intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giá trị của test kiểm soát hen trong theo dõi điều trị dự phòng hen phế quản trẻ em

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

67
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu kiểm định giá trị theo dõi điều trị dự phòng hen bằng ACT và điều tra thái độ bệnh nhân và gia đình về ACT. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết của đề tài nghiên cứu này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giá trị của test kiểm soát hen trong theo dõi điều trị dự phòng hen phế quản trẻ em

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> GIÁ TRỊ CỦA TEST KIỂM SOÁT HEN TRONG THEO DÕI ĐIỀU TRỊ<br /> DỰ PHÒNG HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM<br /> Nguyễn Tiến Dũng*, Ngô Thị Xuân**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Sử dụng bộ trắc nghiệm kiểm soát hen (ACT) đã được áp dụng trong theodõi điều trị dự<br /> phòng hen ở một số nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam chưa có tài liệu nàocông bố nghiên cứu vấn đề này ở<br /> trẻ em.<br /> Mục tiêu: Kiểm định giá trị theodõi điều trị dự phòng hen bằng ACT và điều tra thái độ bệnh nhân và gia<br /> đình về ACT.<br /> Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, mỗi bệnh nhi được theodõi dọc trong 12 tuần. Tất cả các bệnh nhi đủ tiêu<br /> chuẩn chọn vàonghiên cứu sẽ trải qua 4 lần khám cách nhau 4 tuần/lần. Sử dụng ACT để đánh giá mức kiểm<br /> soát hen. Điều tra thái độ của bệnh nhân và gia đình bằng sử dụng bảng câu hỏi.<br /> Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2007 có 72 bệnh nhân hen được theodõi điều trị dự phòng. Có<br /> mối tương quan đồng biến chặt giữa mức kiểm soát hen theoGINA với điểm ACT (r = 0, 659; p < 0,001), giữa<br /> FEV1 với điểm ACT (r=0,583; p < 0,001) và giữa PEF với ACT (r=0, 676; p < 0,001). Sau 4 tuần điều trị, có 4<br /> trẻ không thay đổi mức kiểm soát hen thì điểm ACT thay đổi là 2,5 ± 2,1. Nhóm tốt lên 1 bậc có 22 trẻ và điểm<br /> ACT tăng lên là 3,5 ± 2,3. Nhóm tốt lên 2 bậc có 9 trẻ và điểm ACT tăng lên caonhất là 6,7 ± 4,4. Sự khác biệt<br /> giữa điểm ACT ở các nhóm thay đổi mức kiểm soát hen có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau 12 tuần theodõi<br /> chothấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm ACT giữa 2 nhóm thay đổi FEV1 và PEF (p < 0,05). Hầu<br /> hết bệnh nhân và gia đình đều chorằng ACT là bộ công cụ thuận tiện, có thể giúp họ tự đánh giá mức kiểm<br /> soát của mình.<br /> Kết luận: ACT là bộ công cụ đơn giản, có giá trị trong theodõi điều trị dự phòng hen ở trẻ em.<br /> Từ khóa: Test kiểm soát hen; mức kiểm soát hen.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> VALUE OF ASTHMA CONTROL TEST IN FOLLOWING UP ASTHMA CONTROL TREATMENT IN<br /> CHILDREN<br /> Nguyen Tien Dung, Ngo Thi Xuan<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 123 - 128<br /> Background: Asthma Control Test (ACT) has been used tofollow up asthma control treatment in children<br /> in some countries, but not in Vietnam.<br /> Objective: Tomeasure value of ACT in following up asthma control treatment and survey attitude of<br /> patients and their families with ACT.<br /> Method: Descriptive study; duration of following up of each patient tobe 12 weeks and each patient were<br /> examined 4 times in every 4 weeks; ACT has been used toevaluate level of asthma control. Surveying attitude of<br /> patients and their families were carried out by questionnaires.<br /> Results: During from January toNovember 2007, seventy twoasthma children 6-15 years of age had been<br /> studied. After 4 weeks of preventative treatment, there were closed correlation between levels of asthma control by<br /> GINA with ACT (r = 0.659; p < 0.001) and between FEF with ACT (r = 0.676; p < 0.001). There were 4 patients<br /> * Khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, ** Khoa Nhi bệnh viện Tỉnh Bắc Ninh<br /> Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tiến Dũng, ĐT: 0913518596,<br /> Email: dung7155@yahoo.com<br /> <br /> Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010<br /> <br /> 1<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> without change of asthma control and they had change of ACT points to be 2.5 ± 2.1. There were 22 patients with<br /> improving 1 level of asthma control and they had increasing change of ACT points to be 3.5 ± 2.3. There were 9<br /> patients with improving 2 level of asthma control and they had highest increasing change of ACT points to be 6.7<br /> ± 4.4. (P10%, là các nhóm có FEV1 ở thời điểm sau 12<br /> tuần so với thời điểm sau 4 tuần tăng ≤ 10% và<br /> >10%. Kết quả bảng 3 cho thấy sự khác biệt<br /> giữa sự thay đổi điểm ACT trong quá trình<br /> điều trị ở 2 nhóm thay đổi giá trị FEV1 là có ý<br /> nghĩa thống kê với p < 0,05.<br /> <br /> bệnh nhân và gia đình (5%) cho rằng tự mình<br /> đánh giá và theo dõi mức độ ổn định của bệnh<br /> thì không chính xác, thường cho điểm cao hơn,<br /> trong đó có những câu hỏi khó đánh giá nhất là<br /> câu số 5 (3%).<br /> <br /> Bảng 4: Phân bố sự thay đổi điểm ACT và giá trị của<br /> PEF<br /> <br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các<br /> bệnh nhân đều được điều trị dự phòng cùng<br /> một loại thuốc (Seretide), liều lượng theo tuổi<br /> và theo bậc hen. Sau 12 tuần, có 35 bệnh nhân<br /> được theo dõi liên tục để đánh giá sự thay đổi<br /> điểm số của ACT có tương quan với sự thay<br /> đổi của mức kiểm soát hen theo GINA, FEV1,<br /> PEF và sự thay đổi này phân biệt được các<br /> nhóm bệnh nhân thay đổi về bậc hen và chức<br /> năng hô hấp sau điều trị dự phòng. Theo kết<br /> quả ở bảng 1 cho thấy, sự thay đổi của ACT<br /> có mối tương quan đồng biến, chặt, có ý<br /> nghĩa thống kê với sự thay đổi mức độ kiểm<br /> soát hen theo tiêu chuẩn của GINA (r = 0,659;<br /> p < 0,001). Nghiên cứu của Schartz M và cộng<br /> sự cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của<br /> chúng tôi, tương quan có ý nghĩa thống kê<br /> giữa sự thay đổi của ACT với sự thay đổi của<br /> điểm cho của bác sỹ chuyên khoa (r = 0,44; p <<br /> 0,001). Các tác giả còn so sánh ACT với bộ câu<br /> hỏi về kiểm soát hen (ACQ: Asthma Control<br /> Questionnaire) đã chỉ ra tương quan có ý<br /> nghĩa thống kê giữa ACT với ACQ(10). So với<br /> ACQ, cũng là bộ công cụ để đánh giá mức độ<br /> kiểm soát hen thì ACT đơn giản và dễ áp<br /> dụng hơn(11).<br /> <br /> PEF<br /> <br /> Cải thiện ≤<br /> Cải thiện<br /> p<br /> 10% (n = 10) >10% (n = 25)<br /> Thay ñổi ñiểm ACT 2,8 ± 1,1<br /> 4,9 ± 2,6<br /> < 0,05<br /> trung bình<br /> <br /> Kết quả bảng 4 cho thấy, nhóm có sự thay<br /> đổi giá trị của PEF trên 10% có 25 bệnh nhân<br /> chiếm tỷ lệ 71,4%, cao hơn so với nhóm có sự<br /> thay đổi giá trị của PEF dưới 10% (28,6%) và sự<br /> thay đổi điểm ACT trung bình cũng cao hơn rõ<br /> rệt (4,9 ± 2,6). Sự khác biệt giữa sự thay đổi điểm<br /> ACT ở 2 nhóm thay đổi giá trị của PEF là có ý<br /> nghĩa thống kê với p < 0,05.<br /> Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi điều<br /> tra thái độ của bệnh nhân và gia đình theo bảng<br /> câu hỏi thăm dò lấy ý kiến.<br /> Bảng 5: Thái độ của bệnh nhân với ACT<br /> Thông số<br /> Đơn giản, dễ sử dụng<br /> Tự mình ñánh giá mức ñộ ổn<br /> ñịnh của bệnh<br /> Tự theo dõi mức ñộ ổn ñịnh của<br /> bệnh<br /> Thuận tiện cho việc theo dõi lâu<br /> dài<br /> Không tốn kém<br /> Mất ít thời gian<br /> <br /> Số lượng<br /> N=72<br /> 70<br /> 61<br /> <br /> Tỷ lệ(%)<br /> <br /> 60<br /> <br /> 83<br /> <br /> 71<br /> <br /> 99<br /> <br /> 71<br /> 61<br /> <br /> 99<br /> 85<br /> <br /> 97<br /> 85<br /> <br /> Kết quả bảng 5 cho thấy, đa số bệnh nhân và<br /> gia đình đều cho rằng ACT là bộ công cụ để<br /> đánh giá mức độ kiểm soát hen thuận tiện cho<br /> việc theo dõi lâu dài và ít tốn kém (99%), đơn<br /> giản, dễ sử dụng (97%). Bệnh nhân và gia đình<br /> tự mình có thể đánh giá được mức độ ổn định<br /> của bệnh và mất ít thời gian (85%), tự theo dõi<br /> mức độ ổn định của bệnh (83%). Chỉ một số ít<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Kiểm định giá trị theo dõi và điều trị dự<br /> phòng của ACT<br /> <br /> Bảng 1 cũng cho thấy tương quan giữa sự<br /> thay đổi điểm số của ACT với sự thay đổi của<br /> FEV1 (r = 0,58), tương quan giữa sự thay đổi<br /> điểm số của ACT với sự thay đổi giá trị của PEF<br /> (r = 0,67). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng<br /> tương tự như nghiên cứu của Schartz M và cộng<br /> sự, tương quan có ý nghĩa thống kê giữa sự thay<br /> đổi của ACT với sự thay đổi giá trị của FEV1 (r =<br /> 0,29; p < 0,001)(10). Các nghiên cứu của các tác giả<br /> <br /> 4Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010<br /> khác trên trẻ em hen phế quản tại Trung quốc,<br /> Nhật bản và Singapore cũng cho kết quả tương<br /> tự với chúng tôi(1,2,3,12). Như vậy, sử dụng ACT ở<br /> những nơi không có điều kiện đo chức năng hô<br /> hấp, cũng đánh giá được mức ổn định của bệnh<br /> theo thời gian.<br /> Sau 12 tuần điều trị dự phòng không có bệnh<br /> nhân nào bậc hen xấu đi, giữ nguyên bậc có 4<br /> bệnh nhân, đa số là bệnh nhân tốt lên 1 bậc<br /> chiếm tỷ lệ 63%. Sự khác biệt giữa sự thay đổi<br /> điểm ACT trung bình ở các nhóm thay đổi bậc<br /> hen là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Các<br /> nghiên cứu của Robert A. Nathan và cộng sự,<br /> của Schartz M và cộng sự, khi nghiên cứu kiểm<br /> định dài hạn về ACT trên lâm sàng cũng chỉ ra<br /> rằng sau 12 tuần theo dõi bệnh nhân thì sự thay<br /> đổi điểm ACT trung bình phân biệt được các<br /> nhóm thay đổi bậc hen (p < 0,05)(7,10).<br /> Kết quả bảng 3 cho thấy có sự khác biệt có ý<br /> nghĩa thống kê giữa điểm ACT trung bình ở 2<br /> nhóm cải thiện giá trị của FEV1 với p < 0,05. Hay<br /> nói cách khác, ACT phân biệt được các nhóm<br /> bệnh nhân cải thiện về giá trị của FEV1. Kết quả<br /> này của chúng tôi cũng tương tự như của các tác<br /> giả khác(10). Bảng 4 cũng cho kết quả tương tự về<br /> mối tương quan giữa thay đổi ACT trung bình<br /> với PEF ở cả 2 nhóm.<br /> Như vậy ACT không những phân biệt được<br /> các nhóm bệnh nhân cải thiện về giá trị của FEV1<br /> mà còn phân biệt được các nhóm bệnh nhân cải<br /> thiện về giá trị của PEF. Điều này nói lên rằng<br /> bệnh nhân có thể tự theo dõi mức độ ổn định<br /> của bệnh bằng ACT tại nhà khi không có điều<br /> kiện đi khám bệnh và đo chức năng hô hấp. Tuy<br /> nhiên theo một nghiên cứu khác lại cho thấy<br /> không nên đánh giá quá cao một chỉ số nào, kể<br /> cả các xét nghiệm hay thăm dò chức năng hô<br /> hấp trong theo dõi hen ở trẻ em mà tốt nhất là<br /> cần phải tổng hợp nhiều yếu tố(4).<br /> <br /> (99%), đơn giản, dễ sử dụng (97%), tự mình<br /> đánh giá mức độ ổn định của bệnh và mất ít<br /> thời gian (85%), tự theo dõi mức độ ổn định<br /> của bệnh (83%).<br /> Như vậy ACT được người bệnh chấp nhận<br /> và tin tưởng, đơn giản, dễ sử dụng, thuận tiện để<br /> người bệnh có thể tự đánh giá mức độ kiểm soát<br /> hen của mình khi không có điều kiện đi khám<br /> định kỳ và đo chức năng hô hấp.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> ACT đáp ứng được với các biến đổi của tình<br /> trạng kiểm soát hen và chức năng hô hấp theo<br /> thời gian đồng thời cũng phân biệt được các<br /> nhóm khác nhau về sự thay đổi bậc hen theo<br /> GINA, giá trị FEV1 và PEF.<br /> ACT là bộ công cụ đơn giản, dễ áp dụng,<br /> được bệnh nhân và gia đình chấp nhận và tin<br /> tưởng để có thể tự đánh giá mức độ kiểm soát<br /> hen của mình khi không có điều kiện đi khám<br /> định kỳ.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> Thái độ của bệnh nhân với ACT<br /> Từ kết quả ở bảng 5 cho thấy, đa số bệnh<br /> nhân và gia đình đều cho rằng ACT là bộ công<br /> cụ để đánh giá mức độ kiểm soát hen thuận<br /> tiện cho việc theo dõi lâu dài và ít tốn kém<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> 9.<br /> <br /> 10.<br /> <br /> Asano M, Sugiura T, Miura K, Torii S, Ishiguro A, (2006):<br /> Reliability and validity of the self-report Quality of Life<br /> Questionnaire for Japanese School-aged Children with<br /> Asthma (JSCA-QOL v.3). Allergol Int. 55(1):59-65.<br /> Chen HH, Wang JY, Jan RL, Liu YH, Liu LF, (2008): Reliability<br /> and validity of childhood asthma control test in a population<br /> of Chinese asthmatic children. Qual Life Res. 17(4):585-93.<br /> Chong LY, Chay OM, Shu-Chuen L, (2006): Is the childhood<br /> asthma questionnaire a good measure of health-related<br /> quality of life of asthmatic children in Asia?: validation among<br /> paediatric<br /> patients<br /> with<br /> asthma<br /> in<br /> Singapore.<br /> Pharmacoeconomics. 24(6):609-21<br /> Gandhi RK, Blaiss MS, (2006): What are the best estimates of<br /> pediatric asthma control? Curr Opin Allergy Clin Immunol.<br /> 2006 Apr; 6(2):106-12.<br /> GINA. Pocket guide for asthma management and prevention<br /> in children, p1-28; 2006<br /> Love AS, Spiegel J, (2006): “The Inner –City Asthma<br /> Intervention tool kit: best practices and lessons learned”, Ann<br /> Allergy Asthma Immunol (Suppl 1); p 36 – 39<br /> Nathan RA, Sorkness CA, Kosinski M, (2004): “Development<br /> of the asthma control test: a survey for assessing asthma<br /> control”, Allergy Clin Immunol: 113 (1): p 59-65.<br /> Nguyễn Tiến Dũng, (2008): Đánh giá mức độ kiểm soát hen<br /> phế quản trẻ em bằng test kiểm soát hen. Y học thành phố Hồ<br /> chí Minh; Tập 12; Phụ bản của số 4*; Tr 218-222.<br /> Patton J, (2001): “Management of Chronic Asthma in<br /> Children”. Manual of asthma management, 2th Edison. p339398.<br /> Schatz M, Sorkness CA, Li JT, (2006). “Asthma Control Test:<br /> Reliability, validity, and responsiveness in patients not<br /> <br /> Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2