LUẬN VĂN:

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

Lời nói đầu

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn

các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế

ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc

chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững

của các doanh nghiệp trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất

kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt động của doanh

nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà

quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của

doanh nghiệp, hay nói cách khác là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp

ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội, trong thời gian qua

cũng đã quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ, song gặp không ít những khó khăn. Với

chiến lược phát triển của ngành Bưu điện trong xu thế hội nhập cạnh tranh, quản lý tốt

ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với Bưu điện trung tâm 1.

Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại Bưu điện trung tâm 1, em đã chọn đề tài:

“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1” cho luận

văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn tốt nghiệp của em được trình bày theo 3

chương:

Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường.

Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1.

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại

Bưu điện trung tâm 1.

Chương 1:

Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

1.1 . Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết để sản xuất và

bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận . Hoạt động của doanh nghiệp

được đặc trưng bởi 2 dạng:

+ Sản xuất : Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để tạo ra các sản

phẩm và dịch vụ có thể bán.

+ Trao đổi : Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để phục vụ cho việc sản xuất ra các

sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại).

Hình 1.1 thể hiện hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương mại và cung

ứng-sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động sản xuất kinh doanh của

Dòng vào

Dòng ra

doanh nghiệp.

Sản xuất

Trao đổi

Trao Trao đổi đổi Cung ứng

Hình 1.1 : Dòng biến đổi vật chất của doanh nghiệp

Hoạt động trao đổi tạo ra dòng vật chất và tài chính đối ứng (Hình 1.2). Để có thể

tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần dùng vốn để mua sắm các

Sản xuất

Dòng vật chất Dòng tài chính

Dòng vật chất Dòng tài chính

tài sản và sử dụng các tài sản đó để tạo ra giá trị gia tăng.

Trao đổi Cung ứng

Trao đổi Cung ứng

Hình 1.2: Dòng vật chất và dòng tài chính của doanh nghiệp

Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn vào các tài sản dùng trong hoạt động sản xuất

kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng ổn định, ngày càng lớn và phân chia lợi ích tạo ra cho

các chủ thể liên quan là hoạt động cơ bản hình thành nên chức năng thứ ba của doanh

nghiệp là tài chính hay còn gọi là hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

Chức năng tài chính hay hoạt động tài chính trước hết có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và có hiệu quả bằng các tài

sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể tạo ra những thu

nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng

hoạt động tài chính này cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có

mối quan hệ mật thiết với nhau cho dù mỗi mảng có đặc trưng riêng.

Đối với doanh nghiệp, trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa khả

năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của quản lý tài chính.

Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có

hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy

trong quản lý tài chính ngắn hạn, quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng.

1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường

1.1.2.1 Khái niệm ngân quỹ

Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền ( bao gồm tiền mặt trong két tại doanh

nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như chứng khoán dễ bán.

Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “ bước đệm ” cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt

nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng

khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém

chi phí. Những khoản phải thu có khả năng thu được tiền ngay khi cần cũng được coi là

một phần của ngân quỹ.

Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực

chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.

Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây

là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản chi, trao đổi hàng hoá…

nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một mức dự trữ tiền dương là nhằm để có

phương tiện giao dịch giúp doanh nghiệp mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán

các khoản chi cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại

cũng như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong tương lai.

Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức năng chủ yếu: tiền là

phương tiện lưu thông, tiền là phương tiện thanh toán, tiền là phương tiện đo lường giá trị,

tiền là phương tiện dự trữ về mặt giá trị.

1.1.2.2 Ngân sách hoạt động hàng năm và sự hình thành ngân quỹ

a) Các loại ngân sách hoạt động hàng năm của doanh nghiệp

a.1) Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh

Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tổng hợp các dòng tài

chính vào và ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đó là doanh thu và

các khoản chi có xuất quỹ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các dòng tài

chính được thiết lập căn cứ trên giá trị phát sinh trong từng khoảng thời gian xem xét. Việc

thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm xuất hiện các thành phần liên

quan đến tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Việc thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất

kinh doanh thường theo từng tháng và tập hợp thành các ngân sách theo chức năng trên cơ

sở ngân sách hoạt động của các bộ phận.

Các ngân sách chức năng trong ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp bao gồm:

+ Ngân sách bán hàng là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận bán hàng.

Ngân sách bán hàng hình thành hai dòng tài chính cơ bản:

- Dòng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng bán ra và biểu giá bán.

- Dòng chi liên quan đến chi phí cho hoạt động bán hàng không tính đến chi

phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bán hàng.

Chính sách tín dụng đối với khách hàng của doanh nghiệp sẽ tác động đến ngân

sách bán hàng và làm xuất hiện khoản Phải thu dự tính.

Kế hoạch bán hàng

Giá bán, số lượng bán Chính sách thương mại

Tồn kho hàng hoá

Ngân sách bán hàng

Tồn kho đầu kỳ Chính sách dự trữ

Doanh thu Chi phí bán hàng Phải thu

Kế hoạch sản xuất

Số lượng sản xuất Mức tiêu hao

Tồn kho đầu kỳ Chính sách mua

Tồn kho NVL

Ngân sách quản lý

Kế hoạch cung ứng

Chi phí QL Hàng tồn kho Phải trả

Ngân sách sản xuất

Chi phí sản xuất Hàng tồn kho Phải trả

Ngân sách hoạt động SXKD

Hình 1.3 -Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh-

+ Ngân sách sản xuất là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận sản xuất.

Ngân sách sản xuất chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản

xuất chế biến : Chi mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất

chung, không tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất. Ngân sách sản

xuất được hình thành từ chương trình sản xuất của doanh nghiệp căn cứ vào chương trình

bán hàng dự kiến có tính tới mức tồn kho thành phẩm đầu kỳ, mức tồn kho thành phẩm

cuối kỳ mong muốn.

Ngân sách sản xuất sẽ bao gồm trong nó cả ngân sách cung ứng vì quá trình sản

xuất sẽ làm xuất hiện nhu cầu tiêu hao nguyên vật liệu. Từ mức tồn kho nguyên vật liệu

đầu kỳ, mức tồn kho nguyên vật liệu cuối kỳ mong muốn và nhu cầu sử dụng phát sinh sẽ

xác định tổng giá trị nguyên vật liệu cần mua, phương thức cung ứng. Từ ngân sách sản

xuất sẽ xác định được mức Tồn kho và khoản Phải trả dự tính.

+ Ngân sách quản lý chung là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận gián

tiếp.

Ngân sách quản lý chung chỉ bao gồm các khoản chi phục vụ quản lý và cũng

không tính tới chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý.

a.2) Ngân sách đầu tư

Đầu tư là một hoạt động nằm trong chiến lược của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc

đầu tư thường đòi hỏi một khoản tiền lớn, sẽ ảnh hưởng đến ngân quỹ khi thực hiện các

khoản chi đầu tư theo lịch giải ngân đã được hoạch định. Trong phạm vi quản lý tài chính

ngắn hạn, ngân sách đầu tư sẽ liên quan đến dòng tài chính ra nhằm mua sắm tài sản cố

định dùng trong sản xuất kinh doanh (đầu tư bên trong) , bao gồm:

Các khoản chi đầu tư hàng năm (đầu tư thay thế ).

đầu tư hàng năm

Đầu tư phát triển

Đầu tư thay thế

Đầu tư mở rộng hiện đại hoá

Ngân sách đầu tư

Các khoản chi cho đầu tư phát triển ( mở rộng, hiện đại hoá ).

Hình 1.4 - Sơ đồ hình thành ngân sách đầu tư -

a.3) Ngân sách hoạt động tài chính

Ngân sách hoạt động tài chính liên quan đến các hoạt động vay, cho vay và đầu tư

tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh, bao gồm các dòng tài chính vào như thu tiền ứng với

Thu HĐtc

Chi hđtc

các khoản cho vay, thu tiền từ các tài sản tài chính dài hạn, và các dòng tài chính ra như trả

tiền ứng với các khoản đi vay, trả tiền cho các tài sản tài chính dài hạn, góp vốn liên

doanh.

Hình 1.5- Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động tài chính -

a.4) Ngân sách hoạt động bất thường

Ngân sách này, khi lập kế hoạch, chỉ xét đến các khoản thu và chi do bán tài sản cố

định cần thanh lý. Các khoản thu, chi bất thường khác không được xem xét. Tuy nhiên,

nếu doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh các quỹ dự phòng thì việc điều chỉnh sẽ được thể

hiện ở ngân sách này:

Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính ra tức là khoản chi

bất thường.

Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính vào tức là khoản

Thu bất thường

Chi bất thường

Thanh lý TSCĐ Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng

Chi phí liên quan đến việc thanh lý TSCĐ Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng

Ngân sách hđ bất thường

thu bất thường.

Hình 1.6 - Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động bất thường-

b) Sự liên kết của các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ

Để xác lập được trạng thái ngân quỹ cần phải liên kết các ngân sách hoạt động bộ

phận. Trước khi liên kết các ngân sách hoạt động bộ phận, cần có sự điều chỉnh đối với

ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự điều chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản

xuất kinh doanh sẽ căn cứ trên chính sách thương mại dự kiến của doanh nghiệp và chính

Ngân sách hoạt động sxkd

Ngân sách hoạt động đầu tư

Ngân quỹ

Ngân sách hoạt động tài chính

Ngân sách hoạt động bất thường

sách của Người bán đối với cách mua dự kiến mà doanh nghiệp lựa chọn.

Hình 1.7 -Sơ đồ liên kết các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ-

Chính sách thương mại của doanh nghiệp được thể hiện ở cách thức thanh toán áp

dụng cho khách hàng. Điều này làm cho khoản thực thu trong kỳ xem xét có thể khác biệt

so với doanh thu. Việc điều chỉnh là để xác định dòng thực thu của doanh nghiệp trong

thời kỳ xem xét sau khi đã loại bỏ lượng tiền mà doanh nghiệp cung cấp tín dụng (tín dụng

thương mại) cho khách hàng (Phải thu).Việc điều chỉnh đối với khoản thu từ bán hàng sẽ

cho thấy một phần khả năng tài trợ bên trong thực tế của doanh nghiệp từ hoạt động sản

xuất kinh doanh.

Chính sách của Người bán cũng đòi hỏi việc điều chỉnh theo cách tương tự. Tất

nhiên nó sẽ có tác động đối với khoản chi mua của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét và

cho biết một phần nhu cầu tài trợ thực tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp.

Việc điều chỉnh cũng có thể phải áp dụng đối với ngân sách hoạt động bất thường

liên quan đến thanh lý tài sản cố định. Việc điều chỉnh các quỹ dự phòng sẽ chưa thực hiện

ở bước này.

Các ngân sách đầu tư và ngân sách hoạt động tài chính cũng sẽ không điều chỉnh ở

bước thiết lập ngân quỹ đầu tiên vì các ràng buộc hợp đồng đối với các khoản vay hoặc

các ràng buộc chiến lược đối với việc đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

Tổng hợp các ngân sách hoạt động sẽ xác định ngân quỹ của doanh nghiệp trong

thời kỳ xem xét và là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính của doanh nghiệp.

1.1.2.3 Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp

Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn; chu kỳ sử dụng

vốn; chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động thì ba chu kỳ

này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và cũng có lúc gián đoạn. Điều này

tương ứng với tính chất đan xen trong việc hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ

của doanh nghiệp trong suốt một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm

bảo cân bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính

của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho doanh nghiệp

hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định

hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh

nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.

Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực chính: động lực giao dịch; động lực

dự phòng; động lực đầu cơ.

Động lực dự trữ tiền để giao dịch nghĩa là doanh nghiệp dự trữ tiền để có thể mua

sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà

doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt

động nào cũng đòi hỏi cần đến tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp

rất cao, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh

nghiệp có ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của

doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hoá, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi ngân quỹ thặng

dư tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh cho nhà cung ứng, điều này có

thể là thuận lợi cho doanh nghiệp rất nhiều vì uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh

nghiệp có thể hưởng lợi thế chiết khấu.

Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong tương lai biến

động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của nhà nước, đình công, hỏa hoạn,

khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng

dự báo thu chi bằng tiền trong tương lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng

là cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì

nhu cầu tiền dự phòng sẽ thấp… Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình thường

để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ rộng rãi đủ để bù

đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…

Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn sàng để lợi

dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh những cơ hội đem lại lợi

nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán

còn nhằm mục đích dự phòng mà không phải giữ tiền mặt.

Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một doanh

nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và

đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm thế nào để ổn định mức cân đối

ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải

quản lý tốt ngân quỹ.

1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường

Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp. Một cách cụ

thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân tích, đánh giá và hoạch

định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn cũng như kiểm soát

hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết định về mặt tài chính với các nguyên tắc:

 Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán.

 Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.

 Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp.

Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với hai bộ phận

chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các dòng tiền vào ra doanh

nghiệp - có nghĩa là nó liên quan tới các khoản thu chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát

sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền, mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động.

Mặt khác, các khoản thu chi tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường,

ảnh hưởng không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến động

bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lí ngân quỹ.

1.2.1.1 Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động theo chiều

hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như vậy,

một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng

thanh toán. Khả năng thanh toán là khái niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ

hay các khoản chi khi đến hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi

phí với thu và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được biểu hiện dưới hình thái

tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả năng tái sản xuất mở rộng

cũng như đảm bảo khả năng thanh toán doanh nghiệp được diễn ra bình thường. Trong

nhiều trường hợp doanh nghiệp không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát

sinh do các dòng tiền vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, cùng chu

kỳ. Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi bằng tiền,

số lượng là bao nhiêu và chu kì các khoản thu, các khoản chi đó như thế nào rất khó.

Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi lẽ nó

quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của

doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh toán đúng hạn có thể được hưởng

chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có

được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra, một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ

dàng vay tiền từ ngân hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn lẫn dài

hạn. Ví dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay phát

hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhận thức

được tầm quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ để dự báo những trường hợp có thể

dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào trạng thái khó khăn, từ đó có biện

pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo

những trường hợp ngân quỹ có thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo

thêm nguồn cho ngân quỹ, phòng ngừa cho biến động bất thường có thể xảy ra trong tương

lai.

1.2.1.2 Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp

Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách tạo nguồn ngắn hạn để bù

đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để

tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì những lí do nào đó, doanh nghiệp không thể tìm được

nguồn chi phí thấp mà phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có

chi phí cao hơn. Nếu như doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh

nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể giảm các

khoản phải thu khách hàng; tăng cường quan hệ tốt với nhà cung cấp bằng cách thanh toán

nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào

chứng khoán và đặc biệt là có kế hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế

các khoản vay không cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế

hoạch chủ động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá

nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh nghiệp.

Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của doanh nghiệp

cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh hưởng tới lợi nhuận đồng

thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong

trường hợp doanh nghiệp không thể tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy

cơ mất khả năng thanh toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lí chặt chẽ ngân quỹ, để tình

trạng thâm hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ

bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hoá chi phí vốn sẽ không đạt được.

Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh vào kì trước,

đến kì sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung ứng dịch vụ và đồng thời nhận được các

khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền

của doanh nghiệp vượt trội các khoản chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh

nghiệp hay gửi không kì hạn vào ngân hàng không đem lại mấy lợi nhuận. Doanh nghiệp

cũng không thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong

ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi

ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp sẽ tìm cách đầu tư ngắn

hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những

doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ

luôn duy trì một mức dự trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lí ngân quỹ tốt sẽ sẽ tạo cơ hội

sinh lợi, tăng lợi nhuận và và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.

1.2.1.3 Dự phòng cho những biến động bất thường

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tránh khỏi

những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng của doanh nghiệp mất

khả năng thanh toán... Những tác động trên có thể trực tiếp làm giảm các khoản thu bằng

tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì

vậy, doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động

bất thường đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản

thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào kinh doanh.

Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để thanh toán

cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ cho những tổn thất có

nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán. Vì vậy, công tác

quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.

1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

1.2.2.1 Dự tính thu nhập và chi phí

Để có thể dự tính được thu nhập và chi phí trong kỳ tới, doanh nghiệp cần phải

thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định được nhu cầu của thị trường về

sản phẩm của đơn vị mình trong kỳ tới là bao nhiêu, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới như thế nào. Từ đó doanh nghiệp có thể dự tính

lượng hàng hoá, dịch vụ được cung cấp trong từng kỳ. Ngoài ra, doanh nghiệp phải dự tính

trước những biến động trên thị trường sắp tới về cung các hàng hóa, nguyên vật liệu đầu

vào để từ đó có thể tính được các chi phí mà doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra trong kỳ. Như

vậy, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp phải bao hàm đầy đủ thông tin phản ánh tình

hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ và dự tính mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp

trong kỳ tới.

 Căn cứ vào nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp gồm:

+)Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh

Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản thu chủ yếu trong thu nhập của

doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong thu nhập từ hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, thời điểm để xác định doanh thu là khi người

mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc tiền đã thu được hay chưa.

Đối với doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền

bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ sau khi trừ khoản giảm giá hàng bán (nếu có

chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh toán không phân biệt đã thu được tiền

hay chưa. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm các

khoản phí thu thêm ngoài giá bán nếu có, phụ thu theo quy định của nhà nước mà doanh

nghiệp được hưởng đối với dịch vụ cung cấp trong kỳ.

+ )Thu nhập từ hoạt động tài chính :

Thu nhập hoạt động tài chính được xác định tại thời điểm tính lãi thu được, không

phụ thuộc tiền lãi đã thu được hay chưa.

+)Thu nhập từ hoạt động bất thường

Thời điểm để xác định thu nhập từ hoạt động bất thường là khi các đối tác của

doanh nghiệp chấp nhận thanh toán cho các khoản trên, không phụ thuộc tiền đã thu được

hay chưa.

 Căn cứ vào nguồn hình thành, chi phí của doanh nghiệp gồm:

+ )Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh

Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí

như: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền lương và các khoản chi

phí có tính chất lương, chi phí dịch vụ mua ngoài..Các chi phí này phát sinh có tính chất

thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.

Đối với doanh nghiệp thương mại dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh

bao gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng và bảo

hành cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh

doanh dịch vụ bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí quản lý, chi phí bằng tiền khác..

+) Chi phí cho hoạt động tài chính :

Chi phí cho hoạt động tài chính bao gồm những khoản lãi mà doanh nghiệp chi trả

cho việc đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, chi trả tiền vay

ngân hàng, chi trả lãi cho bên góp vốn liên doanh và các khoản chi khác có liên quan đến

hoạt động tài chính của doanh nghiệp đều được coi là những khoản chi phí cho hoạt động

tài chính của doanh nghiệp.

+) Chi phí cho hoạt động bất thường

Chi phí cho hoạt động bất thường của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí phạt vi phạm

hợp đồng, chi phí thanh lý tài sản và các chi phí cho các hoạt động bất thường khác.

1.2.2.2 Dự tính nhu cầu tiền

Trên cơ sở thu nhập và chi phí được dự tính cho kỳ sau, nhà quản lý tài chính cần

dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Nguồn tiền của doanh nghiệp là những khoản

doanh nghiệp thực thu được trong kỳ và mức tồn quỹ của kỳ trước còn việc sử dụng nguồn

tiền chính là việc chi trả trong kỳ.

Việc dự tính này nhằm hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà quản lý nắm được nhu

cầu tiền trong tương lai; thứ hai, cho biết khả năng thu được tiền để đáp ứng các nhu cầu

chi tiêu. Việc dự tính các khoản thu chi là không dễ song doanh nghiệp có thể căn cứ vào

thu chi của kỳ trước, kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh kỳ này để ước lượng một cách

tương đối thời điểm, chu kỳ, khối lượng các dòng tiền vào, ra. Từ đó doanh nghiệp có thể

xác định mức cân đối tiền mặt khi có nhu cầu thu chi phát sinh.

Trước hết, doanh nghiệp cần phải dự đoán tiền thu ngân quỹ. Các khoản thực thu

ngân quỹ bao gồm: Thu tiền bán hàng trong kỳ; Thu tiền nợ kỳ trước của khách hàng; Thu

từ hoạt động tài chính; Thu từ hoạt động bất thường. Doanh nghiệp phải xác định thời gian

trả tiền trung bình của các khoản phải thu khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định

được tỷ lệ phần trăm doanh thu được chuyển thành tiền trong kỳ.

Sau khi dự tính các khoản thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần dự toán các

khoản chi ra từ ngân quỹ như: Thanh toán các khoản phải trả; Chi tiền lương cho công

nhân viên, nhà quản lý và chi khác; Thanh toán thuế, lợi tức, lãi cổ phần.

Cuối cùng từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ nhà quản lý sẽ tìm ra

chênh lệch thu chi ngân quỹ, đối chiếu với mức tồn quỹ tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp

trong từng thời kỳ để thấy được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ tới.

1.2.2.3 áp dụng phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp

Sau khi có được những thông tin về nhu cầu tiền, căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh

doanh và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần áp dụng một phương pháp quản lý

ngân quỹ thích hợp. Có rất nhiều phương pháp quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp, các

doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn hai phương pháp sau:

a) Phương pháp quản lý theo mô hình Baumol

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán mức tiền mặt dự

trữ hợp lí và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp là nhỏ nhất đồng thời

doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư

số tiền mặt nhàn rỗi vào hình thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.

Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ chuyển hoá

thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất tín

phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho

doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện

thanh toán nên khi doanh nghiệp cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm

phát sinh chi phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ

tiền tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín phiếu ít đi

tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lí và hiệu quả nhất đạt được khi tổng

chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ là nhỏ nhất.

Tổng chi phí do

Chi phí do dự trữ tiền gây ra

điểm cực tiểu

Chi phí cơ hội của dự trữ tiền

Chi phí do thiếu tiền

Lượng tiền dự trữ

Lượng dự trữ

Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:

Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên

Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên tại thời

điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín phiếu doanh nghiệp có

đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền dự trữ bình quân trong doanh nghiệp

là:

lượng tiền dự trữ (tính toán)

2

Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:

lượng tiền dự trữ (tính toán) x chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ

2 lượng tiền dự trữ

Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:

chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

2

Từ đó, ta có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí do mỗi lần

thiếu tiền

Q =

chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền dự trữ hợp lí

được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho trường hợp này ta suy ra được

công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí cho mỗi lần

bán tín phiếu

Q= ==

lãi suất

Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hoá đơn là đều đặn, chủ động mà

không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh nghiệp, và hơn thế nữa không

tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt

mà giả định khi thu về, tiền được dùng để chuyển hoá luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà

kinh tế học đã xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến

cả những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.

b) Phương pháp quản lý theo mô hình Miller-orr

Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các nhà kinh tế học

đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động của dòng vào và dòng ra với

đơn vị thời gian là ngày có tên gọi là mô hình Miller – Orr. Mô hình này cho phép nhà

quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn toàn tự do trừ khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới

hạn dưới.

Ta có đồ thị sau:

Giới hạn

Mức tồn quỹ theo thiết kế Giới hạn dưới

Thời

Lượng tiền mặt

Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn trên, giới

hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn

dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ

cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối

tiền mặt trong mô hình phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ

hàng ngày rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp

nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản đầu tư ngắn

hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền

1 3 Chi phí giao dịch x phương sai của

= 3

3 4

Lãi

mặt được xác định theo công thức sau đây:

Khoảng cách của giớ i hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền

Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba khoảng cách

+

kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:

Mức tiền theo thiết kế

Khoảng dao dộng tiền 3

= Mức tiền mặt giới hạn dưới

Mô hình Miller–Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được mức tiền

mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá chi phí giao dịch và chi phí

do lãi suất gây ra.

Mô hình Miller–Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ trong đơn vị

thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính năng động. Mô hình này

xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang giới hạn trên, giới hạn dưới của mức

cân đối tiền và coi một nửa của mức dao động này thể hiện nhu cầu cần điền đầy mức

thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi

hỏi doanh nghiệp phải dự báo được dòng vào và ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt

nhất). Vì vậy, khi doanh nghiệp có những trở ngại trong công tác dự báo ngân quỹ, mô

hình Baumol vẫn có giá trị ứng dụng nhất định vì sự đơn giản của nó.

Những mô hình quản lý ngân quỹ trên đây sẽ là những định hướng cho nhà quản lý

tài chính trong quá trình thực hiện công tác quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, đã là mô hình thì

sẽ ít nhiều mang tính cứng nhắc và không thể hoàn toàn tất cả những biến động của thực

tế. Vì vậy, để vận dụng tốt được mô hình, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao nhận

thức và trình độ của đội ngũ cán bộ tài chính trong doanh nghiệp.

1.2.2.4 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ

Việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ bao gồm các quyết định để sử dụng nguồn tiền

nhàn rỗi khi có thặng dư ngân quỹ vượt qua giới hạn trên theo mô hình mà doanh nghiệp

áp dụng và các quyết định tìm nguồn tài trợ khi có ngân quỹ xuống thấp hơn giới hạn cho

phép của mô hình. Đối với hình thức tài trợ hay sử dụng ngân quỹ nào thì doanh nghiệp

cần phải xem xét có phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt của đơn vị mình

hay không.

Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian mà tất cả các bước của quá trình tái sản

xuất phải trải qua như: nguyên vật liệu – sản phẩm dở dang – bán thành phẩm – thành

phẩm – giao hàng – chờ thu tiền về.

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền

Chu kỳ dự trữ là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu mua nguyên vật liệu nhập kho cho

đến khi xuất kho sản phẩm giao cho khách hàng.

Chu kỳ chờ thu tiền được tính từ khi giao hàng cho khách đến khi nhận lại tiền bán

hàng.

Chu kỳ kinh doanh còn tính theo chu kỳ trả tiền và chu kỳ tiền mặt

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ trả tiền + Chu kỳ tiền mặt

Chu kỳ tiền mặt là khoảng thời gian từ khi trả tiền cho nhà cung cấp cho đến khi

thu được tiền của khách hàng. Như vậy, trong quản lý ngân quỹ doanh nghiệp cần phải

quan tâm đến chênh lệch độ dài chu kỳ thu tiền và độ dài chu kỳ trả tiền để đưa ra những

quyết định phù hợp cho công tác quản lý ngân quỹ.

 Các nguồn tài trợ ngắn hạn cho ngân quỹ

 Bán chứng khoán ngắn hạn, giấy tờ có giá

Khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn mức tối ưu, doanh nghiệp có thể bán chứng

khoán để tài trợ cho ngân quỹ. Các chứng khoán sẽ được bán trên thị trường trước hết là để

đáp ứng nhu cầu tiền mặt, thứ hai là để thực hiện lợi nhuận cho các khoản đầu tư. Các

chứng khoán dễ bán có thể được bán trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, hoặc có

thể đem thương phiếu đến ngân hàng để chiết khấu.

 Vay ngân hàng

Nếu doanh nghiệp không có các chứng khoán thanh khoản để bán hoặc doanh

nghiệp chưa muốn bán chứng khoán thì doanh nghiệp có thể vay ngân hàng. Doanh nghiệp

có thể vay ngân hàng theo nhiều phương thức khác nhau với các điều kiện như thời hạn

trả, số dư tối thiểu, cách hoàn trả nợ vay..với mức lãi suất tương ứng. Ngân hàng có khả

năng đáp ứng những nhu cầu này cho doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến cả

năm, có thể đảm bảo hoặc không có đảm bảo. Với hình thức tài trợ này, doanh nghiệp cần

phải so sánh giữa vay ngân hàng và việc bán chứng khoán. Lãi suất mà doanh nghiệp phải

trả cho ngân hàng có thể cao hơn lãi suất mà doanh nghiệp nhận được từ việc bán chứng

khoán. Nếu doanh nghiệp không chắc chắn về thu chi ngân quỹ trong tương lai thì doanh

nghiệp cần phải giữ mức cân đối tiền mặt lớn với mục đích là sẽ không phải đi vay. Ngược

lại, nếu doanh nghiệp biết chắc chắn về khả năng thu chi ngân quỹ trong tương lai thì có

thể giữ tiền mặt ở mức thấp hơn.

 Tín dụng thương mại

Doanh nghiệp nhận chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp sẽ làm cho

cân đối tiền mặt của ngân quỹ bớt căng thẳng do doanh nghiệp không cần phải chi ngay

các khoản tiền mua hàng. Khi đó doanh nghiệp sẽ phải trả thêm một khoản tiền do việc

thanh toán chậm và phải chấp nhận với một giá thanh toán cao hơn. Tuy nhiên, doanh

nghiệp phải rất thận trọng vì khoản tiền doanh nghiệp trả chậm trong kỳ này sẽ có thể trở

thành gánh nặng cho ngân quỹ trong các kỳ sau.

 Các biện pháp sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi

 Đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao trên thị trường

Việc đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp là nhằm tận dụng khoản tiền nhàn rỗi

tạm thời. Có rất nhiều những chứng khoán dễ bán mà doanh nghiệp có thể lựa chọn như:

tín phiếu kho bạc, chấp nhận thanh toán của ngân hàng, thương phiếu..Vì thế, việc quyết

định đầu tư vào chứng khoán hay không và đầu tư vào loại nào phụ thuộc vào: lãi suất,

tính thanh khoản, ngày đáo hạn. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cần phải quản lý

một danh mục đầu tư hợp lý sao cho lợi nhuận thu được đủ bù đắp các rủi ro và mức lợi

tức mong muốn. Đối với các doanh nghiệp lớn, chi phí giao dịch để mua và bán chứng

khoán không đáng kể so với chi phí cơ hội của viêc giữ tiền mặt nên các doanh nghiệp này

cần chú ý tới công cụ đầu tư này.

 Cung cấp tín dụng cho khách hàng

Cung cấp tín dụng cho khách hàng là một công cụ quan trọng mà doanh nghiệp cần

phải chú trọng. Chính sách cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có nhiều ưu

điểm như : Doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng hoá hơn với mức giá cao hơn; Hiệu

quả sử dụng tiền của doanh nghiệp tăng do cung cấp các khoản phải thu sẽ thu được mức

lãi cao hơn hẳn so với việc đầu tư vào các khoản mục khác đồng thời doanh nghiệp có thể

tạo lập mối quan hệ lâu dài với những khách hàng lớn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể gặp

rủi ro khi khách hàng không thanh toán đúng hạn. Vì vậy, việc doanh nghiệp có cung cấp

tín dụng thương mại cho một khách hàng hay không cần phải được cân nhắc và tìm hiểu

kỹ lưỡng, doanh nghiệp nên chọn những khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài.

 Trả trước cho nhà cung cấp

Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của mình để thanh toán

trước cho nhà cung cấp. Khi thực hiện việc này, doanh nghiệp sẽ được nhà cung cấp cho

hưởng một khoản chiết khấu tiền mặt.

1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng

thanh toán của doanh nghiệp

Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, người ta sử dụng các chỉ tiêu:

 Khả năng thanh toán hiện hành

Tài sản lưu động

Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành = ---------------------------

Nợ ngắn hạn

Tỷ lệ này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng

bao nhiêu đồng giá trị tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng

khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho). Nợ ngắn hạn

thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các

khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác..

Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành thể hiện khả năng thanh toán tổng quát của

doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải

bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn

của các khoản nợ đó. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành >1 thì doanh nghiệp được

coi như đang ở trạng thái thuận lợi. Tuy nhiên hệ số này chưa đủ chặt chẽ trong việc

đánh giá cân bằng tài chính ngắn hạn vì còn tính đến khoản mục Hàng tồn kho. Nếu

khoản mục này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản lưu động và thời gian chuyển hoá

cần thiết đủ dài thì vẫn tồn tại nguy cơ mất cân bằng ngắn hạn.

 Khả năng thanh toán nhanh

Tài sản lưu động - Tài sản dự trữ (tồn kho)

Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------------------

Nợ ngắn hạn

Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng

nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền, chứng

khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển

thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, khả năng

thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào

việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).

 Khả năng thanh toán tức thời

Ngân quỹ

Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời = --------------------------------------

Nợ đến hạn

Khả năng thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán ngay bằng tiền cho các

khoản nợ đến hạn. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời cao thì tỷ lệ này có thể minh

chứng cho khả năng thanh toán tốt nhưng mặt khác lại thể hiện sự kém hiệu quả trong việc

sử dụng nguồn lực tài chính với một ngân quỹ ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì

nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ

yếu đi, đặc biệt khi các thành phần khác của tài sản lưu động có khả năng luân chuyển kém

(nhất là đối với các doanh nghiệp mà hoạt động có đặc trưng mùa vụ).

Ngoài các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý còn xem xét đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng

và nhu cầu vốn lưu động ròng. Hai chỉ tiêu này cũng là yếu tố quan trọng và cần thiết cho

việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp.

Vốn lưu động ròng (VLĐR) là khoản chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động

(TSLĐ) và tổng nợ ngắn hạn hoặc giữa nguồn dài hạn và tài sản cố định (TSCĐ):

VLĐR = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn

+ Vốn lưu động ròng < 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ. Doanh

nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đủ đáp ứng

nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng,

doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy,

doanh nghiệp phải tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư

dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả 2 giải pháp đó.

+ Vốn lưu động ròng > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, đồng thời

TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên,

nếu vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư vì lượng tài sản lưu động

quá nhiều so với nhu cầu và phần dư thêm này không làm tăng thu nhập.

 Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng

Dự trữ

Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng = ----------------------------

Vốn lưu động ròng

Tỷ lệ này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng.

Trên đây mới chỉ là ràng buộc về mặt giá trị mang tính chất chung. Với doanh

nghiệp cụ thể, thường có thể xác định gần đúng “độ hóa lỏng” của tài sản cố định căn cứ

vào đặc trưng công nghệ và hoạt động thương mại. Khi độ hóa lỏng của tài sản lưu động

lớn hơn tính cấp thiết của khoản nợ ngắn hạn thì một mức vốn lưu động ròng âm cũng

không gây ra sự mất cân bằng như đối với các công ty kinh doanh siêu thị chẳng hạn.

Trong trường hợp ngược lại, vẫn có thể xảy ra mất cân bằng khi vốn lưu động ròng dương

không vượt qua một giá trị an toàn nhất định.

Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho

1 phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu.

Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn

+ Khi nhu cầu VLĐR > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn, nghĩa là các

sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có

được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh

lệch.

+ Khi nhu cầu VLĐR < 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn hạn, nghĩa là các

nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh

nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.

1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng

hoạt động

 Vòng quay tiền

Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của tiền trong

doanh nghiệp.

Tỷ lệ này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho tổng số tiền

mặt và các tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển

nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.

Doanh thu tiêu thụ trong năm

Vòng quay tiền = ---------------------------------------------------------

Tiền + Các chứng khoán ngắn hạn

Vòng quay tiền phụ thuộc vào tốc độ sử dụng tiền của doanh nghiệp. Khi tốc độ

tăng lên của doanh thu không bằng với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền của doanh nghiệp

sẽ làm cho tiền và các chứng khoán ngắn hạn giảm xuống, vòng quay tiền sẽ lớn. Ngược

lại, khi tốc độ tăng lên của doanh thu nhanh hơn so với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền sẽ

làm cho vòng quay tiền giảm đi.

 Vòng quay dự trữ (hàng tồn kho)

Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu

tiêu thụ trong năm và giá trị tài sản dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở

dang, thành phẩm, hàng hóa) bình quân.

Doanh thu tiêu thụ trong năm

Vòng quay dự trữ = ------------------------------------------------------

Dự trữ bình quân

Vòng quay dự trữ càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, bởi doanh

nghiệp chỉ đầu tư cho tài sản dự trữ thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao.

 Vòng quay các khoản phải thu

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành

tiền của doanh nghiệp.

Doanh thu tiêu thụ trong năm

Vòng quay các khoản phải thu = -----------------------------------------

Các khoản phải thu bình quân

Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng quay các khoản phải thu sẽ

cao và doanh ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng quay các khoản phải thu nếu quá

cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh

toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong thời gian ngắn).

 Kỳ thu tiền trung bình

Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu.

365

Kỳ thu tiền trung bình = -----------------------------------------

Vòng quay các khoản phải thu

Nếu số ngày này lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu

hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách hàng

lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời

gian.

Tuy nhiên, kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có

kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét cụ thể các mục tiêu và chính sách của doanh

nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra,

kỳ thu tiền trung bình còn phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp

thương mại bán lẻ thì hệ số này rất nhỏ.

1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường

Tùy vào từng tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, vào mức độ hoạt động sản

xuất kinh doanh mà doanh nghiệp lập ra các loại quỹ dự phòng. Trong doanh nghiệp

thường có các khoản dự phòng như: Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn, dự phòng các

khoản phải thu khó đòi; dự phòng giảm giá hàng tồn kho; dự phòng giảm giá đầu tư dài

hạn; quỹ dự phòng tài chính và quỹ dự phòng mất việc làm.

Với các nhà quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp cần phải quan tâm đến các

khoản dự phòng này vì nó có thể là một nguồn tài trợ tức thời cho ngân quỹ trong ngắn

hạn, nâng cao độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy,

khi đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ họ cũng phải tính đến các chỉ tiêu đánh giá khả

năng dự phòng những biến động bất thường của doanh nghiệp.

1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

1.4.1 Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp

1.4.1.1 Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp về quản lý ngân quỹ

Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá trị của doanh nghiệp. Vì vậy,

mặc dù quản lý ngân quỹ là một trong các bộ phận của quản lý tài chính doanh nghiệp

nhưng mục tiêu quản lý ngân quỹ có tính chất bao trùm các bộ phận khác.

Công tác quản lý ngân quỹ tại một doanh nghiệp bị chi phối sâu sắc bởi người

lãnh đạo doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chính sách đầu tư vốn lưu động

“lỏng lẻo”, theo đó người ta duy trì một khối lượng lớn tiền mặt, đồng thời doanh thu bán

ra được khuyến khích bằng các khoản bán chịu rộng rãi, nhờ đó khoản phải thu cũng tăng

lên. Đây là chính sách an toàn cho doanh nghiệp trước khả năng nhu cầu thị trường tăng

lên đột ngột, tuy nhiên thu nhập của doanh nghiệp sẽ thấp. Ngược lại, doanh nghiệp có

thể theo đuổi chính sách vốn lưu động “chặt chẽ”. Theo đó người ta cố gắng duy trì một

khối lượng hạn chế tiền mặt, chứng khoán dễ bán và hàng tồn kho, đồng thời kiểm soát

chặt chẽ các khoản bán chịu để giảm tới mức thấp nhất các khoản phải thu. Đây là một

chính sách có thể mang lại thu nhập cao, nhưng đồng thời cũng là một chính sách rủi ro

nếu có những biến động bất thường.

Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp là nhân tố quan trọng, con người được

đề cập đến đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao động trong doanh nghiệp, mà trước

hết là giám đốc doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp). Giám đốc doanh nghiệp là người toàn

quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản và tiền vốn của doanh nghiệp và là người chịu

trách nhiệm, quyết định mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp. Quyết định của các nhà

quản lý tài chính trong doanh nghiệp là đúng đắn, phù hợp xu hướng phát triển thì doanh

nghiệp kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng một cách tiết kiệm và đem lại hiệu quả

cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp sẽ dẫn đến thua lỗ trong

kinh doanh.

1.4.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Công tác quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp chịu tác động lớn bởi đặc điểm sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính chất ngành kinh doanh ảnh hưởng tới thành

phần và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới tốc độ luân

chuyển vốn, cách thức đầu tư và thể thức thanh toán chi trả. Đối với các doanh nghiệp

mà các dòng tiền vào và ra tương đối cân đối về mặt thời gian và khối lượng, nhu cầu

vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn thì nội dung và

phương pháp công tác quản lý sẽ đơn giản. Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp chịu

ảnh hưởng của tính chất thời vụ trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các hoạt

động bán lẻ hoặc trong ngành du lịch, dịch vụ, sản xuất các mặt hàng có nhu cầu không

thường xuyên.. Trong thời kỳ nhu cầu hạ thấp, nhu cầu tiền tệ giảm mạnh, thậm chí còn

xuất hiện hiện tượng dôi thừa tiền tệ. Ngược lại, khi đến gần thời vụ kinh doanh, hàng

hoá cần được tích trữ, do đó hoạt động kinh doanh cần được hỗ trợ từ các nguồn tiền bên

trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp. Tại thời điểm chính vụ, nhu cầu này vẫn tồn tại

trong thời gian ngắn do sự tăng lên của các khoản phải thu của khách hàng sau đó sẽ

được bù đắp khi các khoản phải thu đầu tiên đến thời hạn thu hồi. Đối với các doanh

nghiệp này, việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và

chi bằng tiền của doanh nghiệp khó khăn hơn nên đòi hỏi công tác quản lý ngân quỹ càng

phải được chú trọng hơn, phải có phương pháp quản lý phù hợp.

1.4.1.3 Chiến lược sản xuất kinh doanh

Chiến lược hoạt động kinh doanh trong thời gian tới cũng có ảnh hưởng tới nhận

thức cũng như việc tổ chức quản lí ngân quỹ trong doanh nghiệp. Việc xác định mục tiêu

của chiến lược kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thông thường mục tiêu chiến

lược kinh doanh gồm: Lợi nhuận, tạo thế lực trong cạnh tranh, an toàn tránh rủi ro. Để tăng

lợi nhuận cần phải tăng thu, giảm chi phí (trong đó có giảm chi phí vốn), một trong rất

nhiều biện pháp là phải quan hệ tốt với bạn hàng, cả nhà cung cấp lẫn người mua… mà để

làm điều đó có vai trò quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp

cung cấp dịch vụ, chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp

trong một thời gian dài, nó quy định loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm

nhận, quy mô kinh doanh, các nguồn lực của sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển

vọng phát triển của doanh nghiệp. Việc đảm bảo khả năng thanh toán cũng như có các

chính sách tín dụng thương mại hấp dẫn sẽ giúp cho các doanh nghiệp này thu được nhiều

lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động thích ứng với

môi trường.

1.4.1.4 Cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp

Đó là những nguyên tắc về quản lý tài chính đối với hoạt động của doanh nghiệp

trong đó quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản, quản lý doanh thu chi phí

trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp vừa là

cụ thể hoá những quy định về tài chính của nhà nước vừa là những quy định áp dụng riêng

cho doanh nghiệp. Quản lý ngân quỹ cũng là một hoạt động quản lý tài chính nên không

nằm ngoài sự điều chỉnh của quy chế. Do vậy, hiệu quả của quản lý ngân quỹ ít nhiều chịu

ảnh hưởng của những quy định trong quy chế tài chính của doanh nghiệp.

1.4.1.5 Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý ngân quỹ

Hoạt động của ngân quỹ biến động từng ngày, từng giờ và tác động đến nhiều bộ

phận của doanh nghiệp nên quản lý ngân quỹ đòi hỏi quá trình xử lý thông tin và đưa ra

các quyết định nhanh chóng, chính xác. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp

cho thấy việc nắm các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là

điều kiện rất quan trọng để ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi

trong cạnh tranh. Vì vậy, để đạt được thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần

thu thập và xử lý thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Ngoài ra,

các doanh nghiệp cần nắm được các thông tin có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của

mình tỷ giá, lãi suất, đối thủ cạnh tranh.. để phục vụ cho việc phân tích, so sánh làm cơ sở

cho công tác quản lý ngân quỹ. Do đó, các doanh nghiệp cần phải áp dụng kỹ thuật công

nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho

công tác quản lý ngân quỹ.

1.4.2 Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp

1.4.2.1 Trạng thái của nền kinh tế

Tình hình nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái hay tăng trưởng cũng có ảnh

hưởng quan trọng tới công tác quản lý ngân quỹ. Nền kinh tế phát triển ổn định, có tăng

trưởng bền vững là điều kiện cho sự phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, nền kinh tế

suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động

chu kỳ và khủng hoảng kinh tế là các ảnh hưởng do sự thay đổi các điều kiện kinh tế trong

trong toàn bộ nền kinh tế hoặc trong từng ngành và có tác động lâu dài đến hoạt động của

doanh nghiệp. Những ảnh hưởng này không đều đặn, khó dự đoán trước và thường đi kèm

với rất nhiều yếu tố khác, ví dụ như thay đổi về lượng cung và giá cả nguyên vật liệu, lạm

phát, các điều kiện cạnh tranh, nhu cầu đầu tư vốn.. Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy

thoái, các nhà quản lý cần kịp thời nhận biết tình hình, từ đó có các chính sách cắt giảm

vốn bằng tiền, hàng tồn kho, giảm nhân công và các chi phí khác, thận trọng trong sử dụng

và cung cấp các khoản tín dụng..Ngược lại, khi nền kinh tế phục hồi thì việc chậm trễ

trong quá trình ra quyết định có thể dẫn đến sản lượng và hàng hoá tồn kho không đủ để

thực hiện hoạt động kinh doanh. Điều tất yếu nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp sẽ thay đổi.

1.4.2.2 Môi trường hoạt động của doanh nghiệp

Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể kinh

doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động, chi phối mọi hành

vi, hoạt động của họ.

Sự ổn định của thể chế chính trị có tác động tích cực cho việc thu hút vốn đầu tư,

tạo môi trường kinh doanh tin cậy cho người đầu tư và khả năng huy động vốn kinh doanh

của doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, môi trường pháp luật thông thoáng sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, sự không ổn

định của pháp luật và chính sách kinh tế có thể gây ra những tác động bất lợi đối với doanh

nghiệp. Môi trường kinh doanh trong đó thói quen coi trọng chữ tín và đạo đức của người

kinh doanh hoặc các thông tin liên quan tới hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính

của doanh nghiệp được công khai minh bạch theo các quy định của luật pháp cũng tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Từ đó, chúng tác động tới mức tồn quỹ, vòng quay

tiền và các dòng thu, chi ngân quỹ.

1.4.2.3 ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh

Tác động qua lại lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng nhất định đến

môi trường kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp.

Các điều kiện về giá bán, thời hạn tín dụng, tỷ lệ chiết khấu, uy tín, thị phần của doanh

nghiệp thay đổi dẫn đến nhu cầu về vốn bằng tiền thay đổi. Ví dụ, trong trường hợp giá

bán giảm xuống với điều kiện số lượng hàng bán không đổi làm cho giá trị các khoản phải

thu giảm nhưng chỉ bù đắp được một phần nào sự tổn thất doanh thu của doanh nghiệp và

kết quả là nhu cầu tiền tệ tăng lên. Hiện tượng này sẽ kết thúc khi doanh nghiệp thực thi

các quyết định cắt giảm quy mô kinh doanh. Để kiểm soát yếu tố này, doanh nghiệp cần

phải xác định vị thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh, khả năng và chiến lược cạnh

tranh, từ đó xây dựng chiến lược huy động huy động vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ

phát sinh hoặc có chính sách cắt giảm kịp thời đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp.

1.4.2.4 ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ và chính sách thuế của nhà nước

Các chính sách về tài chính tiền tệ cũng như chính sách thuế, kế toán có tác động

lớn đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Trong trường hợp chính phủ cắt

giảm các khoản chi tiêu ngân sách hoặc giảm thuế sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên, hoạt

động đầu tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, và kết quả là doanh nghiệp có điều

kiện để xây dựng các kế hoạch đầu tư mới dẫn đến nhu cầu tiền tệ phát sinh. Mặt khác, khi

chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ biểu hiện bằng sự tăng hoặc giảm mức cung tiền

tệ hoặc phá giá đồng tiền, thậm chí sử dụng chính sách thả nổi tỷ giá thì nó sẽ ảnh hưởng

nhanh chóng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, khi chính phủ

tăng mức cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi hạ xuống và từ đó

khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kết

quả là làm tăng thêm nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú

trọng đến công tác quản lý ngân quỹ để đạt hiệu quả trong đầu tư.

1.4.2.5 Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.

Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng là: nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và làm

phương tiện thanh toán. Ngày nay, các doanh nghiệp thường sử dụng các dịch vụ của ngân

hàng trong hoạt động thanh toán của mình. Như vậy, ngân hàng càng cung cấp nhiều dịch

vụ thì các doanh nghiệp càng thuận lợi hơn trong thanh toán với nhà cung cấp và khách

hàng của mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng càng đa dạng và hiện đại sẽ đẩy

nhanh quá trình thanh toán. Có thể nói, các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại

là một yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý ngân quỹ.

1.4.2.6 Khách hàng của doanh nghiệp

Trong kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh

nghiệp. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp.

Những khách hàng kinh doanh thường xuyên thua lỗ, sẽ trì trệ trong thanh toán, làm ảnh

hưởng tới ngân quỹ của xí nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của

mình trên thị trường để xác định những đặc điểm tâm lý, sinh lý, thị hiếu của khách hàng.

Nghiên cứu nhu cầu để dự báo được thay đổi nhu cầu, khả năng thanh toán. Các nhà quản

lý thường duy trì mức tồn quỹ lớn hơn để dự phòng khả năng không thu hồi nợ đúng hạn,

đồng thời cũng tăng cường theo dõi, lên kế hoạch tài trợ cho ngân quỹ ngay từ đầu.

Chương 2 :

Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm 1

Bưu điện trung tâm 1 được thành lập căn cứ vào quyết định 5041/QĐ - TCCB ngày

25/12/2002 của Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. Đây là một

doanh nghiệp trực thuộc Bưu điện Hà Nội, làm việc theo chế độ thủ trưởng. Mọi hoạt động

dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ thống nhất theo các quy định của Nhà nước, Bộ Bưu

chính viễn thông, Bưu điện Hà Nội.

Bưu điện trung tâm 1 hoạt động kinh doanh và phục vụ trong lĩnh vực bưu chính -

viễn thông, được Bưu điện giao quyền quản lý vốn và tài sản tương ứng với nhiệm vụ kinh

doanh và dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1, có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn

và phát triển vốn được giao.

Dịch vụ mà Bưu điện trung tâm 1 cung cấp không phải là vật chất cụ thể mà là hiệu

quả của việc truyền tin tức được kết tinh trong sản phẩm của các ngành kinh tế dịch vụ

khác.

Đối với Bưu điện trung tâm 1, kinh doanh và dịch vụ là hai mặt của quá trình sản

xuất kinh doanh. Ngoài mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận, Bưu điện trung tâm 1 còn có

mục tiêu là dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của cộng đồng, thực hiện các nhiệm vụ an ninh quốc

phòng trên địa bàn thủ đô.

2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1

2.1.2.1 Chức năng

Chức năng phục vụ

Bưu điện trung tâm 1 là một ngành quản lý độc quyền có chức năng phục vụ các

dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát hành báo chí cho sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước

đồng thời tổ chức tốt phục vụ nhu cầu thông tin của nhân dân, ở đâu có dân là ở đó phải có

điện thoại phục vụ. Bưu điện trung tâm 1 là ngành sản xuất dịch vụ.

Chức năng kinh doanh

Bên cạnh việc phục vụ, Bưu điện trung tâm 1 có chức năng tổ chức mọi hoạt động

sản xuất kinh doanh mạng lưới bưu chính với phương châm kinh doanh có lãi để phục vụ

tốt hơn. Tuy nhiên việc phân biệt giữa công ích và kinh doanh trong hoạt động của ngành

bưu chính-viễn thông vẫn còn tồn tại chưa giải quyết được vì đây là vấn đề phức tạp.

2.1.2.2 Nhiệm vụ

Bưu điện trung tâm 1 có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bưu chính, phát hành báo

chí, các dịch vụ viễn thông, tin học trả trước trên địa bàn quận Hoàn Kiếm và khu vực các

phường Phúc Xá, Nguyễn Trung Trực, Quan Thánh, Điện Biên, Kim Mã, Giảng Võ,

Thành Công thuộc quận Ba Đình. Đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của cơ

quan Đảng, chính quyền các cấp, phục vụ yêu cầu thông tin trong đời sống kinh tế xã hội

các ngành và nhân dân trên địa bàn quản lý.

2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1

Cơ cấu tổ chức

*Ban giám đốc: Gồm giám đốc và hai phó giám đốc.

*Các phòng ban chức năng

Phòng tổ chức hành chính

Phòng nghiệp vụ kinh doanh

Phòng tài chính kế toán

*Các đơn vị trực thuộc Bưu điện trung tâm 1

Bưu cục giao dịch 1

Bưu cục giao dịch 2

Bưu cục bưu chính quốc tế

Bưu cục viễn thông quốc tế

Bưu cục Tràng Tiền

Bưu cục Lương Văn Can

Bưu cục Cửa Nam

Bưu cục Hùng Vương

Bưu cục Giảng Võ

Bưu cục phát hành báo chí

Đội vận chuyển và phát thư báo

Đội kiểm tra kiểm soát

2.1.4 Đặc điểm kinh doanh, phục vụ của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị trường

2.1.4.1 Sản phẩm của ngành Bưu điện

Bưu điện là ngành sản xuất đặc biệt vì sản phẩm của ngành Bưu điện chính là hiệu

quả có ích của việc truyền đưa thông tin, lưu chuyển bưu phẩm. Sản phẩm bưu chính viễn

thông không mang hình thái vật chất mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức

từ người gửi đến người nhận. Sản phẩm của ngành tồn tại dưới nhiều dạng, có sản phẩm

tồn tại dưới dưới dạng vật chất cụ thể như con tem, các phương tiện, thiết bị để lưu truyền

thông tin. Sản phẩm bưu chính viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ.

Để tạo ra sản phẩm dịch vụ nói chung và sản phẩm bưu chính viễn thông nói riêng

đều cần có sự tham gia của các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động và đối tượng

lao động.

Sản phẩm bưu chính viễn thông là sản phẩm đặc biệt, để tạo ra sản phẩm, trong quá

trình sản xuất không tạo ra bất cứ một sự thay đổi nào ngoài sự thay đổi về vị trí không

gian: các bưu phẩm phải được đảm bảo nguyên vẹn, các thông tin mã hoá phải được giải

mã chính xác, nếu tạo ra bất cứ một sự thay đổi nào khác là bưu điện đã vi phạm chất

lượng. Như vậy, sản phẩm bưu chính viễn thông không phải là hình thái vật chất cụ thể,

không tồn tại ngoài quá trình sản xuất, không thể đưa vào kho cũng như không thể thay thế

được.

Mặt khác, do đặc thù của sản phẩm bưu chính viễn thông là mang tính vô hình,

không tồn tại ở một dạng vật chất cụ thể, các doanh nghiệp bưu chính viễn thông không

cần nguyên vật liệu chính, phải bỏ tiền ra mua ngoài các vật liệu phụ như dây gai, ấn

phẩm.. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn

thông: chi phí vật liệu chiếm tỷ trọng nhỏ, chi phí lao động sống chiếm tỷ trọng lớn..và tạo

nên sự khác biệt lớn trong phương thức tính giá thành sản phẩm và chế độ hạch toán kế

toán của doanh nghiệp bưu chính viễn thông so với doanh nghiệp sản xuất khác.

2.1.4.2 Đặc điểm kinh doanh của ngành bưu điện

 Quá trình cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông mang tính dây chuyền

Quá trình cung cấp dịch vụ trong ngành bưu điện đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có

hệ thống mạng lưới thông tin, mạng lưới tổ chức con người và hoạt động sản xuất kinh

doanh rộng khắp. Quá trình sản xuất cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông mang tính dây

chuyền. Điểm đầu và điểm cuối của một quá trình truyền đưa tin tức có thể cùng một thành

phố, cùng quốc gia hay tại các nước khác nhau. Để truyền đưa một tin tức hoàn chỉnh từ

người gửi đến người nhận thường có hai hay nhiều cơ sở bưu điện tham gia, mỗi cơ sở chỉ

thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó. Việc chi

phí cho một quá trình sản xuất bưu điện rải rác ở nhiều đơn vị bưu điện song việc thu cước

(giá cả bán sản phẩm bưu điện) của toàn trình lại được thực hiện ở một nơi, đó là nơi ký

gửi tin tức. Do vậy, doanh thu cước của một đơn vị bưu điện không đặc trưng cho kết quả

hoạt động kinh doanh của đơn vị đó. Chính do đặc điểm này nên trong giai đoạn hiện nay,

toàn khối thông tin được hạch toán tập trung. Toàn bộ doanh thu được tập trung về một

mối, chi phí cân đối từ một nguồn, những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao hỗ trợ cho

các đơn vị có doanh thu thấp.

 Quá trình cung cấp gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm

Chu kỳ tái sản xuất sản phẩm nói chung là Sản xuất – Phân phối – Trao đổi – Tiêu

dùng. Như vậy, thông thường tiêu dùng sản phẩm nằm sau quá trình sản xuất. Đối với các

doanh nghiệp, sản phẩm sau khi sản xuất được đưa vào kho, sau đó thông qua mạng lưới

thương nghiệp thực hiện phân phối, trao đổi và sau đó người tiêu dùng mới tiêu dùng

được. Còn trong hoạt động bưu chính viễn thông, quá trình tiêu thụ sản phẩm không tách

rời quá trình sản xuất và tiêu dùng nên chất lượng bưu chính viễn thông đòi hỏi ngày càng

cao. Sản phẩm của các ngành khác sau khi sản xuất phải trải qua khâu chất lượng rồi mới

được đưa ra thị trường. Người tiêu dùng có thể từ chối không mua sản phẩm có chất lượng

kém hoặc chấp nhận mua những sản phẩm cạnh tranh với giá rẻ hơn. Còn đối với các dịch

vụ bưu chính viễn thông thì dù muốn hay không, người tiêu dùng vẫn phải tiêu dùng

những sản phẩm do Ngành tạo ra. Hơn thế nữa, một sản phẩm bưu chính viễn thông kém

chất lượng không thể thay thế bằng một sản phẩm khác chất lượng tốt hơn, sản phẩm bưu

chính viễn thông kém chất lượng có thể tạo ra những tổn thất to lớn cả về vật chất lẫn tinh

thần.

 Tải trọng không đồng đều theo không gian và thời gian

Trong quá trình khai thác sản xuất gắn liền với tiêu thụ, yêu cầu thông tin liên lạc

phải thông suốt, tức là cung ứng 24/24 giờ trong ngày. Trong khi đó nhu cầu sử dụng lại

phân bố không đều theo thời gian và không gian, điều đó dẫn tới khi thì quá tải, khi thì dư

thừa năng lực không khai thác hết.

Hiệu quả sử dụng thực tế của sản phẩm bưu chính viễn thông rất khác nhau đối với

những người sử dụng khác nhau và ở những vùng khác nhau. Mỗi tổ chức bưu chính viễn

thông đều thực hiện hai chức năng kinh doanh và dịch vụ, cung cấp cho xã hội những loại

hình dịch vụ khác nhau, phục vụ cho nhiều loại đối tượng, trên nhiều địa bàn. Từ đó việc

chấp nhận mức giá của sản phẩm bưu chính viễn thông của một loại dịch vụ cung cấp cũng

khác nhau.

Các sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau trong

một giới hạn nhất định, bởi vì mỗi lượng tin tức người ta có thể ký thác dưới dạng này hay

dạng khác để truyền đưa qua mạng bưu điện.

2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1

Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực tiếp tạo ra sản phẩm bằng các hoạt động mang

tính chất dịch vụ của mình. Giá trị của sản phẩm là những hao phí về lao động sống và lao

động vật hoá làm thay đổi đối tượng lao động (tin tức) từ không gian này đến không gian

kia. Trong một khoảng thời gian cho phép nào đó, sản phẩm của một đơn vị thực chất chỉ

là một công đoạn của sản phẩm toàn ngành bởi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

dịch vụ bưu điện là một dây chuyền liên tục và phải có sự tham gia của ít nhất hai đơn vị

bưu điện trở lên. Các sản phẩm, dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1 là:

Dịch vụ Bưu chính bao gồm: Bưu phẩm; bưu kiện; Bưu chính uỷ thác; Dịch vụ

chuyển tiền (bao gồm thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh, điện hoa);

Dịch vụ tiết kiệm bưu điện.

Dịch vụ viễn thông bao gồm: Dịch vụ đàm thoại ghisê (bao gồm dịch vụ điện thoại

nội hạt, dịch vụ gọi 171, dịch vụ điện thoại Collect-call, HCD..); Dịch vụ điện thoại thẻ.

Dịch vụ phát hành báo chí bao gồm: Nhận đặt báo dài hạn; Bán báo lẻ.

Bảng 2.1 : Phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông năm 2003 và

2004

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu Năm Năm Mức biến động 2004/2003

2003 2004 Lượng Tỷ trọng (%)

Doanh thu bưu chính viễn thông 57286 52235 -5051 91,2

37965 38363 398 101,04  Doanh thu dịch vụ bưu chính

17713 11493 -6220 64,9  Doanh thu dịch vụ viễn thông

1608 2379 771 147,9  Doanh thu dịch vụ PHBC

Doanh thu phân chia 5581 17612 12031 315

Doanh thu được hưởng 62867 69847 6980 111,1

Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004

Qua bảng phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông năm 2003 và 2004

ta thấy, năm 2004 chỉ tiêu doanh thu được hưởng của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 11,1%

so với năm 2003 thể hiện nhu cầu sử dụng các dịch vụ Bưu điện trên thị trường tăng lên.

Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông năm 2004 thấp hơn so với năm 2003

là 5051 triệu đồng (bằng 91,2% so với 2003). Nguyên nhân là doanh thu từ dịch vụ viễn

thông giảm 35,1%, giảm 6220 triệu đồng, doanh thu từ dịch vụ bưu chính chỉ tăng 1,04%

so với năm 2003. Doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm bởi năm 2003, trung tâm được

hạch toán toàn bộ doanh thu từ dịch vụ bán thẻ Cardphone, nhưng từ năm 2004, theo quy

định của Bưu điện Hà Nội, trung tâm chỉ được hạch toán 8% doanh thu bán thẻ

Cardphone. Chính sự thay đổi này đã làm cho doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm đáng

kể. Tuy nhiên, doanh thu phân chia năm 2004 tăng lên đáng kể là 12 031 triệu đồng.

Doanh thu phân chia Bưu chính viễn thông của Bưu điện trung tâm 1 là kết quả bù trừ

giữa phần doanh thu bưu chính viễn thông phải trả và nhận được khi thực hiện phân chia

cước với các đơn vị trong nội bộ Bưu điện Hà Nội như Công ty điện thoại, Trung tâm dịch

vụ khách hàng, Trung tâm tin học..

Bảng 2.2 : Bảng phân tích lợi nhuận trước thuế năm 2003,2004

Đơn vị: Triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Mức biến động 2004/2003

Lượng Tỷ trọng(%)

Doanh thu được hưởng 62867 69847 6980 111,1

Giá vốn hàng bán 26525 26639 114 100,4

Lợi nhuận trước thuế 34659 38255 3596 110,3

Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004

Qua số liệu ở bảng trên, ta thấy lợi nhuận trước thuế năm 2004 đạt 38255 triệu

đồng, tăng 10,3% so với lợi nhuận trước thuế năm 2003, tăng 3 596 triệu đồng. Điều này

được lý giải bởi doanh thu được hưởng năm 2004 tăng 11,1% so với doanh thu năm 2003,

trong khi đó giá vốn hàng bán tăng lên ít, chỉ tăng 0,4%, tăng 114 triệu đồng. Tuy nhiên,

lợi nhuận không phải là tiêu chí duy nhất đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, từ số liệu trong bảng trên ta tính được chỉ tiêu tỷ suất lợi

nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1. Chỉ tiêu này được xác định

bằng cách chia lợi nhuận trước thuế cho doanh thu.

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu = Lợi nhuận trước thuế/Doanh thu

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1 năm 2003 là

55,1%, năm 2004 là 54,6%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2004 giảm so

với năm 2003 chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của năm 2004 không bằng năm 2003. Tuy

nhiên, sự sụt giảm không lớn ( khoảng 0,5%) nên ảnh hưởng không nhiều đến việc đánh

giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1 năm 2004.

2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

2.2.1.1 Đặc điểm hoạt động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

Với đặc thù về loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nên ngành Bưu điện thực hiện

hạch toán kế toán toàn ngành. Mọi chi phí được tập hợp từ cơ sở Bưu điện huyện, lên đến

Bưu điện tỉnh, thành phố rồi lên Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. ở các cơ sở

bưu điện huyện chỉ tập hợp chi phí không tính giá thành dịch vụ, ở Bưu điện tỉnh là nơi

tính giá thành một công đoạn dịch vụ, còn Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam

mới là nơi tính giá thành toàn ngành Bưu điện. Bưu điện Hà Nội được coi là đơn vị hạch

toán cấp tỉnh, các đơn vị trực thuộc là đơn vị hạch toán cấp huyện.

Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân

hàng. Bưu điện trung tâm 1 có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Công thương và Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tiền gửi ngân hàng của công ty bao gồm :

- Tài khoản tiền gửi kinh doanh

- Tài khoản tiền gửi tiết kiệm bưu điện

- Tài khoản tiền gửi chuyên thu: Hàng ngày Bưu điện trung tâm 1 phải chuyển toàn bộ

số dư trên tài khoản chuyên thu của ngày hôm trước về Bưu điện Hà Nội.

Hiện nay công tác quản lý tài chính của công ty do phòng Tài chính kế toán đảm

nhiệm. Công tác kế toán tại đây được hạch toán theo hình thức chứng từ ghi sổ trên máy vi

tính. Bưu điện trung tâm 1 tổ chức hạch toán và lưu trữ chứng từ kế toán tại đơn vị, lập các

báo cáo kế toán nội bộ theo quy định gửi về Bưu điện Hà Nội. Mọi công việc quản lý đều

được thực hiện qua mạng máy tính. Công tác quản lý ngân quỹ được coi là một phần công

việc của các nhân viên kế toán và thủ quỹ. Kế toán trưởng là người có quyền ra các quyết

định quản lý ngân quỹ. Các kế toán viên và thủ quỹ có nhiệm vụ báo cáo với kế toán

trưởng khi có tình huống bất lợi cho ngân quỹ xảy ra. Công tác quản lý ngân quỹ của Bưu

điện trung tâm 1 dựa vào sự biến động của tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các tài

khoản có liên quan như tài khoản theo dõi các khoản phải thu, phải trả...

Bưu điện trung tâm 1 phải thực hiện định mức lưu quỹ hàng ngày các tại bưu cục

giao dịch theo quy định của Bưu điện Hà Nội. Cụ thể, đối với các Bưu cục không phục vụ

dịch vụ chuyển tiền (Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Chuyển tiền nhanh) mức lưu quỹ

tiền mặt tối đa dưới 3.000.000 đồng. Đối với các Bưu cục có phục vụ dịch vụ chuyển tiền

mức lưu quỹ tiền mặt tối đa dưới 30.000.000 đồng. Đặc biệt các Bưu cục có số lượng nhận

phát hành và chi trả của các dịch vụ chuyển tiền nhiều cho phép mức lưu quỹ tiền mặt tối

đa dưới 50.000.000 đồng. Định mức số dư tài khoản tiền gửi kinh doanh và tài khoản tiền

gửi tiết kiệm Bưu điện dưới hai tỷ năm trăm triệu đồng. Hàng ngày, phòng Tài chính- Kế

toán của trung tâm cử người đến các Bưu cục để nhận thu gom tiền, đồng thời tiếp quỹ cho

các Bưu cục phải chi trả tiền ngân vụ hoặc tiết kiệm Bưu điện. Các bưu cục của Bưu điện

trung tâm 1 sẽ phải dự trù lượng tiền cần thiết tối thiểu phải có tại thời điểm trong ngày để

đáp ứng ngay khi khách hàng đến lấy tiền. Với đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của

Bưu điện, hoạt động thu chi diễn ra hàng ngày, không thể dự đoán trước được, đặc biệt

trong trường hợp khách hàng đến rút tiền đột xuất mà các bưu cục không có bất kỳ một

thông tin nào báo trước thì với định mức lưu quỹ theo quy định như hiện nay sẽ làm cho

các bưu cục luôn ở trong trạng thái bị động khi phải chi trả các khoản tiền ngân vụ (trả cho

dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh), trả cho dịch vụ tiết kiệm

Bưu điện (trả gốc và lãi). Hiện nay, trung tâm không quản lý ngân quỹ theo mô hình nhất

định, không xác định một mức cân đối tiền tối ưu. Như vậy, công tác quản lý ngân quỹ

đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm

1. Nếu trung tâm áp dụng một mô hình quản lý thích hợp kết hợp cùng với những định

mức lưu quỹ theo quy định thì sẽ giúp cho trung tâm luôn chủ động trong việc chi trả,

thanh toán cho khách hàng.

2.2.1.2 Thu – chi ngân quỹ

 Các khoản thực thu ngân quỹ:

 Thu từ kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông

+ Thu tiền phát hành ngân vụ: bao gồm các dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền,

chuyển tiền nhanh. Khoản thu này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khoản thực thu của

Bưu điện trung tâm 1 trong kỳ.

+ Tiền thu cước dịch vụ bưu chính viễn thông (gồm cả thu từ đại lý bưu điện) sau khi

trừ các khoản hoàn cước, giảm cước, phân chia cước với các đối tác và các đơn vị khác.

+ Thu về phí phát hành báo chí đã phát hành sau khi trừ các khoản thiệt hại về báo ế,

báo thiếu hụt.

+ Thu về lắp đặt, dịch chuyển máy thuê bao, phát triển thuê bao.

+ Thu về từ dịch vụ tiết kiệm bưu điện.

+ Thu do người mua ứng trước để mua hàng hoá dịch vụ.

 Thu từ hoạt động đầu tư

+Thu từ lãi tiền gửi ngân hàng: Khoản thu này làm tăng số dư tài khoản tiền gửi thanh

toán.

 Thu từ hoạt động bất thường

Tóm lại, thu ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu là thu từ kinh doanh bưu

chính viễn thông. Các khoản thu này chủ yếu được trả bằng tiền mặt, qua tài khoản tiền

gửi kinh doanh tại ngân hàng.

 Các khoản thực chi ngân quỹ

 Chi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông

+ Một yếu tố ảnh hưởng lớn đến các khoản thực chi ngân quỹ là:

*Trả tiền ngân vụ : trả cho dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền

nhanh.

*Trả cho dịch vụ tiết kiệm : trả gốc và lãi cho dịch vụ tiết kiệm.

+ Chi trả nguyên nhiên vât liệu, động lực

*Vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, cho khai thác nghiệp vụ:

Tại Bưu điện trung tâm 1, không có phần chi về nguyên vật liệu chính để tạo ra

thực thể sản phẩm, nó khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Do đó, tỷ trọng khoản

mục vật liệu trong tổng chi phí chiếm tỷ trọng không cao.

Chi phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất như xi,dây gai, ấn phẩm, mực dấu, bao

bì, chi phí in tem, giấy Fax, giấy photocopy, đĩa mềm, giấy in cho máy vi tính, vật liệu cho

lắp đặt điện thoại, thiết bị viễn thông.. và quản lý như giấy, bút, dập ghim..

* Vật liệu dùng cho sửa chữa tài sản

* Nhiên liệu: Khoản chi ngày càng được giảm trong số chi phí khi mà trang thiết bị

hiện đại ngày càng được nâng cao.

Đây là khoản mục chi phí phục vụ cho máy móc, thiết bị phương tiện vận chuyển

phục vụ cho việc truyền tin tức, bao gồm: xăng dầu phục vụ cho sản xuất và quản lý mạng

lưới, xăng dầu dùng cho ô tô, chạy máy nổ khi mất điện..

* Động lực : Là khoản mục chi phí về động lực, thiết bị động lực phục vụ cho máy

móc chuyên dùng để phục vụ cho việc truyền đưa tin tức.

* Dụng cụ sản xuất, đồ dùng văn phòng: Đây là khoản chi mua sắm dụng cụ phục

vụ cho công nhân khai thác, vận hành, bảo dưỡng mạng lưới, phục vụ cho cán bộ công

nhân viên làm công tác quản lý như máy tính cá nhân, đồ dùng văn phòng. Hay nói cách

khác, chi phí dụng cụ sản xuất, đồ dùng văn phòng là khoản chi mua sắm những dụng cụ

phục vụ cho điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên không đủ điều kiện của tài sản

cố định.

+ Chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp tiền ăn ca

Tiền lương là khoản mục chi phí ngày càng chiếm tỷ trọng một cao trên tổng chi

phí của Bưu điện trung tâm 1 bởi nhu cầu truyền đưa thông tin ngày một nhiều, khối

lượng ngày một nâng cao, đòi hỏi phải có lao động tiền lương cao phục vụ việc truyền

đưa tin tức.

Chi trả lương cho cán bộ, công nhân viên quản lý được tính trên cơ sở lương cơ

bản, bậc lương và các hệ số điều chỉnh. Khoản chi này cũng có biến động không đáng

kể. Tiền lương được chi theo đúng mục đích, gắn với kết quả sản xuất kinh doanh.

+ Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: Đây là khoản chi được tính

trên cơ sở quỹ tiền lương của Bưu điện trung tâm 1 theo các chế độ hiện hành của nhà

nước.

+ Chi dịch vụ mua ngoài

* Chi sửa chữa TSCĐ mua ngoài:

Khoản mục này có xu hướng giảm trong tỷ trọng tổng chi phí bởi tài sản cố định,

máy móc, thiết bị mới, hiện đại được trang bị sẽ không còn những thiết bị cũ, sẽ không

phải sửa chữa nhiều.

Đây là khoản chi nhằm phục hồi tài sản đã hao mòn trong quá trình sử dụng, nhằm

khôi phục giá trị sử dụng của tài sản cố định, đảm bảo khang trang cơ sở vật chất phục

vụ cho khách hàng và các khoản chi phí sửa chữa tài sản cố định đặc thù.

* Vận chuyển bốc dỡ thuê ngoài: Đây là khoản chi vận chuyển hàng hoá thông tin

cho nhu cầu truyền đưa tin tức, bao gồm chi thuê phương tiện vận chuyển trong khai

thác, sản xuất bưu chính, chi thuê bốc dỡ bưu phẩm, bưu kiện...tính theo quy định hiện

hành của nhà nước và Tổng công ty bưu chính viễn thông. Khoản chi này ngày càng

được giảm đáng kể khi mà thiết bị truyền tin ngày càng được hiện đại hoá, điện tử hoá,

công nghệ hoá.

*Điện năng : Bao gồm chi phí tiêu hao điện năng phục vụ cho sản xuất bưu chính

viễn thông, phát hành báo chí và cho công tác quản lý khác.

* Hoa hồng đại lý: Chi hoa hồng đại lý là khoản chi trả cho các đại lý bán tem, báo,

đại lý điện thoại công cộng, đại lý bưu điện, tính theo quy định hiện hành của Tổng

công ty.

+ Chi bằng tiền khác

* Các khoản thuế, phí, lệ phí

* Bảo hộ lao động

* Tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại:

* Bổ túc, đào tạo

* Chi khác

 Chi hoạt động đầu tư tài chính: Chi mua sắm đầu tư xây dựng cơ bản

 Chi hoạt động bất thường

Như vậy, ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 là chênh lệch giữa các khoản thực

thu và thực chi ngân quỹ. Vì Bưu điện trung tâm 1 hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực

dịch vụ nên các khoản thu và chi của trung tâm nhiều, đặc biệt là khoản thu chi ngân vụ

và tiết kiệm bưu điện có ảnh hưởng rất lớn đến ngân quỹ của đơn vị hàng ngày.

2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

Qua các bảng báo cáo tài chính của Bưu điện trung tâm 1 ta có:

Bảng 2.3 : Dự trữ, phải thu, phải trả năm 2003 – 2004

Đơn vị: triệu đồng

Khoản mục 31/12/2003 31/12/2004 Bình quân

Các khoản phải thu 3103 3267 3185

Các khoản phải trả 2095 1867 1981

Dự trữ (Nguyên vật liệu) 683 1525 1254

Nguồn: Bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2003 và 2004

Dựa vào bảng tổng hợp doanh thu chi phí ta biết:

+ Tổng doanh thu :68847 triệu đồng

+ Tổng giá vốn hàng bán: 26639 triệu đồng

Độ dài chu kỳ dự trữ được tính như sau

Giá vốn hàng bán

Vòng quay hàng dự trữ = -----------------------------------

Dự trữ bình quân

365 ngày

Độ dài chu kỳ dự trữ = -------------------------

Số lần dự trữ

Tổng doanh thu tiêu thụ

Vòng quay khoản phải thu = ---------------------------------------------

Mức thu tiền bình quân trong năm

365 ngày

Độ dài chu kỳ chờ thu tiền = --------------------------

Số lần chờ thu tiền

Độ dài chu kỳ kinh doanh

Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền

Độ dài chu kỳ trả tiền

Giá vốn hàng bán

Số lần trả tiền = -------------------------------------------

Mức trả tiền bình quân hàng năm

365 ngày

Độ dài chu kỳ trả tiền = -------------------------------------

Số lần trả tiền

Độ dài chu kỳ tiền mặt

Chu kỳ tiền mặt = Chu kỳ kinh doanh - Chu kỳ trả tiền

Thay số vào ta có:

+ Vòng quay hàng dự trữ :24 vòng

Độ dài chu kỳ dự trữ là : 15,2 ngày

+ Vòng quay các khoản phải thu: 21,5 vòng

Độ dài chu kỳ chờ thu tiền là : 17 ngày

+ Chu kỳ kinh doanh : 32,2 ngày

+ Vòng quay các khoản phải trả: 13,4 vòng

Độ dài chu kỳ trả tiền là : 27,2 ngày

+ Chu kỳ tiền mặt là : 5 ngày

Thu tiền từ khách hàng

Giao hàng cho khách hàng

Bắt đầu dự trữ

Chu kỳ chờ thu tiền (17 ngày)

Chu kỳ dự trữ (15 ngày)

Chu kỳ trả

Chu kỳ tiền mặt (5 ngày)

tiền

Những phân tích trên được thể hiện qua sơ đồ sau:

Trả tiền cho nhà cung cấp

Chu kỳ kinh doanh

(32 ngày)

Độ dài chu kỳ dự trữ của Bưu điện trung tâm 1 là 15 ngày, chiếm 46.8% chu kỳ

kinh doanh. Điều này phản ánh đúng đặc trưng của ngành Bưu điện- là ngành sản xuất

dịch vụ. Sản phẩm của Bưu điện là sản phẩm đặc biệt, không có hình thái vật chất. Các cơ

sở sản xuất dịch vụ chỉ sản xuất khi có người đến mua, không thể chủ động sản xuất sẵn

sản phẩm dự trữ. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của ngành Bưu chính viễn thông

nên vốn lưu động của công ty có nét đặc thù khác với các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp

ra sản phẩm: Trong vốn lưu động sản xuất chính không có thành phần nguyên vật liệu tồn

kho, trong thành phần của vốn lưu thông không có thành phẩm. Dự trữ chủ yếu của Bưu

điện trung tâm 1 là nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, khai thác nghiệp

vụ.

Ta thấy, chu kỳ tiền mặt của Bưu điện trung tâm 1 là 5 ngày, chiếm khoảng 15,6%

chu kỳ kinh doanh. Điều này có nghĩa là thời gian bình quân từ lúc doanh nghiệp chi tiền

cho đến khi thu được tiền là 5 ngày. Độ dài chu kỳ chờ thu tiền là 17 ngày. Trong khi chu

kỳ trả tiền là 27 ngày, chiếm 84% chu kỳ kinh doanh. Chênh lệch giữa chu kỳ trả tiền và

chu kỳ chờ thu tiền là 10 ngày, số lần thu lớn hơn số lần chi phát sinh. Sự khác biệt thu chi

này đòi hỏi công ty phải áp dụng những biện pháp quản lý ngân quỹ thích hợp bởi lẽ hoạt

động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 diễn ra từng ngày, từng giờ. Phần lớn tiền thu của

khách hàng đến giao dịch tại trung tâm là tiền mặt. Tại thời điểm thu được tiền của khách

hàng, trung tâm thường gửi tiền ở ngân hàng, không đem tiền đầu tư ngắn hạn. Các dịch

vụ mà công ty cung cấp cho khách hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động ngân

quỹ hàng ngày như: thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm bưu

điện..Chính có sự chênh lệch giữa hai chu kỳ thu tiền và chu kỳ trả tiền đòi hỏi trung tâm

phải quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ.

2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền

Mỗi kỳ kinh doanh, công ty đều có những khoản thực thu, thực chi ngân quỹ. Để có

thể lập được kế hoạch tài trợ và sử dụng ngân quỹ, trước hết ta phải xem đến thực trạng

vận động của khoản thực thu, thực chi trong thời gian qua.

Bảng 2.4 :

Một số chỉ tiêu trong bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2004

Đơn vị: triệu đồng

Khoản mục 31/12/2003 Quý Quý Quý Quý

1/2004 2/2004 3/2004 4/2004

11539,5 Tài sản lưu động 12747,2 11428,6 18595,3 10880,6

7586 7931,7 6282,2 12957,7 5050,3 Tiền

3103 Các khoản phải thu 3374,7 3506,1 3873 3267,4

683 997 1084,2 1134,3 1525 Dự trữ

167,5 Tài sản lưu động khác 443,8 556,1 630,3 1037,9

7366,7 7389,6 8276,6 9864,3 9758,8 Nợ ngắn hạn

0 0 Vay ngắn hạn 0 0 0

1136 336,8 Phải trả cho người bán 378,4 757,2 1361,7

959 15,3 Phải trả công nhân viên 10,9 103,2 1264

4632 6566 Phải trả cho các đơn vị 7258,7 8243,4 6346,2

nội bộ

639,7 Các khoản phải trả, phải 471,5 628,6 760,5 786,9

nộp khác

Nguồn : Bảng cân đối phát sinh

tài khoản theo quý năm 2004

Bảng 2.5: Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí theo quý năm 2004

Đơn vị : Triệu đồng

Chỉ tiêu Mã số Quý Quý Quý Quý

1/2004 2/2004 3/2004 4/2004

1.Doanh thu được hưởng 16034 17534 17108 19171 10C

2.Giá vốn hàng bán 6339 3733 7071 9496 11

3.Chênh lệch DT được hưởng và GV hàng 20 9695 13801 10037 9675

bán(20=10C – 11)

4.Doanh thu hoạt động tài chính 21,47 20,2 19,3 16,7 21

5.Chi phí tài chính 22

Trong đó: Chi phí lãi vay 22A

6.Chi phí bán hàng 17,7 4378 615 25,3 24

7.Chi phí quản lý doanh nghiệp 25

8.Chênh lệch thu chi từ HĐKD (30 = 30 9698,77 9443,2 9441,3 9666,4

20+(21-22)-(24+25)

9.Thu nhập khác 1,9 3,6 31

10.Chi phí khác 32

40 11.Chênh lệch thu chi hoạt động khác 0 1,9 3,6 0

12.Tổng chênh lệch doanh thu chi phí (50 50 9698,77 9445,1 9444,9 9666,4

= 30 + 40 )

Nguồn số liệu:Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2004

 Quý 1 năm 2004

So với đầu quý 1, lượng tiền của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 345,7 triệu đồng.

Một đặc điểm hoạt động của Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị truyền đưa tin tức, mọi tin

tức phải do khách hàng mang đến. Nhu cầu truyền đưa tin tức không phát sinh đều theo

các tháng trong năm...Thường nhu cầu truyền đưa tin tức phụ thuộc vào nhịp độ sinh

hoạt của xã hội (thường vào các kỳ báo cáo, các ngày lễ tết thì có lượng nhu cầu lớn).

Chính đặc điểm này ảnh hưởng đến công tác tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty.

Đây là thời điểm đầu năm 2004, vào dịp giáp tết nên khách hàng sử dụng các dịch vụ

của công ty nhiều hơn. Trong quý 1, công ty đã tăng dự trữ tại đơn vị nên làm giảm tiền

mặt 314 triệu đồng, bên cạnh đó các khoản phải thu của công ty tăng lên 271,7 triệu

đồng.

Nguồn tiền thu được, Bưu điện trung tâm 1 đã sử dụng để thanh toán các khoản

nợ ngắn hạn như: Phải trả người bán, phải trả công nhân viên, phải trả khác.

Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm là 16 034 triệu

đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 1 là 9698,77 triệu đồng.

 Quý 2 năm 2004

Trong quý 2, lượng tiền trong đơn vị giảm 1649,5 triệu đồng. Sở dĩ như vậy là vì

trong quý này, trung tâm phải tăng dự trữ nguyên vật liệu phục vụ cho khách hàng,

khoản phải thu của Bưu điện trung tâm 1 tăng 131,4 triệu đồng. Đồng thời các khoản

mục trong tài sản lưu động khác của đơn vị tăng lên cũng làm giảm lượng tiền của công

ty. Trong quý này, nợ ngắn hạn của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 887 triệu đồng so với

quý 1. Sản lượng doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông trong quý cao hơn so với kỳ

trước, nhưng ở quý 2 này chi phí bán hàng của trung tâm lớn (4378 triệu đồng), tăng

4360,3 triệu đồng vì thế làm cho lợi nhuận trước thuế quý 2 là 9445,1 triệu đồng, thấp

hơn 253,67 triệu đồng so với quý 1. Trong đó khoản chi cho hoa hồng đại lý của Bưu

điện trung tâm 1 chiếm một phần đáng kể.

 Quý 3 năm 2004

Trong quý 3, số dư tiền mặt của công ty tăng lên đáng kể. Tài sản lưu động tăng lên

7166,7 triệu đồng, tăng 62,7% so với quý 2. Đồng thời khoản mục nợ ngắn hạn trong quý

cũng tăng lên 1587,7 triệu đồng. Qua bảng ta có thể thấy được các khoản phải thu trong

quý 3 là cao nhất trong năm 2004. Các khoản phải trả nội bộ trong kỳ tăng 984,7 triệu

đồng, tăng 14%. Đây là các khoản mà Bưu điện trung tâm 1 phải trả cho các đơn vị kinh

doanh các dịch vụ viễn thông trong Bưu điện Hà Nội là : Công ty điện thoại, Công ty viễn

thông, Trung tâm tin học..Các khoản phải trả nội bộ chiếm tỷ lệ khá lớn trong các khoản

phải trả của trung tâm. Đó chính là doanh thu thu hộ giữa các đơn vị trực thuộc, doanh thu

phân chia dịch vụ bưu chính viễn thông như: Phát triển thuê bao; bán các SIM và thẻ trả

trước (cố định, di động, Internet..); thu cước thuê bao viễn thông.

Khoản phải trả công nhân viên tăng 94,6% so với đầu quý. Phải thu khách hàng

trong kỳ này cũng tăng lên đáng kể,tăng 366,9 triệu đồng, chứng tỏ công ty đã tăng lượng

tín dụng thương mại cho khách hàng. Đối với cơ quan xí nghiệp, cá nhân có ký hợp đồng

với Bưu điện, có thể sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông trước và thanh toán sau vào

thời điểm quy định trong tháng. Khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 phần nhiều là khách

hàng thường xuyên, việc giữ uy tín của khách hàng là rất cần thiết. Đối với trung tâm,

trong nhiều trường hợp có thể hy sinh lợi ích trước mắt để đảm bảo lợi ích lâu dài vì trong

điều kiện cạnh tranh như hiện nay, việc tìm các dịch vụ được sử dụng với tần số cao như

vậy là rất khó.

So với quý 2, doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm giảm 426 triệu

đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 3 là 9444,9 triệu đồng.

 Quý 4 năm 2004

Trong quý 4, lượng tiền của công ty đã giảm 7907,4 triệu đồng do Bưu điện trung

tâm 1 tăng một lượng dự trữ đáng kể là 390,7 triệu đồng, chiếm 14% tài sản lưu động,

đồng thời tăng các tài sản lưu động. Đây là lượng dự trữ cao nhất trong năm 2004, vì đây

là thời điểm 3 tháng cuối năm, có rất nhiều ngày lễ như ngày 20/10; 20/11;24/12, khách

hàng sử dụng các dịch vụ của Bưu điện trung tâm tăng lên đáng kể như dịch vụ: điện hoa,

chuyển phát nhanh, chuyển tiền...Công ty phải tăng lượng dự trữ để nhằm phục vụ cho

khách hàng. Với đặc thù của ngành bưu điện, hoạt động dịch vụ diễn ra hàng ngày nên

trung tâm thu về lượng tiền mặt khá lớn. Trong quý này, các khoản phải thu khách hàng

giảm 605,6 triệu đồng, đây là thời gian các khách hàng thanh toán các khoản nợ vì đa số

khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 là khách hàng có quan hệ lâu dài với bưu điện, sử

dụng các dịch vụ của trung tâm như bưu chính, báo chí, viễn thông. Trong quý này, doanh

thu được hưởng của Bưu điện trung tâm là cao nhất trong năm, chiếm 27,8 % doanh thu

năm 2004. Lợi nhuận trước thuế quý 4 tăng 221,5 triệu đồng so với quý 3.

2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

2.2.4.1 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng thanh toán

Bảng 2.6: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004

Đơn vị tính: lần

Chỉ tiêu Công thức tính Quí Quí Quí Quí

1/200 2/200 3/200 4/200

4 4 4 4

1,1 Khả năng thanh (TSLĐ) 1,72 1,38 1,88

toán hiện hành (Nợ ngắn hạn)

Khả năng thanh (TSLĐ - Dự trữ) 1,7 1,24 1,76 0,95

toán nhanh ( Nợ ngắn hạn)

Khả năng thanh (Tiền mặt) 1,07 0,75 1,3 0,52

toán tức thời (Nợ ngắn hạn)

Qua các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004 của Bưu điện trung tâm

1, ta thấy nợ ngắn hạn của công ty được đảm bảo khá đầy đủ bằng tài sản lưu động và

các tài sản quay vòng nhanh khác. Như vậy nợ ngắn hạn không phải là nguồn tài trợ

chính cho tài sản lưu động. Trong tài sản lưu động của công ty, chiếm tỷ lệ lớn là tiền

(bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển) và khoản phải thu.

Về khả năng thanh toán hiện hành: khả năng thanh toán hiện hành của Bưu điện

trung tâm 1 thấp nhất trong quý 1 và cao nhất trong quý 3. Nhìn chung, trung tâm có đủ

khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.

Về khả năng thanh toán nhanh : Tỷ lệ này cao nhất ở quý 3 nhưng lại thấp nhất ở

quý 4 (tỷ lệ này ở quý 4 nhỏ hơn 1). Trong quý 1, quý 2, quý 3 dự trữ chiếm lần lượt là

7,8%; 9,8 %; 6,1% tài sản lưu động. Sang quý 4 dự trữ chiếm 14% tài sản lưu động của

đơn vị. Trong quý 4, công ty phải dự trữ nguyên vật liệu nhiều hơn so với các quý còn

lại, bởi đây là thời điểm có nhiều ngày lễ trong năm, nhu cầu của khách hàng sử dụng

các sản phẩm dịch vụ của công ty lớn. Dự trữ chủ yếu là nguyên vật liệu dùng cho khai

thác nghiệp vụ. Tuy nhiên, nhìn chung dự trữ chiếm tỷ lệ không lớn trong tài sản lưu

động của đơn vị. Điều này được lý giải Bưu điện trung tâm 1 là doanh nghiệp dịch vụ,

sản phẩm của công ty là sản phẩm vô hình, việc tiêu thụ sản phẩm gắn liền với việc tạo

ra sản phẩm. Đơn vị chỉ sản xuất khi có người đến mua, không thể chủ động sản xuất sản

phẩm dự trữ. Trong khi đó, khách hàng ngày càng khó tính, cùng với xu hướng cạnh

tranh ngày càng gia tăng, khách hàng ngày càng có nhiều quyền lựa chọn. Do vậy, yêu

cầu đối với chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp phải thật cao, nếu không ảnh

hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng.

Về khả năng thanh toán tức thời: Chỉ tiêu thanh toán tức thời trong 4 quý năm

2004 của công ty có sự biến động rõ rệt. Trong quý 1 và quý 3, tỷ lệ khả năng thanh toán

tức thời của đơn vị lần lượt là 1,07; 1,3. Ngân quỹ của trung tâm trong các quý này là

khá cao, đặc biệt là tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển, nên có khả năng thanh toán

các khoản nợ đến hạn. Ngân quỹ của công ty trong quý 1 và quý 3 lần lượt chiếm

khoảng 62,2% và 69,7% tài sản lưu động. Ngược lại, trong quý 2 và quý 4 chỉ tiêu này ở

mức thấp hơn: quý 2 (0,75); quý 4 (0,52). Các khoản phải thu của đơn vị trong 4 quý lần

lượt chiếm 25,7%; 30 %; 20,2%; 29,9% tài sản lưu động của công ty.

Hiện nay, ngành Bưu chính viễn thông nói riêng cũng như các ngành khác nói

chung chưa có chỉ số tài chính mẫu để đánh giá, so sánh. Do vậy, những tỷ lệ về khả

năng thanh toán của Bưu điện trung tâm 1 chưa thể đánh giá chính xác là đã tốt hay

chưa. Tuy nhiên, sự ổn định của các tỷ lệ đó chứng tỏ khả năng tài chính của đơn vị là

khá vững chắc. Hệ số khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh, khả

năng thanh toán tức thời của quý 4 năm 2004 đều thấp hơn so với các quý khác cảnh báo

đơn vị sẽ có thể gặp khó khăn trong trường hợp cần thanh toán đột xuất các khoản nợ.

Bảng 2.7: Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng năm 2004

Đơn vị tính: lần

Nội dung Công thức Quý Quý Quý Quý

1/200 2/200 3/200 4/200

4 4 4 4

Tỷ lệ dự trữ trên Dự trữ 0,18 0,34 0,13 1,35

vốn lưu động ròng Vốn lưu động ròng

Do đặc thù của ngành bưu điện, nên dự trữ chiếm phần không đáng kể trong vốn

lưu động ròng của công ty. Hoạt động kinh doanh bưu chính viễn thông khác với các

hoạt động kinh doanh thông thường khác vì không có hàng tồn kho chờ bán. Tỷ lệ dự trữ

trên vốn lưu động ròng của Bưu điện trung tâm 1 có sự thay đổi rõ rệt, tỷ lệ này cao nhất

ở quý 4, thấp nhất ở quý 3. Hiện nay, Tổng công ty Bưu chính viễn thông chưa có chỉ số

trung bình ngành để so sánh, đánh giá. Do vậy, rất khó khăn cho Bưu điện trung tâm 1

trong việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính là tốt hay chưa tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ dự trữ trên

vốn lưu động ròng ở quý 4 là 1,35. Điều này thể hiện toàn bộ vốn lưu động ròng ở quý 4

không đủ tài trợ cho hàng dự trữ.

2.2.4.2 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng hoạt động

 Vòng quay tiền

Bảng 2.8: Vòng quay tiền năm 2004

Đơn vị tính: vòng

Nội Công thức Quý Quý Quý Quý

dung 1/200 2/200 3/200 4/2004

4 4 4

Vòng Doanh thu tiêu thụ trong 2,02 2,79 1,32 3,6

quay quý

tiền Tiền+chứng khoán ngắn

hạn

Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của tiền trong

công ty. Việc sử dụng tiền dưới bất kỳ hình thức nào cũng đẩy nhanh tốc độ chuyển hóa

tiền thành các tài sản khác và như vậy, góp phần đẩy nhanh tốc độ vận động của tiền.

Trong 4 quý năm 2004, vòng quay tiền cao nhất trong quý 4 là 3,6 vòng/quý, thấp

nhất trong quý 3 là 1,32 vòng/quý. Từ bảng 2.5, ta thấy doanh thu được hưởng của trung

tâm trong 4 quý lần lượt là: 16034 triệu đồng; 17534 triệu đồng; 17108 triệu đồng;

19171 triệu đồng. Như vậy, vòng quay tiền của trung tâm cao nhất ở quý 4 là do sản

lượng dịch vụ bưu chính viễn thông mà trung tâm cung cấp cho khách hàng tăng.

 Vòng quay dự trữ

Bảng 2.9: Vòng quay dự trữ năm 2004

Đơn vị tính:vòng

Quý Quý Quý Quý Nội dung Công thức

1/200 2/200 3/200 4/200

4 4 4 4

Vòng Doanh thu tiêu thụ trong 16,08 16,17 15,08 11,9

quay dự quý

trữ Dự trữ

Vòng quay dự trữ của trung tâm trong khoảng từ 11.9 đến 16.17 vòng trong một

quý. Dự trữ của trung tâm chiếm tỷ lệ không lớn trong tài sản lưu động. Tỷ lệ dự trữ trên

tài sản lưu động lần lượt trong 4 quý năm 2004 là: 7,8%; 9,5%; 6,1%; 14%. Như vậy, ở

thời điểm cuối năm trung tâm dự trữ nhiều hơn so với các quý 1, quý 2, quý 3. Trung

tâm phải đầu tư cho hàng dự trữ nhiều hơn trước để đạt mức doanh thu cần thiết. Sản

phẩm bưu điện chỉ có giá trị sử dụng khi nó đảm bảo việc truyền đưa thông tin từ khâu

đầu (nơi ký gửi) đến khâu cuối (nơi nhận tin). Chính vì vậy, ngành bưu điện không có

sản phẩm tồn kho, không cho phép có sản phẩm phế phẩm. Do đó, chỉ tiêu chất lượng

sản phẩm của ngành bưu điện là quan trọng vô cùng. Khác với các ngành sản xuất vật

chất khác, sản phẩm bưu điện không do vật liệu chính tạo ra thực thể sản phẩm. Vì vậy,

khoản mục nguyên nhiên vật liệu cấu thành trong thực thể sản phẩm là không đáng kể.

Dự trữ chủ yếu dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm dây gai, ấn phẩm, bao

bì, vật liệu cho lắp đặt máy điện thoại, thiết bị viễn thông. Hoạt động dịch vụ bưu điện

chủ yếu phải dựa trên các tài sản cố định (bao gồm các tài sản cố định đặc thù như thiết

bị chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn, nguồn điện, nhà cửa, xe cộ...). Điều này đòi hỏi

công ty phải tiến hành công tác quản lý dự trữ phải tốt, giảm thiểu chi phí cho việc dự

trữ.

 Vòng quay các khoản phải thu

Bảng 2.10: Vòng quay các khoản phải thu năm 2004

Đơn vị tính:vòng

Nội dung Công thức Quý Quý Quý Quý

1/200 2/200 3/200 4/200

4 4 4 4

5,1 Vòng quay Doanh thu tiêu thụ trong 4,95 4,63 5,09

các khoản quý

phải thu Các khoản phải thu

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu

thành tiền của doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải

thu là tốt. Như vậy, tốc độ thu hồi các khoản phải thu của trung tâm ở quý 3 không tốt

như quý 1, quý 2, quý 4.

2.2.4.3 Đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng dự phòng những

biến động bất thường

Thông thường, tuỳ vào từng doanh nghiệp mà các doanh nghiệp trích lập các quỹ

dự phòng để có thể sử dụng các quỹ này trong trường hợp đây là nguồn tài trợ tức thời cho

ngân quỹ trong ngắn hạn.

Hiện tại theo quy chế tài chính của Bưu điện Hà Nội, Bưu điện Hà Nội sẽ trích lập

quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ

phúc lợi, quỹ khen thưởng. Các đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội sẽ không trích các quỹ

này. Vì thế, tại Bưu điện trung tâm 1 hiện nay không trích lập các quỹ dự phòng những

biến động bất thường mà quản lý và sử dụng quỹ quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng do Bưu

điện Hà Nội trích lập và phân phối cho các đơn vị trực thuộc.

2.3 Đánh giá thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1

2.3.1 Những kết quả đạt được

Trong thời gian qua, công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1 được quan

tâm đúng mức nên đã mang lại một số kết quả nhất định. Trung tâm đã xây dựng các kế

hoạch sản lượng và doanh thu, kế hoạch chi phí, kế hoạch tiếp thị..cho từng năm. Các kế

hoạch đó được xây dựng dựa trên việc khảo sát nhu cầu thị trường cho các loại hình dịch

vụ, tốc độ phát triển của từng loại hình dịch vụ và nguyên nhân của sự phát triển đó. Việc

xây dựng này được trung tâm thực hiện chủ yếu dựa vào kế hoạch Bưu điện Hà Nội giao

xuống để trung tâm cân đối với khả năng hiện có. Các quyết định quản lý ngân quỹ được

đưa ra dựa vào nguồn thông tin từ các nghiệp vụ phát sinh hàng ngày. Ngoài ra, các quyết

định này còn được dựa vào các thông tin về thị trường, cơ hội đầu tư kinh doanh, các

thông tin về ngành, cơ cấu sản phẩm dịch vụ..mà trung tâm thu thập. Đây là những nguồn

thông tin làm cơ sở cho công tác quản lý ngân quỹ được thuận lợi hơn.

Thông qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của Bưu điện

trung tâm 1 trong 4 quý năm 2004 đã cho thấy trung tâm đã đảm bảo khả năng thanh toán.

Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán đều lớn hơn 1. Các khoản nợ ngắn hạn của

trung tâm đã được đảm bảo bằng tiền và các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải

thu dao động từ 4,63 vòng/quý đến 5,1 vòng/quý. Quý 1, vòng quay các khoản phải thu

tương đương với 18 ngày; Quý 2, vòng quay các khoản phải thu tương đương với 17 ngày;

quý 3, một vòng quay có độ dài 19,4 ngày và đến quý 4 độ dài một vòng quay tương

đương 17,6 ngày. Như vậy, độ dài các khoản phải thu của trung tâm tương đối ổn định qua

các quý.

Mặc dù hiện nay trung tâm chưa áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ cụ thể nhưng

trung tâm vẫn đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời khi có nhu cầu thanh toán. Tuy nhiên,

để nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân quỹ tại đơn vị, Bưu điện trung tâm 1 cần áp

dụng một mô hình quản lý ngân quỹ phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình.

2.3.2 Những hạn chế

 Chưa tận dụng được tối đa ngân quỹ nhàn rỗi

Ngân quỹ nhàn rỗi của Bưu điện trung tâm 1 được tận dụng gửi ngân hàng để thu

lãi được tính với lãi suất không kỳ hạn. Đây là sự lãng phí trong công tác quản lý ngân

quỹ của Bưu điện trung tâm 1. Vòng quay các khoản phải thu là 21,5 vòng/năm và số

ngày trung bình để thu được các khoản phải thu là 17 ngày. Trong khi đó, vòng quay các

khoản phải trả là 13,4 vòng/năm, trung bình cứ sau 27 ngày trung tâm thanh toán các

khoản phải trả. Trong khoảng thời gian chờ trả tiền cho khách hàng, trả cho các đơn vị

trực thuộc Bưu điện Hà Nội, nếu tiền mặt được chuyển sang tài khoản tiền gửi có kỳ hạn

thì sẽ có thu được khoản tiền lãi lớn hơn.

 Chưa đánh giá được hiệu quả quản lý ngân quỹ một cách đầy đủ

Hiện nay, Bưu điện trung tâm 1 chưa có một hệ thống cụ thể các chỉ tiêu để đánh

giá hiệu quả quản lý ngân quỹ mà chỉ có các chỉ tiêu tổng hợp chung về khả năng thanh

toán và khả năng hoạt động của trung tâm. Công tác quản lý ngân quỹ cũng như bất kỳ

một hoạt động nào khác, không thể hoàn thiện ngay mà phải dần dần từng bước. Để thúc

đẩy quá trình hoàn thiện ngân quỹ, các nhà quản lý tài chính cần đánh giá được những mặt

còn tồn tại trong công tác quản lý ngân quỹ để từ đó đưa ra những phương hướng cho phù

hợp với Bưu điện trung tâm 1.

 Chưa tiến hành dự tính cung cầu tiền để lập được kế hoạch quản lý ngân quỹ cho thời

gian tiếp theo

Trong công tác quản lý ngân quỹ, Bưu điện trung tâm 1 mới chỉ chú trọng tới xác

định các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ trong các quý. Đồng thời, công ty mới chỉ

tiến hành phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền. Việc tiến hành dự báo các luồng

tiền tương lai, khả năng trả nợ và đầu tư từ các luồng tiền cho thời gian tiếp theo là cần

thiết vì nó sẽ giúp công ty có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn.

2.3.3 Nguyên nhân

 Chưa áp dụng một mô hình quản lý ngân quỹ cụ thể

Trong thời gian qua, Bưu điện trung tâm 1 đã chú trọng đến công tác quản lý ngân

quỹ nhưng việc thực hiện đó không dựa trên một cơ sở khoa học như việc lập và thực hiện

theo các mô hình quản lý. Trung tâm chưa áp dụng các biện pháp quản lý ngân quỹ thường

xuyên vì thế hiệu quả đạt được còn hạn chế.

 Quy chế tài chính của Tổng công ty còn nhiều hạn chế

Bưu điện trung tâm 1 là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính viễn

thông Việt Nam. Theo cơ chế quản lý vốn hiện nay, đơn vị chỉ được giao quyền quản lý và

quyền sử dụng một số vốn rất hạn chế, do đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh mất

đi tính chủ động. Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị hạch toán phụ thuộc, tư cách pháp nhân

không đầy đủ nên khi cần huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh vẫn cần đến sự bảo

lãnh của Tổng công ty, do đó làm chậm trễ, thậm chí mất cơ hội kinh doanh nhất là trong

cơ chế thị trường khi mà tính nhanh nhạy và cơ hội kinh doanh được đặt lên là một yếu tố

cạnh tranh.

Bên cạnh đó, Tổng công ty còn ban hành các tỷ lệ chi mang tính gò bó, bắt buộc

làm mất tính năng động, sáng tạo và tiết kiệm chi phí của các đơn vị thành viên.

 Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả ngân quỹ còn chưa hoàn thiện

Hệ thống chỉ tiêu chưa hoàn thiện sẽ gây bất lợi cho Bưu điện trung tâm 1 trong

công tác quản lý ngân quỹ. Hiện nay, công ty chỉ mới có các chỉ tiêu tổng hợp chung về

khả năng thanh toán và khả năng hoạt động của công ty. Trung tâm chưa tiến hành đánh

giá diễn biến nguồn vốn và tình hình sử dụng vốn. Để đánh giá đầy đủ về khả năng thanh

toán, Bưu điện trung tâm 1 nên bổ sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ nợ phải thu so với khoản phải

trả. Ngoài ra, trung tâm cần tiến hành đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua các

chỉ tiêu vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng. Thông qua bảng 2.4, ta có thể

tiến hành đánh giá vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng của Bưu điện trung

tâm 1 năm 2004 như sau:

Bảng 2.11:

Phân tích vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng năm 2004

Đơn vị : Triệu đồng

Chỉ tiêu Quý Quý Quý Quý

1/2004 2/2004 3/2004 4/2004

Nợ ngắn hạn 7389,6 8276,6 9864,6 9758,6

Dự trữ và các khoản phải thu 4371,7 4590,3 5007,3 4792,4

Vốn lưu động ròng 5357,6 3152 8731 1121,8

Nhu cầu vốn lưu động ròng -3017,9 -3686,3 -4857 -4966,4

Nguồn : Bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2004

Qua bảng phân tích trên, ta thấy trong 4 quý năm 2004 vốn lưu động ròng đều > 0,

như vậy tài sản lưu động đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Nhu

cầu vốn lưu động ròng của Bưu điện trung tâm 1 trong 4 quý đều âm, toàn bộ dự trữ và các

khoản phải thu được tài trợ bởi nợ ngắn hạn, trung tâm không cần nhận thêm vốn ngắn hạn

để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Như vậy, khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn

của trung tâm phụ thuộc vào việc thu hồi các khoản phải thu.

Vì vậy, để hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ của đơn vị, Bưu điện trung tâm 1

cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ phù hợp với đặc điểm

sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.

 Đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong doanh nghiệp còn mỏng

Công tác quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý ngân quỹ nói riêng hầu

như do các nhân viên kế toán thực hiện. Nhân viên phòng kế toán được đào tạo chủ yếu về

nghiệp vụ kế toán còn các nghiệp vụ về tài chính còn hạn chế. Do vậy, công tác quản lý

ngân quỹ chỉ được xem như hạch toán thu chi tiền mặt, việc đánh giá hiệu quả quản lý

ngân quỹ mới chỉ dừng lại ở việc tính toán một số chỉ tiêu mà chưa phân tích và tìm ra

nguyên nhân, giải pháp khắc phục, đồng thời chưa dự báo xu thế tài chính trong tương lai.

Chương 3 :

Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm

1

3.1 Định hướng phát triển của Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian tới

3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông- Cơ hội và thách thức

Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hoá nền kinh tế đã trở thành xu thế khách quan,

lôi cuốn hầu hết các nước trên thế giới. Hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực, các

doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Bưu điện trung tâm 1 nói riêng sẽ được hưởng lợi từ

việc thu hút vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ, đồng thời cũng sẽ vấp phải một thách

thức lớn về cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông thông qua

hoạt động đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp bưu chính viễn thông không thể giữ mãi vị thế

độc quyền như hiện nay. Các dịch vụ bưu chính phát triển đa dạng, đan xen với các dịch

vụ viễn thông, tin học, cụ thể như việc tin học hoá các dịch vụ chuyển tiền nhanh và

chuyển tiền truyền thống, chuyển phát bưu phẩm, bưu kiện; phát hành báo chí; tiết kiệm

bưu điện..Bên cạnh đó, công nghệ mới và tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho bưu chính khai thác

dịch vụ thương mại điện tử như bán hàng qua bưu chính, Datapost, thư điện tử.. với chất

lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Xu hướng phát triển dịch

vụ viễn thông sẽ phát triển mạnh với chất lượng cao và di động hoá.

Trong chiến lược của mình, Bưu điện trung tâm 1 đã phân tích về khách hàng, nhà

cung cấp, đối thủ cạnh tranh.

Những cơ hội và thách thức chủ yếu đặt ra cho Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian

tới là:

 Thị trường bưu chính-viễn thông là thị trường có nhiều cơ hội kinh doanh đem lại lợi

nhuận cao. Nhu cầu thông tin liên lạc đang dần dần trở thành nhu cầu thiết yếu của xã

hội. Xu thế phát triển của xã hội khiến cho khuynh hướng tiêu dùng các dịch vụ nói

chung, dịch vụ thông tin liên lạc nói chung ngày càng lớn.

 Chi phí cho việc thành lập cơ sở hạ tầng mạng lưới rất lớn. Đây là một rào cản khiến

cho các doanh nghiệp đi sau không thể dễ dàng xâm nhập vào toàn bộ thị trường kinh

doanh dịch vụ bưu chính viễn thông.

 Bưu điện trung tâm 1 hoạt động trên địa bàn có dân cư đông, nhu cầu thông tin liên lạc

cao. Đây là thị trường hấp dẫn đối với các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay, đã có 4 doanh

nghiệp gồm: Công ty cổ phần Bưu chính-Viễn thông Sài Gòn, Công ty Điện tử viễn

thông Quân đội, Công ty viễn thông Hàng hải, Công ty Viễn thông Điện lực tham gia

kinh doanh trong lĩnh vực bưu chính viễn thông ở một số thành phố lớn. Các doanh

nghiệp này đang tích cực mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá dịch vụ để cạnh tranh với

bưu điện tỉnh, thành phố.

 Trong lĩnh vực bưu chính và phát hành báo chí, mới xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh

tranh như: DHL kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh; các ngân hàng thương mại

kinh doanh dịch vụ chuyển tiền điện tử và nhận tiền gửi tiết kiệm, các hội tư nhân kinh

doanh báo chí, chuyển hàng hoá, chuyển điện hoa..

3.1.2 Kế hoạch hoạt động năm 2005

Trong những năm qua, nhu cầu về dịch vụ bưu điện phát triển rất nhanh trong giai

đoạn tới. Nhu cầu này đòi hỏi Bưu điện trung tâm 1 không những đáp ứng đủ các dịch vụ

cơ bản với chất lượng cao mà phải mở thêm nhiều dịch vụ gia tăng, dịch vụ mới để thỏa

mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Từ đó mới có lợi nhuận để tiến hành sản xuất

kinh doanh và có nguồn để bù đắp cho các sản phẩm truyền thống. Thực hiện nhiệm vụ

sản xuất kinh doanh năm 2005, Bưu điện trung tâm 1 gặp không ít khó khăn, nhưng dưới

sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty, được sự giúp đỡ của Bưu điện Hà Nội, công ty phấn đấu

đạt và vượt mục tiêu năm 2005 như phấn đấu đạt giá trị sản lượng doanh thu trên 70 tỷ

đồng,tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong trung tâm.

Với những mục tiêu trên đòi hỏi Bưu điện trung tâm 1 phải dự báo được tình hình

phát triển để có định hướng đầu tư kịp thời, đúng đắn. Đồng thời nâng cao hiệu quả công

tác quản lý tài chính như quản lý vốn, tài sản.. trong đó không thể thiếu được quản lý ngân

quỹ. Việc phối hợp đồng thời các biện pháp sẽ giúp Bưu điện trung tâm 1 thực hiện được

các mục tiêu đề ra.

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

3.2.1 áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp

Việc lựa chọn kỳ quản lý phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng, phải phù hợp với

đặc điểm thu chi của mỗi doanh nghiệp. Với đặc điểm sản phẩm của ngành bưu điện, các

nguồn chi chủ yếu là chi trả lương công nhân viên, chi phí bán hàng, trong khi chi mua

nguyên vật liệu không đáng kể. Các nghiệp vụ bưu điện phát sinh hàng ngày, tác động đến

dòng tiền vào và ra của Bưu điện trung tâm 1. Do vậy, kỳ quản lý ngân quỹ phù hợp với

Bưu điện trung tâm 1 là theo tháng.

 Dự báo thu nhập và chi phí

Để có thể dự báo được thu nhập và chi phí trong tháng tới, trung tâm cần xác định

được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp trong tháng sau là bao nhiêu,

kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tháng sau như thế nào, từ đó doanh

nghiệp có thể dự đoán lượng tiêu thụ trong từng tháng.

Trung tâm phải phân tích môi trường kinh doanh một cách có hệ thống, phân tích sự

biến động của giá cả thị trường, khối lượng sản phẩm dịch vụ trong tháng tới để dự tính

được các chi phí mà trung tâm sẽ phải bỏ ra. Hàng tháng, Bưu điện trung tâm 1 phải trả

nhiều cho các loại chi phí và các khoản chi khác. Việc dự báo trước giúp cho công ty chủ

động hơn và chuẩn bị kế hoạch chi trả. Vì vậy, công tác kế toán thống kê có vai trò rất

quan trọng, qua đó giúp cho nhà quản lý có thể biết được có được bao nhiêu loại chi, bao

gồm những loại chi nào như chi mua nguyên vật liệu, chi trả lương cho cán bộ công nhân

viên...Người quản lý doanh nghiệp sẽ biết được lịch trình và chu kỳ của từng loại chi, từ

đó sẽ giúp cho nhà quản lý dự báo chu kỳ phát sinh các khoản thanh toán trong tháng tới.

Tương tự như phân tích các khoản chi ngân quỹ, ta sẽ lập dự báo các khoản thu

ngân quỹ trên cơ sở xác định nguồn thu chủ yếu của Bưu điện trung tâm 1. Nguồn thu chủ

yếu của Bưu điện trung tâm là thu từ kinh doanh dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát hành

báo chí. Đây là nguồn thu khá lớn và tương đối ổn định. Việc dự báo thu nhập của đơn vị

mình chủ yếu là dựa vào việc dự đoán nhu cầu của khách hàng, tiếp đó là việc cân đối tiềm

năng sẵn có và khả năng phát triển của trung tâm. Để làm tốt công tác dự báo, trung tâm

cần phân tích tốc độ phát triển của từng loại dịch vụ trong thời gian tới, đánh giá khả năng

mạng lưới hiện có và xu hướng phát triển trong tương lai.

 Dự tính nhu cầu tiền

Sau khi đã dự báo được các thu nhập và chi phí trong kỳ sau, dựa trên các dự báo

đó, nhà quản lý cần dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Việc dự tính nhu cầu tiền

giúp cho Bưu điện trung tâm 1 nắm được nhu cầu tiền trong tương lai và cho biết khả

năng thu được tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong tháng tới.

Nguồn tiền của doanh nghiệp là những khoản doanh nghiệp thực thu được trong

kỳ và mức tồn quỹ của kỳ trước. Việc sử dụng nguồn tiền chính là việc chi trả trong kỳ.

Như đã đề cập ở chương hai, Bưu điện trung tâm 1 chưa tiến hành đánh giá và phân tích

diễn biến nguồn tiền và sử dụng nguồn tiền. Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà quản lý tài

chính trong doanh nghiệp là phải dự đoán được nguồn tiền và việc sử dụng nguồn tiền.

*Dự báo nhu cầu chi tiền

Việc dự báo được chi ngân quỹ sẽ giúp Bưu điện trung tâm 1 chủ động trong việc

lập kế hoạch quản lý ngân quỹ. Các khoản chi chủ yếu của trung tâm: Các khoản phải trả

nội bộ (trả cho các đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội cùng kinh doanh dịch vụ bưu

chính viễn thông), chi trả ngân vụ và tiết kiệm bưu điện, chi trả lương công nhân viên,

chi dịch vụ mua ngoài, chi mua nguyên vật liêu..Vì vậy, nhà quản lý cần phải thống kê

đầy đủ và chi tiết các loại chi trong tháng. Với đặc thù của ngành bưu điện, dự trữ

nguyên vật liệu chủ yếu phục vụ cho khai thác các nghiệp vụ bưu chính viễn thông,

không phải nguyên vật liệu chính tạo ra thực thể sản phẩm nên đối với Bưu điện trung

tâm 1 chi mua nguyên vật liệu không được vượt quá định mức tiêu hao đã được tính

trước, đây chính là căn cứ để nhà quản lý dự trù khối lượng cho khoản chi này. Khoản

chi cho hoa hồng đại lý của Bưu điện trung tâm 1 (bao gồm đại lý tem, đại lý điện thoại

công cộng, đại lý thẻ..) chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng khoản chi của công ty trong

tháng. Hàng tháng, Bưu điện trung tâm 1 sẽ phải trích khoảng xấp xỉ 7% doanh thu thực

hiện của các đại lý này. Khi dự báo được số lượng chi, nhà quản lý còn phải độ dài chu

kỳ trả tiền trung bình và cách thức chi trả các khoản chi phát sinh. Các khoản nào trung

tâm phải chi trả ngay, khoản nào được trả chậm, chi phí cho việc trả chậm là bao nhiêu,

thời gian trả chậm có thể là bao lâu..Từ đó nhà quản lý sẽ xác định chu kỳ chi trả và số

lượng chi trả trong tháng.

*Dự báo tiền thu vào ngân quỹ

Cũng như xác định nhu cầu chi tiền, nhà quản lý cần phải nắm rõ các khoản thu

và tỷ lệ từng loại thu, đâu là nguồn thu chủ yếu của trung tâm. Các khoản thu của Bưu

điện trung tâm 1 phát sinh hàng ngày, hàng giờ. Nguồn thu chủ yếu của công ty là thu từ

các dịch vụ như tiền bán tem, tiền bán phong bì, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền..; thu

từ các đại lý bưu điện; thu từ phát hành báo chí dài hạn, thu từ dịch vụ tiết kiệm bưu

điện. Song quan trọng hơn trung tâm phải dự báo được con số thực thu trong tháng của

đơn vị mình. Để dự báo được số tiền thực tế trong tháng đòi hỏi Bưu điện trung tâm phải

dựa vào các khoản phải thu có khả năng thu được và mối quan hệ với khách hàng của

mình- vốn là khách hàng có quan hệ lâu dài với công ty. Dựa vào số liệu thực thu trong

các tháng trước từ đó dự báo bao nhiêu phần trăm các khoản phải thu sẽ thu được bằng

tiền và bao nhiêu phần trăm tạm thời chưa thu được. Đồng thời qua số liệu có được trong

tháng trước sẽ giúp cho trung tâm có thể dự báo được đúng số tiền thu được từ doanh thu

kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông trong tháng là nhiều hay ít.

Từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ mà nhà quản lý sẽ dự báo được

nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp trong tháng tới. Để đảm bảo quản lý ngân quỹ có

hiệu quả, nhà quản lý cần phải xác định mức tồn quỹ tối ưu mà dựa vào đó nhà quản lý

sẽ điều chỉnh khoản thực thu thực chi của mình sao cho trong mọi trường hợp trung tâm

vẫn đảm bảo được khả năng thanh toán với khách hàng song không để ngân quỹ nhàn rỗi

quá nhiều.

 Xác định mức tồn quỹ tối ưu hoặc khoảng dao động của mức tồn quỹ

Tùy vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy định về tài chính, quan hệ với bạn

hàng mà từng doanh nghiệp sẽ xác định mức tồn quỹ tối ưu hay khoảng dao động của

mức tồn quỹ. Nếu quản lý theo mức tồn quỹ tối ưu thì sẽ đảm bảo được khả năng thanh

toán nhưng hạn chế về mặt lợi nhuận, ngược lại quản lý theo khoảng dao động của mức

tồn quỹ sẽ giúp cho doanh nghiệp linh hoạt trong việc tìm các biện pháp tối ưu để xử lý

các tình trạng bất lợi của ngân quỹ. Với tình hình thu chi ngân quỹ như hiện nay, Bưu

điện trung tâm 1 nên quản lý ngân quỹ theo khoảng dao động vì thế tạo nên sự linh hoạt

trong quản lý, phù hợp với đặc điểm thu chi của doanh nghiệp. Để xác định được mức

tiền dự trữ thì phải:

 Căn cứ vào mức tiền mặt bình quân trong một số kỳ gần đây bằng cách dựa vào số

dư tài khoản tiền gửi và tiền gửi ngân hàng, từ đó tính số dư bình quân. Ngoài ra, nhà

quản lý cần phải tính toán các chỉ tiêu tài chính như khả năng thanh toán, khả năng

hoạt động của các kỳ đó. Từ đó, có thể xem xét được mức cân đối tiền trong các kỳ

trước đó đã hợp lý hay chưa, nếu chưa thì cần phải điều chỉnh như thế nào. Sau khi

xem xét mức tồn quỹ tối ưu của các kỳ trước, nhà quản lý sẽ lấy mức tồn quỹ đó làm

tham khảo để xác định mức tồn quỹ tối ưu cho kỳ sau.

 Nhà quản lý phải nắm được tình hình hoạt động sản xuất trong tháng tới có gì thay

đổi lớn hay không (cần phải chú ý đến những thời điểm có lượng khách hàng đến sử

dụng các dịch vụ bưu điện nhiều như các ngày lễ, tết,..) những thay đổi trong sản

xuất kinh doanh tác động như thế nào đến ngân quỹ của trung tâm, nhu cầu chi trả

tiền có khả năng tăng hay giảm. Kết hợp với mức tồn quỹ tối ưu đã xác định ở tháng

trước, nhà quản lý sẽ đưa ra mức cân đối tiền hợp lý cho tháng sau.

Đồng thời , nhà quản lý cũng xem xét mối quan hệ của đơn vị mình với ngân

hàng, mối quan hệ với khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, công việc này giúp

nhà quản lý tìm ra giới hạn dưới của khoảng cách dao động mức tồn quỹ.

Theo mô hình Miller – Orr, nhà quản lý tính toán mức tồn quỹ tối ưu và khoảng

Chi phí giao dịch x phương sai của 1 3

= 3

3 4

Lãi

dao động tiền như sau:

Khoảng cách của giớ i hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền

Phương sai của thu chi ngân quỹ được tính toán như sau:

- Lấy số liệu thu chi của ngân quỹ một vài tháng trước, đảm bảo số liệu đó phản ánh

tình hình thu chi thường xuyên của doanh nghiệp.

 xi – x)2

2 = 

n

x =

xi x n

- Phương sai được tính theo công thức:

Với

Trong đó: xi : là khoản thu (chi )thứ i ; xi <0 nếu đó là khoản chi; xi > 0 nếu đó là khoản

thu.

Khi đó mức tiền tối ưu nằm giữa giới hạn trên và giới hạn dưới. Người ta thường

thiết kế mức cân đối tiền ở khoảng 1/3 khoảng dao động tính từ mức tồn quỹ tối thiểu.

Trung tâm cũng không nên cứng nhắc trong việc xác định mức tồn quỹ tối ưu này mà có

thể chọn một mức nào đó miễn là nó nằm trong khoảng dao động.

Trên cơ sở dự báo nhu cầu tiền mặt, tính toán được mức cân đối tiền và khoảng

dao động tiền tối ưu, doanh nghiệp sẽ quản lý ngân quỹ theo nguyên tắc: Khi nào dự trữ

tiền nằm ngoài khoảng dao động tiền, trung tâm phải có biện pháp đưa mức dự trữ về

đúng mức cân đối tiền tối ưu. Khi lượng tiền dự trữ ở dưới giới hạn dưới thì nhà quản lý

cần phải nhanh chóng tìm kiếm các nguồn tài trợ để đưa lượng tiền dự trữ về mức tiền

tối ưu. Vì vậy, trung tâm phải lập bảng dự báo để theo dõi tình hình biến động ngân quỹ

trong kỳ.

Phương pháp theo dõi và xử lý ngân quỹ cho cả thời kỳ giúp cho nhà quản lý dự

tính được tổng số tiền cần huy động hay cần đầu tư trong kỳ để đảm bảo tồn quỹ của

công ty ở mức thiết kế, để từ đó nhà quản lý lên kế hoạch huy động hay đầu tư khoản

tiền đó.

Bảng 3.1: Bảng theo dõi tình hình thu chi ngân quỹ tháng...

Đơn vị:

Số tiền Biện pháp Ngân quỹ

Đầu kỳ Tồn quỹ

Trong kỳ Tổng thu:

+Thu từ dịch vụ bưu chính

+Thu từ dịch vụ viễn thông

+Thu từ phát hành báo chí

+Thu tiền nợ kỳ trước

+Lãi ngân hàng

......

Tổng chi

+Chi nguyên vật liệu

+Chi trả lương

+Chi hoa hồng đại lý

..................................

Chênh lệch thu chi

Cuối kỳ Tồn quỹ Nếu sai lệch với mức

cân đối tối ưu,tìm biện

pháp đưa về mức tối

ưu.

Mức cân đối tối ưu

Bưu điện trung tâm 1 còn có thể theo dõi và xử lý ngân quỹ theo từng thời điểm

phát sinh các khoản thực thu, thực chi trong kỳ.

Bảng 3.2 : Bảng theo dõi tình hình thu chi ngân quỹ tháng...

Đơn vị :

Ngày(tháng) Ngân quỹ Số tiền Biện pháp

1 Tồn quỹ

3 +Thu tiền bưu điện

phí

+ Chi tiền ngân vụ

+ Chi mua nguyên

vật liệu

+ Chi vận chuyển

..............................

+Cân đối ngân quỹ

5 +Thu tiền ngân vụ Nếu mức tồn quỹ bị rơi

+Chi trả lương ra khỏi khoảng dao động

.................................. thì công ty phải có biện

+Cân đối ngân quỹ pháp đưa về mức tối ưu.

30 Tồn quỹ

Phương pháp theo dõi này phức tạp hơn nhưng trung tâm có thể đánh giá và điều

chỉnh ngân quỹ ngay sau mỗi lần phát sinh thu, chi ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không

còn tối ưu thì nhà quản lý sẽ tìm biện pháp xử lý để đưa ngân quỹ về mức tối ưu. Trong

trường hợp trung tâm dự đoán sẽ thu được một khoản thu lớn thì nhà quản lý sẽ không

huy động ngay các nguồn khác mà chờ khoản tiền chuyển về vào ngày hôm sau để đáp

ứng nhu cầu tiền mặt. Khi mức tồn quỹ vượt giới hạn trên của khoảng dao động ngân

quỹ, trong thời điểm đó công ty không phải chi một khoản chi lớn nào, trung tâm sẽ phải

tìm các hình thức đầu tư phù hợp với độ lớn của khoản tiền.

Phương pháp này đòi hỏi tỉ mỉ hơn nhưng lại rất phù hợp với đặc điểm sản xuất

kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1. Hoạt động thu, chi tiền mặt ở đây diễn ra hàng

ngày, hàng giờ. Với cách làm này, trung tâm có thể nắm được tình hình ngân quỹ tại các

thời điểm trong kỳ, đặc biệt vào thời điểm lượng khách đến giao dịch nhiều, từ đó giúp

Bưu điện trung tâm 1 có kế hoạch điều chỉnh ngân quỹ về mức tồn quỹ theo thiết kế cho

từng thời điểm để ngân quỹ không rơi vào trạng thái bất lợi.

 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ

Sau khi dự tính được mức tồn quỹ cuối tháng, nếu mức tồn quỹ vượt ra ngoài

khoảng dao động, trung tâm phải tìm nguồn tài trợ hay sử dụng nguồn để tồn quỹ về

mức tối ưu.

Khi lượng tiền nhàn rỗi, công ty có thể gửi vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn ở ngân

hàng để kiếm mức sinh lợi cao hơn. Tiền nhàn rỗi với thời kỳ dài sẽ được gửi kỳ hạn dài,

được hưởng mức lãi suất cao hơn, nhờ đó Bưu điện trung tâm 1 có thể khai thác tối đa

khả năng sinh lợi của vốn bằng tiền mà vẫn đảm bảo được khả năng thanh toán hàng

ngày.

3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản lý tài chính

của Bưu điện trung tâm 1

Mỗi doanh nghiệp đều có quy chế quản lý tài chính riêng để phù hợp với đặc

điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nhà nước. Trong quy chế tài chính

của Bưu điện trung tâm 1 mặc dù đã có những quy định về quản lý ngân quỹ nhưng

những quy định này còn chưa đầy đủ. Vì thế, trong thời gian tới, trong những quy định

về quản lý tài chính của công ty cần phải bổ sung những điều khoản về quản lý ngân quỹ

như nội dung, phương pháp, trách nhiệm của người thực hiện công tác này. Quy định và

hướng dẫn cụ thể các bưu cục trực thuộc định mức lưu quỹ tiền mặt và hàng hóa (tem,

thẻ điện thoại) trong ngày. Trung tâm nên bổ sung quy định thu gom tiền, trả thu gom

tiền nhằm đảm bảo an toàn công tác quản lý tiền và hàng hoá như: Nhân viên chuyên

trách phục vụ thu gom tiền, tiếp quỹ, bố trí xe ô tô chuyên dùng..

3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ bao gồm: Nhóm chỉ tiêu

đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp ; nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản

lý ngân quỹ thông qua khả năng hoạt động như vòng quay tiền, vòng quay dự trữ; nhóm

chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường.

Các chỉ tiêu này sẽ cho ta thấy hiệu quả của việc sử dụng nguồn tiền trong doanh

nghiệp vào việc đảm bảo khả năng chi trả. Như đã đề cập ở chương hai, Bưu điện trung

tâm 1 đã sử dụng một số chỉ tiêu để đánh giá khả năng thanh toán nhưng chưa đầy đủ. Vì

vậy, trung tâm nên bổ sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải

trả.

Tổng số các khoản phải thu

Tỷ lệ các khoản phải thu so với phải trả = -----------------------------------------

Tổng số các khoản phải trả

Chỉ tiêu này sẽ cho ta biết sự biến động của các khoản phải thu và các khoản phải

trả ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp là người

bị chiếm dụng vốn hay đi chiếm dụng vốn.

Do đặc thù kinh doanh bưu chính viễn thông là doanh thu tháng trước tháng sau

mới thu nợ nên tỷ lệ nợ cước bao giờ cũng trên 1 tháng nợ. Vì vậy, tỷ lệ nợ lớn của viễn

thông làm cho tỷ lệ nợ chung của trung tâm lớn. Đây là chỉ tiêu mà Bưu điện trung tâm 1

cần bổ sung để đánh giá được tình hình thu nợ của đơn vị.

Tổng số cước phí nợ

Tỷ lệ nợ = -----------------------------------------

Doanh thu cước bình quân tháng

Bưu điện trung tâm 1 nên tiến hành xây dựng một hệ thống định mức cho bộ phận

vốn lưu động nhằm tăng vòng quay của các bộ phận vốn lưu động và nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn. Xác định mức vốn lưu động một cách hợp lý căn cứ vào nhu cầu của sản

xuất kinh doanh tránh tình trạng lãng phí hay không đáp ứng nhu cầu vốn.

Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ phù hợp với

đặc điểm kinh doanh sẽ giúp nhà quản lý phân tích và đánh giá chính xác tình hình tài

chính doanh nghiệp, từ đó sẽ đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn.

3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân quỹ là một yêu cầu cần thiết để góp phần

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1. Thông qua quản lý ngân

quỹ, Bưu điện trung tâm 1 có thể giảm bớt những lãng phí không đáng có, cũng như đảm

bảo khả năng thanh toán của công ty. Công tác quản lý có hiệu quả hay không là do trình

độ của đội ngũ cán bộ tài chính bởi con người là nhân tố đóng vai trò quan trọng hàng đầu.

Vì vậy, Bưu điện trung tâm 1 cần phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bổ sung

kiến thức về quản lý tài chính cho cán bộ công nhân viên. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với

nhân viên phòng tài chính kế toán. Ngoài ra, các giao dịch viên tại các bưu cục cũng như

nhân viên phòng ban khác cũng cần nắm những kiến thức cơ bản về quản lý ngân quỹ.

Việc mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ là cần thiết để các cán bộ có thể cập

nhật những kiến thức cũng như nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình. Công

ty cũng cần phải chú ý đến vấn đề xây dựng và công bố kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán

bộ hàng năm bằng cách cử người đi học để nâng cao trình độ, tích cực trong công tác

tuyển dụng, sử dụng các chính sách ưu đãi thu hút đội ngũ lao động trẻ.

3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân quỹ

Muốn có sự phân tích tài chính chính xác và đầy đủ thì cần phải có các nguồn thông

tin đa dạng, phong phú như thông tin về thị trường, sản phẩm dịch vụ.. Hệ thống thông tin

này phải được cập nhật và mở rộng phục vụ cho yêu cầu ngày càng cao của công tác quản

lý tài chính. Trong quản lý ngân quỹ, người ta không chỉ quan tâm đến ngân quỹ mà còn

phải theo dõi sự thay đổi của các yếu tố có liên quan đến ngân quỹ. Nguồn thông tin cung

cấp không chỉ giới hạn trong báo cáo tài chính mà còn phải có hệ thống thông tin về các

lĩnh vực khác có liên quan. Hiện tại Bưu điện trung tâm 1 đã có hệ thống mạng máy tính

được nối mạng, hệ thống phần cứng, phần mềm nhưng phần mềm ứng dụng mới chỉ chạy

chương trình kế toán bưu điện, chủ yếu phục vụ mục đích lập báo cáo nên chưa phát huy

được hiệu quả của mạng. Để có thể cập nhật nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ các thông

tin, đòi hỏi Bưu điện trung tâm 1 phải đầu tư vào các công nghệ kỹ thuật hiện đại như hệ

thống máy tính, phần mềm hỗ trợ cho việc tính toán..

3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung

tâm 1

3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam

Từ khi đất nước chuyển sang thời kỳ mở cửa, Tổng Công ty Bưu chính viễn thông

Việt Nam đã có nhiều cố gắng hoàn thiện các mô hình tổ chức và quản lý linh hoạt để xây

dựng và phát triển thành một doanh nghiệp chủ lực của nhà nước trong lĩnh vực bưu chính

viễn thông, có thể đứng vững trong môi trường hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng

gay gắt. Tổng công ty đã ban hành và điều chỉnh kịp thời Quy chế tài chính để đảm bảo

quản lý ngày càng hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh về khía cạnh tài chính.

Do có nhiều nét đặc thù trong quá trình kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông

nên quy chế tài chính hiện hành có nhiều nét bất cập, ảnh hưởng một phần đến các doanh

nghiệp kinh doanh các dịch vụ Bưu chính viễn thông, trong đó có Bưu điện trung tâm 1.

Theo cơ chế hiện nay, Tổng công ty trực tiếp cấp gần như toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh

cho các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Nhưng các đơn vị chỉ được giao quyền quản lý và

quyền sử dụng một số vốn rất hạn chế, do đó làm mất đi tính chủ động , làm chậm trễ,

thậm chí mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, Tổng công ty nên có chính sách

khuyến khích các đơn vị phụ thuộc gửi tiền để thu thêm lợi nhuận trong trường hợp có

thặng dư ngân quỹ. Tổng công ty nên tạo điều kiện cho các đơn vị phụ thuộc chủ động hơn

trong việc tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết.

 Chuyển các đơn vị sang hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập

Tổng công ty có thể chuyển các đơn vị hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập

khi điều kiện cho phép. Các đơn vị hạch toán phụ thuộc tiến hành hạch toán nội bộ trong

toàn khối, thay mặt Tổng công ty thu cước trực tiếp từ khách hàng sử dụng các dịch vụ,

được Tổng công ty thanh toán doanh thu riêng để bù đắp các chi phí và có lợi nhuận trong

quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với thời gian, với sự lớn mạnh

của các đơn vị, tính độc lập trong sản xuất của các đơn vị ngày càng rõ nét, nên có sự

chuyển đổi từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập. Từ đó thúc đẩy hoạt

động của các đơn vị sản xuất kinh doanh trên mạng nội hạt, đặt các đơn vị này cùng trong

guồng máy kinh doanh, ngang tầm với doanh nghiệp nhà nước khác.

 Xây dựng các chỉ số của ngành để so sánh

Vì đặc thù hoạt động của mỗi ngành rất khác nhau nên việc đánh giá một chỉ tiêu tài

chính là tốt hay xấu không đơn thuần là phụ thuộc vào phép tính số học mà còn phụ thuộc

vào chỉ số trung bình của ngành. Tiêu chuẩn ngành có ý nghĩa quan trọng trong việc xác

định vị trí tương đối của doanh nghiệp trong ngành. Nó là cơ sở cho việc hoạch định các

giải pháp điều chỉnh đối với doanh nghiệp.

Để đánh giá được hiệu quả của công tác quản lý ngân quỹ, bên cạnh việc so sánh

giữa các chỉ tiêu bằng tỷ lệ của kỳ này với kỳ trước để thấy được xu hướng thay đổi các

tỷ lệ tài chính này, qua đó đánh giá tình hình quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp được

cải thiện hoăc trở nên yếu kém như thế nào nhằm đưa ra biện pháp xử lý kịp thời, nhà

quản lý tài chính còn phải so sánh các tỷ lệ của kỳ này với mức trung bình của ngành để

xác định vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành.

Trong thời gian tới, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam nên xây dựng

và tính toán các mức trung bình ngành của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân

quỹ như mức trung bình ngành về khả năng thanh toán hiện hành, mức trung bình ngành

về khả năng thanh toán nhanh, mức trung bình ngành về khả năng thanh toán tức thời và

mức trung bình ngành của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ để các đơn vị

tham chiếu, từ đó đưa ra các quyết định đúng trong quá trình hoàn thiện công tác quản lý

ngân quỹ của mình.

3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của nhà nước

 Về việc trích lập và sử dụng các quỹ nhàn rỗi trong các doanh nghiệp nhà nước

Theo quy định của thông tư 64/1999/TT – BTC về “Hướng dẫn chế độ phân phối

lợi nhuận sau thuế và quản lý các quỹ trong doanh nghiệp nhà nước”, doanh nghiệp phải

sử dụng các quỹ trong doanh nghiệp bao gồm: quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát

triển, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm..vào đúng mục đích như tên gọi của chúng. Quy

định như vậy chưa phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường, chưa tạo điều kiện cho

doanh nghiệp có khả năng tích luỹ vốn đáp ứng nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ, tăng

khả năng cạnh tranh. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc sử

dụng vốn khi cần thiết, nhà nước cần bổ sung thêm những quy định cho phép doanh

nghiệp nhà nước sử dụng các quỹ nhàn rỗi tạm thời vào mục đích tài trợ cho thanh toán

ngắn hạn .

 Hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và phát triển được hơn 4 năm, đã

mang lại một số lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp. Đây là kênh bổ sung nguồn vốn

trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay quy mô thị trường

còn nhỏ, việc đầu tư chứng khoán vẫn còn mới đối với các doanh nghiệp nhà nước hiện

nay. Chính vì vậy, để tạo niềm tin cho đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực khá

rủi ro này, Nhà nước cần ban hành và bổ sung và các văn bản pháp quy phù hợp với thực

tiễn và yêu cầu phát triển thị trường. Ngoài ra, việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nước hiện naysẽ góp phần làm đa dạng hoá lượng hàng hoá trên thị trường

chứng khoán .

 Xây dựng các chuẩn mực đánh giá an ninh tài chính và phát triển dịch vụ xếp

hạng tín nhiệm

Để đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp phải căn cứ vào các chuẩn

mực, chỉ số về kinh tế, tài chính nhưng hiện tại chưa có một cơ quan nào đảm nhận việc

xây dựng hệ thống này để giúp cho doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, ngân hàng

cũng như các nhà đầu tư nắm bắt được thông tin về tài chính doanh nghiệp.

Hệ thống các chỉ tiêu này cần tập trung vào phản ánh tình hình tài chính doanh

nghiệp nói chung, trong đó các chỉ tiêu cơ bản là: các chỉ số về kết quả hoạt động, khả

năng sinh lợi, các chỉ số về năng lực tự tài trợ, các chỉ số về luân chuyển vốn.

Việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu tài chính và phát triển dịch vụ xếp hạng tín

nhiệm có quan hệ khăng khít với nhau. Xếp hạng tín nhiệm có thể hiểu là sự đánh giá hiện

thời về khả năng và mức độ sẵn sàng trả nợ gốc, lãi của một người đi vay với đối với một

khoản vay nhất định trong suốt thời hạn có hiệu lực của khoản vay đó. Những chỉ tiêu về

an ninh tài chính đối với từng ngành, lĩnh vực là một trong những căn cứ giúp cho việc xếp

hạng mức độ tín nhiệm của mỗi doanh nghiệp.

Đối với nền kinh tế, xếp hạng tín nhiệm góp phần làm lành mạnh hoá thị trường,

tăng cường hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn.. ở Việt Nam, xếp hạng tín nhiệm giúp

làm lành mạnh hóa thị trường tín dụng, đánh giá đúng thực trạng tài chính của các doanh

nghiệp, tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán.

Kết luận

Nhu cầu vốn lưu động nói chung và nhu cầu tiền tệ nói riêng là một vấn đề cần

được quan tâm đúng mức bởi đó là một trong những điều kiện dẫn đến thành công trong

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tốt điều này, các nhà quản lý

doanh nghiệp phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu tiền tệ của doanh

nghiệp, từ đó có khả năng lập kế hoạch cũng như thực hiện tốt hoạt động quản lý và điều

hành doanh nghiệp trong những điều kiện khác nhau.

Công tác quản lý ngân quỹ chỉ là một bộ phận trong công tác quản lý tài chính

trong doanh nghiệp, nhưng nó có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với Bưu điện trung

tâm 1.

Trong thời gian tới, Bưu điện trung tâm 1 cần nhanh chóng hoàn thiện công tác

quản lý để có thể đứng vững trong môi trường kinh doanh đầy những biến động, cạnh

tranh gay gắt. Những giải pháp cần thực hiện trước hết là bổ sung những quy chế, điều

khoản về quản lý ngân quỹ trong quy chế tài chính của công ty, nhanh chóng áp dụng

một mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp và xây dựng kế hoạch quản lý ngân quỹ trong

từng tháng. Đồng thời, công ty cũng cần chú trọng công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng

cao năng lực quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ quản lý trong công ty, nâng cao năng

lực áp dụng công nghệ kỹ thuật trong quản lý.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Nhà xuất bản

Thống kê năm 2003.

2. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Nhà

xuất bản Thống kê năm 1997.

3. Giáo trình quản lý tài chính – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia năm 2000.

4. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh – Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Nhà

xuất bản Thống kê năm 2001.

5. Giáo trình quản trị kinh doanh bưu chính viễn thông – Nhà xuất bản Thống kê năm

2001.

6. Cơ chế quản lý tài chính của Bưu điện Hà Nội.

7. Các báo cáo kế toán tài chính của Bưu điện trung tâm 1 năm 2003, năm 2004.

8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, tạp chí Kinh tế và dự báo, tạp chí Phát triển kinh tế

năm 2002, năm 2003, năm 2004.

Mục lục

Lời nói đầu

Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

1.1 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế 3

thị trường

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp 3

1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế 4

thị trường

1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 12

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị 12

trường

1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 15

1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 25

1.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng thanh toán 25

của doanh nghiệp

1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng hoạt động 28

của doanh nghiệp

1.3.3 Chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường 30

1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý của doanh nghiệp 31

1.4.1 Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 31

1.4.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 34

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1

2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1 37

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm1 37

2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1 37

2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1 38

2.1.4 Đặc điểm kinh doanh của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị trường 39

2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1 42

2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1 44

2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 44

2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 49

2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền 52

2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 56

2.3 Đánh giá thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 61

2.3.1 Những kết quả đạt được 61

2.3.2 Những hạn chế 62

2.3.3 Nguyên nhân 63

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại

Bưu điện trung tâm 1

3.1 Định hướng phát triển của Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian tới 66

3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông-Cơ hội và thách thức 66

3.1.2 Kế hoạch hoạt động trong năm 2005 67

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung 68

tâm 1

3.2.1 áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp 68

3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản lý tài 76

chính của Bưu điện trung tâm 1

3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ 77

3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ 78

3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân quỹ 78

3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện 79

trung tâm 1

3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam 79

3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của Nhà nước 81

Danh mục tài liệu tham khảo