intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947-2022): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc biên soạn cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947-2022) nhằm tái hiện một cách khách quan, trung thực về sự lớn mạnh và trưởng thành của Đảng bộ và nhân dân xã Lý Quốc qua các thời kì; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã trong công cuộc xây dựng và phát triển xã nhà trong 75 năm qua. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 1 dưới đây!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947-2022): Phần 1

  1. ISBN: 978-604-386-636-0 9 786043 866360
  2. ĐẢNG BỘ HUYỆN HẠ LANG BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG NĂM 2022
  3. - 2 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022)
  4. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 3 - CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (1890 - 1969) Người sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam
  5. - 4 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022)
  6. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 5 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) CHỈ ĐẠO NỘI DUNG Ban Chỉ đạo Đề án 02 Huyện ủy Hạ Lang Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lý Quốc BAN CHỈ ĐẠO Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã 1 Ngô Bá Doanh Lý Quốc (Nhiệm kì 2020 - 2025); Trưởng ban. Phó Bí thư Đảng ủy xã Lý Quốc 2 Tô Văn Minh (Nhiệm kì 2020 - 2025); Phó ban. Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch 3 Nông Văn Lưu UBND xã Lý Quốc (Nhiệm kì 2020 - 2025); Phó ban. Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND 4 Lục Văn Thủ xã; Thành viên. Đảng ủy viên, Chủ tịch UBMTTQ 5 Mã Văn Bảo xã; Thành viên.
  7. - 6 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) BAN BIÊN SOẠN Tiến sĩ chuyên ngành Dân tộc học, giảng viên Trường Đại học 1 Mai Thị Hồng Vĩnh Khoa học, Đại học Thái Nguyên (Chủ biên). Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch 2 Ngô Bá Doanh HĐND xã Lý Quốc (Nhiệm kì 2020 - 2025); Phó Bí thư Đảng ủy, xã Lý Quốc 3 Tô Văn Minh (Nhiệm kì 2020 - 2025) Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử 4 Đoàn Thị Yến Đảng, giảng viên Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt 5 Đỗ Hằng Nga Nam, giảng viên Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Trưởng Ban Biên soạn 6 Dương Minh Nhật Lịch sử Đảng bộ Công ty Xuất bản và Truyền thông Đại Việt.
  8. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 7 - BAN SƯU TẦM TƯ LIỆU Đảng ủy viên 1 Lục Văn Thủ Trưởng ban PCT HĐND xã 2 Nông Văn Bằng PCT UBND xã Phó ban 3 Mã Thị Bên CT HLHPN xã Ủy viên 4 Tạ Thị Thúy CT HND xã Ủy viên Công chức Văn 5 Thẩm Văn Cương hóa - Xã hội; Ủy viên. Công chức VP - 6 Nông Thị Đôi Ủy viên TK; Ủy viên. 7 Nông Thị Với PCT MTTQ xã Ủy viên 8 Mã Thị Hạnh PBT ĐTNCS Ủy viên 9 Nông Văn Khâm CT Hội NCT Ủy viên Công chức Tư 10 Mã Thị Hiền pháp - Hộ tịch; Ủy viên Ủy viên. 11 Lương Cao Kim Chỉ huy trưởng Ủy viên Công chức Văn 12 Đàm Văn Hiệp hóa - Xã hội; Ủy Ủy viên viên.
  9. - 8 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022)
  10. LƯỢC ĐỒ XÃ LÝ QUỐC, BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 9 - HUYỆN HẠ LANG, TỈNH CAO BẰNG
  11. - 10 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022)
  12. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 11 - LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”; Đề án số 02-ĐA/TU, ngày 25/6/2021 của Tỉnh ủy Cao Bằng về nghiên cứu, biên soạn và xuất bản các ấn phẩm lịch sử Đảng bộ địa phương, lịch sử truyền thống ngành giai đoạn 2021 - 2025, Ban Chá p hà nh Đả ng bọ xã Lý Quốc khóa XX, Nhiệm kì 2020 - 2025 quyết định tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947 - 2022)”. Mục đích của việc biên soạn cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc nhằm tái hiện một cách khách quan, trung thực về sự lớn mạnh và trưởng thành của Đảng bộ và nhân dân xã Lý Quốc qua các thời kì; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã trong công cuộc xây dựng và phát triển xã nhà trong 75 năm qua. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân trong và ngoài xã Lý Quốc hiểu rõ hơn về vùng đất, con người Lý Quốc. Đồng thời, cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947 - 2022)” sẽ là nguồn tài liệu quý để giáo dục truyền thống cách mạng, chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ và nhân dân địa phương, giúp cho thế hệ trẻ tự hào, phấn đấu học tập và rèn luyện, chủ động, sáng tạo, tích cực trong công tác, góp phần xây dựng xã Lý Quốc ngày càng phát triển văn minh, giàu đẹp.
  13. - 12 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) Cấu trúc của cuốn sách gồm Lời giới thiệu, Phần Mở đầu, 5 chương (I, II, III, IV, V) và các phần Kết luận, Phụ lục. Nội dung cuốn sách ghi lại những đóng góp to lớn của nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn xã Lý Quốc vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong các thời kỳ tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với việc ghi lại những thành công của Đảng bộ, cuốn sách cũng ghi lại cả những mặt hạn chế trong công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương qua các chặng đường lịch sử; những bài học về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mặt trận chính trị, tư tưởng và tổ chức; về việc vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương nhằm đảm bảo tính trung thực, khách quan của lịch sử. Trong quá trình tổ chức nghiên cứu, biên soạn và xuất bản cuốn sách, Đảng bộ xã, Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Ban Chỉ đạo Đề án 02 Huyện ủy Hạ Lang - Trực tiếp là Ban Tuyên giáo Huyện ủy Hạ Lang; sự giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm của các đồng chí cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo xã qua các thời kỳ và của toàn thể nhân dân xã. Nhân dịp xuất bản và phát hành cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947 - 2022)”, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lý Quốc trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ tất cả các cơ quan, đơn vị và cá
  14. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 13 - nhân đã tham gia ý kiến xây dựng trong quá trình biên soạn và xuất bản cuốn sách. Sau một thời gian biên soạn, đến nay, cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947 - 2022)” đã hoàn thành. Mặc dù Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn đã có nhiều nỗ lực song chắc chắn cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lý Quốc kính mong tiếp tục nhận được sự đóng góp của các đồng chí để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần xuất bản sau này. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Lý Quốc (1947 - 2022) với các đồng chí và bạn đọc. T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BÍ THƯ Ngô Bá Doanh
  15. - 14 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022)
  16. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 15 - Mở đầu QUÊ HƯƠNG, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG Lý Quốc là xã biên giới, nằm ở phía Đông bắc huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, cách huyện lỵ Hạ Lang khoảng 27 km. Xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 3.693,43 ha1. Vị trí địa lý của xã Lý Quốc được xác định: Phía Bắc, Đông và Đông nam tiếp giáp với Trung Quốc; phía Tây nam tiếp giáp với xã Đồng Loan; phía Tây bắc tiếp giáp với xã Minh Long. Địa hình của xã có độ cao trung bình khoảng 300 m so với mặt nước biển, với đặc điểm nổi bật là địa hình không phân chia thành các vùng rõ rệt mà xen kẽ giữa đồi núi là các thung lũng tương đối bằng phẳng. Hệ thống núi của xã Lý Quốc khá đa dạng gồm nhiều dãy núi đá vôi, núi đất tạo nên sắc thái cảnh quan đặc trưng cho địa phương. Phja Pjao (Núi nhọn) nằm ở phía Nam xóm Bản Bang. Đây là một trong những đỉnh núi cao nhất ở khu vực Bằng Ca, với độ cao 732 m so với mặt nước biển. Dựa trên đặc điểm ngọn núi có đỉnh cao nhọn nên người dân địa phương gọi là núi nhọn - Phja Pjno2. Phja Pjao đã từng là điểm cảnh giới máy bay địch trong những năm tháng chiến tranh. Phja Pu Chẩn (Núi ông Chẩn) nằm ở độ cao 500 m so với 1 Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, Quyển III, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.75. 2 Tiếng Tày: Phja có nghĩa là núi, Pjao là sắc, nhọn.
  17. - 16 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) mực nước biển. Phja Pu Chẩn nằm liền kề với nhiều ngọn núi cao tạo nên một khu vực núi đá rất rộng nằm giữa các xóm Bản Thuộc (xã Đồng Loan), Bản Thầng (xã Minh Long), Bản Bang Trên, Bản Bang Dưới, Bằng Ca (xã Lý Quốc), trải dài hơn 2 km. Phja Thao Khị nằm ở phía Bắc xóm Bản Bang, có độ cao 350 m so với mặt biển. Phja Thua Khẩu và Phja Mạch là hai ngọn núi liền nhau, hai đỉnh cách nhau khoảng 300 m. Hai ngọn núi này nằm ở phía Đông xóm Bản Bang, phía Tây bắc xóm Lũng Phiô, có độ cao 500 m - 600 m so với mặt nước biển. Phò Khâu Dăn là ngọn núi nằm về phía Đông bắc xóm Bản Sao. Điểm đặc biệt, Phò Khâu Dăn vừa là núi đá, vừa là núi đất. Ngọn núi có độ cao 682 m so với mặt nước biển, đường kính của chân núi đá trải dài trên 2.000 m. Với ưu thế về đặc điểm độ cao và địa bàn tiếp giáp, từ trên đỉnh núi Phò Khâu Dăn có thể quan sát được cả bốn phía, nhất là vùng tiếp giáp giữa hai xã Minh Long và Lý Quốc với lãnh thổ Trung Quốc. Do đó, trong chiến sự biên giới, nơi đây là một trong những điểm chốt giữ của quân và dân ta. Không những có vị trí quan trọng, núi Phò Khâu Dăn còn cung cấp nguồn nước sạch cho người dân ở Bản Khòong, Đông Ké và Lũng Thoang. Pò Đồn nằm ở phía Bắc xóm Bằng Ca, là ngọn núi đất nhô cao hình bát úp. Núi có độ cao khoảng 450 m so với mặt nước biển. Từ trên ngọn núi có thể quan sát ra bốn phía rất rộng, tầm nhìn về hướng Tây bắc quan sát được cả khu vực, Bằng Ca. Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã xây dựng đồn Bancra (Bằng Ca) trên núi. Do đó, người dân quen gọi là Pò Đồn. Phja Mạ gồm cả một khu vực núi đá nằm ở phía đông xóm Nặm Tốc, phía Tây xóm Lý Vạn và Lũng Pấu. Trong đó, đỉnh núi Phja
  18. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 17 - Mạ cao nhất (662 m so với mặt nước biển), các ngọn núi khác cao từ 350 m - 500 m. Sở dĩ có tên gọi núi ngựa, bởi lẽ quần thể các núi đá ở đây có hình dạng giống con ngựa. Đỉnh núi Phja Mạ có hình dạng trông giống như một vị quan ngồi trên lưng ngựa nên người dân địa phương gọi là núi Ngựa. Đỉnh Pò Rèng trông giống như hình đầu con ngựa, còn ngọn núi Phja Cheo nhô lên hai đỉnh, một đỉnh trông giống như hình người lính xưa, đội chiếc mũ chóp đang dắt con ngựa sắt, một ngọn còn lại trông giống như vệ sĩ đeo binh khí. Phja Choong có ba đỉnh trông như ba người đang vừa đi vừa đánh chiêng trống, giống đoàn quân nhạc đang theo hầu vua quan1. Bá Tu Giáo là một ngọn núi đá vôi cao khoảng 510 m so với mặt nước biển, từ trên đỉnh núi nhìn xuống thấy toàn bộ Hồ Thôm Rao, Bản Sao, Bằng Ca, Khưa Khoang. Trên đỉnh núi có một cột đá rất to cao, người dân địa phương thường ví như cây bút chì “trời ban tặng”, ở giữa ngọn núi có khe rộng và phiến đá bằng phẳng, quanh năm khí hậu khá mát mẻ. Ngoài ra, thuộc địa phận của xã còn có Núi Mạy Lổm (núi cây ngả rạp) thuộc phía đông của xóm Lũng Thoang và Phja Nhàn nằm phía Tây nam của Nặm Tốc. Ngoài ra còn có dãy Núi Phia Rạc thuộc xóm Bằng Ca là nơi lưu giữ dấu tích thành Nhà Mạc trong lịch sử. Xen kẽ giữa các nếp gãy của núi đá, núi đất là những thung lũng nhỏ hẹp, tương đối bằng phẳng, được người dân Lý Quốc khai thác thành các cánh đồng, khu ruộng bậc thang, như cánh đồng Bản Bang, Bản Khoòng. Đồng thời, xen giữa các thung 1Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, Quyển III, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.72.
  19. - 18 - LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC (1947 - 2022) lũng, núi đá nổi lên nhóm đồi nối tiếp nhau như nhóm đồi thuộc địa bàn các xóm Bản Bang Trên, Bản Bang Dưới, Khưa Khoang, Bằng Ca và Bản Sao với các mỏm đồi nối tiếp nhau tương đối thấp và bằng phẳng theo hướng Đông bắc - Tây nam. Trong đó, Phò Luông là ngọn đồi vừa cao vừa rộng, trên đỉnh lại bằng phẳng. Bên cạnh đó, với sự cấu tạo địa chất, trên địa bàn xã có các hang động như Ngườm Bang, Ngườm Soong, Ngườm Ốn, Ngườm Quý, Ngườm Khấu, Ngườm Vài,… Hệ thống núi đá, núi đất trên địa bàn xã Lý Quốc không chỉ thể hiện tính chất phức tạp về địa hình mà còn mang ý nghĩa lịch sử, có vị trí quan trọng trong quốc phòng - an ninh ở địa phương. Tuy nhiên, với địa hình đồi núi hiểm trở gây khó khăn cho việc đi lại, quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và hoạt động sản xuất tại địa phương. Lý Quốc thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng rõ rệt nhất là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 hằng năm, khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.400 mm đến 1.600 mm, tập trung nhiều nhất là vào mùa hè (80 - 90%). Trên địa bàn xã xuất hiện hiện tượng mưa tuyết, sương muối, thậm chí có những năm có tuyết rơi. Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Vào mùa khô nhiệt độ thấp, ít mưa, bị ảnh hưởng bởi gió mùa đông bắc nên rất lạnh. Ở Lý Quốc nhiệt độ trung bình là 200C, thời điểm cao nhất là 360C và thấp nhất là 00C. Nhìn chung, đặc điểm khí hậu ở địa phương là nhiều mưa, lạnh, hiện tượng sương muối, mưa tuyết, gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng và
  20. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ LÝ QUỐC - 19 - vật nuôi cũng như sức khỏe của con người nhưng lại là điều kiện thích hợp để phát triển một số cây ưa lạnh. Lý Quốc là một trong những địa bàn có con sông Quây Sơn chảy qua. Sông Quây Sơn có hai nhánh chính bắt nguồn từ Trung Quốc. Nhánh lớn nhất chảy qua xã Ngọc Khê; nhánh thứ hai hay còn gọi là sông Tà Pè, chảy theo hướng Đông nam qua các xã Phong Nậm, Ngọc Khê, hợp lưu với nhánh chính tại xã Ngọc Khê, rồi chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn và Đàm Thủy, qua huyện Hạ Lang rồi chảy sang Trung Quốc. Đoạn sông chảy qua xã Lý Quốc là từ Nặm Tốc đến Lý Vạn kéo dài 2,5 km. Bên cạnh sông Quây Sơn, trên địa bàn xã còn có hệ thống hồ (Hồ Khưa Sâu, Hồ Khưa Rứn, Hồ Khưa Khoang, Hồ Thôm Rao, Hồ Khưa Đeng) và các con suối (Bản Bang, Khe Bản Sao). Sông, suối, hồ đã góp phần cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương, song do địa hình núi cao, bị chia cắt mạnh nên thường tạo ra những dòng chảy xiết vào mùa mưa gây ra các trận lũ, lũ quét ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của đồng bào các dân tộc nơi đây. Do đặc điểm địa hình núi non hiểm trở nên việc đi lại của người dân gặp nhiều khó khăn. Trước đây, đồng bào Tày, Nùng ở Lý Quốc đi lại chủ yếu thông qua các con đường mòn men theo sườn đồi, núi khá hiểm trở với phương thức ngựa thồ, đi bộ. Khi Pháp xâm lược, để phục vụ cho mục đích cai trị, chúng đã cho mở đường ô tô từ Cao Bằng đi Bằng Ca. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các tuyến đường được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Đặc biệt là từ khi thực hiện chủ trương của Chính phủ, cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới, hệ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2