Giá trị lịch sử, văn hóa của nghệ thuật kiến trúc dân gian Tây Nam Bộ qua góc nhìn từ những kiến trúc dân gian tại Đồng Tháp
lượt xem 3
download
Kiến trúc dân gian Đồng Tháp ra đời và phát triển gắn với quá trình đấu tranh sinh tồn, sinh cơ lập nghiệp của người dân Đồng Tháp. Theo dòng thời gian, nghệ thuật kiến trúc dân gian ngày càng được bổ sung thêm những nhân tố mới và nâng tầm giá trị của nó để thích ứng với xu thế phát triển của lịch sử và sự vận động, biến đổi của văn hóa để trở thành những di sản không chỉ mang giá trị lịch sử cao mà còn chứa đựng tính thẩm mĩ, tính nghệ thuật độc đáo của người Đồng Tháp nói riêng và của cư dân Tây Nam Bộ nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giá trị lịch sử, văn hóa của nghệ thuật kiến trúc dân gian Tây Nam Bộ qua góc nhìn từ những kiến trúc dân gian tại Đồng Tháp
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA CỦA NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC DÂN GIAN TÂY NAM BỘ QUA GÓC NHÌN TỪ NHỮNG KIẾN TRÚC DÂN GIAN TẠI ĐỒNG THÁP Historical and cultural values of the folk architectural art of Southwest from the view of the folk architecture in Đồng Tháp province TS. Dương Thị Ngọc Minh Trường Chính trị Sóc Trăng TÓM TẮT Kiến trúc dân gian Đồng Tháp ra đời và phát triển gắn với quá trình đấu tranh sinh tồn, sinh cơ lập nghiệp của người dân Đồng Tháp. Theo dòng thời gian, nghệ thuật kiến trúc dân gian ngày càng được bổ sung thêm những nhân tố mới và nâng tầm giá trị của nó để thích ứng với xu thế phát triển của lịch sử và sự vận động, biến đổi của văn hóa để trở thành những di sản không chỉ mang giá trị lịch sử cao mà còn chứa đựng tính thẩm mĩ, tính nghệ thuật độc đáo của người Đồng Tháp nói riêng và của cư dân Tây Nam Bộ nói chung. Từ khóa: giá trị lịch sử, kiến trúc dân gian, văn hóa dân gian Đồng Tháp, văn hóa Nam Bộ ABSTRACT Đồng Tháp folk architecture was born and developed in association with the struggle for survival and livelihood of Đồng Tháp people. Over time, the art of folk architecture has been increasingly added with new elements, thereby enhancing its value to adapt to the developmental trend of history, to the movement and change of culture. They have become not only the aesthetic, artistic heritages but also the unique culture of Đồng Tháp people in particular and Southern people in general. Keywords: historical values, folk architecture, Đồng Tháp folklore, Southern culture 1. Đặt vấn đề và cả những kiến trúc mang phong cách Nghệ thuật kiến trúc dân gian là một phương Tây với rất nhiều loại hình, đặc hiện tượng lịch sử và văn hóa vì nó phản trưng nghệ thuật phong phú, độc đáo. Việc ánh sự vận động, phát triển của xã hội, của nghiên cứu, tìm hiểu và khôi phục những một cộng đồng dân cư, đồng thời còn là sự giá trị lịch sử - văn hóa của các kiến trúc nối tiếp, kế thừa các di sản văn hóa và luôn dân gian này là vô cùng quan trọng, vì gắn liền với cái đẹp. Trên địa bàn tỉnh trong xu hướng hiện đại hóa và toàn cầu Đồng Tháp hiện nay đang còn lưu giữ và hóa hiện nay rất cần phải quan tâm đến vấn bảo tồn gần như đầy đủ các công trình kiến đề bảo tồn và phát huy các giá trị của di trúc dân gian của người Kinh, Hoa, Khmer sản truyền thống, trong đó bao gồm cả di Email: duongthingocminh@gmail.com 34
- DƯƠNG THỊ NGỌC MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN sản kiến trúc dân gian. dụng) 2. Các loại hình kiến trúc dân gian Đây là những công trình do nhân dân Đồng Tháp xây dựng, chủ yếu là nhà ở, bao gồm: Kiến trúc dân gian Đồng Tháp về cơ Nhà trệt ở nông thôn: gồm những ngôi bản bao gồm ba loại hình chính: nhà bằng gỗ, lợp ngói của những hộ dân, Loại hình kiến trúc cổ phục vụ nhu rải khắp các địa phương trong Tỉnh. cầu tâm linh tín ngưỡng Nhà trệt ở chợ: bao gồm những ngôi Ngoài nhu cầu sinh hoạt đời thường, nhà xây bằng gạch, lợp ngói của những người Đồng Tháp rất quan tâm đến cuộc thương nhân thành đạt, trí thức Tây học. sống tâm linh tín ngưỡng. Tại những địa Căn phố trệt, phố lầu ở chợ: gồm điểm dân cư xuất hiện những kiến trúc những ngôi nhà xây bằng gạch, có gác lầu đình, chùa, miếu của người Việt hay những bằng ván, lợp ngói của những người Hoa công trình thờ tự của người Hoa... mang buôn bán ở chợ. giá trị tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng của Biệt thự cổ: gồm những ngôi nhà cộng đồng cư dân bản địa. Những công xây bằng gạch, lầu đúc, lợp ngói, có sân, trình tiêu biểu thuộc loại hình này bao gồm có vườn, có hàng rào kiên cố và có cổng các công trình gắn với chức năng tôn giáo sắt.v.v. Đa số là của những công chức Tây – tín ngưỡng của cộng đồng (gia tộc, làng học thời Pháp thuộc. Hiện nay, loại hình xã…). Tiêu biểu là đình, đền, chùa, nhà kiến trúc này còn để lại những di sản kiến thờ, điện, am, miếu.v.v. Những công trình trúc tiêu biểu như ngôi nhà cổ của ông Lê này thường được xây dựng theo khuôn Văn Võ, nhà cổ của ông Nguyễn Văn mẫu dân gian với tư cách là những ngôi Thường, nhà cổ của bà Trần Thị Ngưu, nhà cộng đồng. nhà của ông hương chủ Dược, Nhà cổ Đình: gồm đình Vĩnh Phước, đình Tân Huỳnh Thuỷ Lê.v.v. Quy Đông, đình Tân Quy Tây, đình Tân 3. Kiến trúc dân gian Đồng Tháp – Phú Đông, đình Tân Khánh, đình Long nơi lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hỏa Khánh, đình Tân Tịch, đình Long Khánh, của nghệ thuật kiến trúc dân gian Tây đình Định Yên.v.v. Trong đó, đình Vĩnh Nam Bộ Phước (Sa Đéc), đình Định Yên (Lấp Vò) 3.1. Giá trị lịch sử được xem là những ngôi đình tiêu biểu. Kiến trúc dân gian mang hơi thở Chùa: bao gồm các kiến trúc nổi tiếng thời đại như chùa Hương (Phước Hưng Tự), chùa Lịch sử kiến trúc phản ánh một phần Ông Quách (Kiến An Cung), chùa Bà.v.v. sự vận động, phát triển của xã hội, của một Miếu: gồm miếu bà Chúa Xứ, miếu cộng đồng dân cư. Đồng Tháp có gần như Ngũ Hành.v.v. đầy đủ các loại hình kiến trúc dân gian của Loại hình kiến trúc được xây dựng người Kinh, Hoa, Khmer và cả những kiến trong thời kì thuộc Pháp trúc mang phong cách phương Tây. Đây là Đây là những công trình được xây kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài và dựng làm trụ sở các cơ quan công quyền đầy biến động dẫn đến sự cộng cư của các hoặc là để phục vụ các nhu cầu công cộng, cộng đồng dân tộc trên cùng một địa bàn cho đến nay vẫn còn tồn tại. lãnh thổ và sự hội nhập văn hóa Đông – Loại hình kiến trúc sinh hoạt (dân Tây. Vì vậy, thông qua sự phát triển phong 35
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) phú và sự biến đổi đa dạng của các loại Đồng Tháp cũng như của người dân Tây hình kiến trúc dân gian ở Đồng Tháp có thể Nam Bộ thường được dựng lên sát các thấy được quá trình phát triển của vùng đất kênh rạch, đặc biệt là ở các ngã ba sông, này với nhiều thăng trầm lịch sử. Chúng là ngã tư các trục giao thông thủy bộ. Không những thành tựu vật chất mang hơi thở của những thế, người Đồng Tháp từ những thời đại, phản ánh cụ thể nhất những biến ngày đầu khai hoang, lập ấp đã chọn lựa động của lịch sử dân tộc, phản ánh quá cho mình những kiểu kiến trúc nhà ở đặc trình tộc người và quá trình khai phá, chinh trưng để phù hợp và thích nghi với môi phục và thích ứng với tự nhiên của con trường sông nước, đặc biệt là vùng trũng người Đồng Tháp trong lịch sử. ngập nước như Đồng Tháp Mười. Nhìn Những ngôi nhà sàn, nhà gỗ, những chung, kiến trúc nhà ở của người Đồng ngôi đình, ngôi miếu của người Việt, người Tháp có 3 dạng cơ bản: nhà đất, nhà sàn và Khmer hay những ngôi chùa của người nhà nửa sàn nửa đất. Hoa cho thấy dấu vết của một thời kì khai Nhà đất xuất hiện sớm nhất, từ những hoang, lập ấp. Ngoài ra nó còn là dấu vết ngày đầu khẩn hoang. Kiểu kiến trúc này vật chất phản ánh quá trình tộc người, cộng phù hợp ở những vùng đất cao ráo, ít khi cư lâu dài giữa các dân tộc Việt, Hoa, ngập nước như những giồng đất cao, vùng Khmer trên mảnh đất Đồng Tháp nói riêng cù lao hay những khu vực chuyên canh tác và một số tỉnh Nam Bộ nói chung. Hay cây ăn quả. Nền nhà thường được đắp bằng những ngôi nhà kiểu biệt thự bằng bê tông đất đào mương, đào ao quanh nhà. Kiểu được xây dựng muộn hơn phản ánh dấu kiến trúc này trước đây thường thấy rất phổ tích của thời kì thuộc Pháp trong lịch sử biến ở vùng Châu Thành, Sa Đéc. Ngày dân tộc. nay, do điều kiện kinh tế ngày càng được Kiến trúc dân gian phản ánh quá cải thiện và nâng cao, những ngôi nhà theo trình khai phá, chinh phục và thích ứng kiểu thuần “nhà đất” gần như không còn với môi trường tự nhiên nữa mà thay vào đó là những ngôi nhà Văn hóa ăn, ở của bất kì cộng đồng cư được xây bằng gạch, có thể được xây theo dân nào, dù sinh sống ở đâu cũng thường kiểu trệt hoặc lên lầu tùy theo điều kiện mang những đặc thù riêng và phải phù hợp kinh tế của gia chủ. với môi trường sinh thái tự nhiên. Do đó, Nhà sàn là hình thức cư trú khá phổ ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên biến ở vùng Tây Nam Bộ và Đồng Tháp mảnh đất Đồng Tháp, cũng giống như nói riêng, đặc biệt là ở những vùng trũng những vùng đất khác ở Tây Nam Bộ là hay ngập sâu vào mùa mưa lũ như Đồng vùng đất thấp, nhiều chỗ quanh năm ngập Tháp Mười. Hàng năm có tới hai, ba tháng nước, các cộng đồng cư dân không chỉ bị ngập sâu có khi đến 2 – 3m nước. Trên choáng ngợp trước thiên nhiên hùng vĩ và vùng đất Đồng Tháp còn lưu lại dấu vết hoang dã mà còn rất lúng túng khi lựa chọn của kiến trúc nhà sàn từ rất sớm. Cách đây cho mình cách thức định cư phù hợp với hơn mười thế kỉ, cư dân cổ Phù Nam – Óc vùng sông nước mênh mông này. Họ đã Eo đã cư trú trong các ngôi nhà sàn. Dấu chọn cư trú trên đất liền nhưng gắn liền với tích của họ còn để lại là những cọc gỗ chôn sông nước để tận dụng sông nước trong sâu hoặc chìm sâu trong lòng đất. Khi lưu làm ăn, đi lại. Nhà cửa, thôn ấp của người dân Việt đến đây khai phá, họ đã tận dụng 36
- DƯƠNG THỊ NGỌC MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN kiểu kiến trúc này để thích ứng với vùng dưới nước (có thể là sông hay kênh, rạch, đất trũng hay ngập nước. Họ thường sử mương). Chiều cao nhà được tính toán sao dụng những cây gỗ tốt, lâu năm tuổi để làm cho khỏi bị ngập nước vào mùa mưa. Đôi cọc đỡ nhà sàn. Hệ thống cột của nhà sàn khi nhà cất dọc đường lộ, phía sau không được kết liền nhau bằng những thanh đà để có kinh rạch mà là một khoảng đất thấp thì tăng khả năng chống lại sức nước và sức họ cũng có thể cất theo kiểu nửa đất nửa nặng của ngôi nhà. Ngôi nhà sàn của người sàn và lúc này khoảng không gian bên Đồng Tháp nói riêng và người Tây Nam dưới nhà sàn hoàn toàn có thể tận dụng Bộ nói chung khác với ngôi nhà sàn ở miền làm kho chứa đồ đạc thậm chí là làm nơi Trung hay miền Bắc và thường làm cột sàn sinh hoạt. Kiểu kiến trúc nửa sàn nửa đất rời với cột nhà. Vì miền Tây Nam Bộ ít có này có thể thấy rải rác ở dọc theo những bão nhưng lại thường xuyên ngập nước do con lộ nhỏ ở nông thôn các huyện Cao mưa lũ nên thậm chí họ còn làm cột sàn Lãnh, Thanh Bình, Tam Nông là những bằng bê tông hoặc bằng đá khối để hàng vùng ít bị ngập sâu. năm khi nước ngập cột sàn ít bị hư hỏng, Bên cạnh đó, kiến trúc nhà ở của mối mục, nếu có hư hỏng cũng rất dễ thay. người Đồng Tháp nói riêng và người Tây Tùy vùng thường ngập sâu hay ngập cạn Nam Bộ nói chung ngoài việc nhằm thích mà thiết kế độ cao của cột sàn với cột nhà ứng với môi trường sông nước còn là để cho phù hợp. Có những vùng ngập sâu như đối phó với khí hậu nắng nóng của vùng Tân Hồng, Hồng Ngự, cột sàn và cột nhà này. Điểm nhấn đặc biệt trong tác dụng của người dân đôi khi cao gần 2m. Những chống nắng của ngôi nhà người miền Tây vùng ngập ít như Thanh Bình, Cao Lãnh chính là hàng hiên được làm rất rộng mà thì làm nhà sàn thấp hơn. Loại nhà sàn này dân bản xứ quen gọi là “hàng ba”. Hàng ba vừa có tác dụng tránh nước vào mùa lũ, là đặc điểm kiến trúc đặc sắc và phổ biến vừa dùng gầm sàn làm nơi chứa đồ vào của những ngôi nhà miền Tây. Hàng ba mùa khô. Ngày nay, xu hướng đắp đê ngăn không cần phải kiên cố, vững chãi vì ở đây lũ đã khá phổ biến nên tình trạng ngập sâu ít gió bão to như miền Trung. Nhưng hàng vào mùa lũ như trước đây gần như hiếm ba phải đủ rộng để giúp cho ngôi nhà tránh khi xuất hiện, tuy nhiên, những ngôi nhà khỏi bị mưa tạt vào mùa mưa và tránh sàn có lịch sử lâu đời vẫn còn tồn tại trên được cái nóng gắt vào mùa nắng. Vì vậy, quê hương Đồng Tháp như một di sản kiến có thể nói, hàng ba là nơi tránh nắng, tránh trúc thể hiện sự thích ứng với môi trường. mưa và tận hưởng đầy đủ nhất mọi hướng Nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc gió thổi vào nhà, là nơi gắn kết giữa không thường được xây dựng ở ven sông, rạch, gian kín của ngôi nhà với thiên nhiên bên kinh, mương hay đường lộ. Nhìn chung, ngoài, thể hiện sự thích nghi và ứng xử nhà nửa sàn nửa đất thích hợp với vùng đất khéo léo của người Nam Bộ với khí hậu không được bằng phẳng hay chật hẹp nên nhiệt đới ẩm gió mùa (thoáng khí, chống oi buộc phải tận dụng thêm không gian của bức, chống bức xạ mặt trời, chống mưa tạt, các con sông, kinh, rạch để nới rộng không mối mọt, nấm mốc.v.v.). Kiểu kiến trúc gian nhà ở. Họ thường xây nhà theo kiểu nhà có hàng ba không quá xa lạ đối với mặt tiền ngôi nhà là nền đất, giáp lộ, còn người dân Đồng Tháp, đặc biệt là ở những mặt sau của ngôi nhà là nhà sàn, cột cắm vùng nông thôn. Họ thường cất nhà sàn với 37
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) hàng ba bao quanh ngôi nhà, thường rộng được xem trọng. Cả người Việt, Khmer, khoảng 1m, có khi rộng hơn. Hoa khi làm lễ gác đòn dông đều treo bùa, 3.2. Giá trị văn hóa thường là tấm vải đỏ vẽ bùa dưới dạng trừ Ngôi nhà ở dân gian hay các công tà ma. trình tôn giáo tín ngưỡng dân gian, không Ngoài những đặc điểm chung trên, chỉ có phần vật chất, mà còn có cả phần ngôi nhà của người Việt, Hoa, Khmer còn “hồn” nữa. Ngôi nhà sẽ không thể là nhà để mang những nét riêng nhưng vẫn thể hiện ở nếu như không đáp ứng những nhu cầu đậm nét yếu tố triết lý tôn giáo và tư tưởng sinh hoạt vật chất, tình cảm và tâm linh của của phương Đông. Ví dụ, bên trong ngôi con người. Vì vậy, các kiến trúc dân gian nhà của người Việt ở nông thôn Đồng phản ánh rất rõ đời sống văn hóa vật chất, Tháp thường có kiểu bàn thờ tổ tiên treo tinh thần, tôn giáo – tín ngưỡng của cư dân bức tranh kiếng to gần bằng vách của gian bản địa. Cụ thể: giữa để thờ “Cửu huyền thất tổ”. Còn ngôi Thể hiện triết lý tôn giáo và tư tưởng nhà truyền thống của người Hoa đều có của phương Đông chung một kiểu là nhà ba gian. Gian giữa Giống như kiến trúc Việt Nam nói đặt bàn thờ có chữ “Thần” bằng Hán tự chung, kiến trúc dân gian Đồng Tháp ít (nền đỏ, chữ đen). Chữ “Thần” ở đây có ý nhiều chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý chỉ “Thần minh”, bao quát Phúc đức chính phương Đông, cộng với tinh thần đạo đức, thần và các vị thần khác với ý niệm như lễ nghĩa truyền thống của dân tộc. Điều này Ông Bổn – một dạng Thổ thần là vị thần được thể hiện ở kết cấu kiến trúc bên ngoài bảo hộ người dân trong nhà, trong địa cũng như cách trang trí bên trong, ở cách phương. Gian bên trái của nhà là bàn thờ tổ xếp đặt theo phong thủy, cách chọn tiên có chữ Tổ hoặc Tổ đường bằng Hán phương hướng.v.v. tự. Nhà của người Hoa rất chú trọng bày trí Yếu tố văn hóa trên có lẽ xuất phát từ khu vực bàn thờ ông Bổn ở giữa nhà. quan niệm: con người sống trong nhà có Trong khi đó, trước cửa vào nhà của người được yên ổn, được phù hộ, che chở hay Khmer thường treo tranh kiếng hình vị không là tùy thuộc vào thế giới tâm linh thần Bà-la-môn, gương mặt dữ dằn, có mà họ tín ngưỡng. Chính vì vậy, cả người nhiều tay, mỗi tay cầm một loại vũ khí để Việt hay người Hoa, người Khmer ở Đồng trấn áp tà ma không cho xâm nhập vào nhà. Tháp đều để ý đến việc kiêng kỵ, thờ cúng Mang giá trị nghệ thuật đặc sắc khi xây cất nhà cửa hay đình chùa miếu Các công trình kiến trúc dân gian mả. Trong quá trình làm nhà, họ thường Đồng Tháp còn lại đến nay vẫn giữ trong tuân thủ các nghi thức thờ cúng nghiêm mình những giá trị nghệ thuật gần như ngặt, lựa chọn hướng nhà cho hợp phong nguyên vẹn, đặc biệt là ở lĩnh vực kiến thủy (thường quay mặt hướng Đông hoặc trúc, điêu khắc và hội họa. Sự đa dạng hướng Đông Nam, trước mặt là sông nước, trong kiến trúc và sinh động trong điêu sau nhà là vườn cây hoặc theo thế tả thanh khắc, hội họa đã góp phần làm nên dấu ấn long hữu bạch hổ). đặc sắc của các công trình này. Vẻ đẹp, vẻ Người dân còn xem tuổi mới cất nhà, độc đáo của nó được thể hiện ở mọi nơi, cúng Thổ thần để được “động thổ”. Đặc trên mọi chất liệu gỗ và trên các đồ thờ với biệt, lễ “gác đòn dông” khi làm nhà rất nhiều đề tài khác nhau. Tất cả các bức 38
- DƯƠNG THỊ NGỌC MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN chạm, khắc đều hướng đến các giá trị chân, bảo tồn đến nay, có không ít kiến trúc thiện, mĩ nhằm thể hiện sự an lành hạnh mang phong cách hoàn toàn thuần Việt. Có phúc, cầu mong sự may mắn đầy đủ của thể kể đến hai biệt thự cổ nổi tiếng là ngôi con người nơi đây. nhà cổ của ông Lê Văn Võ và nhà cổ của Có thể thấy được giá trị nghệ thuật của ông Nguyễn Văn Thường. các công trình kiến trúc dân gian Đồng Kiến trúc Trung Quốc: Tháp qua một số công trình tiêu biểu: Lối kiến trúc này thông dụng trong Kiến trúc thuần Việt: những công trình của những người Hoa Phong cách kiến trúc thuần Việt định cư ở Đồng Tháp, cả ở kiến trúc nhà ở thường được thể hiện trên những ngôi nhà và kiến trúc thờ tự (chùa). Điển hình là trệt bằng gỗ ở nông thôn, được dựng theo kiến trúc chùa Ông Quách (Kiến An Cung) kiểu ba gian, hai chái; mái lợp ngói âm và chùa Bà tọa lạc tại trung tâm thành phố dương, chiều ngang khá rộng, chiều dài Sa Đéc. Những công trình này được xây tương đối; cách bài trí trong nhà trang dựng và chạm khắc chủ yếu trên chất liệu nghiêm, trầm lắng bởi gian giữa đặt bàn gỗ, tạo nên yếu tố khác biệt của lối kiến thờ Tổ tiên và những đồ thờ, vật thờ, tủ thờ trúc Trung Quốc ở Đồng Tháp. được chăm sóc chu đáo, cẩn thận. Phản ánh sự giao lưu, tiếp biến văn Bên cạnh đó, những ngôi đình thần ở hóa Đồng Tháp đa số cũng theo mô-típ kiến Ngoài việc vẫn giữ nguyên những giá trúc truyền thống của của những ngôi đình trị truyền thống, nghệ thuật kiến trúc dân thần người Việt ở Bắc Bộ, nhưng được gian Đồng Tháp còn thể hiện sự mềm dẻo biến đổi để phù hợp với điều kiện phong trong việc tiếp thu những yếu tố mới hay thổ và địa lí Nam Bộ. Vật liệu xây dựng kết hợp các phong cách nghệ thuật lại với chủ yếu là gỗ tốt; cách bày trí trang nhau tạo nên những công trình kiến trúc nghiêm; chiếm diện tích khá lớn và được độc đáo. Điển hình là sự ra đời của những xây dựng những nơi trung tâm của cộng kiến trúc mang phong cách hòa trộn giữa đồng dân cư. Tiêu biểu cho kiến trúc độc Việt – Hoa, Việt – Pháp hay Hoa – Pháp, đáo này là hai ngôi đình thần: Đình Vĩnh tuy nhiên, đặc sắc nhất là những kiến trúc Phước (Sa Đéc) và Đình Định Yên (Lấp mang dáng dấp của cả ba phong cách kiến Vò) và ngôi chùa cổ Bửu Hưng (Lai trúc Việt – Pháp – Hoa. Vung). Ngoài ra, phong cách kiến trúc Ngày nay, tại Đồng Tháp, đặc biệt là thuần Việt còn được phát huy mạnh mẽ và tại khu vực thành phố Sa Đéc vẫn còn bảo để lại những di sản quý ở loại hình nhà ở lưu nhiều tòa nhà cổ (gồm biệt thự, chùa, sinh hoạt. Hầu hết chủ nhân của những đình) được xây dựng theo lối kiến trúc kiến trúc này đều là những người giàu có, truyền thống Việt Nam đồng thời kết hợp có thế lực trong xã hội đương thời nên hài hòa với lối kiến trúc phương Tây, trong những ngôi nhà của họ thường có tầm vóc đó hội tụ được cả nét truyền thống và hiện lớn, thể hiện sự bề thế, quyền lực của chủ đại, khai thác tối đa các yếu tố phong thủy nhân. Ngày nay, người đương thời gọi trong môi trường nhiệt đới (như tận dụng những công trình kiến trúc này bằng cái tên cây xanh, hàng ba rộng chống nắng và mưa “biệt thự cổ”. Trong số rất nhiều những hắt, thoáng mát). Lối kiến trúc kết hợp này biệt thự cổ ở Đồng tháp còn được lưu giữ, có thể bắt gặp trên những ngôi nhà cổ ở 39
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) Đồng Tháp như nhà ông Hương cả Tánh, 4. Kết luận nhà bà Trần Thị Ngưu, nhà ông Trần Phú Kiến trúc dân gian Đồng Tháp được ra Cương. Tuy nhiên, tiêu biểu nhất và đặc đời và phát triển từ rất sớm, gắn liền với sắc nhất là kiến trúc ngôi nhà cổ của ông quá trình khẩn hoang, sinh cơ lập nghiệp Huỳnh Thủy Lê. Đây là ngôi nhà của một của người dân Đồng Tháp. Theo thời gian, người Hoa được xây dựng có sự kết hợp những kiến trúc dân gian ngày càng được của cả ba lối kiến trúc Việt – Pháp – Hoa bổ sung thêm những nhân tố mới và nâng từ vật liệu xây dựng cho đến lối kiến trúc tầm giá trị của mình để có thể trở thành và bày trí nội thất. Cũng là nhà ba gian như hình mẫu tiêu biểu cho kiến trúc dân gian những ngôi nhà thuần Việt nhưng có sự cải Tây Nam Bộ, lưu giữ những giá trị lịch sử, biên. Bước vào ngôi nhà ta thấy cột đá hình văn hóa điển hình của nghệ thuật kiến trúc lăng trụ, khối của vòng để cắm hoa văn, dân gian Tây Nam Bộ. Thông qua kiến trúc phù điêu thời kì Phục Hưng thế kỷ XVII. dân gian Đồng Tháp, có thể hình dung Gỗ là chất liệu chính của cửa, lớp ngoài lối được quá trình phát triển của vùng đất Tây ra vào có khung gỗ để kéo ra được dùng để Nam Bộ gắn với nhiều thăng trầm lịch sử. nghỉ trưa. Bên trên là bức vành sơn son Đó là quá trình khai phá, chinh phục và thếp vàng khắc tên người chủ nhân Huỳnh thích ứng với môi trường tự nhiên. Bên Cẩm Thuận. Bên cạnh đó, gian giữa của cạnh đó, các kiến trúc dân gian Đồng Tháp ngôi nhà lại thờ Quan Công rất uy nghi, còn phản ánh rất rõ đời sống văn hóa vật bởi khám thờ được chạm trổ cầu kỳ, sơn chất, tinh thần, tôn giáo – tín ngưỡng điển son thếp vàng. hình của cư dân Tây Nam Bộ. Ngoài mang Ngoài ra, có thể kể thêm chùa Hương giá trị nghệ thuật đặc sắc, các kiến trúc này (Phước Hưng Tự) cũng là một kiến trúc còn phản ánh sự giao lưu, tiếp biến văn hóa tiêu biểu cho sự kết hợp của ba phong cách giữa các cộng đồng người sinh sống trên Việt – Hoa – Pháp, tạo cho ngôi chùa một vùng đất Tây Nam Bộ. vẻ đẹp vừa cổ kính vừa uy nghiêm. Sở dĩ Tóm lại, các giá trị lịch sử - văn hóa chùa Hương có được nét đặc sắc kiến trúc của những kiến trúc dân gian Đồng Tháp này một phần cũng xuất phát từ lịch sử đã, đang và sẽ tiếp tục được người đương hình thành và phát triển qua nhiều thăng thời khẳng định và ghi nhận, xem đó như trầm lịch sử. Đây là ngôi chùa vốn được những di sản mang tính thẩm mĩ, tính nghệ sáp nhập từ một ngôi chùa của người Hoa thuật cao và là nét văn hóa đặc sắc của (Minh Hương) và ngôi chùa của người người Đồng Tháp nói riêng và cư dân Tây Việt. Sau đó, được xây dựng lai, đến thời Nam Bộ nói chung. Mấy thế kỉ trôi qua, Pháp thuộc thì được trùng tu sữa chữa lớn những kiến trúc đó vẫn hiển nhiên tồn tại hơn. Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, ngôi như nhân chứng cho lịch sử và là bảo tàng chùa vẫn giữ nguyên những đường nét kiến sống có giá trị thuyết phục nhất về một giai trúc như thuở ban đầu đồng thời được bổ đoạn lịch sử, có ý nghĩa và giá trị đặc biệt sung thêm những nét kiến trúc và điêu khắc về văn hóa truyền thống, về đạo lý mà tiền mới mang hơi thở phương Tây. nhân đã gửi gắm. 40
- DƯƠNG THỊ NGỌC MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp. (2013). Địa chí tỉnh Đồng Tháp. TP.HCM: NXB Trẻ. Nguyễn Văn Đúng. (2006). Đồng Tháp vài nét xưa, Tạp chí Đồng Tháp Xưa và Nay (số 1), tr 6-8. Nguyễn Hữu Hiếu. (2007). Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười. TP.HCM: NXB Văn nghệ. Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp. (2004). Đồng Tháp 300 năm. TP.HCM: NXB Trẻ. Hội Văn học nghệ thuật Đồng Tháp. (2005). Văn hóa dân gian Đồng Tháp. TP.HCM: NXB Văn nghệ. Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp. (2009). Đồng Tháp Đất và Người – tập II. TP.HCM: NXB Trẻ. Huỳnh Minh. (2001). Sa Đéc xưa. TP.HCM: NXB Thanh Niên. Trần Ngọc Thêm (2014). Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. TP.HCM: NXB Văn hóa – Văn nghệ. Ngày nhận bài: 04/02/2020 Biên tập xong: 15/4/2020 Duyệt đăng: 20/4/2020 41
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hoàng thành Thăng Long giá trị lịch sử văn hóa Việt
70 p | 932 | 404
-
Phát huy tiềm lực kinh tế ,tự nhiên, xã hội và giá trị lịch sử văn hóa phát triển bền vững thủ đô Hà Nội đến năm 2020
305 p | 138 | 37
-
1000 nhân vật lịch sử - văn hóa thăng long: phần 1
213 p | 192 | 34
-
một số di tích lịch sử - văn hóa việt nam dùng trong nhà trường: phần 1
341 p | 163 | 33
-
Tìm hiểu về Ngàn năm văn hóa đất Thăng Long: Phần 1
179 p | 135 | 23
-
Giá trị khu di tích Đền Trần - chùa Phổ Minh (Nam Định) từ góc nhìn lịch sử văn hóa
13 p | 95 | 8
-
Bài giảng Di tích lịch sử văn hóa (Ngành: Quản lý văn hóa) - Trường Cao đẳng Lào Cai
24 p | 55 | 7
-
Phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của Dinh Độc Lập
10 p | 29 | 7
-
Các văn hóa biển tiền sử Việt Nam - Giá trị lịch sử văn hóa nổi bật
18 p | 63 | 3
-
Giá trị lịch sử văn hóa của di tích hang động núi lửa Đắk Nông
10 p | 8 | 3
-
Các bảo tàng ở Đà Nẵng trong việc bảo tồn và khẳng định giá trị lịch sử - văn hóa vùng Quảng Nam - Đà Nẵng
6 p | 49 | 3
-
Giá trị lịch sử - văn hóa cụm di tích đền Phjia Mi và chùa Linh Quang
4 p | 5 | 2
-
Bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống quận Tân Phú hướng tới phát triển bền vững
9 p | 12 | 2
-
Giáo dục giá trị di sản văn hóa trong dạy học Địa lý ở trường trung học phổ thông
5 p | 41 | 2
-
Cần bảo tồn, phát huy những giá trị lịch sử - văn hóa của giếng cổ ở Nghệ An - Hà Tĩnh
5 p | 32 | 2
-
Giá trị lịch sử - văn hóa các di tích công xưởng chế tác đồ đá giai đoạn đá mới muộn ở Tây Nguyên
19 p | 53 | 2
-
Thiền phái tào động Việt Nam và quần thể di tích Nhẫm Dương: Giá trị lịch sử, văn hóa và Phật giáo
2 p | 67 | 2
-
Một số giải pháp quản lý nhằm phát huy giá trị di sản Hán Nôm tại các di tích lịch sử văn hóa quốc gia ở tỉnh Ninh Bình
9 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn