
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở nhiều nước trên thế giới, chỉ số tiêu dùng được coi là dấu hiệu
chủ chốt của tăng trưởng kinh tế trong trung hạn. Mức tiêu dùng phản
ánh kỳ vọng về thu nhập tương lai của dân cư. Nó là động lực là cầu
chi trả về hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngay cả việc
tiêu dùng về ô tô, nhà ở, đồ gia dụng, thậm chí mỹ phẩm cũng liên
quan mật thiết với nhau không thể tách rời thu nhập kỳ vọng và đó là
động lực của sản xuất. Vì vậy tín dụng tiêu dùng từ lâu được coi là
một phần quan trọng của NH bán lẻ (phần quan trọng nhất). Thậm
chí tín dụng tiêu dùng còn được coi là cứu cánh của NHTM từ thập
niên 70, khi mà tín dụng doanh nghiệp bị cạnh tranh khốc liệt bởi các
công ty tài chính, các quỹ đầu tư vào thị trường chứng khoán
Ở Việt Nam, năm 2009 trôi qua với ấn tượng phục hồi thành
công của nền kinh tế cũng như ngành tài chính NH. Với việc hoàn
thành 2 mục tiêu khó khăn là chóng suy giảm kinh tế và duy trì tốc
độ tăng trưởng nền kinh tế bền vững, hợp lý, chủ động phòng ngừa
lạm phát cao trở lại, nền kinh tế Việt Nam năm 2009 được xem là
thành công đúp và là một trong số ít nền kinh tế tăng trưởng dương
trong bối cảnh kinh tế suy thoái toàn cầu. Đồng hành với nền kinh tế,
ngành tài chính NH cũng có một năm thành công với việc duy trì ổn
định nền tài chính. Sang đến năm 2010 nền kinh tế toàn cầu bắt đầu
phục hồi nhưng cũng bộc lộ nhiều bất ổn mà rõ ràng nhất là cuộc
khủng hoảng nợ công ở nhiều quốc gia Châu Âu diễn ra từ quý
II/2010. Thị trường toàn cầu và định chế phục hồi khá yếu ớt trong
khi những rủi ro lớn vẫn tiềm ẩn đối với ngành tài chính. Trong 1
năm nhiều biến động, NH vẫn là ngành đạt mức lợi nhuận cao, ổn
định nhưng chính vì vậy sự cạnh tranh trong ngành càng diễn ra căng
thăng hơn, rủi ro nợ xấu gia tăng và chi phí cũng tăng lên do lãi xuất
huy động cũng tăng cao,...Đây là những thách thức không nhỏ trong
năm 2010, 2011 và sẽ còn tiếp tục hiện hữu trong năm 2012. Trong
bối cảnh kinh tế được dự báo là vẫn chưa thật sự ổn định thì việc MB