dưỡng đội ngũ sư trụ trì, các Ban quản lý di tích - danh thắng về các khóa đào tạo ngắn hạn về tổ chức phục vụ và kinh doanh du lịch. Khi có đoàn khách du lịch tới có thể phối hợp phục vụ đoàn khách đáp ứng các nhu cầu văn hóa tâm linh. Người trụ trì các ngôi chùa cần phối hợp với công ty lữ hành để phối hợp cung cấp các dịch vụ đặc trưng cho đoàn khách như các dịch vụ tôn giáo tín ngưỡng, các dịch vụ ẩm thực chay; các hoạt động trình diễn, diễn xướng tâm linh trong không gian các điểm đến tâm linh. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần tư duy mở, tư duy thực tiễn để tổ chức nghiên cứu, tiến tới cho phép thành lập “Hiệp hội thày cúng Việt Nam” của các địa phương ở thời điểm thích hợp. Cần có kế hoạch kiểm tra đánh giá hiểu biết, trình độ chữ Hán, văn hóa truyền thống Á Đông, phong thủy cơ bản, kinh kệ, bài cúng, văn khấn, động tác, tư thế hành lễ, hình ảnh, uy tín đối với cộng đồng… đạt chuẩn. Từ đó cấp giấy phép hành nghề, quy định nội dung, quy chế mà hội viên phải chấp hành thay vì thả nổi tự do không kiểm soát được như hiện nay. Điều này có vẻ như đi ngược lại với việc xưa nay
  15. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 693 chúng ta vẫn nói “bài trừ mê tín dị đoan”? Từ thực trạng tình hình hiện nay có rất nhiều người hành nghề tín ngưỡng không được đánh giá, thẩm định vẫn đang hoạt động tự do phục vụ các nhu cầu của các cá nhân và cộng đồng cư dân. Chúng tôi cho rằng, cần điều chỉnh quan điểm, cách nghĩ, cách nói, cách làm cho phù hợp với tình hình thực tế. Thay vì nói “bài trừ” chúng ta có thể nói “kiểm soát, định hướng và điều tiết” các hoạt động tôn giáo - tín ngưỡng cho phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tế. Đánh giá, thẩm định và công nhận những người có đủ tiêu chuẩn và cho phép họ được hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, tuân theo Luật tôn giáo tín ngưỡng thay vì tình trạng phát triển tràn lan ở mọi nơi do nhu cầu xã hội của các tầng lớp dân chúng; các cơ quan quản lý còn để tình trạng buông lỏng, thả nổi hoạt động tín ngưỡng này ở nhiều địa phương hiện nay. Đối với du khách với vị thế là tín đồ trong các chương trình du lịch văn hóa tâm linh, cái cần đạt được quan trọng nhất đối với họ là sự giải thoát, tự giải thoát, tìm sự thanh thoát, thanh thản trong tâm hồn mỗi con người; giải trừ mọi phiền não; khai mở, thiết lập và củng cố niềm tin trong họ… Muốn vậy cần phải tổ chức các loại hình, hình thức “Diễn xướng tâm linh” tại các điểm di tích lịch sử - văn hóa, các ngôi chùa trong các chương trình du lịch văn hóa tâm linh để “cuốn”, để “hút” tín đồ giao thoa, hội nhập và họ tự giải tỏa các nhu cầu tâm linh tinh thần của mình thông qua hát văn, hầu đồng, hầu bóng... ở các đền phủ điện Mẫu. Những nơi đây trở thành phương tiện đặc hữu thu hút, hấp dẫn tín đồ, du khách khác với không gian u tịch thường thấy ở chốn thiền môn cửa Phật. * Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ du lịch đồng bộ Du lịch là một hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, trở thành một ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp. Ngành kinh tế này cần được đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của du khách khi đến với các điểm đến du lịch. Cần có cơ chế chính sách đồng bộ, thu hút đầu tư trong lĩnh vực du lịch của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào các điểm tuyến du lịch văn hóa tâm linh trên khắp mọi miền đất nước. Trên đường tiếp cận các điểm đến văn hóa tâm linh trong đó có các ngôi chùa, cần quan tâm trước hết đó là hệ thống giao thông động và tĩnh bao gồm đường vận chuyển hiện đại, trạm dừng nghỉ hiện đại, bến bãi hiện đại, dịch vụ đồng bộ, hiện đại. Bắt đầu từ những biển báo, biển chỉ dẫn khoa học, hợp lý, hiện đại khiến cho giao thông thông suốt. Tại các điểm đến văn hóa tâm linh cần nghiên cứu để tạo ra dấu ấn đặc trưng điểm đến thông qua hệ thống dịch vụ nội vùng điểm đến: Từ hệ thống thu gom, xử lý rác thải, dịch vụ vệ sinh công cộng đạt chuẩn. Các dịch vụ tôn giáo tín ngưỡng đặc sắc; dịch vụ lưu
  16. 694 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... trú, nghỉ dưỡng độc đáo; dịch vụ thông tin liên lạc; dịch vụ văn hóa ẩm thực; dịch vụ tài chính ngân hàng; dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ mua sắm, dịch vụ tín ngưỡng… cần được nghiên cứu, cân nhắc trước khi đầu tư. Phát triển cái gì? Phát triển như thế nào phải tính đến đồng bộ, phải tính đến đặc trưng! Các ngôi cổ tự thường được cha ông xây dựng ở những nơi danh thắng; non thiêng tú khí. Nhiều đỉnh non thiêng nay đã được xây dựng hệ thống cáp treo hiện đại, thuận tiện cho du khách hành hương. Tuy nhiên cần bảo tồn, tu bổ tôn tạo các con đường hành hương cổ như con đường Tùng lên non thiêng Yên Tử, con đường ven suối lên Tây Thiên thiền tự… để du khách có thể tiếp tục hành hương nhằm trải nghiệm các giá trị sinh thái tự nhiên và sinh thái văn hóa tâm linh trên con đường mà cha ông đã đi suốt mấy ngàn năm. * Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao Con người đóng vai trò quyết định sự phát triển. Tùy theo yêu cầu phát triển tương ứng với từng giai đoạn mà tập trung đào tạo, bố trí đội ngũ nhân lực đủ về số lượng và chất lượng, ngày càng được củng cố và nâng cao về mọi mặt để phát triển du lịch nói chung, du lịch văn hóa tâm linh nói riêng. Với loại hình du lịch văn hóa tâm linh thì xây dựng nguồn lực con người cần sâu, rộng hơn. Nhân lực của du lịch văn hóa tâm linh bao gồm tất cả tín đồ với tư cách một lữ khách đường xa. Do vậy, cần tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết cho mỗi du khách trước những vấn đề của cuộc sống tâm linh, tinh thần. Du lịch văn hóa tâm linh không chỉ chạy theo nhu cầu cá nhân, nhu cầu đám đông mà phải định hướng, điều tiết nhu cầu đám đông bằng hiểu biết, hợp lý, hợp tình, đúng chủ trương đường lối, đúng pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế… chứ không phải bằng sự “thỏa mãn u mê”, “xả tâm cuồng tín”… Những tu sĩ, người tu hành, người trong ban khánh tiết của các điểm đến tâm linh… cần trở thành một thành tố của du lịch văn hóa tâm linh bằng việc tham gia các khâu công việc nào đó liên quan đến sự đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu, giải tỏa bức xúc (nếu có) trong tinh thần của đội ngũ du khách. Cùng tham gia các công đoạn nào đó trong chu trình du lịch văn hóa tâm linh trong thời gian và không gian xác định, ứng với những cá nhân và cộng đồng xác định bằng những dịch vụ nhất định. Trong một chương trình du lịch văn hóa tâm linh, cần phải định hướng cho tín đồ biết: họ nên đi đâu? làm gì? được gì? làm như thế nào? ở đâu?... hành động/ hành vi đó có ý nghĩa gì? Tại sao? Các công ty du lịch phải xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên (HDV) chuyên biệt, chuyên nghiệp với các chương trình du lịch văn hóa tâm linh. Các cơ quan chức năng của ngành Văn hóa thể thao và Du lịch cần đầu
  17. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 695 tư, sưu tầm, nghiên cứu, hiệu đính, xuất bản các ấn phẩm cung cấp thông tin, tư liệu, hiểu biết cơ bản, cụ thể về các điểm đến tâm linh trên địa bàn của địa phương mình. Giúp cho du khách và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có hiểu biết cơ bản, toàn cảnh trước khi bắt tay vào kinh doanh ở các điểm, tuyến cụ thể. Tổ chức các khóa bồi dưỡng tại chỗ, tại các điểm đến tham quan du lịch (có thể ngay trong khuôn viên các ngôi chùa) về kiến thức và kỹ năng thuyết minh, hướng dẫn tại thực địa, đáp ứng và tạo ra nhu cầu mới cho du khách trong quá trình tham quan du lịch tại các điểm đến văn hóa tâm linh. * Đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư, xây dựng được hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh đặc sắc, phong phú, đa dạng Du lịch văn hóa tâm linh là loại hình du lịch giúp thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu tâm linh - tinh thần của du khách. Tuy nhiên, với đại đa số tín đồ, du khách thông thường, nhu cầu khi đi du lịch văn hóa - tâm linh là không được xác định rõ ràng, cụ thể. Họ đi như một nhu cầu tự thân, nội hàm hiện hữu của cuộc sống, cầu mong khỏe mạnh, may mắn, bình an. Cầu sự yên vui, an tĩnh, an lạc cho cuộc sống của mình và những người thân của họ. Vậy, thế nào là một sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh đặc sắc? Một sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh đặc sắc là một chương trình du lịch đem đến cho du khách sự giải thoát; bình ổn tinh thần; nhẹ nhàng, thư thái, sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn. Một chương trình giúp cho du khách giải tỏa mọi áp lực, xả stress để thấy mình nhẹ nhàng trong tâm khảm. Hiện nay, du lịch văn hóa tâm linh khá căng thẳng, nặng nề, áp lực… đối với phần đông du khách nội địa: họ phải thức khuya dậy sớm; vội vàng, chuẩn bị nhiều thứ; nhớ nhớ, quên quên; nhắc, gọi, đôn đốc… Người tín khách phải lo lắng, đảm nhận, quán xuyến, lo toan mọi thứ. Nếu có các bộ phận chức năng lo chu toàn mọi việc: trụ trì lo lễ, lữ hành lo chương trình, bố trí dịch vụ thích hợp, du khách chỉ phải trả tiền, áp lực sẽ giảm đi rất nhiều! Lúc đó, du lịch văn hóa tâm linh Việt Nam chắc chắn sẽ có sự thay đổi lớn về chất. Sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh đặc sắc phải gắn với những địa danh có chiều sâu lịch sử và văn hóa, nơi có cơ sở hạ tầng đồng bộ; nơi không xô bồ, không quá đông tín đồ; nơi có đội ngũ tu hành chuẩn chỉ, có uy tín, phong thái; dịch vụ đồng bộ, giá cả không phải là vấn đề quan trọng nhất. Cái quan trọng là sự đáp ứng và thích ứng! Thông thường, du lịch tâm linh là bị cuốn đi bởi sự hư ảo, u mê, u u minh minh. Cái cần đạt được là sự giải thoát, thanh thoát trong tâm hồn mỗi con người; giải trừ mọi phiền não… Muốn vậy cần phải tổ chức các loại hình, hình thức để cho du khách được tham gia trực tiếp với các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng. Các hoạt động đó để “cuốn”, để “hút” tín đồ giao thoa,
  18. 696 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... hội nhập với thế giới siêu nhiên thông qua các hình thức “Diễn xướng tâm linh” trong những không gian và thời gian xác định. Tất cả những điều đó sẽ trở thành các phương tiện đặc hữu của loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Ở một số điểm đến văn hóa tâm linh, cần thiết xây dựng các cơ sở lưu trú trong khu vực thích hợp của các ngôi chùa để cho khách với tinh thần “tịnh không trì trú” trong những căn phòng thanh tịnh, sạch sẽ; những bungalow hòa với thiên nhiên cỏ cây sông nước. Ở đó, du khách được “tự giải thoát” chính mình trong những không gian thiêng vào những thời gian thiêng giúp họ trải nghiệm và tìm cứu cánh ở ngay trong tâm hồn của họ. * Liên minh, liên kết phối hợp hành động chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ phận chức năng có liên quan Văn hóa tâm linh rất gần với mê tín dị đoan, cuồng tín; vậy nên cần không ngừng tăng cường liên minh, liên kết giữa nhiều bộ phận chức năng để phát huy vai trò của liên kết cộng đồng, hạn chế tới mức thấp nhất các “vùng tối”, “bờ mê” khi hoạt động riêng lẻ. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh, xử lý kịp thời, đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai hoạt động tín ngưỡng tại các điểm đến du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn. Các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu để xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ, phù hợp với địa phương cũng như với từng điểm đến tâm linh cụ thể để giúp du khách, các hãng lữ hành, các điểm đến tâm linh không mắc phải các sai phạm không đáng có. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, muốn phát triển du lịch và du lịch văn hóa tâm linh cần phải có các giải pháp đồng bộ, liên minh, liên kết chặt chẽ các cấp, các ngành. Du lịch tâm linh muốn phát triển, cần liên kết chặt chẽ, đồng bộ các đối tượng sau: Nhà quản lý (Cơ quan chức năng của ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch) - Nhà doanh nghiệp (Các doanh nghiệp du lịch) - Nhà tu hành (Giáo hội tôn giáo, chức sắc, chức mục, tu sĩ, bản tự, bản đền...) - Nhà khoa học (Người nghiên cứu, tư vấn chính sách, giải pháp). Cần xây dựng một cơ chế phối hợp hành động chặt chẽ, đồng bộ, hợp lý giữa 4 “nhà” này, chắc chắn du lịch văn hóa tâm linh sẽ phát triển bền vững, hiệu quả. 6. Kết luận Đời sống văn hóa - tinh thần của con người trong đó có nhu cầu về đời sống tâm linh, hoạt động tinh thần là còn mãi, cùng đồng hành với sự phát triển của xã hội loài người; mang lại những giá trị nhân văn cho các tầng lớp người trong không gian và thời gian nhất định. Du lịch trở thành phương tiện, công cụ kết nối thời
  19. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 697 gian và không gian thông qua những dịch vụ xác định giúp các đối tượng công chúng thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh của họ; do vậy, du lịch văn hóa tâm linh sẽ không ngừng phát triển. Việt Nam - với bề dày lịch sử và chiều sâu văn hiến của mình đã là một mảnh đất đầy tiềm năng và nguồn lực phong phú cho kinh tế du lịch phát triển nhanh chóng trong có có loại hình du lịch văn hóa tâm linh mà các ngôi chùa Phật giáo là những điểm đến đặc biệt quan trọng. Phát triển sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo với sự tác động và lan tỏa mọi mặt tới đời sống xã hội đã góp phần củng cố và phát triển, mở rộng các hoạt động xã hội góp phần an sinh cuộc sống trong xã hội hiện đại. Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo góp phần giúp cho xã hội thiện lành hơn; giúp cho Phật giáo gắn bó mật thiết và sâu rộng hơn với đời sống xã hội. Đó chính là việc mở rộng và đẩy nhanh quá trình thế tục trong sự nghiệp “Hoằng dương Phật pháp”trong xã hội hiện đại. Phát triển du lịch văn hóa tâm linh là những công việc đặc biệt thú vị, hấp dẫn nhưng cũng đầy khó khăn. Khó khăn lớn nhất là vượt qua tư duy truyền thống; đổi thay cách nghĩ, cách làm, đột phá những ý tưởng sáng tạo mới có thể làm chuyển mình từ kinh tế nông nghiệp truyền thống sang kinh tế công nghiệp, ở đây là công nghiệp du lịch. Bản chất của du lịch là văn hóa, kinh doanh du lịch là kinh doanh ấn tượng. Ấn tượng và sự khác biệt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh. Muốn tạo ra ấn tượng và sự khác biệt cần phải thay đổi cách nghĩ, cách làm truyền thống. Chúng ta có quyền kỳ vọng du lịch Việt Nam có đủ khả năng và điều kiện để tạo ra sự thay đổi. “Đời thay đổi khi ta thay đổi!” (Andrew Matthews) mà Du lịch văn hóa tâm linh Phật giáo là một loại hình du lịch đặc biệt quan trọng ở Việt Nam sẽ tạo ra sự thay đổi lớn đối với toàn xã hội trong đó có việc củng cố và phát triển an sinh xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. T ÀI L I ỆU T H A M K H ẢO 1. Thiều Chửu (1993), Hán Việt tự điển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. 2. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001. 3. Mai Thanh Hải (1998), Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.
  20. 698 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 4. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2016), Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân ký ban hành ngày 18/11/2016. 5. Dương Văn Sáu (2018), Giáo trình Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam, Tái bản có sửa chữa, bổ sung, lần 1, Nxb Lao động, Hà Nội, 2018. 6. Dương Văn Sáu (2018), Giáo trình Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch, Tái bản có sửa chữa, bổ sung, lần 1, Nxb Lao động, Hà Nội, 2018. 7. Dương Văn Sáu (2019), Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Lao động, Hà Nội 2019. 8. Trung tâm thông tin - tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết (Thông tin chuyên đề, Tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo nghiên cứu và giảng dạy), Hà Nội, 1996. 9. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng (2004), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội 2004. 10. https://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/020-minhchi-tamlinh.htm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2