Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Lộc (1977-2017): Phần 2
lượt xem 4
download
Tiếp nội dung phần 1, Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Lộc (1977-2017): Phần 2 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Xã Xuân Lộc hình thành, bước đầu xây dựng và phát triển (1975 - 1985); xã Xuân Lộc trong công cuộc đổi mới (1986 - 2000); xã Xuân Lộc trong hội nhập và phát triển (2001 - 2017). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Lộc (1977-2017): Phần 2
- CHƯƠNG III XÃ XUÂN LỘC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 2000) I. Giai đoạn 1986 - 1990 Từ ngày 15 đến 18 - 12 - 1986, tại thủ đô Hà Nội diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Đại hội VI là đại hội đổi mới, đánh dấu bước ngoặt quan trọng mang tính lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Tháng 1 - 1987, Tỉnh ủy Bình Trị Thiên mở Hội nghị bàn về nhiều vấn đề cấp thiết; trong đó, tập trung thực hiện 3 chương trình lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Vận dụng vào tình hình địa phương, Hội nghị Huyện ủy huyện Phú Lộc triển khai Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy gắn triển khai xây dựng 3 chương trình lớn của Đảng với các tiểu vùng trên địa bàn huyện. Theo đó, vùng núi và vùng trọng điểm lúa và gò đồi có nhiệm vụ phấn đấu có lương thực hàng hóa và có dự trữ cho huyện. Riêng vùng núi, giữ vững diện tích và thâm canh lúa nước; tăng diện tích cây trồng công nghiệp xuất khẩu, khuyến khích lập vườn, lập ao nuôi cá nước ngọt; ổn định tình hình và cuộc sống cho bà con nhân dân(1). (1) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Lộc, Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lộc 1975 - 2005, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2015, tr 84 - 85 59 59
- Chi bộ xã Xuân Lộc họp bàn, xác định rõ phương hướng chung trong giai đoạn trước mắt là lãnh đạo nhân dân quán triệt sâu sắc đường lối và chủ trương đổi mới của Đảng; trên cơ sở lao động, đất đai và ngành nghề hiện có, phát huy tính tự lực, tự cường, xóa bỏ quan liêu bao cấp, ra sức cần kiệm, chủ động sáng tạo trong lao động sản xuất, tạo ra những cơ sở vật chất bước đầu cho địa phương đang gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách. Chi bộ xã Xuân Lộc xác định phương hướng và nhiệm vụ lãnh đạo tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo mô hình “công - nông - lâm nghiệp”; tập trung phát triển cây lương thực; quan tâm phát triển cây trồng có giá trị kinh tế theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”. Cơ cấu cây trồng - vật nuôi, cụ thể: Về lương thực, cây lúa và cây sắn là chủ lực, khoai lang là cây bổ sung. Về cây công nghiệp, có trẩu, ớt, gừng, thuốc lá, lạc, chè. Về lâm nghiệp, tập trung khai thác gỗ là chủ yếu. Trong chăn nuôi, chú trọng phát triển đàn heo và trâu bò. Các mục tiêu trước mắt đến năm 1987 và các năm tiếp theo được xác định là lương thực hằng năm đạt 500 tấn (lúa 156 tấn); cây công nghiệp, dược liệu xuất khẩu: ớt khô 5 tấn, đót khô 50 tấn, trẩu 50.000 gốc, hoài sơn 6 tấn; chăn nuôi: trâu 50 con, bò 30 con và heo 600 con; bình quân lương thực đầu người đạt 320 kg; diện tích canh tác 104 ha, trong đó diện tích lúa 50 ha, năng suất 30 tạ/ha. Giải pháp đặt ra là chú trọng đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng gắn với mở mang diện tích canh tác, kiến thiết đồng ruộng, mở mang ngành nghề, tiến tới thực hiện chuyên canh cây trồng vật nuôi. Thực hiện thâm canh 60 60
- gắn với cải tạo đồng ruộng, từng bước bỏ đi các diện tích chua phèn ở đầu khe để giữ nước, thực hiện 4 biện pháp liên hoàn về giống (ổn định 2 bộ giống 203 - 93 Miền Tây và 13/2), phân bón (phân chuồng từ 5 - 6 tấn/ha, phân xanh), bảo đảm lịch thời vụ và phòng trừ sâu bệnh; phát triển hoa màu, cây công nghiệp và chăn nuôi. Chi bộ xã Xuân Lộc cũng đặc biệt quan tâm tập trung lãnh đạo củng cố tập đoàn sản xuất và hợp tác xã mua bán. Các đơn vị kinh tế này được củng cố theo hướng gọn nhẹ về bộ máy, bao gồm những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt; tập trung hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Hợp tác xã mua bán được bổ sung nhân lực và thành lập Ban Quản lý có chức năng vừa quản lý thị trường, vừa thu ngân sách cho xã. Hoạt động chính của tập đoàn sản xuất là tập trung tháo gỡ khó khăn về khâu làm đất trong thực hiện khoán sản phẩm theo tinh thần Chỉ thị 100; quy hoạch lại đất trưa mạ, nhà ở và vườn cây (3 - 5 sào), giúp xã viên ổn định lâu dài và yên tâm sản xuất. Chú ý phát triển và chăm sóc tốt cây trẩu là cây trồng mới. Chú ý trồng gắn với chăm sóc bảo vệ cây mít, tránh để tình trạng bị trâu bò phá hoại. Thay đổi cách trồng và quản lý: Trồng phải tập trung, theo từng khu có bờ tranh cản lửa, cấm trâu bò thả rông, xây dựng nội quy thưởng phạt rõ ràng. Trồng xong giao khoán cho xã viên từ chăm sóc đến thu hoạch. Năm 1987, lần đầu tiên, trạm y tế xã Xuân Lộc có y sĩ tăng cường, đã làm tốt công tác phòng chống sốt rét gắn với phát động phong trào vệ sinh môi trường xung quanh nơi ở, thực hiện “ăn chín uống sôi” và hạn chế uống nước suối, 61 61
- phun thuốc diệt trừ muỗi mỗi năm 2 lần, xây dựng mỗi đội có 1 vệ sinh viên. Chi bộ xã cũng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống mê tín dị đoan gắn với tuyên truyền vận động nhân dân cảnh giác và thực hiện tố giác những đối tượng hành nghề bói toán trên địa bàn; đấu tranh chống những biểu hiện của lối sống vô văn hóa, lãng phí và lười biếng. Trong giáo dục, có sự kết hợp giữa nhà trường - phụ huynh và đoàn thể xã hội nhằm bảo đảm huy động mỗi năm đến trường 300 học sinh; vận động mở lớp 9 trên địa bàn; quan tâm đến đời sống của đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên mầm non. Xây dựng lực lượng công an, dân quân tự vệ vững mạnh, làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ trật tự trị an thôn xóm; xây dựng và củng cố lực lượng công an viên và tiểu đội du kích đảm bảo đủ số lượng và hoạt động có hiệu quả; tổ chức vận động nhân dân học tập và thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự. Tổ chức cho nhân dân học tập nội quy bảo vệ tài sản, phòng chống cháy; phát động quần chúng tố giác những tên lưu manh, trộm cắp; thường xuyên kiểm tra hộ khẩu, qua đó ngăn ngừa tình trạng kẻ lạ lợi dụng trà trộn vào địa bàn, gây nên mất an ninh thôn xóm. Công tác xây dựng Đảng, qua các phong trào thi đua cách mạng lựa chọn quần chúng tích cực để bồi dưỡng đào tạo và giới thiệu kết nạp Đảng; thành lập tổ trung kiên; kiên quyết xử lý những đảng viên vi phạm đạo đức kỷ luật; phấn đấu kết nạp nhiều đảng viên mới. Năm 1988, Chi bộ xã Xuân Lộc kết nạp 2 đảng viên đầu tiên sau khi thành lập xã là Phan Văn Thể và Nguyễn Lễ. 62 62
- Bộ máy chính quyền tập trung củng cố theo tinh thần Chỉ thị 33, bổ sung số lượng đầy đủ, lựa chọn đội ngũ có năng lực và phẩm chất tốt, xây dựng lề lối làm việc khoa học và gần gũi với thực tiễn (thường xuyên đi về cơ sở), phân công cán bộ phụ trách từng đội. Chi bộ chỉ đạo tiến hành đại hội các đoàn thể để bầu ra các Ban Chấp hành có đủ năng lực và uy tín hoạt động. Ngày 19 - 4 - 1987, cán bộ và nhân dân xã Xuân Lộc hăng hái tham gia vào cuộc bầu cử Quốc hội khóa VIII và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp. Tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự lãnh đạo kịp thời và sâu sát của chi bộ, sự nhập cuộc tích cực của chính quyền, các tổ chức đoàn thể trong xã, ngày 19 - 4 - 1987 thực sự trở thành ngày hội lớn của nhân dân xã Xuân Lộc. Với sự đồng thuận và nhất trí cao, cử tri xã Xuân Lộc đã bầu ra Hội đồng Nhân dân xã bảo đảm các tiêu chuẩn theo luật định, tiêu biểu cho trí tuệ và khát vọng vươn lên của các tầng lớp nhân dân toàn xã. Ngày 12 - 9 -1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động “Làm trong sạch, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”. Nghị quyết nêu rõ, cuộc vận động này là cuộc đấu tranh giữa đổi mới và bảo thủ, trì trệ; giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cũng là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới do công cuộc cải cách ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu đang diễn ra theo xu hướng không có lợi cho sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, ngày 20 - 6 - 1988, 63 63
- Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng”, xác định tăng cường “đổi mới tư duy, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, kiến thức và năng lực của cán bộ… bảo đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới”(1). Chi bộ xã Xuân Lộc tổ chức quán triệt và vận dụng nội dung tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) vào thực tiễn xây dựng Đảng và lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh tại địa phương. Ngày 5 - 4 - 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 về “Cơ chế khoán mới trong các hợp tác nông nghiệp”. Nghị quyết của Đảng xác định: “Hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với HTX”. Lịch sử gọi đây là “Khoán 10” hay “Khoán hộ” để phân biệt với “Khoán 100” trước đó. Sự ra đời của “Khoán 10” được đánh giá là biểu hiện sinh động và cụ thể trong chủ trương đổi mới của Đảng ta. Ngày 12 - 3 - 1989, Đảng bộ huyện Phú Lộc tiến hành Đại hội Đại biểu lần thứ V, tập trung thảo luận về công tác xây dựng Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo đổi mới kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh trên địa bàn. Điểm nổi bật là Đảng bộ Phú Lộc đã chấp hành các nghị quyết của Đảng nghiêm túc, bình tĩnh trước khó khăn, giữ vững mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, xây (1) Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế, Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 3, 1975 - 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 139 64 64
- dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ nhằm vượt qua khó khăn(1). Ngày 30 - 6 - 1989, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị quyết về việc phân chia địa giới các tỉnh Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình và Phú Khánh. Tỉnh Bình Trị Thiên được phân thành các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 đơn vị hành chính, gồm thành phố Huế và các huyện Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc và A Lưới. Ngày 19 - 11 - 1989, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, cán bộ và nhân dân xã Xuân Lộc hăng hái tham gia cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân 3 cấp. Hội đồng Nhân dân xã Xuân Lộc nhiệm kỳ 1989 - 1994, tiến hành kỳ họp lần 1 bầu ra cơ quan Ủy ban Nhân dân xã; ra nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong giai đoạn trước mắt. Đồng chí Nguyễn Lễ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Ngày 26 - 5 -1990, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế ra Nghị quyết số 05 - NQ/TU về lãnh đạo việc tổ chức điều chỉnh địa giới hành chính các huyện và thành phố. Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, tháng 7 - 1990, bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các đơn vị mới, trong đó có huyện Phú Lộc (tách ra từ huyện Phú Lộc cũ gồm Phú Lộc và Nam Đông) bắt đầu hoạt động. Huyện Phú Lộc mới tái lập ra đời tác động rất lớn đến xã Xuân Lộc đang rất cần có sự đầu tư để phát triển. (1) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Lộc, Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Lộc, giai đoạn 1975 - 2005, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2015, tr 90 65 65
- II. Giai đoạn 1991 - 1995 Đầu năm 1991, Chi bộ xã Xuân Lộc có 6 đảng viên, gồm 4 chính thức và 2 dự bị. Quyền Bí thư là đồng chí Nguyễn Lễ. Chi bộ tổ chức sinh hoạt, xem xét tư cách đảng viên, phân loại rà xét từng đảng viên thực hiện phê bình và tự phê bình trong Đảng với thái độ nhìn thẳng sự việc, nói rõ sự thật, phê bình giúp đỡ lẫn nhau nhằm tăng cường sự đoàn kết. Nhìn chung, các đồng chí đảng viên trong chi bộ đều đạt tư cách và phát huy tốt vai trò và chức năng hoạt động. Phát huy những kết quả đạt được sau gần 15 năm thành lập, vượt qua những khó khăn và thử thách, Chi bộ xã Xuân Lộc giữ vững và kiên định lập trường cách mạng, lãnh đạo chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tiếp tục vươn lên, thực hiện công cuộc đổi mới quê hương, vững vàng trong công cuộc xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Năm 1991, Chi bộ xã Xuân Lộc tiến hành Đại hội chi bộ lần thứ III, nhiệm kỳ 1991 - 1993(1). Đại hội được tổ chức thành 2 vòng. Đại hội vòng 1 được tổ chức vào ngày 17 -3 -1991. Đại hội góp ý và bày tỏ sự thống nhất cao đối với nội dung các dự thảo văn kiện trình Đại hội VII của Đảng. Đó là, Dự thảo Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ; Dự thảo Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000; Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng; Dự thảo về xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; Dự thảo Điều lệ Đảng sửa đổi. Đại (1) Trước năm 1991, chi bộ tổ chức hội nghị - đại hội hằng năm. 66 66
- hội bầu đoàn đại biểu Chi bộ xã Xuân Lộc tham dự Đại hội Đảng bộ huyện Phú Lộc lần IX (vòng I); thông qua Chương trình hành động của Chi bộ xã Xuân Lộc từ đại hội vòng I đến vòng II. Tháng 6 - 1991, cùng với chủ trương chia tách các đơn vị hành chính 3 tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế), bản dân tộc ít người chính thức được thành lập, sáp nhập vào xã Xuân Lộc. Bản có 3 dân tộc sinh sống: Bru - Vân Kiều, Pa cô, Cơ tu(1). Sau khi được sáp nhập vào xã Xuân Lộc, tổ Đảng bản dân tộc ít người được thành lập. Từ năm 1991, các tổ chức đoàn thể cũng được hình thành, củng cố và hoàn thiện: Mặt trận, nông dân, phụ nữ, Đoàn Thanh niên… Cũng trong năm 1991, xã Xuân Lộc có thay đổi cơ bản về mặt tổ chức quản lý. Toàn xã được tổ chức lại, có 6 thôn và 1 bản: Thôn 1 (Vinh Hưng), thôn 2 (Lộc An), thôn 3 (Vinh Hưng), thôn 4 và 5 (Vinh Mỹ), thôn 6 (Lộc Sơn, Vinh Hưng) và bản Phúc Lộc. Đại hội Chi bộ xã Xuân Lộc lần thứ III (vòng 2), nhiệm kỳ 1991 - 1993, sau khi đánh giá tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, địa hình dân cư 2 vùng riêng biệt có sự phát triển chênh lệch, xác định 6 nhiệm vụ mà chi bộ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân xã Xuân Lộc cần tập trung thực hiện tốt trong giai đoạn 1991 - 1993, đó là: (1) Từ năm 1982 đến năm 1991, 9 đảng viên của bản vẫn duy trì chế độ sinh hoạt gắn với nơi ở cũ. Đều đặn hằng tháng, đại diện đảng viên về lại nơi ở cũ để tham gia sinh hoạt, đóng Đảng phí, đảm bảo đúng theo quy định của Điều lệ Đảng. Hệ thống chính trị tại cơ sở chưa được hình thành. 67 67
- 1. Xác định mô hình và thế mạnh kinh tế là vùng gò đồi, kinh tế gia đình chăn nuôi bò đàn; qua đó, chuẩn bị tốt các điều kiện để quy hoạch định canh, định cư cho tiểu vùng dân tộc Vân Kiều. 2. Tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở tiểu vùng, tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến nông, trồng cây lâm nghiệp, chăn nuôi bò đàn, phát triển kinh tế gia đình, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. 3. Triển khai có trọng tâm, trọng điểm công tác xây dựng cơ bản, trước hết là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, giao thông và khai thác thế mạnh của địa phương; tăng cường công tác thủy lợi, giao thông, y tế và giáo dục; củng cố giao thông nông thôn, từng bước xây dựng nông thôn mới, đặc biệt ở vùng dân tộc thiểu số Vân Kiều. 4. Thực hiện dạy tốt và học tốt; quan tâm đội ngũ giáo viên; thực hiện tốt các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số; quan tâm các đối tượng chính sách; thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa; quy tập mộ và xây dựng nghĩa trang liệt sĩ. 5. Thực hiện Chỉ thị 135/HĐBT gắn với Quyết định 240/HĐBT; tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm. Bảo vệ an ninh chính trị địa bàn. 6. Nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng trên cả 3 mặt: Chính trị, tư tưởng và văn hóa. Đổi mới phong cách điều hành của chính quyền. Phát huy vai trò của đoàn thể phù hợp với cơ chế mới. 68 68
- Đại hội Chi bộ xã Xuân Lộc nhiệm kỳ 1991 - 1993 đã bầu Chi ủy gồm 3 đồng chí: Nguyễn Lễ, Bí thư chi bộ; Hồ Văn Biên, Phó Bí thư chi bộ và Phan Văn Thể, Chi ủy viên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Công tác xây dựng Đảng giai đoạn này gắn liền với cuộc vận động thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII). Ngay từ năm 1992, Chi bộ xã Xuân Lộc nghiêm túc triển khai học tập và thực hiện. Bước 1, chi bộ mời đảng viên tham gia học tập theo cụm do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế và Huyện ủy Phú Lộc tổ chức. Bước 2, tổ chức cho cán bô, đảng viên và cán bộ cốt cán quán triệt các nội dung cơ bản của nghị quyết, qua đó xây dựng chương trình hành động sát thực với tình hình thực tế của địa phương. Thực hiện chủ trương đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương VI của Đảng; quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng, Chi bộ xã Xuân Lộc lãnh đạo chính quyền và hợp tác xã tiếp tục thực hiện chế độ khoán đến hộ gia đình xã viên, giúp nông dân quan tâm và chủ động hơn trong sản xuất. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, các đơn vị kinh tế tập thể ở Xuân Lộc tiếp tục có sự chuyển đổi về phương thức và nội dung quản lý, phát huy tốt vai trò ở các khâu chủ yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, như thủy lợi, cung ứng giống, phân bón, bảo vệ thực vật… Thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp toàn diện, xã Xuân Lộc phấn đấu hình thành sản xuất chuyên canh; khắc phục tư tưởng “dễ làm, khó bỏ” trong phát triển trồng màu; tổ chức tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh gắn với việc khuyến khích 69 69
- phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đặt ra trong 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng - hàng xuất khẩu. Thực hiện công tác vận động quần chúng, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết Trung ương 8B - NQ/HNTW về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được thông qua vào ngày 27 - 3 - 1990 tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, Chi bộ xã Xuân Lộc lãnh đạo các đoàn thể đổi mới phương thức hoạt động phù hợp với tâm tư, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên đoàn thể mình; qua đó, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng, giữa đoàn thể với đoàn thể để hoàn thành nhiệm vụ chính trị chung. Chi bộ lãnh đạo kiện toàn các tổ chức đoàn thể quần chúng. Năm 1993, Chi bộ xã Xuân Lộc tiến hành Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 1993 -1995. Đại hội bầu Chi ủy khóa IV, gồm 3 đồng chí: Nguyễn Lễ, Bí thư chi bộ; Hồ Văn Biên, Phó Bí thư chi bộ; Phan Văn Thể, Chi ủy viên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Phát huy những kết quả đạt trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đề ra tại Đại hội chi bộ lần III, Nghị quyết Đại hội Chi bộ xã Xuân Lộc lần thứ IV xác định cơ cấu kinh tế của địa phương là nông nghiệp - lâm nghiệp - dịch vụ gắn với định hướng chỉ đạo phát triển 2 vùng của xã; chỉ đạo có trọng điểm, trọng tâm những mục tiêu và mũi nhọn kinh tế. Ngày 10 - 11 - 1994, cử tri xã Xuân Lộc tham gia bầu cử Hội đồng Nhân dân ba cấp, trong đó có Hội đồng Nhân 70 70
- dân cấp xã. Kỳ họp thứ nhất Hội đồng Nhân dân xã Xuân Lộc nhiệm kỳ 1994 - 1999 đã bầu đồng chí Phan Văn Thể làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Công tác xây dựng chính quyền có nhiều chuyển biến đáng ghi nhận. Đến năm 1995, về mặt tổ chức, xã Xuân Lộc cơ bản sắp xếp biên chế và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các chức danh Ủy ban Nhân dân xã theo Nghị định 46 - CP và Nghị định 50 - CP của Chính phủ. Triển khai Quyết định số 164/TCCP ngày 29 - 6 - 1995 của Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ ban hành về tổ chức thôn, bản ở các tỉnh miền núi và chức năng, nhiệm vụ của trưởng thôn bản, xã Xuân Lộc thực hiện nhiều biện pháp thiết thực nhằm củng cố mô hình tổ chức thôn. Các thôn hình thành theo địa bàn liên canh liên cư của từng vùng. Trưởng thôn được Ủy ban Nhân dân xã giao một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, như: Chăm lo phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; trực tiếp quản lý và xây dựng lực lượng công an, du kích trên địa bàn, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; tổ chức thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, giao nộp thuế và các nghĩa vụ công dân khác theo luật định, phòng chống các tệ nạn xã hội, tổ chức thực hiện tốt các chính sách xã hội; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể vận động nhân dân thực hiện nếp sống mới, đảm bảo và tạo điều kiện cho các tổ chức đoàn thể hoạt động. Cùng với cả nước, Xuân Lộc triển khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống 71 71
- mới ở khu dân cư” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa IV) phát động tại Hội nghị lần thứ 2 vào tháng 5 - 1995. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Xuân Lộc tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập và quán triệt các vấn đề cơ bản đặt ra trong cuộc vận động; qua đó, kịp thời đề ra những biện pháp thực hiện có hiệu quả, lấy đại đoàn kết cộng đồng làm sức mạnh và động lực; lấy việc xây dựng cuộc sống mới của cộng đồng dân cư làm nội dung nhằm bồi dưỡng, phát huy nội lực của cộng đồng dân cư, xây dựng khu dân cư lành mạnh, tiến bộ và ổn định, góp phần thiết thực đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Chi bộ xã Xuân Lộc cũng đã lãnh đạo xây dựng các tổ mặt trận, tổ phụ nữ, tổ nông dân và các Chi Đoàn Thanh niên trong các khu dân cư. Ủy ban Nhân dân xã tạo điều kiện về kinh phí hoạt động cho mặt trận và các đoàn thể khá hơn trước. Các đoàn thể quần chúng tập trung củng cố, xây dựng tổ chức, tiêu biểu như phong trào xây dựng chi đoàn mạnh, phong trào nông dân sản xuất giỏi, phong trào người phụ nữ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn 1991 - 1996, Chi bộ xã Xuân Lộc tập trung lãnh đạo tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện; thực hiện tốt chương trình lương thực, thực phẩm; tập trung chỉ đạo áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để đưa năng suất lao động ngày càng cao; bước đầu xây dựng và hình thành kinh tế hộ gia đình và kinh tế nhiều thành phần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 72 72
- Toàn xã Xuân Lộc có 3 tập đoàn sản xuất thực hiện tốt vai trò làm dịch vụ (thủy lợi, giống, phòng trừ sâu bệnh…), theo dõi và chỉ đạo sản xuất. Có 2/3 tập đoàn được xếp vào loại giữ được vai trò điều hành trong chuyển đổi và phát triển kinh tế địa phương. Được khuyến khích, người dân Xuân Lộc mạnh dạn vay vốn, đầu tư đẩy mạnh sản xuất, mở thêm nhiều dịch vụ trên địa bàn; tiếp tục phát triển mô hình kết hợp vườn rừng với chăn nuôi đại gia súc, phát huy tiềm năng thế mạnh địa phương, giải quyết công ăn việc làm, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế. Năm 1995, tổng diện tích gieo trồng đạt 232,76 ha, đạt 94% kế hoạch.; tổng lương thực quy thóc 469,66 tấn; bình quân lương thực đầu người đạt 237 kg/năm. Bản Phúc Lộc khai hoang và đưa vào sản xuất 4 ha lúa nước. Năng suất lúa từ 28,6 tạ/ ha (1994) lên 30,82 tạ/ha (1995), vượt chỉ tiêu 0,82 tạ/ha, tăng 5,8% so với năm 1993. Đông xuân 1994 - 1995, làm thí điểm 2 ha lạc có năng suất 8 tạ/ha. Diện tích hoa màu đạt 94% kế hoạch. Lâm nghiệp phát triển với tốc độ nhanh và trở thành phong trào rộng khắp trong toàn xã. Nghề rừng thực sự trở thành nghề kinh doanh. Năm 1994 - 1995, toàn xã Xuân Lộc trồng mới 407 ha, ước tính kinh phí đầu tư 407 triệu đồng, trong đó vốn tự có của người dân là 180 triệu đồng. Năm 1994 và 1995, đã giao đất giao rừng 350/407 ha. Khó khăn là vẫn còn tình trạng phá rừng làm nương rẫy. Các chính sách xã hội được quan tâm. Ngoài giải quyết kịp thời và thường xuyên các chế độ chính sách, xã Xuân 73 73
- Lộc còn ưu tiên việc vay vốn với lãi suất thấp và các chế độ đãi ngộ cho các đối tượng chính sách; thực hiện tốt chính sách định canh, định cư để phát triển kinh tế vườn, trồng rừng và chăn nuôi. Hộ nghèo từng bước giảm, hộ khá tăng lên rõ rệt. Chi bộ xã Xuân Lộc có nghị quyết riêng về lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; trong công tác quốc phòng - an ninh, toàn xã xây dựng được các tổ địa bàn dân cư, qua đó giải quyết được các mâu thuẫn nhỏ phát sinh, góp phần giữ vững được tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ theo luật định. Bám sát tình hình và nghị quyết của cấp trên, của chi bộ, Hội đồng Nhân dân có nghị quyết kinh tế - xã hội và chuyên đề phù hợp. Ủy ban Nhân dân xã vừa đảm bảo nguyên tắc, vừa thể hiện sự nhạy bén linh hoạt trong điều hành và quản lý. Lề lối làm việc khoa học, rõ ràng và cụ thể. 16/19 thành viên Hội đồng Nhân dân xã được đào tạo, bồi dưỡng tại Trường cán bộ Nguyễn Chí Thanh. Tổ chức Đảng vững vàng về tư tưởng chính trị; không ngừng nâng cao năng lực tổ chức; có sự đổi mới phương thức lãnh đạo. Đảng viên phát huy vai trò gương mẫu. Năm 1993 - 1995, Chi bộ xã Xuân Lộc được công nhận trong sạch vững mạnh. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, vai trò của các đoàn thể được phát huy. Hội Liên hiệp Phụ nữ và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã lập dự án giải quyết việc làm cho đoàn viên, hội viên trên địa bàn. 74 74
- III. Giai đoạn 1996 - 2000 Ngày 1 - 2 - 1996, Chi bộ xã Xuân Lộc tiến hành Đại hội chi bộ lần thứ V, nhiệm kỳ 1996 – 1998. Đại hội bầu Chi ủy gồm 3 đồng chí: Nguyễn Lễ - Bí thư chi bộ, Hồ Văn Biên - Phó Bí thư chi bộ và Phan Văn Thể - Chi ủy viên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã. Ngày 29 - 9 - 1998, Chi bộ xã Xuân Lộc tiến hành Đại hội giữa nhiệm kỳ 1996 - 2000, bổ sung phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng. Từ chỗ xác định mô hình kinh tế nông - lâm nghiệp - dịch vụ với mũi nhọn cần tập trung chỉ đạo là trồng rừng - chăn nuôi đại gia súc gắn với phát triển mô hình vườn rừng - chăn nuôi đại gia súc - ổn định định canh, định cư, chi bộ chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển cụ thể và toàn diện cả 2 vùng kinh tế mới và định cư, định canh; khai thác tốt hơn, có hiệu quả các thế mạnh; phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Ba mục tiêu cơ bản được Đại hội Chi bộ xã Xuân Lộc lần thứ V xác định là: 1. Tranh thủ thời cơ thuận tiện để nắm bắt kịp thời thông tin về các dự án - kế hoạch gọi vốn đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông nghiệp, nông thôn và nông dân. 2. Xây dựng quốc phòng vững mạnh, đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình”, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực; xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm pháp luật; ổn định trật tự an toàn xã hội. 75 75
- 3. Tăng cường giữ vững sự đoàn kết thống nhất nội bộ giữa 2 dân tộc; đẩy mạnh xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Tư tưởng chỉ đạo là: Từng bước đưa công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào nông thôn; chuyển đổi nhanh về cơ cấu kinh tế - cây trồng - vật nuôi; khuyến khích đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần bằng nhiều hình thức hợp tác, liên doanh, ký kết hợp đồng; tập trung chỉ đạo các mũi nhọn kinh tế; quy hoạch ổn định định canh, định cư cho đồng bào dân tộc Vân Kiều gắn với phát triển kinh tế vườn, chuyển từ du canh sang thâm canh, từng bước ổn định đời sống cho đồng bào; nâng cao dân trí và hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân. Đại hội xác định rõ những chỉ tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong giai đoạn 1996 - 2000 : - Về kinh tế, tiếp tục phát triển theo cơ cấu “nông nghiệp - lâm nghiệp - dịch vụ”; coi chương trình lương thực - thực phẩm là trọng tâm; xem lâm nghiệp là mũi nhọn, quán triệt rõ trong nhân dân việc trồng và bảo vệ rừng không chỉ để phủ xanh đất trồng đồi trọc mà là hướng phát triển kinh tế của địa phương; xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần; liên doanh liên kết nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng hiện có. Tập đoàn sản xuất chuyển đổi theo chủ trương chung, vừa phù hợp tình hình thực tế, vừa thể hiện vai trò chỉ đạo, điều hành quản lý nền kinh tế địa phương. - Về văn hóa - xã hội, thực hiện tốt các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; thực hiện tốt 76 76
- chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Về giáo dục, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo nguồn giáo viên tại chỗ, thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ các chính sách về thương binh, liệt sĩ; tiếp tục quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang, hoàn thành việc xây dựng nghĩa trang liệt sĩ. Thực hiện nghiêm túc Nghị định 87/CP về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa. - Về đạo đức và lối sống, thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên và tăng cường lãnh chỉ đạo đấu tranh chống tiêu cực, lãng phí, quan liêu và xa rời quần chúng; xây dựng mối quan hệ tốt đảng viên chi bộ với đảng viên nơi cư trú. Cấp ủy phải nắm tình hình và kiểm tra xử lý kịp thời đơn thư tố cáo, liên quan đến cấp ủy viên và đảng viên; đẩy mạnh xây dựng và triển khai cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Qua 5 năm xây dựng và phát triển (1996 - 2000), kinh tế xã Xuân Lộc tiếp tục phát triển theo cơ cấu chuyển dịch mà Đại hội chi bộ lần thứ V đề ra. Xác định mũi nhọn, sản xuất nông nghiệp là hàng đầu nên tập trung chỉ đạo việc khai hoang, phục hóa, cải tạo diện tích bị bồi đắp nhằm mở rộng diện tích lúa nước, coi trọng phát triển lúa màu và cây công nghiệp; xã đã khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển mô hình kinh tế trang trại nhỏ, giao diện tích ruộng đất ổn định lâu dài, vì vậy người dân phát huy được tính chủ động, tích cực cải tiến phương thức canh tác đầu tư, thâm canh bố trí cây trồng hợp lý để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Đến năm 2000, diện tích gieo trồng toàn xã đạt 234,8 ha (tăng 7,3 ha so với năm 1996, bằng 98,4% kế hoạch); tổng 77 77
- sản lượng quy thóc đạt 319,2 tấn (bằng 113,9% kế hoạch); năng suất lúa bình quân đạt 39 tạ/ha (tăng 1,92 tạ/ha so với năm 1996 và bằng 111,4% kế hoạch); bình quân lương thực đầu người ước đạt 145kg/người/năm. Từ năm 1998, thực hiện chủ trương chuyển cây trồng phát triển vùng nguyên liệu mía đường, xã Xuân Lộc đã chỉ đạo chuyển đổi từ đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp kém hiệu quả, gồm 122,3 ha sang trồng mía, đạt năng suất bình quân 35 tấn/ha. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, bằng việc kết hợp nhiều nguồn vốn từ chương trình 327 - 4304, qua vốn vay ngân hàng, vốn tự có trong dân đã có những chuyển biến tích cực. Phong trào trồng rừng phát triển mạnh với nhiều mô hình trồng rừng từ 10 - 30 ha. Không để xảy ra tình trạng cháy rừng. Đã chấm dứt tình trạng khai thác rừng trái phép và hạn chế việc phát rừng làm nương rẫy. Năm năm 1996 - 2000, toàn xã đầu tư 450 triệu đồng trồng mới 295 ha rừng, đạt 98,33% kế hoạch, nâng độ che phủ đất trống đồi trọc là 45%. Trong chăn nuôi, tập trung chỉ đạo theo hướng nâng chất lượng, trọng lượng và giảm về số lượng đối với trâu bò, nâng số lượng và chất lượng đàn heo và gia cầm, phát triển các mô hình nuôi gà công nghiệp, vịt đàn. Đã thực hiện việc lai sin cải tạo đàn bò. Năm 2000, đàn trâu có 185 con, tăng 15 con so với năm 1996; đàn bò có 950 con; đàn heo có 350 con. Năm 2000, toàn xã có 4,2 ha ao hồ nuôi cá và 4.500 - 5.000 gia cầm, tỷ lệ thu nhập trong chăn nuôi là 31,9% so với 29,5% năm 1996. Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiêp, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác dụng tích cực trong 78 78
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cúc Đường (1946-2014): Phần 1
94 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Quang Long (1947-2022): Phần 1
131 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đồng Thịnh (1946-2015): Phần 2
184 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Phú Tiến (1946-2015): Phần 2
162 p | 6 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bộc Nhiêu (1946-2015): Phần 2
168 p | 6 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Phương (1947-2014): Phần 2
164 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đào Xá (1953-2018): Phần 2
130 p | 2 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Thượng Nung (1947-2020): Phần 1
50 p | 3 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Điềm Mặc (1946-2015): Phần 2
183 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Liên Minh (1937-2015): Phần 1
116 p | 5 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Lâu Thượng (1939-2014): Phần 2
81 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Phương Giao (1946-2014): Phần 2
76 p | 8 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Cây Gáo (1975-2015): Phần 1
97 p | 13 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bình Long (1946-2014): Phần 1
126 p | 10 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Quang Long (1947-2022): Phần 2
163 p | 3 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Chiềng Bằng (1945-2015): Phần 1
78 p | 9 | 1
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Đào Xá (1953-2018): Phần 1
150 p | 6 | 1
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Vũ Chấn (1947-2014): Phần 2
146 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn