LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng trung dài hạn tại chi nhánh
ng6an hàng đầu tư và phát triển
thành phố hà nội
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Đối với bất kì một quốc gia nào, nhu cầu về vốn nói chung và vốn trung, dài hạn
nói riêng cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết. Vì vậy trong nền kinh tế tín dụng
trung, dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng như: đối với doanh nghiệp, tín dụng trung, dài
hạn đáp ứng nhu cầu về vốn để cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất - kinh
doanh, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế tín dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) thì hoạt động tín dụng nói chung hay hoạt
động tín dụng trung, dài hạn là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho ngân
hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi
xảy ra rủi ro thì tổn thất là rất lớn (do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có thời hạn
dài, giá trị lớn), thực tế trong những năm vừa qua đã có những vụ đổ bể tín dụng làm thất
thoát hàng nghìn tỷ đồng. Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đặc biệt là chất lượng tín
dụng trung, dài hạn trở thành mối quan tâm hàng đầu của các NHTM.
Do vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Qua thời gian đi thực tập tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, , nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này,
tôi chọn đề tài:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI”.
2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM
trong đó đi sâu vào cho vay trung, dài hạn của NHTM.
Qua phân tích thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thành phố Hà Nội tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng trung, dài hạn.Từ đó tìm ra những biện pháp khả thi để nâng cao hơn nữa
chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Thu thập những số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tập trung
ở hoạt động cho vay trung, dài hạn qua đó sử dụng những phương pháp thống kê, so sánh
để có nhận xét và đánh giá về chất lượng cho vay trung, dài hạn của ngân hàng. Trên cơ sở
đó sẽ tham khảo thêm ý kiến của các cán bộ ở trong ngân hàng, ý kiến đóng góp của giáo
viên hướng dẫn và qua các tài liệu sách báo để có những giải pháp và kiến nghị để nâng
cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
4. Kết cấu của đề tài:
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống
tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của tình hình kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong nước, hệ thống NHTM ngày
càng chiếm vị trí quan trọng và trở thành bộ phận không thể thiếu đối với nền kinh tế của
bất cứ một quốc gia nào.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng thương mại thường có các hoạt động cơ bản sau:
- Hoạt động huy động vốn:
Huy động vốn – là hoạt động quan trọng của các NHTM, trên cơ sở nguồn vốn huy
động được thì ngân hàng mới có kế hoạch triển khai tình hình kinh doanh của mình, ảnh
hưởng rất nhiều tới chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của
NHTM bao gồm nội tệ, ngoại tệ được hình thành chủ yếu từ: nhận tiền gửi, huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, vay của NHNN, vay của các tổ chức tín dụng
khác ở trong và ngoài nước… Đồng thời, ngân hàng có thể tự lập nguồn vốn của mình
bằng cách phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng cổ phần), lập các quĩ từ lãi thu được.
Với số tiền có được từ huy động vốn, ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động tín dụng
(trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao) và đầu tư để đem lại thu nhập cho ngân
hàng.
- Hoạt động tín dụng và đầu tư
+ Hoạt động tín dụng (chủ yếu là hoạt động cho vay): là hoạt động chủ yếu của các
NHTM trong việc sử dụng vốn của ngân hàng để tiến hành cho vay với các thành phần
kinh tế với các thời hạn khác nhau nhằm các mục đích khác nhau như: bổ sung vốn lưu
động hoặc là để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định… đáp ứng các nhu cầu của sản
xuất kinh doanh hay chỉ là nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
+ Hoạt động đầu tư: ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện đầu tư
trực tiếp, kinh doanh chứng khoán…
Đây là nguồn mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các NHTM nhưng hoạt động này
luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Các hoạt động nhằm cung cấp dịch vụ cho khách hàng:
Một số dịch vụ như:
+ Ngân hàng là trung gian thanh toán cho khách hàng với các khách hàng như: uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, chuyển tiền, séc, L/C…
+ Bảo quản tài sản hộ khách hàng: các vật có giá như vàng bạc, đá quí, giấy tờ có
giá…
+ Cung cấp các dịch vụ uỷ thác, tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các
ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ
thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư… Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính trên các
lĩnh vực như: đầu tư và quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập các doanh nghiệp.
+ Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán: nhiều ngân hàng
đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi
nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng triển khai dịch vụ bảo
hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán.
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai bên, họ cam kết với nhau như sau:
- Một bên thì trao ngay một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ.
- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại lượng giá trị đó sau một thời gian nhất định
và theo một số điều kiện nhất định nào đó (như lượng giá trị hoàn lại phải lớn hơn lượng
giá trị ban đầu).
Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay, tuy nhiên khi
gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (trung gian tài chính khác) – tín dụng
ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và
một số hoạt động khác. Việc mua trái phiếu của khách hàng cũng là một hình thức tài trợ
cho khách hàng, tuy vậy ở nội dung bài viết này tín dụng chỉ bao gồm việc tài trợ trực tiếp,
còn việc nắm giữ trái phiếu được xếp vào đầu tư chứng khoán. Trong các hoạt động tín
dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng tài sản và đây cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM vì
lẽ đó nên nhiều khi nhắc đến tín dụng ngân hàng thì được hiểu là hoạt động cho vay.
Quan hệ tín dụng ngân hàng có những đặc trưng sau:
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa một bên là ngân hàng và một bên là
các thành phần còn lại của nền kinh tế bao gồm: Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội, cá
nhân… Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm 2 hình thức cho vay (bằng tiền),
cho thuê (máy móc, thiết bị, bất động sản…).
- Quan hệ tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay chỉ được sử dụng
trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn sử dụng người đi vay phải hoàn trả cho
người vay, do đó khi ngân hàng xem xét việc cho vay thì yếu tố quan trọng nhất trong
quản lý tín dụng đó là xem xét khả năng trả nợ của khách hàng vay (dựa trên uy tín của
khách hàng, tình hình tài chính của người vay, dự án đầu tư có hiệu quả của khách hàng,
tài sản đảm bảo…).
- Nguyên tắc trong quan hệ tín dụng là giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn
giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm một phần lãi ngoài phần gốc có trách
nhiệm hoàn trả. Phần lãi này được ngân hàng xác định dựa trên lãi suất cho vay, thông
thường ngân hàng phải xác định một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn tỉ lệ lạm phát để
đảm bảo có được mức lãi suất thực dương.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (thường chiếm khoản 70%) ở phần
lớn các NHTM và là hoạt động cơ bản của NHTM. Đối với loại tài sản này có thể được
phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Phân chia theo thời gian: tín dụng được chia thành tín dụng ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn. Đây là một trong những cách phân chia phổ biến vì thời gian nó có liên quan mật
thiết tới tính an toàn, sinh lợi của ngân hàng và khả năng hoàn trả của khách hàng.
+ Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn
ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất (thời gian từ 12 tháng trở xuống). Ngân
hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn
mức, có hoặc không có đảm bảo.
+ Tín dụng trung hạn: thông thường qui định là từ trên 1 năm – 5 năm (có ngân
hàng qui định là từ trên 1 năm – 7 năm), thường tài trợ cho các tài sản cố định như máy
móc thiết bi vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn.
+ Tín dụng dài hạn: có thời gian trên 5 năm thường được tài trợ cho các công trình
xây dựng, máy móc thiết bị có giá trị lớn và thường có thời gian sử dụng lâu.
Tuy vậy, việc xác định trên không hoàn toàn cứng nhắc, việc xác định thời hạn
nhiều khi cũng chỉ mang tính chất tương đối.Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng
thương mại thường cao hơn tín dụng trung, dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài
sản lưu động cho khách hàng, vì các khoản tín dụng trung, dài hạn thì ngân hàng thương
mại sẽ phải huy động nguồn vốn trung, dài hạn với chi phí đắt hơn, và các khoản vay
trung, dài hạn có nhiều rủi ro hơn.
- Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng: chiết khấu thương phiếu, cho vay, cho
thuê, bảo lãnh…
+ Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng khi
khách hàng cầm thương phiếu chưa đến hạn (hay giấy nợ) đến ngân hàng xin chiết khấu,
khoản tiền ứng trước được xác định dựa trên giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập
của ngân hàng (có tính đến các yếu tố rủi ro).
+ Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với sự cam kết hoàn trả của
khách hàng sau một thời gian xác định sẽ trả cả gốc và lãi. Cho vay là tài sản lớn nhất
trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: doanh số cho
vay trong kì (tổng số tiền ngân hàng đã cho vay trong kì), dư nợ cuối kì (tổng số tiền còn
cho vay tại thời điểm cuối kì). Khi lập các báo cáo tài chính thời điểm, cho vay được ghi
dưới hình thức dư nợ.
+ Cho thuê: hoạt động của ngân hàng chủ yếu là cho khách hàng vay bằng tiền để
mua tài sản, tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay (ví
dụ như đối với các doanh nghiệp mới thành lập), theo nhu cầu của khách hàng và trước
yêu cầu mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ đứng ra mua tài sản theo yêu cầu của
khách hàng rồi cho khách hàng thuê lại. Tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng,
do đó khi khách hàng không trả được nợ (tiền thuê), ngân hàng có thể thu hồi để cho thuê
lại hoặc đem bán điều này cũng góp phần giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
+ Bảo lãnh: là hoạt động cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên bảo lãnh
(ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng), bên hưởng bảo lãnh (bên thứ
ba).
- Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
+ Cho vay không có bảo đảm: đây là hình thức cho vay tín chấp, thường áp dụng
với những khách hàng có uy tín, làm ăn hiệu quả, không xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,
hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay hay các khoản cho vay theo chỉ thị
của Nhà nước không cần tài sản đảm bảo.
+ Cho vay có bảo đảm: đó là các khoản cho vay đối với các khách hàng có tài sản
cầm cố hoặc thế chấp, hay có bảo lãnh của người thứ ba.
Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: phân loại theo rủi ro, theo ngành kinh
tế, theo mục đích, theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định).
Với cách phân loại theo thời gian là phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài,
sang phần sau đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vào tín dụng trung, dài hạn và chất lượng tín
dụng trung, dài hạn.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn
1.2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn
Quan điểm tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, người ta quan niệm tín dụng trung, dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên
1 năm:
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như
phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị (thường hao mòn nhanh).
- Tín dụng dài hạn: tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, cầu, đường, sân
bay, máy móc thiết bi có giá trị lớn, hao mòn lâu.
Nguồn vốn trung, dài hạn là nguồn vốn quan trọng có thể đáp ứng các nhu cầu sau
của các chủ thể:
+ Đối với doanh nghiệp: đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định của doanh
nghiệp, gồm cả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Đầu tư chiều rộng để xây dựng
những công trình xí nghiệp, nhà xưởng mới. Đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết
bị. Đầu tư chiều sâu hiệu quả hơn hẳn đầu tư chiều rộng vì với cùng một diện tích nhà
xưởng nhưng năng lực sản xuất có thể tăng gấp 5 – 10 lần trước đó mà tiết kiệm vốn xây
dựng các công trình kiến trúc.
+ Đối với Nhà nước: Nhà nước vay trung, dài hạn để đầu tư phát triển, tăng trưởng
kinh tế.
+ Đối với cá nhân: ngân hàng cho vay với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu
mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, xe cộ…
Tín dụng trung, dài hạn có 3 đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, giá trị của các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có giá trị lớn. Nền
kinh tế thế giới nói chung hay kinh tế mỗi nước đang nằm trong xu thế phát triển. Các
doanh nghiệp ở mỗi nước đều phải tích cực đổi mới khoa học công nghệ để nâng cao năng
suất lao động, đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo nên vị thế cạnh tranh,
nếu không đổi mới công nghệ thì họ sẽ bị lạc hậu sản phẩm làm ra không bán được và từ
đó đi đến chỗ phá sản. Tuy vậy, để đổi mới công nghệ (đầu tư mua máy móc trang thiết bị)
là chuyện không đơn giản vì số vốn để đầu tư là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với vốn tích
luỹ của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp sẽ tìm cách để huy động vốn hay vay vốn.
Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu tuy
nhiên để được phép huy động thì doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện cho việc phát
hành hoặc khi phát hành nhưng lại không có đủ được số vốn cần thiết. Vì vậy, để có đủ
lượng vốn lớn để đầu tư các doanh nghiệp sẽ tìm đến NHTM để vay vốn trung, dài hạn và
ngân hàng sẽ cho vay dựa trên tình hình hoạt động của doanh nghiệp, bản thân dự án có
hiệu quả.
Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn có thời gian dài, thời gian hoàn vốn chậm: tín dụng
trung, dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án có thời gian dài: đầu tư vào
các tài sản cố định, các tài sản này tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh, hơn nữa
việc thực hiện dự án thường phải trải qua thời gian thi công, lắp đặt… chính vì vậy, các
doanh nghiệp vay vốn sẽ không có tiền trả nợ trong thời gian này (khi dự án chưa có thu
nhập). Nguồn trả nợ của tín dụng trung, dài hạn được lấy chủ yếu từ nguồn khấu hao và lợi
nhuận sinh ra từ tài sản đầu tư và có thể từ một số nguồn khác mà doanh nghiệp có (ví dụ
như nguồn khấu hao lấy từ các tài sản hiện có khác của doanh nghiệp) do vậy doanh
nghiệp không thể giả nợ ngân hàng trong một thời gian ngắn được.
Chính vì đặc trưng này đòi hỏi ngân hàng phải có sự thẩm định kỹ càng vì dự án
kéo dài lâu (thời gian hoàn vốn chậm), trong thời gian kéo dài như vậy khả năng gặp phải
các rủi ro là rất lớn.
Thứ ba, lãi suất tín dụng trung, dài hạn thường cao hơn so với lãi suất ngắn hạn.
Như chúng ta đã biết thì lãi suất của một khoản vay phụ thuộc vào mức lãi suất chung của
thị trường, rủi ro của khoản vay đó, chi phí của ngân hàng, thời hạn cho vay… trong khi
đó các hoạt động của doanh nghiệp và quá trình sử dụng vốn vay luôn bị chịu ảnh hưởng
của các nhân tố trực tiếp, gián tiếp như chính trị, kinh tế, xã hội, các yếu tố tự nhiên, ngay
cả những yếu tố xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp. Do vậy khi thời gian cho vay bị kéo dài
thì việc tác động của các nhân tố trên tới tình hình của doanh nghiệp ngày càng nhiều và
nếu không có phương án dự phòng thì khả năng xảy ra rủi ro và tổn thất là rất lớn. Đồng
thời với khả năng xảy ra những rủi ro như vậy thì ngân hàng sẽ phải tốn nhiều nhân lực,
các nguồn lực vật chất khác để thẩm định dự án để tiến hành cho vay và ngân hàng sẽ phải
bỏ nhiều chi phí hơn cho việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn vay
trong một thời gian dài của các khoản tín dụng trung, dài hạn. Vì lẽ đó lãi suất của tín dụng
trung, dài hạn thường cao. Tuy vậy ngân hàng cần có một lãi suất hợp lí để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có thể vay được vốn và ngân hàng cũng có lợi nếu mức lãi suất mà quá
cao thì sẽ ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm ăn không hiệu
quả do chi phí cao và doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng điều này sẽ gây ra tổn
thất lớn cho ngân hàng.
1.2.1.2 Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường
Xem xét vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với khách hàng (chủ yếu là các
doanh nghiệp), ngân hàng, và trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
- Đối với khách hàng:
Đối tượng chính của tín dụng trung, dài hạn chủ yếu là các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đều cần có vốn để sản xuất, và hiện nay thì các
doanh nghiệp đều phải tự thân vận động để tìm vốn ngay cả các doanh nghiệp Nhà nước
cùng không thể trông chờ vào nguồn vốn ngân sách như trước. Kênh tín dụng ngân hàng là
một kênh cung cấp vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp bởi vì việc phát hành cổ
phiếu, trái phiếu để huy động vốn cũng gặp phải rất nhiều khó khăn và thị trường chứng
khoán của nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng sơ khai. Hình thức cấp tín dụng của
ngân hàng cũng là một hình thức cung cấp vốn có hiệu quả bởi vì việc cho vay đối với các
doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng vì vậy khi cho vay ngân hàng
sẽ phải thẩm định khách hàng vay kĩ lưỡng (năng lực tài chính, hiệu quả của dự án đầu tư,
nguồn trả nợ…) vì khi có rủi ro khách hàng không trả được nợ thì điều này sẽ gắn liền với
tổn thất của ngân hàng..
Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh
doanh liên tục, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư chiều sâu của các
doanh nghiệp, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Xét nhu cầu về vốn thực tế cho thấy xuất
phát từ đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn và sự không ăn khớp về thời gian, giữa khối
lượng mua và bán vật tư hàng hoá phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh dẫn đến một số
doanh nghiệp thiếu hụt về vốn. Mặt khác theo qui luật chung việc tái sản xuất mở rộng,
đầu tư theo chiều sâu (bởi vì một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nắm bắt và
tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm mẫu mã để đáp ứng nhu cầu của thị trường) là
không ngừng nếu doanh nghiệp chỉ trông chờ vào nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ để đầu
tư thì không thực tế, khó có thể thực hiện được.
Thêm vào đó, tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quyết định đến thời cơ kinh doanh và
chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ nguồn vốn tín dụng bổ sung
kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
Tín dụng trung, dài hạn đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế thúc góp phần làm tăng
năng lực sản xuất của doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
- Đối với ngân hàng:
Ngoài khả năng sinh lợi tạo thu nhập khi cấp tín dụng trung, dài hạn cho khách
hàng, tín dụng trung, dài hạn còn tạo ra mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa khách hàng và
ngân hàng và nếu với sản phẩm dịch vụ này ngân hàng phục vụ khách hàng tốt thì sẽ tạo
ra được sự tin cậy của khách hàng, tạo ra điều kiện thuận lợi cho những giao dịch về sau.
Tín dụng trung, dài hạn còn tạo điều kiện gia tăng nhu cầu về vốn ngắn hạn. Như ta
đã biết khách hàng đến vay trung, dài hạn (xét với các doanh nghiệp) chủ yếu là để mua
sắm trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải hay là xây dựng mới mở rộng nhà xưởng
(tăng năng lực sản xuất) khi đó việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tăng lên kéo
theo đó nhu cầu của khách hàng về vốn lưu động, thêm vào đó là đã có mối quan hệ với
ngân hàng từ trước do đó khi có nhu cầu về vốn ngắn hạn họ sẽ tìm đến ngân hàng để vay.
- Đối với toàn bộ nền kinh tế
Đất nước ta đi lên nền kinh tế thị trường bắt đầu từ một nền sản xuất chủ yếu là
nông nghiệp với xuất phát điểm thấp cơ sở vật chất: máy móc, cơ sở hạ tầng… yếu kém
lạc hậu Trong điều kiện nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
phát triển đất nước để theo kịp các nước phát triển, thì nhu cầu về vốn là rất lớn đặc biệt là
các khoản vốn trung, dài hạn. Do vậy, các NHTM có một vai trò quan trọng trong việc
cung cấp tín dụng trung, dài hạn cho nền kinh tế.
+ Tín dụng trung, dài hạn góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong
nền kinh tế. Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là một cầu nối
giữa những người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay để thoả mãn
được nhu cầu sản xuất kinh doanh và các chi tiêu. Chính nhờ quá trình này đã góp phần
làm giảm gánh nặng cho ngân sách, ngân sách Nhà nước không phải thực hiện việc bao
cấp nhiều như trước kia. Ngân sách chỉ được sử dụng vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường
xá, cầu cống, điện, nước…), đầu tư vào các công trình, hoạt động công ích hoặc vào một
số ngành kinh tế trọng yếu còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự thân vận động để
tìm vốn, trong đó kênh tín dụng của ngân hàng là một trong những quan tâm hàng đầu của
các doanh nghiệp.
+ Đầu tư vào những ngành then chốt, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất, tăng năng lực sản xuất của nền
kinh tế.
Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình ổn, tự chủ
về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh các ngành kinh tế
mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc
đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế cùng nhau phát triển toàn diện. Theo chiến lược
công nghiệp hoá là phải tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế đồng thời gắn
liền chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự
tăng trưởng vững chắc và lâu dài. Thông qua hoạt động của mình ngân hàng có thể cho
vay ngành này và không cho vay ngành khác (hay một số ngành then chốt mũi nhọn được
ưu tiên vay vốn phát triển, với lãi suất ưu đãi) điều này sẽ góp phần tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu
Nhờ có nguồn vốn từ tín dụng trung, dài hạn các doanh nghiệp có thể đầu tư máy
móc qua việc nhập khẩu trang thiết bị từ nước ngoài - tận dụng khoa học công nghệ của
các nước tiên tiến trên thế giới để ứng dụng vào sản xuất và từ đó sản xuất ra nhiều mặt
hàng đẹp, tốt, giá rẻ để đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời nhiều mặt hàng chúng ta có
thể xuất khẩu ra nước ngoài. Việc mở rộng xuất nhập khẩu là con đường ngắn nhất để các
nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) theo kịp các nước phát triển.
+ Góp phần ổn định đời sống nhân dân tạo công ăn việc làm
Hoạt đông tín dụng góp phần cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục không
bị đình trệ, quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện nhờ vậy các cán bộ, công nhân
viên sẽ có việc làm ổn định có nguồn thu nhập ổn định từ đó ổn định đời sống nhân dân.
1.2.1.3 Các hình thức tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung, dài hạn thường được diễn ra dưới một số hình thức chủ yếu sau:
- Tài trợ theo dự án:
Tài trợ theo dự án là một hình thức cho vay trung, dài hạn được tiến hành trên cơ sở
các dự án đầu tư. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng trong các dự án đầu tư hạ tầng
như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng lượng, xây lắp, giao thông…
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện
dự án nhất định có thể xin vay ngân hàng, tuy vậy ngân hàng chỉ cho vay dựa trên những
dự án thể hiện được mục đích đầu tư, có kế hoạch đầu tư và quan trọng là dự án có hiệu
quả (sinh lời). Do vậy, việc thẩm định dự án là nội dung quan trọng của ngân hàng trước
khi tiến hành cho vay, từ đó sẽ quyết định được phần vốn vay và xác định khả năng hoàn
trả của khách hàng.
Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa
điểm, công nghệ, qui trình sản xuất, phân tích tài chính… trong đó phân tích tài chính là
mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng.
Có nhiều phương pháp để phân tích tài chính dự án, để đánh giá hiệu quả tài chính
của dự án có thể phân tích thông qua các chỉ tiêu sau: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ
suất thu nhập bình quân… Bên cạnh việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá thích hợp, ngân hàng
đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn dùng để trả nợ ngân hàng. Do vậy, ngân hàng
luôn phân tích tài chính người vay kết hợp với phân tích dự án. Một doanh nghiệp có tình
hình tài chính lành mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay thực hiện
dự án. Các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở thành nguồn trả nợ cho ngân hàng
bên cạnh nguồn thu của dự án.
- Cho vay hợp vốn:
Cho vay hợp vốn là việc cho vay thực hiện bởi từ hai tổ chức cho vay trở lên để cho
vay một dự án đầu tư với những điều kiện và điều khoản tương đương: sử dụng hồ sơ
chung và quản lí bởi đầu mối chung. Có 2 loại:
+ Hợp vốn trực tiếp: với loại nghiệp vụ này sẽ có một số hợp đồng cho vay trong đó
mỗi ngân hàng cho vay sẽ đồng ý cung cấp một khoản vay với cùng các điều kiện và điều
khoản như các ngân hàng cùng tham gia cho vay khác. Mỗi hợp đồng cho vay sẽ độc lập
với các hợp đồng cho vay khác.
+ Hợp vốn gián tiếp: với loại nghiệp vụ này sẽ có một ngân hàng đứng đầu hoặc
nhiều ngân hàng cùng đứng đầu các ngân hàng này sẽ đứng ra ký hợp đồng cho vay tạm
(như là một bảng ghi nhớ) đối với khách hàng vay tiềm năng: các ngân hàng này sau đó sẽ
tiếp xúc với các ngân hàng khác để mời họ cùng tham gia góp vốn theo một tỉ lệ trong
khoản vay hợp vốn.
Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp dựa án đầu tư đòi hỏi một số
vốn vay quá lớn và một ngân hàng không thể đáp ứng được (vì giới hạn cho vay tối đa với
một khách hàng là 15% vốn tự có) hay như một dự án đầu tư mà ngân hàng thấy phức tạp,
tiềm ẩn rủi ro cao và khi đó các ngân hàng luôn muốn phối hợp thực hiện với nhau để san
sẻ rủi ro.
- Cho thuê tài chính:
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay để khách hàng mua tài
sản. Tuy vậy trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ hay chưa đủ điều kiện để vay
(như các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập chưa đủ uy tín tín dụng). Vì vậy, ngân hàng
đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê. Cho thuê tài chính là một
trong 2 hình thức của cho thuê tài sản (còn một hình thức nữa là cho thuê nghiệp vụ - đáp
ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn), Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời
gian dài, hết hạn thuê bên đi thuê có thể mua lại, thuê tiếp hoặc trả cho ngân hàng. Vì tài
sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi tài sản để bán hoặc
cho người khác thuê nếu trong trường hợp khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng
điều này cũng giảm bớt một phần rủi ro cho ngân hàng.
Những vấn đề cần xem xét:
+ Ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng (để có tài sản để cho khách
hàng thuê) và sau một thời gian nhất định ngân hàng phải thu đủ cả gốc và lãi. Tiền gốc và
lãi sẽ được trả dưới hình thức tiền thuê hàng kì.
+ Ngân hàng có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải
bảo đảm về chất lượng tài sản đó. Ngân hàng có quyền thu hồi tài sản nếu thấy người thuê
không thực hiện đúng hợp đồng.
+ Ngân hàng không cam kết bảo dưỡng tài sản và không chịu trách nhiệm với
những thiệt hại của tài sản cho thuê.
+ Ngân hàng có thể gặp rủi ro khi khách hàng hoạt động kinh doanh không hiệu quả
họ không trả được tiền thuê, tài sản lại mang tính đặc chủng khó cho thuê lại khó bán, chi
phí tháo dỡ thu hồi cao…. hoặc tài sản của ngân hàng có thể gặp những rủi ro ngẫu nhiên
làm hư hại tài sản (đối với rủi ro này thi ngân hàng thường yêu cầu khách hàng mua bảo
hiểm cho tài sản).
+ Thời hạn cho thuê gồm 2 khoảng thời gian: thời hạn cơ bản, thời hạn gia hạn
thêm. Thời hạn cơ bản là thời hạn mà trong đó người đi thuê không được phép huỷ hợp
đồng. Thời hạn gia hạn thêm là thời hạn mà ngân hàng có thể cho khách hàng thuê tiếp
hoặc mua lại nếu khách hàng không thuê tiếp hay mua lại thì ngân hàng sẽ thu hồi để bán
hay cho người khác thuê. Nếu tài sản thuộc dạng khó bán hay khó cho thuê lại thì thời hạn
cơ bản phải đảm bảo cho ngân hàng thu đủ cả gốc và lãi. Do vậy lãi suất cho thuê thường
cao.
Cho thuê tài chính có những ưu điểm:
+ Cho thuê tài chính giúp ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình, mở
rộng khả năng kinh doanh, tăng thu nhập, tạo ra vị thế cạnh tranh trên thị trường.
+ Cho thuê tài chính giúp cho các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập chưa đủ uy
tín dụng thì vẫn có thể có tài sản theo ý muốn để sản xuất, và nó cũng giúp doanh nghiệp
sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của mình vẫn có tài sản để sử dụng mà không cần bỏ vốn
ra để mua tài sản, tránh ứ đọng vốn.
+ Việc giao dịch để cho thuê tài chính thì các thủ tục cũng đơn giản hơn so với các
hợp đồng tín dụng.
+ Việc cho thuê tài chính đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng đối tượng vì nó
gắn với tài sản cụ thể (theo mục đích của bên đi thuê) và trong trường hợp khách hàng thuê
không trả được tiền thuê thì ngân hàng có thể thu hồi tài sản điều này giảm bớt rủi ro cho
ngân hàng vì không thu hồi được vốn.
- Cho vay tiêu dùng
Ngân hàng cho vay tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của những người tiêu dùng
đối với các hàng hoá lâu bền như: nhà cửa, phương tiện vận chuyển, và một số các hình
thức khác như cho vay du lịch, du học…
Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
khác, và việc nhiều doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn chính
vì vậy làm hoạt động cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp bị suy giảm
chính vi vây các ngân hàng đã phải tính đến phương án cho vay tiêu dùng. Và việc cho vay
này cũng phù hợp với nhu cầu của xã hội ngày một phát triển: đó là những người tiêu dùng
có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá
cao tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống tăng khả năng được đào
tạo… giúp họ tìm kiếm những công việc có mức thu nhập cao hơn về sau.
Phương thức cho vay: ngân hàng có thể cho vay trực tiếp với người mua (người tiêu
dùng trả tiền vốn vay và lãi cho ngân hàng thường là dưới hình thức trả góp) hoặc thông
qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh
nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn bộ hoặc một
phần giá trị hàng hoá.
Cho vay tiêu dùng thường có thời hạn dài, rủi ro cao vì nếu người vay bị ốm chết
hay bị mất việc ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Vì vậy nhiều ngân hàng lớn đã lập phòng
cho vay tiêu dùng để phụ trách mảng này. Thêm vào đó ngân hàng thường yêu cầu một
mức lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, mua bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm nhân thọ…
- Một hình thức nữa là FORFATING - thường là hình thức cung cấp tín dụng
ngắn hạn, trung hạn cho người bán trong các giao dịch mua bán hàng hoá trả chậm và
không truy đòi với người bán mà thu tiền thẳng từ người mua thực chất là mua lại quyền
thu nợ từ người bán và tài trợ trực tiếp cho người bán.
FORFAITING thực hiện tài trợ thông qua các công cụ như hối phiếu, lệnh phiếu,
thư tín dụng… Trừ khi người mua có đủ uy tín và không cần bảo đảm, thông thường hối
phiếu phải được kí hậu bảo đảm thanh toán bởi một ngân hàng của người mua. Trong một
số trường hợp ngân hàng có thể phát hành một thư bảo lãnh riêng. Với các chứng từ này
người bán có thể lấy được tiền hàng ngay bằng chiết khấu tại ngân hàng FORFAITING.
1.2.2 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn
1.2.2.1 Khái niệm
Hiện nay, có rất nhiều các ngân hàng, trung gian tài chính khác hoạt động (các
NHTM, ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài, các trung gian tài chính khác) cạnh
tranh gay gắt trong việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ và đây cũng là thị trường chứa
đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cuộc cạnh tranh và phát triển các dịch vụ, tiện ích ngân hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra sôi động và
căng thẳng. Với việc gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn
trong việc xâm nhập thị trường Việt Nam. Như vậy, sức ép cạnh tranh đối với các ngân
hàng nội địa cũng tăng lên và các ngân hàng trong nước đương nhiên sẽ gặp nhiều khó
khăn và thách thức. Trước điều kiện đó để đứng vững tồn tại phát triển trên thị trường đòi
hỏi các NHTM phải không ngừng cải tiến và ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
hàng, và việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung, dài hạn nói riêng
cũng nằm trong guồng quay đó.
Chất lượng của một khoản tín dụng ngân hàng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất là
lợi ích kinh tế đem lại cho cả khách hàng, ngân hàng, và sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Nghĩa là đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng, đồng thời đóng góp vào sự tăng trưởng, phát triển chung của xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng trung, dài hạn là việc đáp ứng được nhu cầu vay vốn
trung dài hạn của khách hàng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng
thời phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng trung, dài hạn thể hiện là khoản tín dụng có
phù hợp với nhu cầu của khách hàng hay không, xét trên các mặt: qui mô, lãi suất, kỳ hạn,
thủ tục vay, phương thức giải ngân, thu nợ…
Đối với ngân hàng, chất lượng tín dụng trung, dài hạn thể hiện là sự phản ánh hiệu
quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại có hiệu quả hay không
trên phương diện an toàn, sinh lợi của ngân hàng do hoạt động tín dụng trung, dài hạn
mang lại.
Đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội, chất lượng của hoạt động tín dụng trung, dài
hạn thể hiện là sự đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế xã hội như: góp phần tích
tụ tập trung vốn trong nền kinh tế, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh lưu thông hàng hóa, giảm gánh nặng cho ngân sách…
Vì vậy, chúng ta cần căn cứ vào khái niệm chất lượng tín dụng để đánh giá hoạt
động tín dụng, nghĩa là cần đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn dưới giác độ khách
hàng, ngân hàng, kinh tế - xã hội.
1.2.2.2 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn
a) Dưới giác độ khách hàng
Khách hàng là những người sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng, khách hàng
(doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế) khi thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh, đầu tư họ
sẽ tìm đến các NHTM để vay vốn. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng
như hiện nay, nếu ngân hàng nào mà có thủ tục vay rườm rà, lã suất vay cao thì sẽ rất khó
giữ được khách hàng. Vì vậy, đối với khách hàng khi xem xét chất lượng tín dụng thì họ
xem xét các yếu tố như về lãi suất (gắn với chi phí của khách hàng), thời hạn vay, qui mô,
thủ tục vay, phương thức giải ngân, thu nợ của khoản tín dụng có đáp ứng được nhu cầu
của họ không. Cụ thể như sau:
- Khách hàng nhận được khoản vay với lãi suất phù hợp, khoản vốn đó đáp ứng đầy
đủ, kịp thời, đúng hạn theo đúng nhu cầu về vốn của khách hàng.
- Phương thức giải ngân và quá trình giải ngân của ngân hàng đáp ứng phù hợp với
phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng. Nếu một dự án của doanh
nghiệp đang trong quá trình thi công mà thiếu vốn, do ngân hàng giải ngân chậm trễ thì sẽ
gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Do vậy, việc giải ngân kịp thời là rất quan trọng.
- Khi tiến hành cho vay ngân hàng sẽ phải tiến hành thẩm định trên nhiều mặt. Tất
nhiên khi thực hiện dự án doanh nghiệp phải xây dựng một phương án kế hoạch sản xuất
kinh doanh hiệu quả, nhưng khi đến ngân hàng vay vốn thì ngân hàng thẩm định lại một lần
nữa và khi đó những ý kiến hợp lí của cán bộ tín dụng sẽ góp phần xây dựng cho dự án của
doanh nghiệp trở nên hiệu quả hợp lí hơn.
- Thủ tục vay đơn giản, thái độ của nhân viên nhiệt tình, chu đáo…
- Bên cạnh đó nếu khoản tín dụng trung, dài hạn đáp ứng được nhu cầu đổi mới
công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao
vị thế cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp thì khoản tín dụng đó là một khoản tín
dụng có chất lượng cao.
b) Dưới giác độ ngân hàng
Khi đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung hay hoạt động
tín dụng trung, dài hạn nói riêng, ngân hàng sẽ đánh giá cả về mặt định tính cũng như định
lượng để xem hoạt động tín dụng đó có đem lại hiệu quả hay không trên hai phương diện
an toàn và sinh lợi.
* Đánh giá về mặt định tính:
- Trước hết phải xem xét hoạt động tín dụng đó có phù hợp với mục tiêu chiến lược
của Ngân hàng Nhà nước, của bản thân ngân hàng mình trong từng giai đoạn, thì kì hay
không. Nếu hoạt động tín dụng đó mà đi ngược lại với mục tiêu trên thì chất lượng của
khoản tín dụng đó sẽ không được đảm bảo.
- Các khoản tín dụng có phù hợp với luật pháp, chính sách của Nhà nước, có đảm
bảo tuân thủ theo đúng qui trình tín dụng hay không? Chính điều này đảm bảo rằng việc
cấp tín dụng không đi ngược lại với luật pháp, và việc tuân thủ đúng qui trình tín dụng sẽ
làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng được nâng cao.
Khi đó, chất lượng tín dụng sẽ tăng.
- Một yếu tố nữa thuộc nhóm yếu tố định tính là trong quá trình cấp tín dụng sẽ góp
phần hoàn thiện dự án, phương án đầu tư của khách hàng, đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Như chúng ta đã biết khi một khách hàng (doanh nghiệp) đến vay vốn thì họ sẽ phải trình
bày phương án đầu tư, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án cho ngân hàng, sau đó ngân
hàng sẽ tiến hành thẩm định để xét duyệt cho vay vốn, trong quá trình đó nếu ngân hàng
thấy có những điểm trong dự án chưa được hợp lí thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách
hàng điều chỉnh lại dự án cho hợp lí thay vì từ chối cấp tín dụng. Và khi trong quá trình thi
công dự án ngân hàng cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc phát sinh. Nếu
làm tốt được điều này doanh nghiệp thực hiện dự án có hiệu quả hơn và ngân hàng cũng
tránh được rủi ro do khách hàng không trả được nợ, chất lượng các khoản tín dụng dược
nâng cao.
- Quá trình theo dõi, giám sát đối với các khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Ngân
hàng sau khi cho vay vốn, sẽ tiến hành theo dõi, giám sát khách hàng có đầu tư vốn đúng
mục đích như các phương án đã trình bày với ngân hàng hay không, kê hoạch trả nợ ngân
hàng của khách hàng có đúng kì trả nợ hay không, tiến độ thi công công trình của khách
hàng ra sao… nếu thực hiện tốt điều này sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro từ các khoản tín
dụng, chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao.
* Đánh giá về mặt định lượng: ngân hàng sẽ đánh giá chất lượng các khoản tín
dụng trung, dài hạn trên một số chỉ tiêu như sau:
- Lượng vốn trung, dài hạn huy động được, tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn
trong tổng nguồn vốn huy động được trong 1 thời kỳ (thường là 1 năm).
Vốn huy động trung, dài hạn
Tỷ trọng huy động vốn trung dài hạn = ------------------------------------
Tổng nguồn vốn huy động
Thông qua chỉ tiêu này, ta biết được lượng vốn trung, dài hạn huy động được là bao
nhiêu và tỷ trọng của nó trong tổng nguồn vốn huy động. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ
lượng vốn huy động trung, dài hạn của ngân hàng là cao và sẽ có điều kiện để mở rộng cho
vay trung, dài hạn, khả năng lựa chọn các dự án có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng.
Tuy vậy, việc huy động vốn trung, dài hạn có chi phí rất cao do vậy ngân hàng phải là sao
sử dụng thật tốt nguồn vốn này nếu không sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
- Chỉ tiêu về doanh số cho vay trung, dài hạn là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho
vay trung, dài hạn trong kì. Doanh số cho vay trung, dài hạn thể hiện qui mô tuyệt đối của
hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng – con số này và tốc độ tăng của nó cho
biết khả năng mở rộng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên chỉ tiêu này chưa
đủ để khẳng định về chất lượng tín dụng trung, dài hạn mà cần phải kết hợp với các nhóm
chỉ tiêu khác.
- Chỉ tiêu về dư nợ trung dài hạn, và tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn trong tổng dư nợ.
Dư nợ trung, dài hạn
Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn = ----------------------------
Tổng dư nợ tín dụng
Dư nợ trung dài hạn được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh số tiền mà ngân hàng
hiện đang cho vay trung, dài hạn tại thời điểm tính là bao nhiêu. Tỷ trọng dư nợ là số tương
đối thể hiện số tiền mà ngân hàng đang cho vay trung, dài hạn trong tổng số tiền mà ngân
hàng cho vay tại thời điểm tính. Như ta đã biết trên giác độ ngân hàng thì việc đánh giá
chất lượng tín dụng trên 2 phương diện là an toàn, sinh lợi do vậy nếu xem xét nhóm chỉ
tiêu này thì chưa thể đánh giá được về chất lượng tín dụng trung, dài hạn mà cần phải kết
hợp với các chỉ tiêu khác.
- Chỉ tiêu đánh giá tốc độ chu chuyển vốn trung, dài hạn
Doanh số thu nợ trung dài hạn trong năm
Vòng quay của vốn trung, dài hạn = -------------------------------------------------- trong năm
Tổng dư nợ trung dài hạn bình quân năm
Doanh số thu nợ trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn mà ngân hàng
giải ngân đã được hoàn trả trong một kì. Thông thường khi vòng quay vốn tăng lên tức là
ngân hàng có nhiều vốn hơn từ thu nợ để tiếp tục đầu tư, cho vay chứng tỏ ngân hàng đã
cho vay vốn có hiệu quả.
- Chỉ tiêu về khả năng cấp tín dụng trung, dài hạn
Vốn huy động trung, dài hạn
Khả năng cấp tín dụng trung, dài hạn = ----------------------------------
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Chỉ tiêu này cho biết vốn huy động trung, dài hạn đáp ứng được bao nhiêu % nhu
cầu tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Nhìn chung chỉ tiêu này càng gần 1 là tốt cho
thấy việc ngân hàng sử dụng tốt nguồn vốn trung, dài hạn để cho vay. Nếu chỉ tiêu này
càng lớn hơn 1 thì cho thấy ngân hàng huy động được nhiều vốn trung, dài hạn hơn so với
nhu cầu và ngân hàng đã sử dụng vốn dài hạn cho vay ngắn hạn chứng tỏ sử dụng vốn lãng
phí, nếu chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1 chứng tỏ ngân hàng đã không huy động được vốn
trung, dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay và phải sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay, khi
đó ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thanh khoản. Cả 2 trường hợp trên đều không hiệu
quả và ảnh hưởng đến khả năng an toàn, sinh lợi của ngân hàng, chất lượng hoạt động tín
dụng trung, dài hạn thấp.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ quá hạn / tổng dư nợ tín dụng (đã loại trừ nợ khoanh và
cho vay uỷ thác)
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Đối với hoạt động tín dụng trung, dài hạn, sử
dụng chỉ tiêu nợ quá hạn trung, dài hạn và nợ quá hạn trung, dài hạn / tổng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn.
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng trung, dài hạn.
Khi đến hạn trả nợ ngân hàng (bao gồm gốc và lãi), nếu khách hàng không trả được nợ và
khoản nợ không được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kì hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ
cho khách hàng) thì ngân hàng sẽ chuyển khoản vay đó sang nợ quá hạn. Các khoản nợ quá
hạn là điều mà các ngân hàng đều không mong muốn và luôn tìm mọi cách để hạ tỉ lệ nợ
quá hạn tới mức thấp nhất.
Tuy vậy, theo các quan điểm khác nhau các cách tính toán khác nhau về kì hạn nợ
và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng
Các cán bộ tín dụng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh
của người vay, hoặc là họ sử dụng nguồn ngắn hạn là chủ yếu và họ đặt kì hạn ngắn để hạn
chế rủi ro nhưng chính điều này lại không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi
đến hạn thì đương nhiên người vay sẽ không trả được nợ.
Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ
Khi đến hạn người vay không trả được nợ, thì để che dấu khoản nợ quá hạn thì
khách hàng và nhân viên ngân hàng có thể thoả thuận để vay khoản mới để trả nợ cũ (đảo
nợ), hay có thể thực hiện giãn nợ. Những hành vi này làm cho các chỉ tiêu trên không phản
ánh đầy đủ chất lượng tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay
Ở các NHTM Nhà nước có rất nhiều khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, việc
xử lí các khoản nợ này rất phức tạp, nhiều ngân hàng đã đưa các khoản nợ này ra khỏi chỉ
tiêu nợ quá hạn và xếp vào nợ khoanh (nếu được Chính phủ đồng ý), tuy vậy chúng thực sự
đe doạ thu nhập của ngân hàng nếu Chính phủ chưa tìm được nguồn để bù đắp.
Thứ tư, do sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng
Theo điều 11 khoản 3 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì sau khi đã sử dụng dự
phòng để xử lí rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng phải chuyển các khoản nợ đã được xử lí rủi
ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có biện
pháp thu hồi triệt để. Do vậy các khoản nợ này không nằm trong chỉ tiêu nợ quá hạn.
- Chỉ tiêu nợ xấu, nợ xấu / tổng dư nợ (bao gồm nợ khoanh, loại trừ cho vay uỷ
thác). Và đối với hoạt động tín dụng trung, dài hạn: nợ xấu trung, dài hạn / tổng dư nợ
trung, dài hạn.
Trước hết ta phải hiểu thế nào là nợ xấu, theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN,
nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5 qui định tại điều 6 hoặc điều 7 của
cùng qui định này.
Nếu theo điều 6:
Nhóm 3: bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.
Nhóm 4: bao gồm
Các khoản nợ quá hạn từ 181 – 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.
Nhóm 5: bao gồm
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.
( Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng
(TCTD) mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc
phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn
tương ứng với mức độ rủi ro.
Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá là khả
năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các
khoản nợ đó vào các nhóm nợ có rủi ro cao hơn).
Nếu theo điều 7: (tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại
nợ theo phương pháp định tính, căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ)
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả
năng tổn thất cao.
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Các ngân hàng đều muốn hạ thấp tỉ lệ này, nếu chỉ tiêu này cao thì chất lượng tín
dụng của ngân hàng là thấp.
Ngoài các chỉ tiêu trên còn có một số chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng hoạt
động tín dụng trung, dài hạn như:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi trung, dài hạn / tổng dư nợ trung, dài hạn
(Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn đã quá một kì gia hạn nợ)
- Chỉ tiêu nợ trung, dài hạn không có khả năng thu hồi / tổng dư nợ trung, dài hạn.
- Chỉ tiêu về lợi nhuận:
Lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn / Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn / Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
c) Dưới giác độ nền kinh tế
Một hoạt động tín dụng không chỉ đem lại lợi ích cho cả hai bên (ngân hàng và
khách hàng), mà đứng trên giác độ kinh tế - xã hội nó còn phải đóng góp vào sự phát triển
chung của xã hội. Ta có thể đánh giá hoạt động tín dụng trung, dài hạn dưới giác độ kinh
tế- xã hội thông qua một số chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: hoạt động tín dụng đó có phù hợp với mục tiêu, chiến lược của Nhà nước
đối với từng vùng từng lãnh thổ hay không? Đóng góp ra sao vào việc thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, lưu thông hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế… trên địa bàn đó.
Thứ hai: hoạt động tín dụng có góp phần thúc đẩy tích tụ tập trung vốn trong nền
kinh tế, giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước, đóng góp như thế nào vào sự tăng trưởng
kinh tế.
Thứ ba: trong việc giải quyết vấn đề công ăn việc làm của người lao động. Như
chúng ta đã biết tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế cao còn kéo theo hàng loạt các vấn đề
khác: đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, các tệ nạn xã hội, bất ổn về chính trị, gánh
nặng cho ngân sách vì phải tăng phúc lợi, trợ cấp… đây là điều mà các quốc gia không
mong đợi.Vì vậy, khi hoạt động tín dụng tài trợ cho các dự án, mà dự án đó hoạt động tốt
thì đã phần nào góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn
Hoạt động tín dụng ngân hàng là mối quan hệ giữa ngân hàng và các chủ thể khác
trong nền kinh tế, mối quan hệ này được đặt trong một môi trường kinh tế, xã hội nhất
định. Do đó có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Nếu đứng trên giác độ
ngân hàng trong mối quan hệ trên thì có thể phân thành hai nhóm các nhân tố: nhóm nhân
tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng, nhóm nhân tố khách quan (bao gồm: nhóm nhân
tố thuộc về môi trường kinh tế - xã hội và nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng).
a) Các nhân tố khách quan
* Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế, xã hội
Ta có thể xem xét sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng từ các yếu tố sau:
- Môi trường kinh tế:
Ngân hàng cũng như doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, hoạt động tín
dụng là hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế và nó
đóng vai trò như một hoạt động kinh doanh, một hoạt động đầu tư của ngân hàng, hoạt
động này đem lại thu nhập cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều rủi ro gây
tổn thất cho ngân hàng. Do vậy hoạt động tín dụng không thể tách rời môi trường kinh tế.
Nếu một môi trường kinh tế lành mạnh, phát triển thì cũng tạo điều kiện cho hoạt động tín
dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn mở rộng qui mô tín dụng vì có nhiều
cá nhân, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư, sản xuất đồng thời chất lượng tín dụng cũng
được nâng cao do nền kinh tế phát triển nhiều cá nhân, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và
họ trả được nợ ngân hàng đúng hạn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại khi nền
kinh tế suy thoái lâm vào khủng hoảng thì các ngân hàng sẽ không mở rộng được qui mô
tín dụng thậm chí còn phải thu hẹp qui mô, chất lượng các khoản tín dụng cũng không
được đảm bảo do các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế hoạt động không hiệu quả và
họ không trả được nợ ngân hàng, đồng thời sự thay đổi của nhiều biến số kinh tế khác như
lạm phát, tỷ giá, lãi suất… sẽ gây rủi ro rất lớn cho ngân hàng.
- Môi trường pháp lý
NHTM cũng là một tổ chức kinh tế - xã hội, không những thế NHTM là một tổ chức
hoạt động kinh doanh đặc biệt (hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ) có ảnh hưởng nhiều mặt
đến các hoạt động khác trong nền kinh tế. Do vậy, trong các hoạt động của mình ngân hàng
luôn phải tuân thủ các qui định về luật pháp của Nhà nước. Như vậy, môi trường pháp lý có
ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói
riêng. Với một hệ thống pháp lý đầy đủ đồng bộ ổn định thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động
tín dụng được mở rộng và phát triển.
- Môi trường chính trị xã hội
Một môi trường xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của
NHTM trong đó có hoạt động tín dụng. Nếu một đất nước mà có sự bất ổn về mặt chính trị
xã hội, thì đương nhiên rất nhiều nhà đầu tư (doanh nghiệp, cá nhân) sẽ không đầu tư sản
xuất kinh doanh ở đất nước đó nữa và khi đó hoạt động tín dụng sẽ không được mở rộng
đồng thời khi chính trị xã hội bất ổn sẽ dẫn tới việc rất nhiều khách hàng sẽ không có khả
năng trả được nợ cho ngân hàng, rủi ro là rất lớn.
* Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng
- Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp
Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động tín dụng trung, dài hạn của mình nhưng điều này lại
chỉ có thể thực hiện được khi khách hàng có nhu cầu về vốn trung, dài hạn. Hiện nay, đối
với nước ta, đang trong quá trình xây dựng phát triển đất nước thì nhu cầu về vốn trung, dài
hạn là rất lớn do vậy việc mở rộng tín dụng trung, dài hạn cũng là điều cấp thiết. Tuy vậy,
đối với từng ngân hàng cụ thể thì lại phải có những chiến lược riêng, bất kì một ngân hàng
nào cũng có những khách hàng truyền thống hoạt động trong một số lĩnh vực, tuỳ từng thời
kì những khách hàng của ngân hàng có những nhu cầu vốn khác nhau, do đó muốn mở
rộng hoạt động tín dụng trung, dài hạn ngân hàng cũng phải có chiến lược mở rộng đối với
những khách hàng mới có nhu cầu vốn trung, dài hạn.
- Năng lực của khách hàng
Đây là một trong những yếu tố mà các ngân hàng quan tâm trong việc cấp tín dụng
cho khách hàng. Không phải bất kì khách hàng nào muốn vay vốn đều được cho vay mà
ngân hàng phải tiến hành thẩm định kĩ càng các doanh nghiệp, cá nhân trên nhiều phương
diện: năng lực tài chính, năng lực quản lí, dự án hiệu quả, khả năng trả nợ… rồi mới quyết
định cho vay. Do vậy nhân tố này có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của khoản tín dụng, nếu
khách hàng có năng lực mạnh trên nhiều phương diện có khả năng trả nợ đúng hạn thì chất
lượng của khoản tín dụng cao còn ngược lại khách hàng mà không trả được nợ gây tổn thất
cho ngân hàng thì khoản tín dụng này có chất lượng thấp.
Năng lực của khách hàng (chủ yếu đề cập là các doanh nghiệp) được thể hiện ở
những mặt sau:
+ Năng lực tài chính: được thể hiện là doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không, khả
năng thanh khoản ra sao, vốn tự có của doanh nghiệp là bao nhiêu, tình hình nợ của doanh
nghiệp là như thế nào… Nhìn chung năng lực tài chính của doanh nghiệp cao thì khả năng
đáp ứng các yêu cầu của tín dụng càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Năng lực quản lý: công tác quản lý trong doanh nghiệp luôn là một công tác quan
trọng, nếu công tác quản lý mà không tốt, không có sự nhạy bén thì khi có sự biến đổi
trong môi trường hoạt động của doanh nghiệp thì có rất nhiều khả năng các doanh nghiệp
bị thua lỗ nặng nề. Thực tế đã chứng minh ở nhiều doanh nghiệp chỉ cần có sự thay đổi ở
người điều hành công ty mà công ty từ chỗ sắp phá sản mà trở nên làm ăn có lãi. Năng lực
quản lý được thể hiện ở năng lực của các nhân sự quản lý và sự phối hợp giữa các thành
viên trong ban quản lý để tổ chức thực hiện các hoạt động của công ty.
+ Khả năng tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp
Bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều cần chiếm lĩnh thị trường có như vậy thì
hàng hoá sản xuất ra mới tiêu thụ được, nếu hàng hoá mà sản xuất ra có tốt đến mấy mà
người sử dụng không biết tới thì cũng chả có ý nghĩa gì. Do vậy, một doanh nghiệp mà
thực hiện công tác thị trường tốt, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường là tốt thì khả năng
đáp ứng các yêu cầu của tín dụng là cao, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung
và tín dụng trung, dài hạn nói riêng.
+ Hiệu quả của dự án, phương án đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp
Khi xem xét việc cho vay ngoài các yếu tố về doanh nghiệp (như năng lực quản trị
điều hành, uy tín, tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp…) thì ngân
hàng còn xem xét bản thân phương án đầu tư, dự án (sau đây gọi chung là dự án) có hiệu
quả hay không, có mang tính khả thi hay không, doanh nghiệp sử dụng những nguồn vốn
nào để thực hiện dự án, chi phí ra sao, xem xét các yếu tổ đầu vào đầu ra của dự án, có đảm
bảo tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho doanh nghiệp hay không, sự hoạt động của dự án có
đảm bảo cho việc trả nợ ngân hàng hay không… Nhìn chung dự án của doanh nghiệp có
hiệu quả và đảm bảo trả nợ cho ngân hàng, chính điều này góp phần nâng cao chất lượng
tín dụng.
+ Khả năng đáp ứng các điều kiện về tài sản đảm bảo
Ngoài trường hợp cho vay theo chỉ định của Nhà nước, hay cho vay với các khách
hàng lâu năm có uy tín thì không cần tài sản đảm bảo. Còn các trường hợp khác ngân hàng
đều yêu cầu về tài sản đảm bảo, nếu khách hàng đáp ứng được yêu cầu về tài sản đảm bảo
thì việc cấp tín dụng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, và chất lượng tín dụng phần nào dược bảo
đảm.
- Một yếu tố nữa được xem xét đó là sự trung thực của khách hàng
Nhiều khách hàng cố tình chây ì trong việc trả nợ ngân hàng, có một số khách hàng
còn thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Khi rơi vào các trường
hợp này thì rõ ràng các ngân hàng đã gặp phải rủi ro, chất lượng khoản tín dụng là thấp. Do
vậy, ngân hàng cần tiến hành thẩm định kỹ càng trước khi cho vay để giảm thiểu rủi ro này.
b) Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố thuộc về khả năng, năng lực của ngân hàng luôn được coi là nhân tố
quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động
tín dụng cũng là một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, do vậy muốn nâng
cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn cần quan tâm tới các nhân tố sau:
- Chính sách về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng trong từng thời kì. Đối với
từng thời kì ngân hàng có những chính sách tín dụng trung, dài hạn riêng, thí dụ như ở từng
thời kì ngân hàng sẽ có những ưu tiên đối với một số lĩnh vực và hạn chế cho vay với một
số ngành nào đó. Nếu khoản tín dụng trung, dài hạn mà đi ngược lại chính sách của ngân
hàng thì khả năng gặp rủi ro là rất lớn.
- Nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn
Ngân hàng không thể mở rộng cho vay với nhiều đối tượng khách hàng nếu nguồn
vốn huy động trung, dài hạn là ít và khi đó ngân hàng sẽ bỏ qua rất nhiều các dự án có hiệu
quả mà ngân hàng không thể tham gia do không đủ nguồn vốn trung, dài hạn (nếu lấy
nguồn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn thì ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân
hàng). Do đó muốn mở rộng tín dụng trung, dài hạn, muốn nâng cao chất lượng tín dụng
trung, dài hạn cần phải quan tâm tới cơ cấu nguồn vốn trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn.
- Thông tin tín dụng
Chất lượng một khoản cho vay có tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào thông tin
mà ngân hàng thu thập được về phía khách hàng. Nếu các thông tin thu thập được bằng
nhiều nguồn khác nhau mà chính xác thì ngân hàng sẽ có những quyết định đúng. Ngược
lại cho vay mà thiếu thông tin thì khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn.
- Sự hợp lý của qui trình và chất lượng thẩm định tín dụng trung, dài hạn
Nếu công tác thẩm định được tiến hành kỹ càng, chặt chẽ, đúng qui trình thẩm định
thì sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được những dự án khả thi, từ đó góp phần giảm được rủi ro,
gây tổn thất cho ngân hàng.
- Kiểm soát tín dụng
Đây là khâu quan trọng sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng theo dõi
giám sát doanh nghiệp sử dụng vốn có đúng mục đích hay không, có đảm bảo được luồng
tiền về để trả nợ ngân hàng hay không. Nếu khâu này được làm tốt thì hạn chế rất nhiều các
rủi ro có thể xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
- Trình độ công nghệ, trang thiết bị ngân hàng
Nếu một ngân hàng mà có các công nghệ trang thiết bị hiện đại thì sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động của ngân hàng, hoạt động tín dụng trung, dài hạn cũng vậy.
Với máy móc hiện đại thì thuận lợi trong việc thu thập thông tin về khách hàng, nâng cao
được chất lượng thẩm định các thủ tục khi cho vay sẽ được đơn giản hoá rất nhiều, rút ngắn
được thời gian cho cả khách hàng lẫn ngân hàng… khi đó tạo điều kiện cho việc mở rộng,
nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
- Trình độ cán bộ tín dụng
Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào chứ không riêng gì lĩnh vực hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, yếu tố con người chính là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành bại của
hoạt động đó. Khi hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng cán bộ
tín dụng ngày càng cao và luôn giữ đúng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Ngoài ra còn một số nhân tố khác như: các chính sách khách hàng, thái độ phục vụ
của nhân viên tín dụng, các thủ tục của ngân hàng khi cho vay, công tác tổ chức hoạt động
tín dụng… ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Trong chương 1 chuyên đề đã hệ thống hoá được những lý thuyết chung về: những
hoạt động kinh doanh của NHTM; đặc trưng, vai trò, các loại hình của hoạt động tín dụng
trung, dài hạn; khái niệm, đánh giá, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung,
dài hạn , trên cơ sở đó chương 2 sẽ đi sâu phân tích thực trạng chất lượng tín dụng trung,
dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.1 Quá trình phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố
Hà Nội
* Lịch sử hình thành phát triển:
Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội tiền thân của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thành phố Hà Nội ngày nay được ra đời vào ngày 27/05/1957, gần một nửa thế
kỉ đã đi qua, Ngân hàng đã trải qua nhưng lần đổi tên để phù hợp với từng giai đoạn phát
triển:
- Chi hàng kiến thiết Thành phố Hà Nội (1957 – 1981).
- Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thành phố Hà Nội (1982 – 1989).
- Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội (1990 – nay) gọi tắt
là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Quá trình hoạt động của ngân hàng đã đóng góp vào quá trình phát triển của đất
nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng:
- Năm 1957 – 1965: Chi hàng cung cấp vốn phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế
sau chiến tranh chống Pháp và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
- Năm 1965 – 1975: Chi hàng cung cấp vốn phục vụ chống chiến tranh phá hoại của
giặc Mỹ, leo thang đánh phá miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
- Năm 1975 – 1995: sau khi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử hoàn toàn thắng lợi và
thống nhất, Chi hàng đã thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới: cung cấp vốn cho nền kinh tế
phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh góp phần xây dựng thủ đô trong điều
kiện mới. Và khi bước sang thời kì đổi mới, ngân hàng đã có những chuyển biến mới về
chất, phải thực hiện huy động vốn để hoạt động cả trong nước và ngoài nước chứ không thể
trông chờ mãi vào ngân sách như trước kia và thực sự đi vào kinh doanh tiền tệ tín dụng và
dịch vụ ngân hàng.
- Từ năm 1995 đến nay ngân hàng chuyển sang giai đoạn mới: kinh doanh đa năng
tổng hợp, thực sự trở thành một ngân hàng thương mại quốc doanh phục vụ chủ yếu trong
lĩnh vực đầu tư phát triển, thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới kinh doanh một cách
hợp lí theo hướng phát triển mạng lưới ngân hàng bán lẻ, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ cơ động.
Từ những ngày đầu khi mới thành lập, mô hình tổ chức của ngân hàng chỉ có 2
phòng: phòng Kế toán và phòng Cấp phát, trải qua quá trình hoạt động kinh doanh ngày
càng phát triển cho đến nay tổ chức của ngân hàng gồm: ngoài Ban giám đốc còn có 22
phòng ban, phòng giao dịch. Ngân hàng tới đây cũng khai trương thêm 2 điểm giao dịch
mới, ở nội dung bài viết này chưa được đề cập vào.
* Khái quát về cơ cấu tổ chức của chi nhánh: được chia thành các khối như sau:
- Khối tín dụng:
Sau khi chương trình dự án hiện đại hoá vận hành ổn định các phòng tín dụng được
bố trí gồm 4 phòng thực hiện nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp và tín dụng dân cư.
+ Phòng tín dụng 1: Chuyên sâu khách hàng là doanh nghiệp xây lắp, giao thông.
+ Phòng tín dụng 2: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế địa phương.
+ Phòng tín dụng 3: Chuyên sâu khách hàng tư nhân và các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.
+ Phòng tín dụng 4: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế Trung Ương trong
lĩnh vực xây dựng công nghiệp.
- Khối dịch vụ:
+ Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch đối
với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức khác.
+ Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với
khách hàng cá nhân.
+ Phòng thanh toán quốc tế: trên cơ sở hạn mức, khoản vay, bảo lãnh, L/C đã được
phê duyệt thực hiện các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho khách hàng, thực hiện các
giao dịch mua bán ngoại tệ…
- Khối chức năng: bao gồm các phòng
+ Phòng kế hoạch - nguồn vốn
+ Phòng thẩm định và quản lý tín dụng
+ Phòng tài chính kế toán
+ Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ
+ Phòng tổ chức cán bộ
+ Văn phòng
Sơ đồ cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban được đề cập
chi tiết ở phụ lục 1.
Trong gần nửa thế kỉ qua, mặc dù gặp không ít khó khăn, nhưng Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Hà Nội đã không ngừng vươn lên. Đến nay, ngân hàng đã đạt được những
thành công nhất định và trở thành một trong những đơn vị mạnh nhất của hệ thống Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong nhiều năm liền Ngân hàng luôn đạt danh hiệu
vững mạnh, được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba (1997), huân
chương lao động hạng nhì (2002) và hàng loạt các huân chương bằng khen của Chủ tịch
nước, của Thủ tướng Chính Phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và rất nhiều các cá
nhân và liên đoàn khác tặng cho những danh hiệu cao quý.
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thành phố Hà Nội
2.1.2.1 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng
Hiện tại ở ngân hàng đang hoạt động trên những lĩnh vực sau:
- Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu đồng, nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ
đối với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo những kì hạn khác nhau.
- Cho vay khách hàng theo hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự phòng, khách
hàng từng lần, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay đồng tài trợ, cho vay cầm cố chứng từ có
giá và các hình thức cho vay khác.
- Nhận chuyển tiền trong và ngoài nước 2 chiều
- Bảo lãnh các khoản vay và thanh toán của các pháp nhân, thể nhân trong và ngoài
nước.
- Dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union
- Dịch vụ ngoại hối bao gồm mua bán ngoại tệ, hỗ trợ tư vấn khi sử dụng dịch vụ
ngoại hối.
- Dịch vụ thanh toán quốc tế xuất nhập khẩu, thanh toán và chi trả kiều hối, mở thư
tín dụng L/C và thanh toán nhanh chóng với chi phí thấp nhất qua mạng SWIFT.
- Dịch vụ uỷ thác: thanh toán lương tự động qua tài khoản.
- Dịch vụ gói BIDV – Smart Account gồm có dịch vụ thu hộ, quản lí vốn tự động,
tài khoản tiền gửi thanh toán lãi suất phân tầng theo số dư dành cho các tổ chức kinh tế, tổ
chức tài chính.
- Dịch vụ thẻ BIDV – ATM và hệ thống máy rút tiền tự động ATM.
- Dịch vụ Mobile Banking - gửi nhận tin nhắn tự động truy vấn thông tin tài khoản ,
lãi suất, tỉ giá ngoại hối…
2.1.2.2 Hoạt động huy động vốn
Công tác huy động vốn là công tác luôn được coi trọng tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, toàn thể ban lãnh đạo cùng các nhân viên luôn
nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của công tác huy động vốn là sự quyết định tồn tại của ngân
hàng, xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp lí sẽ là cơ sở để nâng cao kết quả kinh
doanh của ngân hàng. Ta có thể nghiên cứu tình hình huy động vốn của chi nhánh thông
qua bảng sau:
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh
Đơn vị: triệu đồng
(ngoại tệ qui đổi)
STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Tổng nguồn vốn huy động 4.044.022 4.688.034 6.931.151
I Phân theo loại nguồn vốn
+ Tiền gửi từ dân cư 1.507.439 1.663.149 1.895.397
+ Tiền gửi từ các tổ chức 2.536.583 3.024.885 5.035.754
II Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền
+ Nguồn nội tệ 3.083.090 3.741.723 5.349.945
+ Nguồn ngoại tệ qui đổi 960.932 946.311 1.581.206
(Các khoản tiền gửi đã bao gồm việc huy động bằng việc phát hành kì phiếu, trái phiếu)
Nguồn: Báo cáo tổng hợp huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thành phố Hà Nội từ 2004 - 2006
Nhìn từ bảng số liệu trên ta thấy tình hình huy động vốn tại ngân hàng qua 3 năm
2004, 2005, 2006 liên tục tăng trưởng. Năm 2005 tổng nguồn tăng lên là 644.012 triệu đ
với tốc độ gia tăng là 15,925% và năm 2006 tăng so với 2005 là 2.243.117 triệu đ với tốc
độ gia tăng là 47,85% như vậy đã có một sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn huy động trong
năm 2006 với mức tăng kỉ lục là 47,85% trong đó tổng nguồn huy động nội tệ không
ngừng tăng trưởng. Năm 2005 nguồn ngoại tệ huy động lại thấp hơn năm 2004, vào thời
điểm này tỷ giá của đồng USD tăng mạnh so với VNĐ, người dân muốn giữ ngoại tệ để
bán ra đầu cơ kiếm lợi có thể là một nguyên nhân giải thích cho điều này. Và đến năm
2006 thì cả nguồn vốn huy động nội tệ và ngoại tệ đều tăng mạnh.
Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì nguồn vốn huy động từ các tổ chức là chiếm
tỷ trọng lớn (2004: 62,72%; 2005: 64,52%; 2006: 72,65%), lý giải cho điêu này là do các tổ
chức nắm giữ một lượng lớn các kì phiếu và trái phiếu huy động của ngân hàng.
Trong những năm tới ngân hàng cần chú trọng tăng mạnh nguồn vốn huy động từ
dân cư vì nguồn vốn này mang tính ổn định bền vững trong cơ cấu nguồn vốn.
Đạt được những thành tựu trên, ngân hàng đã thực hiện có hiệu quả các biện pháp
như: mở rộng mạng lưới huy động dân cư, đổi mới phong cách phục vụ với khách hàng,
chú trọng tiếp thị quảng cáo, chính sách tiền gửi với lãi suất cao, chú trọng tìm kiếm khách
hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu huy động có hiệu quả, chi nhánh cũng đã giao chỉ tiêu
và đôn đốc đối với từng đơn vị thực hiện công tác huy động vốn…
2.1.2.3 Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng, xác định
đúng nhiệm vụ đó chi nhánh đã luôn chú trọng hoạt động cho vay, hoạt động cho vay đã
không ngừng tăng lên qua các năm, một mặt chi nhánh vẫn giữ vững mối quan hệ với các
khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp thuộc khối xây lắp và giao thông và một mặt
chi nhánh đã mở rộng sản phẩm cho vay và đối tượng khách hàng và một trong những nhân
tố quan trọng thúc đẩy việc cho vay đó là công tác huy động vốn đã hoàn thành tốt nhiệm
vụ của mình để tạo điều kiện cho cho vay tăng trưởng. Thêm vào đó trong những năm vừa
qua ngân hàng đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác tín dụng, cải tiến qui trình tín dụng,
đổi mới phong cách làm việc của cán bộ công nhân viên đồng thời thực hiện chế độ “giao
dịch một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến vay vốn.
Tổng dư nợ (đã loại trừ nợ khoanh, cho vay uỷ thác) qua các năm đã không ngừng
tăng lên từ 2.873.970 trđ năm 2004 lên 3.388.219 trđ (2005) với tốc độ gia tăng là 17,89%
và đến năm 2006 là 3.597.134 trđ với tốc độ gia tăng là so với năm 2005 là 6,17%. Ở năm
2006 tốc độ gia tăng bị chậm lại, nguyên nhân là do: vào thời gian này thì các doanh
nghiệp xây lắp, giao thông – khách hàng chủ yếu của ngân hàng bước vào thời kì khó khăn
bản thân các công ty này cũng có tốc độ tăng trưởng chậm lại, thêm nữa có một số đổ bể về
tín dụng của hệ thống các ngân hàng do vậy thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, ngân hàng đã nâng cao hơn chất lượng tín dụng, rà soát một cách kĩ
càng hơn các doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn tuy vậy thì tổng dư nợ tín dụng của
ngân hàng vẫn tăng lên đã chứng tỏ một cố gắng lớn của ngân hàng.
Xem xét cơ cấu dư nợ qua bảng sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
STT Chỉ tiêu Dư (trđ) Tỷ lệ Dư (trđ) Tỷ lệ Dư (trđ) Tỷ lệ
(%) (%) (%)
Tổng dư nợ 2.873.970 100 3.388.219 100 3.597.134 100
I Cơ cấu theo thời gian
+ Dư nợ ngắn 2.045.871 71,2 2.527.792 74,6 2.856.539 79,4
hạn
+ Dư nợ trung, 828.099 28,8 860.427 25,4 740.595 20,6 dài hạn
II Cơ cấu theo đối tượng vay vốn
Dư nợ DN quốc 2.644.052 92 2.710.575 80 2.553.965 71 doanh
Dư nợ ngoài 229.918 8 677.644 20 1.043.169 29 quốc doanh
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội từ 2004 –2006
Nhìn từ bảng cơ cấu dư nợ, ta thấy sự chuyển dịch trong cơ cấu dư nợ là phù hợp
với sự phát triển của ngân hàng trong điều kiện mới. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng dần qua
các năm từ năm 2004 là 71,2% cho đến năm 2006 là 79,4%, điều này phù hợp với sự thay
đổi trong chính sách của ngân hàng, ngân hàng có chính sách là tăng tỷ trọng dư nợ ngắn
hạn trong tổng dư nợ giảm tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn (nhưng vẫn đảm bảo sự tăng
trưởng của dư nợ trung, dài hạn) vì các khoản cho vay ngắn hạn tiềm ẩn ít rủi ro hơn so với
cho vay trung, dài hạn. Đồng thời, thực hiện đúng chính sách thay đổi cơ cấu (chính sách
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam) tăng cường tỷ trọng cho vay với khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, và ngân hàng đã thu được những tín hiệu đáng mừng đó là tăng
tỷ trọng từ năm 2004 chỉ có 8% nhưng cho đến năm 2006 là 29%.
Đối với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ, nợ khoanh, chờ xử lí đã được giảm
đáng kể từ năm 2004 – 2006 chứng tỏ sự hoạt động hiệu quả trong công tác cho vay của
ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ: giảm từ năm 2004: 0,4%; 2005:0,36%; đến 2006
chỉ còn 0,32%. Nợ khoanh giảm từ năm 2004: 39.711 (trđ); 2005: 10.257 (trđ); 2006: 0
(trđ).
2.1.2.4 Các hoạt động khác
Công tác tự kiểm tra, kiểm toán nội bộ luôn được chi nhánh thực hiện tốt góp phần
chấn chỉnh và đảm bảo hoạt động của ngân hàng an toàn hiệu quả, tuân thủ theo đúng pháp
luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quá trình đổi mới.
Thực hiện mở rộng hệ thống mạng lưới ATM với số máy đang quản lí là 12 máy và
phát hành được 2.714 thẻ ATM.
Các hoạt động khác như hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thanh
toán quốc tế… đều thu được những kết quả khả quan. Những dịch vụ trên đem lại một phần
thu nhập trên tổng thu nhập của ngân hàng và bên cạnh đó nó đã giúp chi nhánh dần
chuyển thành một ngân hàng đa năng hiện đại.
2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thành phố Hà Nội
Khi nghiên cứu về thực trạng tín dụng trung, dài hạn ở Chi nhánh thì đối tượng
nghiên cứu, đánh giá chủ yếu là các hoạt động cho vay (được phản ánh qua chỉ tiêu dư nợ)
còn có một số hình thức tín dụng khác (so sánh với nội dung lý thuyết đã trình bày) chưa
được triển khai hay như đối với hoạt động cho thuê thì hiện tại Chi nhánh không thực hiện
do đặc thù của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có riêng một công ty
phục vụ cho thuê tài chính
2.2.1.1 Tình hình nguồn vốn cho vay trung, dài hạn
Công tác huy động vốn nói chung hay công tác huy động vốn trung, dài hạn nói
riêng luôn được coi trọng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội,
ngân hàng luôn nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của công tác huy động vốn là sự quyết định
tồn tại của ngân hàng, xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp lí sẽ là cơ sở để nâng cao
kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Tổng nguồn vốn huy động 4.044.022 4.688.034 6.931.151
- Nguồn ngắn hạn 2.709.495 3.047.222 4.366.625
- Tỷ trọng 67% 65% 63%
- Nguồn trung, dài hạn 1.334.527 1.640.812 2.564.526
- Tỷ trọng 33% 35% 37%
Nguồn: Báo cáo tổng hợp huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thành phố Hà Nội từ 2004 - 2006
Nhìn chung qua các năm nguồn vốn trung, dài hạn huy động được đều tăng trưởng ở
mức cao, năm 2005 tăng 306.285 trđ tăng 23% so với năm 2004 và năm 2006 tăng 923.714
trđ (tăng 56,3% so với năm 2005), đây cũng là một thành công lớn của ngân hàng bởi vì
trước điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay mà ngân hàng vẫn đảm
bảo được việc huy động vốn tăng trưởng như vậy. Như ta đã biết công tác huy động vốn là
công tác vô cùng quan trọng nếu ngân hàng không huy động được vốn thì lấy đâu ra nguồn
để phục vụ cho vay và các hoạt động khác. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh
trong việc cân đối giữa nguồn vốn trung, dài hạn và khả năng cung cấp tín dụng trung, dài
hạn, phát triển hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Theo dõi sơ đồ dưới đây ta có thể thấy
được sự tăng lên rõ rệt của lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm.
Biểu đồ 2.4: Lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm
Trđ
3000000
2564526
2500000
2000000
1640812
1334527
1500000
1000000
500000
0
2004
2006
2005
Năm
Nguồn: Báo cáo huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành
phố Hà Nội năm 2004 - 2006
Tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động như vậy là hợp lý
bởi vì nhu cầu vốn cho các hoạt động tín dụng ngắn hạn bao giờ cũng lớn hơn so với trung,
dài hạn và các ngân hàng hiện nay đều đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ngắn hạn lớn hơn
so với tăng trưởng tín dụng TDH
Khi xem xét chỉ tiêu khả năng cấp tín dụng TDH ta thấy chỉ tiêu này qua các năm
đều lớn hơn 1 (năm 2005 là: 1,9; năm 2006 là: 3,4). Điều này chứng tỏ nhu cầu vốn TDH
để phục vụ việc cho vay TDH ngân hàng luôn đáp ứng rất tốt. Tuy nhiên có một điểm lưu ý
là nguồn vốn huy động TDH của ngân hàng lớn hơn so với nhu cầu tín dụng trung, dài hạn.
Năm 2005: cho vay trung, dài hạn là 860.427 trđ ( vốn trung, dài hạn huy động được
là: 1.640.812 trđ).
Năm 2006: cho vay trung, dài hạn là 740.595 trđ (vốn trung, dài hạn huy động được
là: 2.564.526 trđ).
Tuy nhiên, ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn dôi ra này để thực hiện các hoạt động
đầu tư nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiện việc
điều chuyển nguồn vốn TDH cho các chi nhánh khác trong cùng hệ thống gặp khó khăn
trong công tác huy động vốn TDH và với nguồn vốn dồi dào như vậy đảm bảo cho khả
năng thanh khoản của ngân hàng.
2.2.1.2 Tình hình cho vay trung, dài hạn
Xem xét tình hình cho vay thông qua một số chỉ tiêu dư nợ tín dụng, cơ cấu dư nợ,
doanh số cho vay.
Bảng 2.5: Tình hình cho vay trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Chỉ tiêu
Tổng dư nợ tín dụng 2.873.970 3.388.219 3.597.134
Trong đó:
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn 828.099 860.427 740.595
Tỷ trọng (%) 28,8 25,4 20,6
* Cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo thành phần kinh tế
- Cho vay DNNN 799.116 817.226 677.644
- Cho vay ngoài quốc doanh 28.983 43.021 62.951
* Cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo loại tiền
- Cho vay VND 620.471 565.596 456.525
- Cho vay ngoại tệ 207.628 294.831 284.070
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 - 2006
Theo bảng trên ta có thể thấy tổng dư nợ tín dụng (chỉ tiêu tổng dư nợ đã được loại
trừ nợ khoanh và cho vay ủy thác) qua các năm liên tục tăng và ở mức tăng trưởng cao, từ
2.873.970 trđ năm 2004 lên 3.388.219 trđ (2005) với tốc độ gia tăng là 17,89% và đến năm
2006 là 3.597.134 trđ với tốc độ gia tăng là 6,17%. Bên cạnh đó, thì dư nợ trung dài hạn
không đạt được sự tăng trưởng liên tục, năm 2005 dư nợ trung, dài hạn tăng 32.328 trđ (tốc
độ gia tăng là 3,9%) nhưng sang năm 2006 chỉ tiêu này giảm 119.832 trđ (giảm 13,9%).
Như vậy, ta thấy năm 2006 thì tốc độ gia tăng dư nợ giảm, dư nợ trung dài hạn cũng giảm
mạnh có nhiều lý do giải thích cho điều này:
+ Sang năm 2006 rất nhiều các doanh nghiệp thuộc khối xây lắp giao thông (khách
hàng chủ yếu của ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ) làm ăn kém hiệu quả do
vậy ngân hàng rất khó khăn cho việc cấp vốn vì các khách hàng không đủ điều kiện đáp
ứng các yêu cầu của ngân hàng.
+ Trong thời gian này công tác thu nợ trung, dài hạn được thực hiện tốt, có nhiều dự
án được thu nợ mà các dự án mới thì chưa cho vay được tất yếu sẽ dẫn đến dư nợ trung, dài
hạn giảm.
+ Là do trong hoạt động cho vay hoạt động cho vay ngắn hạn có sự tăng trưởng
mạnh mẽ, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ liên tục tăng (năm 2004 là 71,2% đến
năm 2006 là 79,4%), tất yếu đẫn đến giảm tỷ trọng trọng của dư nợ trung, dài hạn trong
tổng dư nợ.
+ Và do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các NHTM trong cùng địa bàn, do
vậy việc phát triển hoạt động tín dụng gặp rất nhiều khó khăn.
Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn giảm qua các năm từ năm 2004 tỷ trọng là 28,8% đến
năm 2006 chỉ còn 20,6%, điều này cũng phù hợp với chính sách của ngân hàng, ngân hàng
có chính sách tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, giảm tỷ trọng cho vay trung, dài hạn (nhưng
vẫn đảm bảo sự tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn và không ngừng cao chất lượng cho vay
trung, dài hạn) bởi vì cho vay ngắn hạn tiềm ẩn ít rủi ro hơn so với trung, dài hạn. Tuy vậy,
trong năm 2006 dư nợ trung dài hạn giảm mạnh cũng chính là nguyên nhân dẫn tới tỷ trọng
dư nợ trung, dài hạn giảm chỉ còn 20,6%.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy đối tượng chủ yếu của ngân hàng trong cho vay trung,
dài hạn vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước (năm 2006 dư nợ của khối DNNN là
677.644trđ chiếm tỷ trọng là 91,5%), trong những năm vừa qua ngân hàng Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã chú trọng đến mở rộng đối tượng khách
hàng đối với khu vực ngoài quốc doanh va bước đầu có những kết quả khả quan dư nợ khối
ngoài quốc doanh và tỷ trọng trong tổng dư nợ liên tục tăng năm 2004 là 28.983 trđ chiếm
3,5 %; năm 2005 là 43.021 trđ chiếm 5%; năm 2006 là 62.951 trđ chiếm 8,5%. Tuy vậy
cho vay với khối ngoài quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ và hiện nay khối ngoài quốc
doanh phát triển rất mạnh mẽ đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển kinh tế, do vậy
Chi nhánh cần đẩy mạnh công tác mở rộng và tìm kiếm khách hàng đối với khối ngoài
quốc doanh.
Theo dõi sơ đồ dưới đây ta sẽ thấy được tương quan trong cơ cấu cho vay trung, dài
hạn đối với các DNNN và đối với khối ngoài quốc doanh.
Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng cơ cấu cho vay trung dài hạn theo thành phần kinh tế
Năm 2005
5%
Năm 2006
Năm 2004
3%
9%
95%
91%
Cho vay DNNN Cho vay ngoài quốc doanh
97 %
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 – 2006
Qua nghiên cứu, phân tích với chỉ tiêu doanh số cho vay và thu nhập từ lãi cho vay
trung, dài hạn ta cũng thấy sự phù hợp với những phân tích ở trên:
Bảng 2.7: Doanh số cho vay trung, dài hạn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Doanh số cho vay trung, dài hạn 368.173 387.192 325.862
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 - 2006
Bảng 2.8: Thu nhập từ lãi của hoạt động cho vay
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Thu nhập từ lãi cho vay 275.941 368.588 378.019
Trong đó:
Thu nhập từ lãi cho vay TDH 98.712 112.156 89.472
Thu nhập từ lãi cho vay ngắn hạn 177.229 256.432 288.547
TN từ lãi cho vay TDH/ TN lãi cho vay 0,36 0,3 0,24
Nguồn: Báo cáo tình hình thu nhập lãi cho vay Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Thành phố Hà Nội năm 2004 – 2006
Năm 2005, doanh số cho vay tăng 19.019 trđ tăng 5,17% và thu nhập từ lãi cho vay
TDH tăng 13.444 trđ nhưng đến năm 2006 doanh số cho vay giảm 61.330 trđ giảm 15,84%
và thu nhập từ lãi cho vay TDH giảm 22.684 trđ. Vì sang năm 2006 ngân hàng gặp khó
khăn trong việc tìm ra những phương án khả thi để cho vay.
2.2.1.3 Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu cho vay trung, dài hạn
Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác, trong hoạt động kinh doanh của
mình cụ thể ở đây là hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro do không thể thu hồi
được nợ. Vấn đề này được biểu hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau nợ quá hạn, nợ xấu.
- Nợ quá hạn cho vay trung, dài hạn
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn trung, dài hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
trung, dài hạn trong tổng dư nợ trung, dài hạn là một trong các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
tín dụng trung, dài hạn.
Trong những năm qua, với sự cố gắng nỗ lực của ngân hàng nợ quá hạn đã được hạn
chế phát sinh đến mức thấp nhất (tỷ lệ nợ quá hạn luôn <1%).
Bảng 2.9: Nợ quá hạn trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, dài hạn
Đơn vị: triệu đ
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Tổng dư nợ trung, dài hạn 828.099 100 860.427 100 740.595 100
Nợ quá hạn trung, dài hạn 5.962 0,72 5.592 0,65 3.851 0,52
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 - 2006
Nhìn vào bảng trên ta thấy trong những năm vừa qua thì nhìn chung tình hình nợ
quá hạn trung, dài hạn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội là
ở mức thấp và giảm đáng kể trong những năm vừa qua (giảm về lượng tuyệt đối và giảm cả
về tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ trung, dài hạn) năm 2004 là 5.962 trđ, chiếm 0,72%
đến năm 2005 còn 5.592 trđ (giảm 6,2% so với năm 2004), chiếm tỷ lệ 0,65% và cho đến
năm 2006 chỉ còn 3.851 trđ (giảm 31,1% so với năm 2005), chiếm tỷ lệ 0,52% trong tổng
dư nợ trung, dài hạn. Và nếu đem so sánh chỉ tiêu này của chi nhánh với chỉ tiêu trung bình
của toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (tỷ lệ nợ quá hạn TDH/ tổng dư nợ TDH
trung bình của cả hệ thống năm 2006 là 1,88%). Đây là một trong những thành công lớn
của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Theo dõi biểu đồ dưới đây, ta có thể thấy tình hình nợ quá hạn trung, dài hạn của
Chi nhánh giảm qua các năm 2004, 2005, 2006.
Biểu đồ 2.10: Nợ quá hạn trung, dài hạn qua các năm
5962
5592
Triệu đồng
3851
6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
2004
2005
2006 Năm
Nợ quá hạn trung dài hạn
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 – 2006
- Tình hình nợ xấu trung, dài hạn:
Ngoài chỉ tiêu nợ quá hạn để xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn,
thì chỉ tiêu nợ xấu trung, dài hạn và tỷ lệ nợ xấu trung, dài hạn trên tổng dư nợ trung, dài
hạn cũng là một chỉ tiêu quan trọng. Việc xác định nợ xấu trong năm 2004, 2005, 2006 vẫn
được thực hiện theo điều 6 của QĐ 493 còn trong năm 2007 và những năm tiếp theo ngân
hàng sẽ xác định theo điều 7 của quyết định này.
Bảng 2.11: Nợ xấu trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, dài hạn
Đơn vị: triệu đ
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Chỉ tiêu
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Tổng dư nợ trung, dài hạn (tính cả 867.810 100 870.864 100 740.595 100
nợ khoanh)
Nợ xấu trung, dài hạn 45.560 5,25 26.997 3,1 8.887 1,2
Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội năm 2004 - 2006
Xem xét tình hình nợ xấu ta thấy phù hợp với những phân tích về tình hình nợ quá
hạn. Năm 2004: nợ xấu trung, dài hạn là 45.560 trđ chiếm 5,25% đến năm 2005 còn là
26.977 trđ chiếm 3,1% và đến năm 2006 chỉ còn là 8.877 trđ chiếm 1,2 % tổng dư nợ trung,
dài hạn. Nhìn chung tình hình nợ xấu trung, dài hạn của ngân hàng là chấp nhận được.
Nguyên nhân của tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trung, dài hạn thấp:
+ Là do Chi nhánh đã chủ động tìm hiểu, đánh giá hiệu quả của dự án. Các dự án
hiệu quả thì sẽ không gây phát sinh nợ quá hạn cho ngân hàng. Mặt khác cũng do cơ chế
chính sách của Nhà nước ngày càng tạo thêm sự tự chủ cho ngân hàng, Chi nhánh có thể từ
chối các dự án nằm trong kế hoạch của Nhà nước nếu ngân hàng xét thấy là không hiệu
quả.
+ Trong thời gian qua hiệu lực quản lý và kỷ cương điều hành trong hoạt động tín
dụng được tăng cường. Thực hiện đúng qui chế, qui trình nghiệp vụ, uỷ quyền, phán quyết
và các giới hạn cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao.
+ Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, đồng thời còn kết
hợp với các đoàn thanh, kiểm tra trong và ngoài ngành phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ
này. Đồng thời, trong những năm vừa qua, Chi nhánh tập trung đẩy mạnh công tác thu hồi
nợ quá hạn, nợ xấu rà soát lại các hồ sơ pháp lý cho đến qui trình cho vay để giảm phát
sinh nợ quá hạn, nợ xấu.
Tuy vậy tốc độ xử lý nợ quá hạn, nợ xấu trung, dài hạn còn khá chậm đó là do: có
một số khoản nợ từ thời kỳ trước để lại cho vay dưới hình thức tín chấp hoặc việc phát mại
tài sản gặp rất nhiều khó khăn vì phải liên quan tới nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Và
Chi nhánh cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng
với ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ xấu.
2.2.2 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội
2.2.2.1 Kết quả đạt được
Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài
hạn nói riêng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã có sự
điều chỉnh căn bản từ nhận thức đến hành động, chuyển mạnh từ bao cấp sang cơ chế thị
trường với mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng, tăng mức độ an toàn và hiệu quả gắn
liền với chủ động kiểm soát gia tăng tín dụng trên cơ sở tăng cường kiểm tra, đánh giá phân
tích thực trạng khoản vay. Tích cực tìm kiếm khách hàng mới để từng bước thực hiện cơ
cấu lại khách hàng theo hướng đa dạng hoá khách hàng, chú trọng vào các lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn, ngành sản xuất hàng xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay hỗ trợ sản xuất, kinh
doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tăng
cường công tác đánh giá, phân loại khách hàng đặc biệt đã xây dựng thành công hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ để có chính sách khách hàng phù hợp kết hợp với chính sách phát
triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu hợp lý của khách hàng góp
phân tích cực phục vụ đầu tư phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai
đoạn hội nhập.
Những kết quả đạt được của hoạt động tín dụng trung, dài hạn:
Một là, Ngân hàng cũng luôn chú trọng tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn nhưng ở
năm 2006 ngân hàng gặp khó khăn trong tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn do các nguyên
nhân đã nói ở trên nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các lĩnh vực xây lắp giao thông
(khách hàng truyền thống của ngân hàng) hoạt động không hiệu quả. Tuy vậy, dư nợ vẫn
đạt là 740.595 trđ (2006), đây cũng là một sự cố gắng lớn của ngân hàng.
Hai là, nhìn chung cơ cấu dư nợ trung, dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng là phù hợp
với chính sách phát triển của Chi nhánh cũng như trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam.
Ba là, đi đôi với tăng trưởng tín dụng, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thành phố Hà Nội luôn luôn quan tâm chú trọng an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín
dụng, thường xuyên thực hiện rà soát và hoàn thiện lại thủ tục hồ sơ pháp lý của các khoản
vay. Bổ sung các hình thức bảo đảm tiền vay, giảm dần dư nợ xuống mức có thể kiểm soát
được rủi ro đối với những khách hàng có biểu hiện tài chính không lành mạnh sản xuất
kinh doanh không hiệu quả.
Bốn là, việc hoàn thiện qui trình nghiệp vụ tín dụng, chất lượng tín dụng trung, dài
hạn cũng được nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn có xu hướng giảm năm 2004 là
0,72%, năm 2005 là 0,65%, năm 2006 là 0,52%.
Như vậy trong thời gian qua hoạt động tín dụng thương mại nói chung và hoạt động
tín dụng trung, dài hạn nói riêng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố
Hà Nội đã có sự phát triển cả về chất và lượng. Trước yêu cầu hội nhập và phát triển , theo
mục tiêu kinh doanh: chất lượng, an toàn, hiệu quả và phát triển, nghiệp vụ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã và đang khẳng định vị trí và
vai trò vô cùng quan trọng trong thời kì mới. Nó là một trong những yếu tố quyết định kết
quả kinh doanh của Chi nhánh, góp phần khẳng định Chi nhánh Hà Nội là một chi nhánh
bán buôn lớn trong khối các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội, khẳng định vai trò đầu
tàu trong toàn hệ thống BIDV.
2.2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
Trong những năm vừa qua, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng
trung, dài hạn nói riêng đã có những kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó hoạt động tín
dụng trung, dài hạn vẫn còn những mặt hạn chế.
- Trong những năm vừa qua, tăng trưởng dư nợ tín dụng trung, dài hạn không được
đảm bảo. Năm 2005 dư nợ trung, dài hạn là 860.427 trđ tăng lên 32.328 trđ tăng 3,9%
nhưng cho đến năm 2006 thì dư nợ chỉ còn 740.595 trđ (giảm 119.832 trđ, giảm 13,9%).
- Cơ cấu cho vay trung, dài hạn vẫn chủ yếu tập trung vào đối tượng quốc doanh,
việc phát triển cho vay tiêu dùng và các loại hình khác rất chậm chạp.
- Đối với cho vay trung, dài hạn ngân hàng vẫn áp dụng một mức lãi suất trung, dài
hạn cho mọi đối tượng, vẫn chưa triển khai được việc áp dụng nhiều mức lãi suất. Ngân
hàng cần nhanh chóng triển khai áp dụng nhiều mức lãi suất cho các đối tượng khác nhau,
ví dụ: đối với các khách hàng lâu năm truyền thống có uy tín thì sẽ áp dụng mức lãi suất
cho vay thấp hơn chính điều này góp phần tăng sự gắn bó giữa khách hàng và ngân hàng và
thu hút được nhiều khách hàng.
Lãi suất cho vay trung, dài hạn hiện nay là (chỉ mang tính tham khảo):
Lãi suất cho vay 6 tháng đầu là: 0,96% / tháng.
Lãi suất các kỳ tiếp theo thả nổi, 6 tháng điều chỉnh một lần = Lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ
hạn 12 tháng bình quân của các NHTM quốc doanh trên địa bàn + phí 3,2% / năm, nhưng
không thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn ở thời điểm điều chỉnh lãi suất.
- Ngân hàng chưa tích cực trong việc tìm kiếm các khách hàng mới, các dự án khả
thi để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn, chủ yếu ngân hàng vẫn dựa vào việc các
khách hàng tự tìm đến ngân hàng (nhờ uy tín của ngân hàng từ xưa), điều này cần được
sớm khắc phục trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
- Chất lượng thẩm định tín dụng còn thấp do nhiều yếu tố: cơ chế thu thập thông tin,
trình độ, sự quá tải của cán bộ tín dụng, trang thiết bị phục vụ còn yếu… những yếu tố này
sẽ được đề cập đến ở phần sau.
- Nợ quá hạn nhỏ nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do còn nhiều khoản nợ từ những
năm trước để lại không thể thu hồi được (một số khoản dưới hình thức cho vay tín chấp),
và nhiều khoản nợ sẽ phải tiến hành xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ nhưng việc thực hiện
phát mại tài sản gặp rất nhiều khó khăn.
b) Nguyên nhân
Có hai nhóm nguyên nhân: nhóm nguyên nhân khách quan (môi trường kinh tế,
nguyên nhân về phía khách hàng) và những nguyên nhân thuộc về phía chủ quan ngân
hàng.
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, là nguyên nhân từ môi trường kinh tế:
Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới do vậy còn nhiều
vấn đề bất cập, các chính sách cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước còn đang trong quá trình
điều chỉnh đổi mới, nhiều vấn đề chưa được hoàn thiện. Đối với môi trường cho các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp: trong những năm gần đây Nhà nước đã có nhiều các chính sách
ưu đãi, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng vẫn còn nhiều mặt chưa
khắc phục được như cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường xá, cầu cống…) chưa đáp ứng được,
các thủ tục đầu tư còn phải qua rất nhiều khâu… Mà các nhà đầu tư lại chính là khách hàng
của ngân hàng vì họ là những người thiếu vốn để thực hiện các dự án đầu tư, do đó ảnh
hưởng đến việc mở rộng phát triển qui mô tín dụng của ngân hàng. Và ngay trong cả môi
trường hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng còn thiếu nhiều yếu tố như: hệ thống văn
bản pháp luật của Nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ thậm chí có khi
còn chồng chéo, các NHTM Nhà nước vẫn còn phải thực hiện các khoản vay theo chỉ thị
của Chính phủ mà rất nhiều dự án trong số đó không hiệu quả dẫn đến chất lượng tín dụng
không cao (trên bảng cân đối của ngân hàng vẫn tồn tại chỉ tiêu nợ khoanh, chờ xử lý, đối
với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì đến cuối năm 2005
nợ khoanh vẫn còn là: 10.257 trđ).
Thứ hai, là những nguyên nhân từ phía khách hàng:
Đó là do các khách hàng không đáp ứng đủ các điều kiện của ngân hàng khi vay
vốn. Rất nhiều các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng vay vốn nhưng tiềm lực tài chính yếu
nhiều năm làm ăn thua lỗ, phương án đầu tư xa vời thiếu tính khả thi, không tính tới nguồn
tiêu thụ sản phẩm, không tính tới sự thay đổi trong giá cả của các yếu tố đầu vào thậm chí
có một số doanh nghiệp trình bày phương án sau khi thẩm tra kỹ càng ngân hàng phát hiện
ra là doanh nghiệp định thực hiện dự án chỉ với mục đích là có việc làm cho xí nghiệp còn
thực sự dự án có hiệu quả ra sao họ cũng chưa tính đến, nhiều doanh nghiệp còn không đáp
ứng đủ các yêu cầu về tải sản đảm bảo. Chính vì vậy, rất nhiều các hồ sơ xin vay vốn
nhưng đã bị trả lại. Điều này đặt ra vấn đề thực tế là ngân hàng rất khó khăn trong việc tìm
ra các dự án khả thi để đầu tư vốn, mở rộng qui mô tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín
dụng.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện dự án sau khi vay vốn thì
không phải bất cứ doanh nghiệp nào đều hoạt động có hiệu quả. Có nhiều doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về thời tiết (bão, lũ lụt…), diễn biến bất ngờ của thị trường
(ví dụ: sự thay đổi đột ngột của giá các nguyên liệu đầu vào, giá của sản phẩm sản xuất
ra…) đã làm cho dự án của doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả dẫn đến tình trạng
khách hàng không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn thậm chí mất khả năng trả nợ. Trong
nhiều trường hợp ngân hàng đã phải dùng đến biện pháp xử lý: phát mại tài sản, kiện ra toà
án… Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng của tín dụng nói chung và tín dụng
trung, dài hạn nói riêng.
Một số doanh nghiệp còn làm ăn thiếu trung thực: sử dụng vốn ngân hàng sai mục
đích, cung cấp thông tin cho ngân hàng không đúng sự thật… thậm chí có một số trường
hợp còn thực hiện hành vi lừa đảo, tất cả những điều trên đã ảnh hưởng tới việc mở rộng
tín dụng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
* Nguyên nhân chủ quan: thuộc về phía ngân hàng
- Sự nghèo nàn trong các hình thức tín dụng trung, dài hạn chủ yếu ngân hàng vẫn
thực hiện là cho vay dự án đối với các doanh nghiệp còn hình thức cho vay tiêu dùng và
các hình thức khác phát triển rất chậm chạp. Mỗi loại hình cho vay đều có những đặc điểm
và thế mạnh riêng, do đó việc áp dụng chủ yếu một hình thức cho vay sẽ khiến cho khả
năng đáp ứng nhu cầu với khách hàng bị hạn chế, gây khó khăn cho việc mở rộng tín dụng,
khó khăn cho việc tìm kiếm các dự án khả thi, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung,
dài hạn.
- Hiện nay, khách hàng của ngân hàng vẫn chủ yếu tập trung vào đối tượng là các
doanh nghiệp Nhà nước, tỷ lệ cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất nhỏ,
hoạt động cho vay trung, dài hạn cũng vậy. Ngân hàng vẫn còn thụ động trong việc tìm các
khách hàng mới nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động Marketing của ngân
hàng không phát huy được khả năng của mình.
- Việc mở rộng tín dụng trong những năm trước chưa đi liền với sự quản lý, kiểm
soát của ngân hàng, có nhiều khoản cho vay tín chấp từ thời kì trước, khách hàng không trả
được nợ đã dẫn đến nợ quá hạn tồn đọng lại.
- Khả năng khai thác thông tin của ngân hàng còn hạn chế, các thông tin chủ yếu là
do các doanh nghiệp cung cấp, sự phối hợp với các đối tượng cung cấp thông tin còn yếu,
hay như ngân hàng cũng chưa có cơ chế chi cho cán bộ tín dụng để mua những thông tin có
chất lượng về khách hàng. Chính vì vậy có rất nhiều các thông tin mà cán bộ tín dụng
không thể thu thập đủ như: các thông tin liên quan đến hệ thống tổ chức quản lý, năng lực
chuyên môn, quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp, uy tín
của doanh nghiệp…
- Công việc thẩm định tín dụng cũng còn rất nhiều các vướng mắc, các dự án của
ngân hàng chủ yếu là về kỹ thuật với các thông số kỹ thuật của rất nhiều ngành: giao thông,
xây dựng cơ bản, các ngành công nghiệp. Mà các cán bộ tín dụng, thẩm định lại chủ yếu từ
khối kinh tế ra cho nên có sự hiểu biết hạn chế về các yếu tố kỹ thuật và việc phối hợp với
các cơ quan chuyên môn để cùng tiến hành thẩm định thì cũng chưa làm được. Do vậy, các
cán bộ tín dụng sẽ tiến hành tính toán, đánh giá dựa trên các số liệu do khách hàng cung
cấp và một số dữ liệu thông tin tự thu thập được. Chính vì vậy, việc thẩm định về phương
diện kỹ thuật, thị trường của dự án không được đúng đắn đặc biệt là đối với các dự án
trung, dài hạn. Chính vì vậy dẫn đến một số dự án của doanh nghiệp hoạt động không hiệu
quả, không trả được nợ ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
- Hiện nay tại chi nhánh có tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, như thực tế tại
phòng tín dụng 1 số lượng cán bộ tín dụng chỉ có 11 người nhưng phải thực hiện một khối
lượng công việc rất lớn từ việc thẩm định tiến hành cho vay, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh,
đánh giá, đăng ký tài sản đảm bảo theo dõi giám sát khách hàng, tư vấn cho khách hàng
cho đến các việc thu nợ, đòi nợ, việc phát mại tài sản, làm các thủ tục khởi kiện ra toà đối
với rất nhiều khách hàng từ nhiều ngành nghề khác nhau. Chính vì vậy việc nâng cao chất
lượng tín dụng gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ tuy có trình độ
nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn, các trang thiết bị phục vụ cho công tác của cán bộ tín
dụng còn thiếu ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Trên đây là thực trạng tình hình hoạt động trung, dài hạn của Chi nhánh, trong
những năm vừa qua Chi nhánh đã thu được những kết quả khả quan nhưng bên cạnh đó
còn những hạn chế phải khắc phục do nhiều nguyên nhân. Do đó để nâng cao chất lượng
tín dụng trung, dài hạn thì ngân hàng cần phải có những giải pháp để khắc phục những hạn
chế trên.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI
HẠN
3.1.1 Định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngày 11/1/2007 tại Hà Nội, Hội nghị
triển khai nhiệm vụ ngân hàng 2007, dựa trên những kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2006
và những yếu kém tồn tại trong hoạt động ngân hàng,Thủ tướng Chính phủ yêu cầu hệ
thống các ngân hàng thương mại phải nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát rủi ro, phát
triển dịch vụ mới và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nhằm tăng nguồn vốn
(theo định hướng năm 2007 cổ phần hoá 4 ngân hàng quốc doanh đó là: VCB, MHB, ICB,
BIDV và 2008: AGRIBANK).
Định hướng của NHNN đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng
trung, dài hạn nói riêng:
- Hoạt động tín dụng (đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn) phát triển để đáp
ứng các nhu cầu về vốn của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo an toàn, hiệu quả, nâng cao
chất lượng tín dụng. NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại chú trọng đến các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. Không để nợ xấu gia tăng (cần chú trọng
vào tín dụng trung, dài hạn vì hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể dẫn đến phát sinh
nợ xấu). Các tổ chức tín dụng phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát chấp hành đúng những
thủ tục, nguyên tắc, nâng cao chất lượng thẩm định, chất lượng thông tin trong công tác
cho vay, bảo lãnh để giảm thiểu đến mức tối đa những rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng.
- Xử lí nhanh các khoản nợ tồn đọng từ thời trước để lại. Phối hợp mạnh mẽ hơn với
các bộ ngành có liên quan đẩy nhanh xử lí các khoản nợ tồn đọng tạo bước chuyển biến
trong 2 năm 2007, 2008.
- Các tổ chức tín dụng cần phát huy hơn nữa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
hoạt động tín dụng, chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vay vốn,
tiếp tục cải cách lề lối làm việc, thủ tục đơn giản nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ qui trình, và
sự an toàn cho hoạt động tín dụng.
- Đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng tin học vào hoạt động của ngân hàng, sắp xếp lại
tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng cho những yêu cầu đổi mới
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng của ngân hàng trong điều
kiện hội nhập quốc tế.
3.1.2 Định hướng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội
Quán triệt chủ trương định hướng của NHNN, của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, đối với hoạt động tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã
có những định hướng cho những năm tới, trước mắt là những kế hoạch cho năm 2007 như
sau:
- Dư nợ cho vay tăng 15 – 18% so với năm 2006 (đảm bảo <= 18% mức khuyến cáo
tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đưa ra).
- Tỷ trọng nợ quá hạn/ tổng dư nợ < 1% (chỉ tiêu này đưa ra thấp hơn so với chỉ tiêu
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đưa ra là tỉ lệ nợ quá hạn, tỉ lệ nợ xấu đưa ra
là <= 5%).
- Tăng trưởng dư bảo lãnh vào khoảng 40%.
- Tỷ lệ giảm dư lãi treo là 10%
- Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đảm bảo <= 30%.
- Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh >= 35% (phấn đấu đến năm 2010 là >= 45%).
- Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo là > 65% (phấn đấu đến năm 2010 là > 70%).
Được cụ thể hoá thành những chương trình cụ thể:
- Tăng cường hiệu lực quản lí và kỷ cương điều hành trong hoạt động tín dụng.
Thực hiện đúng qui chế, qui trình nghiệp vụ, uỷ quyền, phán quyết và các giới hạn, cơ cấu
tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao.
- Tăng trưởng tín dụng phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng. Tuy mức tăng trưởng có đề ra là như vậy nhưng ngân hàng luôn xác định
không phải là sự tăng trưởng bằng mọi giá mà sự tăng trưởng luôn gắn với bền vững, nâng
cao chất lượng tín dụng. Ta cũng phải hiểu thêm về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Thành phố Hà Nội đó là đặc thù là cho vay đầu tư phát triển chủ yếu 2 lĩnh vực giao
thông và xây lắp và như chúng ta đã biết việc cho vay xây lắp gặp khó khăn rất nhiều
doanh nghiệp xây lắp làm ăn không hiệu quả, còn ở lĩnh vực giao thông thì trong vài năm
trở lại đây tình hình cũng không mấy khả quan. Ưu tiên cho vay các ngành kinh tế có thế
mạnh đảm bảo được đầu ra và đánh giá là ít rủi ro: thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, hạ tầng
giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng không… quán triệt lộ trình
giảm cho vay dư nợ trong lĩnh vực cho vay xây lắp.
- Nâng cao tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản, tuân thủ luật pháp và đạt hiệu
quả kinh doanh tín dụng, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu khách hàng, mở rộng được khách
hàng thuộc ngành kinh tế ưu tiên hướng mạnh vào các khách hàng là doanh nghiệp vừa và
nhỏ (chỉ tiêu 2010: là 60%) thu hút khách hàng có năng lực tài chính, trình độ kinh doanh
đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tạo bứt phá trong tín dụng bán lẻ thông qua mở rộng qui mô
khách hàng là tư nhân cá thể…
- Giảm tỷ lệ nợ quá hạn, xử lí dứt khoát các khoản nợ quá hạn, nợ xấu từ thới kì
trước để lại, những khoản phát sinh trong năm 2006.
- Áp dụng phương pháp chấm điểm doanh nghiệp mới, có thể nói hệ thống các ngân
hàng Đầu tư và Phát triển có thể nói là đi đầu trong các NHTM ở Việt Nam (thẩm định
được cả các chỉ tiêu phi tài chính).
- Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
định doanh nghiệp, dự án đầu tư của các cán bộ tín dụng trước nhu cầu mới. Đồng thời
tăng cường các cán bộ trẻ có năng lực có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, điều
chuyển luân chuyển cán bộ một cách hợp lí để ngày một phù hợp với các yêu cầu của hợp
đồng tín dụng.
- Xây dựng văn hoá tín dụng, nâng cao đạo đức trong kinh doanh tín dụng để đảm
bảo cho hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn.
Đối với riêng hoạt động tín dụng trung, dài hạn Chi nhánh đã có những định hướng
sau:
- Chi nhánh quán triệt chỉ thị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là giảm
tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn trong tổng dư nợ đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng trung,
dài hạn vì đây là lĩnh vực có nhiều rủi ro và đặc biệt là đối tượng cho vay của ngân hàng là
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây lắp, giao thông như trên đã nói các đối tượng này hiện
nay tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi vì các NHTM hiện nay đều có xu hướng tăng tỷ trọng thu
nhập từ các hoạt động dịch vụ (lĩnh vực ít rủi ro) so với hoạt động tín dụng, còn riêng hoạt
động tín dụng thì các NHTM có xu hướng tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng ngắn hạn,
bảo lãnh so với hoạt dộng tín dụng trung, dài hạn.
- Gắn cho vay trung, dài hạn với nguồn vốn dài hạn. Tích cực huy động vốn trung,
dài hạn phục vụ cho các dự án.
- Phát huy thế mạnh của ngân hàng trong lĩnh vực đầu tư phát triển, đồng thời phải
chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để các nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài
hạn. Ưu tiên cho vay các ngành kinh tế có thế mạnh đảm bảo được đầu ra và đánh giá là ít
rủi ro: thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, hạ tầng giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt,
cảng biển, hàng không…
- Thực hiện việc đôn đốc xét duyệt giải ngân các dự án đã có kế hoạch từ năm trước,
đồng thời thực hiện đồng tài trợ các dự án lớn đối với các dự án có hiệu quả.
- Quán triệt giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu. Xử lí dứt điểm các khoản nợ tồn đọng từ
thời kì trước để lại (nhiều khoản nợ từ thòi kì trước cho vay dưới hình thức tín chấp, hay
nhiều khoản nợ có tài sản đảm bảo tuy vậy việc phát mại tài sản này gặp rất nhiều khó khăn
hoặc không phát mại được).
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Qua phân tích tình hình thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, ta thấy tình hình tín dụng trung, dài hạn trong
những năm vừa qua đã thu được những kết quả khả quan tuy vậy bên cạnh đó cũng còn
những mặt hạn chế cần phải khắc phục. Trong những năm tiếp theo, cùng với quá trình
phát triển đất nước bên cạnh sự đang phát triển của thị trường vốn thì kênh tín dụng ngân
hàng vẫn là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Do vậy,
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần phải nâng cao hơn nữa
chất lượng tín dụng trung, dài hạn, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:
3.2.1 Giải pháp huy động vốn cho vay trung, dài hạn
Như đã phân tích ở trên về tình hình huy động vốn cho vay trung, dài hạn ta thấy
trong những năm vừa qua công tác huy động vốn của Chi nhánh được thực hiện tốt. Huy
động vốn nói chung và huy động vốn trung, dài hạn nói riêng luôn đạt sự tăng trưởng cao
không những đáp ứng đủ nhu cầu mà còn thực hiện việc điều chuyển vốn cho các Chi
nhánh khác trong cùng hệ thống mà gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Tuy vậy, trong
những năm tiếp theo, việc huy động vốn sẽ ngày càng khó khăn hơn trước sự cạnh tranh
khốc liệt của ngân hàng cổ phần trong nước và các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước
ngoài trong tiến trình hội nhập của nước ta và hiện nay ta có thể thấy có tình trạng người
dân, và nhiều công ty không mấy mặn mà gì với việc gửi tiền vào ngân hàng hay mua kỳ
phiếu, trái phiếu thay vào đó là họ đầu tư vào thị trường chứng khoán với một hi vọng kiếm
lời cao. Do vậy, để có thể chủ động hơn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn, Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần áp dụng những giải pháp
sau:
- Mở rộng mạng lưới huy động vốn thông qua việc mở thêm các phòng giao dịch,
các điểm giao dịch mới tại những địa điểm mà hiện nay ngân hàng chưa thực hiện được.
- Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để đáp ứng nhu cầu của
người dân cũng như gia tăng được nguồn vốn huy động cho ngân hàng. Bên cạnh những
hình thức huy động vốn truyền thống có thể triển khai một số hình thức sau: phát triển thẻ
ATM có thể chuyển đổi sang các hình thức tiết kiệm khác, đổi mới việc phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu có thời hạn dài bằng cách xây dựng một lãi suất hợp lý linh hoạt thay đổi
theo sự biến động của thị trường, có thể triển khai việc nhận trả tiền tiết kiệm tại nhà…
- Luôn có những chính sách ưu đãi với những khách hàng thường xuyên có số dư
tiền gửi lớn, thời hạn dài vào ngân hàng (ví dụ như những ưu đãi về lãi suất, ưu đãi khác
như khi các công ty đó thực hiện chuyển tiền, xin bảo lãnh thì sẽ chịu những mức phí thấp
hơn…), đồng thời chú trọng đối với những khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn như các
công ty bảo hiểm, dầu khí, tài chính, và một số tổng công ty lớn…
- Luôn chú trọng công tác Marketing ngân hàng trong lĩnh vực huy động vốn (như
quảng cáo, khuyến mãi, Marketing trực tiếp…).
- Chú trọng tới công tác phục vụ khách hàng, xây dựng một đội ngũ nhân viên giỏi
chuyên môn, có tinh thần phục vụ cao, nhiệt huyết với công việc. Chính những yếu tố đó
tạo ra sự thoải mái, tin tưởng, an tâm khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng và ngày càng thu
hút được nhiều khách hàng mới.
3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Khách hàng đến vay vốn ở ngân hàng thông thường sẽ phải trình bày các phương án
kinh doanh, đầu tư của họ. Sau đó ngân hàng sẽ tiến hành thu thập thông tin về khách hàng
trên nhiều mặt (thông tin về năng lực pháp lý, năng lực điều hành, quản lý sản xuất kinh
doanh của khách hàng, năng lực tài chính và các thông tin xoay quanh phương án kinh
doanh, dự án của khách hàng) tiếp đó các cán bộ tín dụng (có thể kết hợp cùng cán bộ thẩm
định) tiến hành thẩm định về khách hàng và dự án, phương án kinh doanh của họ. Nếu hồ
sơ của khách hàng đáp ứng được những điều kiện của ngân hàng, có khả năng trả nợ cho
ngân hàng thì ngân hàng sẽ quyết định cho khách hàng vay.
Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng:
Thứ nhất, là phải nâng cao chất lượng thông tin. Thông tin chính là cơ sở để cán bộ
thẩm định tiến hành các bước phân tích đánh giá một dự án. Việc thu thập, xử lý và quản lý
thông tin cần đầy đủ càng chính xác thì quyết định cho vay càng hiệu quả, hạn chế rủi ro
gây tổn thất cho ngân hàng. Thông tin tín dụng có thể lấy được từ các nguồn sau:
- Phỏng vấn trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: thăm quan
công ty, nhà xưởng, nói chuyện giám đốc và người lao động, xem xét cơ sở vật chất, vật
thế chấp… phỏng vấn trực tiếp giúp ngân hàng xác định được những gì đang diễn ra ở
doanh nghiệp, loại trừ phần nào những khách hàng không trung thực.
- Mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, bạn
hàng chủ nợ của người vay, qua các trung tâm thông tin, tư vấn…), thông qua đó thấy được
mối liên hệ của khách hàng với các trung gian trên, thấy được phần nào thình trạng phát
triển hay suy thoái của người vay. Kênh thu thập thông tin này khách quan hơn so với kênh
trực tiếp.
- Thông qua các báo cáo của người vay (báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, bán
hàng…), bản dự án, phương án kinh doanh của người vay. Dựa trên các báo cáo này và
phương án kinh doanh của người vay, ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả của
phương án kinh doanh, tình hình của người vay trên cơ sở đó ước tính nhu cầu vốn, trong
đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời, trả nợ, giá trị các tài sản thế chấp…
Thực tế việc thu thập thông tin tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành
phố Hà Nội chủ yếu dựa trên những số liệu mà người vay cung cấp, thông tin qua tiếp xúc
trực tiếp, thông tin trong quá khứ của khách hàng (uy tín người vay, dư nợ, tình hình trả nợ
của khách hàng…) còn việc mua hay tìm kiếm thông tin qua các trung gian còn rất hạn chế.
Để nâng cao chất lượng thông tin ngân hàng cần phải:
- Cần có cơ chế chi cho cán bộ tín dụng để thu thập thông tin, bởi vì có rất nhiều
thông tin hữu ích phải mua thông qua các trung gian.
- Cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng, các cơ quan quản lý, hiệp
hội ngành nghề, các đầu mối cung cấp thông tin có liên quan đến lĩnh vực của ngân hàng
như: Tổng cục thống kê, Tổng cục thuế, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch - Đầu tư, NHNN, các
ngân hàng thương mại khác, trung tâm thông tin CIC…
Thứ hai, là trong công tác thẩm định tín dụng thì phải luôn bám sát và thực hiện
đúng theo qui trình tín dụng của ngân hàng, vì nếu bỏ qua một bước nào hay thực hiện
không đúng theo qui trình thì có thể dẫn đến chất lượng khoản tín dụng không cao. Trong
công tác thẩm định các cán bộ tín dụng cần phải tuân thủ các bước sau:
- Thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng như: quyết định thành lập, đăng ký
kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng, người quản lý tài chính, ai là
người đại diện pháp nhân…
- Thẩm định về năng lực hoạt động và uy tín của khách hàng.
Kiểm tra về sự phù hợp của ngành nghề trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề
kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, với dự án dự kiến đầu tư. Xu hướng phát triển của
ngành trong tương lai.
Mô hình tổ chức bố trí lao động.
Quản trị điều hành của lãnh đạo.
Quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác.
- Thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng.
Việc tính toán các chỉ số để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của
khách hàng cần phải được thực hiện qua nhiều năm (tối thiểu 2 năm). Khi đánh giá, nhận
xét cán bộ tín dụng cần phải nhìn một cách tổng thể về các chỉ tiêu đánh giá và có so sánh
với thực tế, đặc điểm kinh doanh của khách hàng để việc đánh giá được chính xác và toàn
diện.
- Thẩm định về hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án, thẩm định về kinh tế kỹ thuật
của dự án (thực hiện theo qui trình thẩm định dự án đầu tư).
- Thẩm định về khả năng đáp ứng nguồn vốn, lãi suất, thời hạn cho vay của bản thân
ngân hàng.
Cân đối các nguồn vốn đầu tư, nhu cầu vốn vay khả năng cân đối nguồn cho vay
loại tiền cho vay của ngân hàng, trường hợp món vay lớn, hoặc không thu xếp cho vay toàn
bộ có thể làm đầu mối để thực hiện cho vay đồng tài trợ.
Xác định thời hạn vay phù hợp với khả năng cân đối vay trả của khách hàng và ngân
hàng.
Xác định lãi suất cho vay phù hợp với chính sách khách hàng bảo đảm đủ bù đắp chi
phí, trích dự phòng rủi ro kinh doanh có lãi hợp lý.
- Thẩm định về các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Ngân hàng thoả thuận với khách hàng lựa chọn các biện pháp bảo đảm tiền vay
thích hợp.
Thứ ba, là cần phải nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn cho các cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn
trong công tác thẩm định. Như đã phân tích ở phần trên các dự án của ngân hàng thì có
phần lớn là các thông số kỹ thuật ở rất nhiều ngành nghề khác nhau mà trong khi đó các
cán bộ của ngân hàng chủ yếu là tốt nghiệp ở các trường kinh tế ra do vậy sự hiểu biết và
thẩm định được các dự án là gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, bên cạnh việc bồi dưỡng cho
cán bộ ngân hàng thì ngân hàng cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn để họ
phối hợp cùng ngân hàng thực hiện thẩm định dự án có như vậy thì chất lượng thẩm định
tín dụng mới được nâng cao.
3.2.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Lãi suất của một khoản vay tuỳ thuộc vào mức lãi suất chung, chi phí khi thực hiện
khoản vay của ngân hàng, thời hạn cho vay, rủi ro của khoản cho vay… Nếu các nhân tố
này tăng lên thì lãi suất cũng sẽ tăng lên. Đặc biệt đối với các khoản tín dụng trung, dài hạn
thì thường diễn ra trong thời gian dài, trong thời gian đó hoạt động kinh doanh của khách
hàng vay và hoạt động của bản thân dự án luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, nếu các yếu tố
này thay đổi bất thường thì sẽ làm cho các dự tính của người vay lẫn ngân hàng sẽ bị sai
lệch, khả năng xảy ra rủi ro sẽ cao. Chính bởi yếu tố này đã làm cho các khoản tín dụng
trung, dài hạn có lãi suất thường cao. Ngân hàng nào mà xây dựng được một chính sách lãi
suất phù hợp thì sẽ làm cho thu nhập của ngân hàng tăng lên, góp phần hạn chế rủi ro lãi
suất, đồng thời nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm tín dụng ngân hàng so với các
tổ chức tín dụng khác.
Hiện nay, ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có hướng chỉ đạo cho các
chi nhánh là áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau nhưng ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thành phố Hà Nội thì chưa thực hiện được. Tôi xin đưa ra một số giải pháp
để góp phần xây dựng một chính sách lãi suất linh hoạt. Cần thực hiện:
- Lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng khách hàng như: đối với các khách hàng
truyền thống của ngân hàng, với những khách hàng là các doanh nghiệp lớn, tổng công ty
có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn hiệu quả… Tuy thực hiện chính sách này thì thu
nhập của ngân hàng có thể bị giảm sút nhưng nhờ vậy sẽ tăng sự gắn bó của các khách
hàng trong đó có nhiều các khách hàng lớn, duy trì thị phần của mình trong việc cung cấp
tín dụng. Đây là vấn đề mang tính chiến lược.
- Lãi suất thay đổi theo thời gian
Như ta đã biết các ngân hàng phải huy động vốn có các mức chi phí khác nhau theo
thời hạn do vậy khi cho vay ngân hàng cũng nên thực hiện mức lãi suất khác nhau theo thời
gian (áp dụng mức lãi suất thấp hơn đối với các khoản vay có thời hạn ngắn hơn vì chi phí
huy động vốn với thời hạn ngắn cũng rẻ hơn).Và một yếu tố nữa là những khoản vay với
thời hạn ngắn thì thường tiềm ẩn ít rủi ro hơn, do vậy những khoản vay có thời hạn ngắn
hơn mà áp dụng một mức lãi suất thấp hơn cũng là điều hợp lý.
- Lãi suất giảm dần theo mức tăng qui mô của các khoản tín dụng
Lý do là có thể áp dụng chính sách này là bởi vì cùng với một khoản cho vay mà có
giá trị lớn thì ngân hàng sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với nhiều khoản vay có giá trị nhỏ gộp
lại vì ngân hàng chỉ cần một lần thẩm định dự án, xác định giá trị tài sản đảm bảo… tuy
vậy chính sách này chỉ nên áp dụng với những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh
làm ăn hiệu quả và hoàn toàn có khả năng trả nợ đúng hạn. Bởi vì rủi ro đem lại cũng cao
hơn khi rủi ro tập trung toàn bộ cho một dự án thay vì chia sẻ cho nhiều dự án.
3.2.4 Đa dạng hoá các loại hình tín dụng trung, dài hạn
Việc phát triển tín dụng trung, dài hạn không chỉ dựa trên những hình thức tín dụng
đã có mà còn cần phải mở thêm những hình thức tín dụng mà hiện nay ngân hàng chưa có.
Hiện nay tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì đã triển khai
những hình thức tín dụng trung, dài hạn sau: cho vay dự án, cho vay hợp vốn, cho vay tiêu
dùng (chủ yếu là cho vay mua ô tô) vì vậy theo tôi ngân hàng có thể phát triển thêm các
hình thức sau: chiết khấu các khoản phải thu trung, dài hạn, và thêm một số lĩnh vực khác
trong cho vay tiêu dùng (còn do đặc thù của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam đã có một công ty chuyên thực hiện cho thuê tài chính, nên hình thức này không được
đề cập ở đây).
Những hình thức có thể triển khai thêm trong những năm tới là:
- FORFAITING (chiết khấu các khoản phải thu): khách hàng của ngân hàng sẽ là
những doanh nghiệp (người bán) họ có khoản phải thu từ đối tác (sau đây gọi là người
mua) của họ (họ bán hàng trả chậm), và họ đến ngân hàng để được xin chiết khấu. Nếu
ngân hàng chấp nhận cho chiết khấu, thì người bán sẽ nhận được tiền ngay từ ngân hàng (=
giá trị hợp đồng – lãi chiết khấu – chi phí khác liên quan) và ngân hàng sẽ chịu trách
nhiệm sau đó thu tiền từ người mua. FORFAITING thực hiện tài trợ thông qua các công cụ
như hối phiếu, lệnh phiếu, thư tín dụng… Trừ khi người mua có đủ uy tín và không cần bảo
đảm, thông thường hối phiếu phải được kí hậu bảo đảm thanh toán bởi một ngân hàng của
người mua.
- Cho vay mua nhà (hoặc xây dựng nhà ở):
Đây là hình thức cho vay trung, dài hạn đối với cá nhân để họ mua hoặc xây dựng
nhà ở. Đối tượng cho vay chính là các hộ gia đình (thường là gia đình trẻ) có thu nhập ổn
định, có nhu cầu về nhà ở nhưng hiện tại họ chưa tích luỹ đủ tiền cho mua hoặc xây nhà.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội nằm trên địa bàn có
kinh tế phát triển cao, đời sống người dân không ngừng được nâng cao, có nhu cầu về nhà
ở rất lớn, đặc biệt ở trên địa bàn Hà Nội thì có rất nhiều các cặp vợ chồng trẻ chưa có chỗ ở
hay là họ không muốn ở cùng bố mẹ với nhiều lý do, họ rất muốn có 1 ngôi nhà riêng
nhưng hiện tại vốn tích luỹ chưa đủ và họ chấp nhận trả góp cho ngân hàng (khi ngân hàng
cung cấp dịch vụ này) bằng số tiền trích ra từ thu nhập hàng tháng của họ.
Ngân hàng có thể cho vay với hình thức này trong khoảng từ 5 – 15 năm là phù hợp
và tiến hành dưới các hình thức như sau:
+ Ngân hàng có thể đứng ra mua đất xây nhà hay mua các căn hộ chung cư rồi bán
lại cho những người có nhu cầu theo phương thức trả góp.Trong thời gian khách hàng chưa
trả hết nợ thì nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, do vậy nếu gặp rủi ro (khách
hàng không thể trả được nợ) xảy ra thì ngân hàng vẫn có quyền thu hồi nhà để đem bán lại,
chính điều này giảm thiệt hại cho ngân hàng.
+ Ngân hàng có thể tiến hành cho vay đối với khách hàng có nhu cầu vay tiền để
xây nhà (khách hàng đã có quyền sử dụng đất). Để đảm bảo an toàn cho ngân hàng, ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng mảnh đất và giá trị ngôi nhà mới xây làm tài sản
thế chấp.
3.2.5 Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào chứ không riêng gì lĩnh vực hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, yếu tố con người chính là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành bại của
hoạt động đó. Do vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì vấn đề cốt lõi
chính là cần nâng cao chất lượng các cán bộ tín dụng, thẩm định (sau đây gọi chung là cán
bộ tín dụng), cần những cán bộ có đủ tài và đức. Bên cạnh trình độ chuyên môn nghiệp vụ
được đào tạo các cán bộ cần phải có một phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm
cao, và cần phải có một bản lĩnh vững vàng trước mọi tình huống. Do vậy cho dù các cán
bộ nào có trình độ chuyên môn cao mà đạo đức có vấn đề, có biểu hiện tiêu cực thì dứt
khoát không thể để trong đội ngũ cán bộ tín dụng.
Để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết trong công tác tuyển dụng cán bộ mới,
ngân hàng cần chọn lọc (có thể thông qua thi tuyển khách quan) ra được những nhân viên
mới không chỉ có những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn có cả những sự hiểu biết
về các chính sách của Nhà nước, sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực liên quan đến công tác
sau này của họ, kỹ năng phân tích, khả năng xử lý trong các tình huống… đồng thời thực
hiện bố trí luân chuyển cán bộ sao cho phù hợp, bố trí đúng người đúng việc để các cán bộ
có thể phát huy tối đa năng lực của mình.
Tiếp đó, ngân hàng cần phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ,
về các chính sách tín dụng mới, kiến thức về pháp luật, kinh tế liên quan đến lĩnh vực mà
họ công tác, cần tăng cường tổ chức giao lưu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm nghiệp vụ
giữa các cán bộ tín dụng trong chi nhánh, giữa chi nhánh Hà Nội và các chi nhánh khác
trong cùng hệ thống. Và ngân hàng cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ đi học để nâng
cao trình độ, sau vẫn phục vụ cho ngân hàng (ví dụ như cho cán bộ đi học thạc sỹ, tiến sỹ
nhưng vẫn được hưởng lương).
Một yếu tố quan trọng nữa là ngân hàng cần quan tâm tới thu nhập của nhân viên, vì
nếu nhân viên của ngân hàng có nguồn thu nhập ổn định đảm bảo được cuộc sống của họ
từ đó sẽ tạo ra tâm lý tin tưởng và họ sẽ hết mình cống hiến cho công việc. Đồng thời ngân
hàng luôn đẩy mạnh thi đua lao động giỏi theo mục tiêu thi đua do Công đoàn và ban lãnh
đạo ngân hàng phát động. Định kỳ biểu dương thành tích của những cán bộ tín dụng xuất
sắc.
3.2.6 Tăng cường công tác quản lý nợ, cần tổ chức bộ phận quản trị rủi ro chuyên
trách
Công tác quản lý nợ là công tác vô cùng quan trọng đối với các NHTM, nếu công
tác này không được thực hiện tốt thì sẽ ảnh hưởng đến sự sống còn của các ngân hàng. Vì
vậy, công tác quản lý nợ cần luôn được tăng cường, cần thực hiện theo hướng sau:
- Cần thực hiện phân loại nợ định kỳ (sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, có
thể nói Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã đi đầu trong việc xây dựng hệ thống này) để xác
định đúng chất lượng tín dụng làm cơ sở trích lập các khoản dự phòng nhằm hạn chế rủi ro
tín dụng. Trên cơ sở đó ta sẽ có những chính sách cụ thể cho các khách hàng đó là: mở
rộng quan hệ tín dụng với khách hàng đó hay là duy trì theo mức cũ hoặc là hạn chế, ngừng
quan hệ tín dụng.
- Cần có sự giám sát chặt chẽ đối với những khách hàng có dư nợ lớn phải gia hạn,
những khách hàng có tình hình tài chính kém, kinh doanh không hiệu quả. Đối với những
khoản nợ mà xin gia hạn, cần có sự thẩm tra kỹ càng, và những khoản nợ nào nhận thấy
không đáp ứng được đủ các điều kiện đặt ra, không thể trả được nợ trong tương lai thì dứt
khoát phải dừng cấp tín dụng.
- Cần tăng cường kiểm tra giám sát đối với những khách hàng sau khi vay vốn, tuyệt
đối không để xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng nguồn vốn sai mục đích. Nếu phát hiện
ra những khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì phải dừng giải ngân các kỳ sau (thông
thường giải ngân tín dụng được chia làm nhiều đợt), triển khai các biện pháp mạnh để rút
dư nợ.
- Đối với các khoản nợ quá hạn ngân hàng có thể xử lý một cách linh hoạt không
nên cứng nhắc. Đối với những khách hàng bị nợ quá hạn chủ yếu là do những yếu tố khách
quan tác động và ngân hàng xét thấy họ có khả năng duy trì kinh doanh và có ý thức trả nợ
ngân hàng, thì ngân hàng có thể hỗ trợ họ bằng cách giảm một phần hoặc toàn bộ lãi phạt
của khoản nợ cũ, cho vay mới (nếu doanh nghiệp cần vốn để khắc phục khó khăn) với lãi
suất ưu đãi để họ có thể khắc phục khó khăn, khôi phục lại tình hình sản xuất kinh doanh
để họ có khả năng trả được nợ ngân hàng. Còn những khoản nợ mà ngân hàng xét thấy
khách hàng hoàn toàn không có khả năng thu hồi được nợ thì phải thực hiện:
+ Trường hợp với những khách hàng có tài sản đảm bảo, thì ngân hàng có thể tiến
hành phát mại tài sản, đối với những tài sản mà không thực hiện phát mại được ngay (ví dụ
như đối với những máy móc chuyên dụng) thì ngân hàng cần có biện pháp để khai thác một
cách kịp thời.
+ Trường hợp đối với khách hàng không có tài sản đảm bảo (chủ yếu do thời kỳ
trước để lại, nhiều khoản cho vay thực hiện dưới hình thức cho vay tín chấp), mà sau khi
dùng mọi cách không thể thu được nợ thì buộc phải thực hiện biện pháp mạnh là thông báo
toàn ngành, kiện ra toà án.
Và để công tác quản lý nợ được hiệu quả hơn, ngân hàng cần thành lập bộ phận
quản trị rủi ro chuyên trách để quản trị rủi ro tín dụng, thực hiện phân loại các khoản vay
theo mức độ rủi ro, xây dựng hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, ngành kinh tế,
khu vực và có những giải pháp xử lý đối với các khoản vay có vấn đề. Và việc thành lập bộ
phận chuyên trách này sẽ giảm tải khối lượng công việc cho các cán bộ tín dụng phụ trách
vì hiện nay một cán bộ tín dụng phụ trách sẽ phải đảm nhiệm tất cả các công việc sau cho
một khoản vay: từ việc hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay, tìm kiếm thông tin, đánh giá
thẩm định tiến hành cho vay, đăng ký tài sản đảm bảo theo dõi giám sát khách hàng, tư vấn
cho khách hàng cho đến các việc thu nợ, đòi nợ, việc phát mại tài sản, làm các thủ tục khởi
kiện ra toà. Do vậy, việc lập ra bộ phận này góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ luôn là một công tác quan trọng trong hoạt đọng
kinh doanh của ngân hàng nhằm đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả. Sự phát triển của
hoạt động tín dụng trong đó có hoạt động tín dụng trung, dài hạn, đồng thời muốn nâng cao
hơn nữa chất lượng tín dụng ngân hàng cũng ngày càng phải nâng cao chất lượng kiểm tra,
kiểm soát nội bộ trong ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng mà được mở rộng mà ngân hàng
không quan tâm tới công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì có thể ngân hàng sẽ gặp phải
những rủi ro trong hoạt động tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu sẽ tăng lên.
Trong những năm vừa qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của ngân hàng luôn
được thực hiện tốt và đã góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong những năm tới ngân hàng cần phát
huy và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát của mình. Đối với hoạt
động tín dụng để đạt hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần phải thực hiện đầy
đủ, theo từng giai đoạn cụ thể, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay:
Kiểm tra trước khi cho vay: là quá trình xem xét trước khi cho vay xem có vi phạm
những qui định của ngân hàng hay không, hay có điều gì là không hợp lý hay không, hồ sơ
vay vốn của khách hàng có đủ tài liệu cần thiết chưa…
Kiểm tra trong khi cho vay: là quá trình xem xét quá trình thực hiện việc thẩm định
và ra phán quyết tín dụng của các cán bộ tín dụng có điều gì sai sót hay không, quá trình
thực hiện có theo đúng thủ tục, qui trình tín dụng hay không…
Kiểm tra sau khi cho vay: là quá trình xem xét tính hợp lệ, hợp pháp thông qua rà
soát lại hồ sơ chứng từ của các hồ sơ cho vay đã được thực hiện, thực hiện kiểm tra quá
trình trả nợ của khách hàng cho ngân hàng có đúng thời hạn hay không, qui trình xử lý của
các cán bộ tín dụng đối với những khoản nợ quá hạn, nợ xấu ra sao…
Nếu thực hiện tốt những điều này, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có những
bước phát triển mới theo đúng phương châm của ngân hàng: “Chất lượng, an toàn, hiệu
quả và phát triển”.
3.2.8 Tăng cường công tác Marketing trong ngân hàng
Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của
ngành dịch vụ. Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để
đạt được mục tiêu đặt ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, cũng như các
dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các
biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận.
Hoạt động của Marketing ngân hàng nhằm đạt được những mục tiêu: đáp ứng tốt
nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng
thời có các biện pháp nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng để đạt mức sử dụng sản
phẩm của ngân hàng cao nhất và không chỉ dừng lại ở mức độ thoả mãn nhu cầu trực tiếp
của khách hàng mà còn tác động cả vào môi trường tinh thần của con người nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người trên mọi lĩnh vực cả vật chất lẫn tinh
thần. Để thực hiện tốt công tác tăng cường Marketing ngân hàng, các ngân hàng thương
mại cần phải thực hiện nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách
hàng. Trên cơ sở này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt,mềm dẻo bốn chính
sách để thoã mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Bốn chính sách lớn đó là:
- Chính sách thông tin – nghiên cứu – tìm hiểu - điều tra.
- Chính sách sản phẩm – giá cả
- Chính sách phân phối (chính sách cung ứng sản phẩm ngân hàng).
- Chính sách giao tiếp - khuếch trương.
Hiện nay, tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì chưa
thực sự chú ý tới công tác này, công việc này mới chỉ thực hiện đơn thuần là quảng cáo trên
một số tờ báo nhưng hiệu quả của hình thức này cũng không cao bởi vì khách hàng rất khó
cảm nhận được đầy đủ giá trị dịch vụ mà ngân hàng cung cấp và hoạt động này cũng được
thực hiện không nhiều, việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt
nhất nhu cầu của họ. Trước điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay
thì việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng khó khăn, việc phát triển hoạt động
tín dụng trung, dài hạn cũng vậy, ngân hàng sẽ không thể thụ động chông trờ vào khách
hàng tự tìm đến mình mà ngân hàng cần có sự thay đổi, chú trọng hơn vào hoạt động
Marketing, ngân hàng cần chủ động nắm bắt nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt nhất
nhu cầu của họ, ngân hàng cần tích cực tìm kiếm các khách hàng mới, các dự án khả thi để
nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Ngân hàng cần chú trọng tới hình thức truyền thông bán hàng trực tiếp (là việc ngân
hàng thông qua giao dịch giữa khách hàng và nhân viên ngân hàng để thông tin về dịch vụ
ngân hàng, hình ảnh ngân hàng. Đây là hình thức phù hợp nhất với ngân hàng nhưng thực
tế hiện nay ở ngân hàng bị coi nhẹ, vì hình thức này nếu so với các hình thức truyền thông
khác như: quảng cáo, khuyến mại, PR, Marketing trực tiếp… thì không đòi hỏi ngân hàng
phải bỏ ra chi phí tốn kém nhưng lại là hình thức hữu hiệu nhất cung cấp thông tin cho
khách hàng.
Qua nghiên cứu thực tế bộ máy tổ chức tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Thành phố Hà Nội, tôi có ý kiến đề xuất là ngân hàng có thể thành lập phòng
Marketing để hoạt động Marketing được chuyên môn hoá cao hơn và thực sự đem lại hiệu
quả cho ngân hàng.
3.2.9 Ngân hàng phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và biện pháp phòng ngừa
Công tác dự báo luôn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của bất kì một tổ chức sản xuất kinh doanh nào và đối với hoạt động tín dụng của
ngân hàng cũng vậy. Như ta đã biết khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng (cho vay) ngân hàng
cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung
ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rủi ro tín dụng là không xảy ra. Tuy nhiên đó là
việc xét trên tính nguyên tắc bởi vì không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự đoán
chính xác các vấn đề xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng phân tích tín
dụng thích đáng. Do vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro đối với hoạt
động tín dụng là không thể tránh khỏi chỉ có thể đề phòng, hạn chế. Do đó ngân hàng phải
luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và trên cơ sở đó có các biện pháp phòng ngừa. Khi công tác
này được thực hiện tố thì rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế và chất lượng tín dụng sẽ được
nâng cao. Và đối với riêng hoạt động tín dụng trung, dài hạn thì công tác này phải được
quan tâm nhiều hơn do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có thời gian kéo dài do
đó khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn và khi rủi ro xảy ra thì sẽ xảy ra tổn thất rất lớn cho
ngân hàng (các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có giá trị lớn) và không chỉ có vậy
nếu rủi ro xảy ra thì sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều các ban ngành khác, và ảnh hưởng tới sự
phát triển kinh tế của đất nước.
Ngân hàng cần thực hiện công tác dự báo bao gồm cả những dự báo chung và các
dự báo cụ thể:
- Dự báo chung: đó là những dự báo của ngân hàng cho toàn bộ hoạt động tín dụng
trung, dài hạn trong những năm tới. Như với tình hình hiện nay và trong những năm tới Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần giảm dư nợ đối với lĩnh vực
cho vay xây lắp (vì hiện nay lĩnh vực này hoạt động không hiệu quả) và ưu tiên cho vay với
các ngành kinh tế có thế mạnh, đảm bảo được đầu ra và được đánh giá là ít rủi ro như: thuỷ
điện, nhiệt điện, xi măng, chế biến xuất khẩu thuỷ hải sản, gỗ, công nghiệp khai khoáng, hạ
tầng giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng không…
- Dự báo cụ thể: là ngân hàng thực hiện dự báo những rủi ro tiềm ẩn cho từng dự án
trung, dài hạn cụ thể. Ngân hàng cần xem xét những rủi ro: như thiên tai, thay đổi chính
sách vĩ mô của Nhà nước, biến động đột biến của thị trường (ví dụ như sự thay đổi trong
giá nguyên vật liệu đầu vào như giá xăng, dầu… sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới các dự án) và
những rủi ro trong tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng…có sự tác động tới dự
án.
3.2.10 Một số giải pháp khác
Trên đây là những giải pháp chính nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài
hạn, ngoài các biện pháp trên ngân hàng cần kết hợp với các giải pháp phụ trợ sau để nâng
cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung, dài hạn:
- Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng: ngân hàng
cần phối hợp với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để triển khai xây dựng hệ
thống công nghệ thông tin một cách đồng bộ trong đó chú trọng việc xây dựng các phần
mềm ứng dụng phục vụ cho các qui trình nghiệp vụ của ngân hàng (trong đó có nghiệp vụ
tín dụng) và công tác quản lý điều hành của ngân hàng.
- Nâng cao công tác tư vấn của ngân hàng: ngân hàng không chỉ tư vấn cho khách
hàng trong lập hồ sơ vay mà còn thực hiện tư vấn cho khách hàng ở trong công tác thẩm
định, giám sát sau khi cho vay, ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng những điểm chưa thực
sự phù hợp của dự án nhờ đó các dự án sẽ hoạt động một cách hiệu quả hơn và khách hàng
có khả năng trả được nợ ngân hàng đúng hạn cao, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
trung, dài hạn.
- Phát huy hơn nữa sức mạnh của công đoàn, đoàn thể trong công tác thi đua, khen
thưởng…
3.3 KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước cùng với những định hướng, chính sách phát
triển kinh tế của mình đã tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế nước ta nói chung và với hoạt
động tín dụng của các NHTM nói riêng. Và tôi xin mạnh dạn đưa ra những đề xuất với Nhà
nước để phát huy hơn nữa vai trò của các NHTM trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế,
đặc biệt là các khoản tín dụng trung, dài hạn:
- Chính phủ cần phải ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ có hiệu lực tạo hành lang
pháp lý an toàn cho sự phát triển các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của ngành
ngân hàng nói riêng. Nhà nước cần có sự quản lý với các biến số kinh tế vĩ mô như tỷ giá,
lạm phát, lãi suất để hạn chế đến mức thấp nhất những biến động bất thường của nền kinh
tế.
- Nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, có như vậy hoạt động tín dụng mới có thể phát triển mạnh mẽ:
+ Thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút mạnh các nguồn FDI, tạo ra
động lực phát triển thị trường nội địa, tạo sức cạnh tranh để kích thích các doanh nghiệp
trong nước phát triển. Cần phải xác định rõ các trọng điểm tăng trưởng của nền kinh tế để
có biện pháp củng cố và thúc đẩy các trọng điểm tăng trưởng kinh tế.
+ Nhà nước cần có những chính sách phát triển kinh tế đồng đều cho các vùng, ưu
tiên những vùng sâu vùng xa, nông thôn miền núi…, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải
không hiệu quả lãng phí ngân sách của Nhà nước.
+ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, huy động tối đa các nguồn lực
phát triển, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do
vậy, coi trọng phát triển thị trường vốn, thị trường tài chính, chỉ đạo tổ chức thực hiện sắp
xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá công khai, hoàn thiện cơ chế đấu
thầu đấu giá, định giá đất đai, tài sản theo hướng thị trường hoá các quan hệ kinh tế này,
bảo đảm tính công khai minh bạch của thị trường. Cần tạo ra môi trường kinh doanh bình
đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngoài Nhà nước để ngăn ngừa giảm thiểu các hình thức tài trợ, bảo lãnh các doanh nghiệp
tài chính và phi tài chính của Nhà nước. Nghiên cứu cơ chế quản lí và phát triển đối với thị
trường bất động sản. Đổi mới cơ chế quản lí Quĩ hỗ trợ xuất khẩu, bỏ những nhiệm vụ chi
có tính bao cấp, tăng chi hỗ trợ mở rộng thị trường, ưu tiên các chương trình xúc tiến
thương mại ngành hàng trọng điểm. Các tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở
rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính một cách triệt
để giảm bớt cơ chế xin cho gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
+ Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường kiểm tra giám sát đối với các thành phần
kinh tế hạn chế đến mức thấp nhất những hoạt động kinh doanh trái phép gây tiêu cực xã
hội để tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh: như buôn lậu, trốn lậu thuế, làm hàng
quốc cấm, hàng giả, hàng nhái…
- Qua nghiên cứu tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn cụ thể tại ngân hàng thì
tôi thấy hiện nay trong vấn để bảo đảm tiền vay còn nhiều vướng mắc, tôi xin đưa ra một
số kiến nghị với Nhà nước về vấn để này:
+ Chính phủ cần đưa ra một khung giá phù hợp hơn về định giá đối với các tài sản
thế chấp vì hiện nay thì việc định giá này đã không đánh giá đúng giá trị tài sản, việc đánh
giá tài sản quá thấp đã gây khó khăn cho cả người vay và cho cả ngân hàng.
+ Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
sản, quyền sử dụng đất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn ngân
hàng (được sử dụng để làm tài sản thế chấp), đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi trong
việc xử lý tài sản đảm bảo khi có rủi ro xảy ra (khách hàng không trả được nợ cho ngân
hàng).
+ Cần ban hành những chính sách cụ thể để hạn chế khó khăn cho các ngân hàng khi
phát mại tài sản, và đối với các trường hợp mà các khoản vay được bảo lãnh bằng bên thứ 3
khi gặp rủi ro xảy ra thì lại chưa có một khung pháp lý nào cụ thể qui định về quyền đòi nợ
của ngân hàng với bên thứ 3.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần tích cực đổi mới, bổ sung hoàn thiện cơ chế tín
dụng theo hướng thông thoáng phù hợp với thực tiễn hoạt động và thông lệ quốc tế, chú
trọng việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản qui định về nghiệp vụ
tín dụng nhằm nâng cao năng lực quản lý và đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Cụ thể: tập trung hoàn thiện qui trình tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng rủi ro, ban hành qui định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống
quản trị rủi ro hữu hiệu…
NHNN cần nghiên cứu và xây dựng một hệ thống các chỉ số mang tính chuẩn mực
để thống nhất đánh giá so sánh chất lượng tín dụng của các NHTM, hệ thống chỉ số và giới
hạn để dự báo trước các nguy cơ rủi ro cho các NHTM. Có thể định kỳ hàng năm thu thập
thông tin và tính toán các báo cáo của các NHTM để đánh giá tình hình chất lượng toàn
ngành và có những điều chỉnh kịp thời.
NHNN phối hợp cùng các NHTM có thể triển khai xây dựng qui trình tín dụng,
thẩm định chung toàn ngành để phục vụ cho công tác thẩm định và ra phán quyết tín dụng,
xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp loại doanh nghiệp một cách thống nhất
nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro nhất là rủi ro tín dụng. Không nên để
tình trạng mỗi ngân hàng một kiểu như hiện nay.
NHNN cần tăng cường hỗ trợ cho các NHTM trong việc nâng cao trình độ cho đội
ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định. Có thể định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội nghị hội
thảo về kinh nghiệm tín dụng trong toàn ngành ngân hàng.
Đổi mới hoạt động thanh tra, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ thông tin, tăng
cường công tác giám sát từ xa kết hợp với thanh tra tại chỗ nhằm kịp thời ngăn chặn, phát
hiện và xử lý các sai phạm của các tổ chức tín dụng. Chú trọng công tác kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện xử lý và kiến nghị xử lý sau thanh tra đối với các tổ chức tín dụng.
Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát từ xa theo thông lệ quốc tế (CAMELS),
tuy phương pháp này đã được thực hiện từ lâu nhưng hiệu quả mang lại chưa cao, nhất là ở
các chi nhánh địa phương. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện qui trình thanh tra tại chỗ
(BASEL I, II) theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
NHNN cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, cải thiện
chất lượng thông tin đầu vào để tạo nguồn đầu ra thông tin một cách chính xác về thị
trường và doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM có thể sử dụng thông
tin để phục vụ cho công tác thẩm định và ra phán quyết tín dụng, nhờ đó nâng cao được
chất lượng tín dụng.
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cần hệ thống hoá một cách cụ thể
toàn bộ các văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến vấn đề về bảo đảm tiền vay để
ban hành trong hệ thống ngân hàng Đầu tư. Đồng thời cần thường xuyên giám sát, hỗ trợ
cho các chi nhánh trong việc thu thập thông tin tín dụng, thẩm định tín dụng, các vấn đề
liên quan đến bảo đảm tiền vay như: định giá tài sản bảo đảm, phát mại tài sản bảo đảm…
Theo tiến trình cổ phần hoá của BIDV, đòi hỏi yêu cầu cao hơn về chất lượng tín
dụng và điều kiện tín dụng. BIDV cần có những chỉ đạo và chấn chỉnh kịp thời đối với hoạt
động tín dụng sao cho theo đúng lộ trình cổ phần hoá. Cụ thể như chỉ đạo các chi nhánh
thực hiện xong việc cơ cấu nợ xấu trước thời điểm cổ phần hoá, hướng dẫn các chi nhánh
áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mới được xây dựng, thực hiện phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro theo điều 7 của QĐ 493…
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần tạo ra được sự liên kết các chi nhánh
trong hệ thống, các chi nhánh hợp tác chặt chẽ phối hợp thực hiện các chính sách về lãi
suất, khách hàng, nguồn vốn… tạo nên một sức mạnh thống nhất của hệ thống Ngân hàng
Đầu tư.
Thực hiện hỗ trợ, chỉ đạo, phối hợp các chi nhánh để nâng cao năng lực công nghệ
ngân hàng. Chú trọng cả về mặt trang thiết bị và những phần mềm tiện ích phục vụ cho
hoạt động tín dụng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng.
BIDV cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho các chi nhánh, những buổi hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng giữa các chi nhánh, thực hiện tốt công
tác tuyển dụng cán bộ và phân công các cán bộ mới đó cho các chi nhánh, ngân hàng cần
quan tâm tới tình trạng quá tải của các cán bộ tín dụng ở các chi nhánh tránh tình trạng do
khối lượng công việc quá lớn mà dẫn đến các quyết định không hợp lý gây tổn thất cho
ngân hàng.
Những giải pháp và kiến nghị đưa ra ở đề tài này cũng mới chỉ là những giải pháp
nhỏ, việc nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi sự phối hợp nhiều giải pháp, sự cố gắng của
bản thân ngân hàng và sự tham gia của các cấp, các ngành.
KẾT LUẬN
Chất lượng tín dụng là vấn đề phức tạp, và việc nâng cao chất lượng tín dụng trung,
dài hạn của ngân hàng không phải là đơn giản, nó đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ từ những
chính sách vĩ mô của Nhà nước cho đến chính sách của NHNN, sự phối hợp cùng thực hiện
giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Những giải pháp và kiến nghị tôi đưa ra ở đề tài này cũng mới chỉ là những giải
pháp nhỏ để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Do lĩnh vực nghiên cứu
là rất rộng và phức tạp trong khi đó thời gian nghiên cứu còn hạn chế, những kinh nghiệm
thực tiễn mà tôi được tiếp xúc vẫn còn thiếu, cho nên đề tài của tôi sẽ khó tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý của thầy cô giáo, các cán bộ của Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội để tôi có thể hoàn thiện và phát
triển đề tài cho luận văn tốt nghiệp sau này.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... - 1 -
CHƯƠNG 1 ....................................................................................................... - 4 -
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................................... - 4 -
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........ - 4 -
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại .................................................... - 4 -
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng ....................................................... - 5 -
1.1.3 Phân loại tín dụng ............................................................................... - 6 -
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ..................................................................... - 8 -
1.2.1 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn .................................................... - 8 -
1.2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn .......................... - 8 -
1.2.1.2 Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường .. - 11 -
1.2.1.3 Các hình thức tín dụng trung, dài hạn ......................................... - 13 -
1.2.2 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn .................................................... - 17 -
1.2.2.1 Khái niệm ................................................................................... - 17 -
1.2.2.2 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn................................ - 18 -
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn..... - 25 -
CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... - 31 -
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ .................................................................................. - 31 -
VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................... - 31 -
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... - 31 -
2.1.1 Quá trình phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố
Hà Nội ....................................................................................................... - 31 -
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thành phố Hà Nội ..................................................................................... - 33 -
2.1.2.1 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng ........................... - 33 -
2.1.2.2 Hoạt động huy động vốn ............................................................. - 34 -
2.1.2.3 Hoạt động cho vay ...................................................................... - 35 -
2.1.2.4 Các hoạt động khác ..................................................................... - 38 -
2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI- 38 -
2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thành phố Hà Nội ................................................................. - 38 -
2.2.1.1 Tình hình nguồn vốn cho vay trung, dài hạn ............................... - 38 -
2.2.1.2 Tình hình cho vay trung, dài hạn ................................................. - 40 -
2.2.1.3 Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu cho vay trung, dài hạn .................. - 44 -
2.2.2 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội ..................................................... - 47 -
2.2.2.1 Kết quả đạt được ......................................................................... - 47 -
2.2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân ............................................................. - 49 -
CHƯƠNG 3 ..................................................................................................... - 54 -
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN ............................................................................................................. - 54 -
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................... - 54 -
3.1 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI
HẠN ............................................................................................................. - 54 -
3.1.1 Định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) .............. - 54 -
3.1.2 Định hướng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội -
55 -
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... - 57 -
3.2.1 Giải pháp huy động vốn cho vay trung, dài hạn ................................. - 57 -
3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ........................................... - 58 -
3.2.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt .............................................. - 61 -
3.2.4 Đa dạng hoá các loại hình tín dụng trung, dài hạn ............................. - 62 -
3.2.5 Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng ................................. - 64 -
3.2.6 Tăng cường công tác quản lý nợ, cần tổ chức bộ phận quản trị rủi ro chuyên
trách ........................................................................................................... - 65 -
3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ ............................... - 66 -
3.2.8 Tăng cường công tác Marketing trong ngân hàng .............................. - 67 -
3.2.9 Ngân hàng phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và biện pháp phòng ngừa- 69 -
3.2.10 Một số giải pháp khác ..................................................................... - 70 -
3.3 KIẾN NGHỊ ........................................................................................... - 70 -
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước .................................................................... - 70 -
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước .................................................. - 72 -
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .................. - 73 -
KẾT LUẬN ..................................................................................................... - 74 -
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Trang
1. Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh 39
2. Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ 42
3. Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn 44
4. Biểu đồ 2.4: Lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm 45
5. Bảng 2.5: Tình hình cho vay trung, dài hạn tại Chi nhánh 46
6. Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo 48
thành phần kinh tế
7. Bảng 2.7: Doanh số cho vay trung, dài hạn 49
8. Bảng 2.8: Thu nhập từ lãi của hoạt động cho vay 49
9. Bảng 2.9: Nợ quá hạn trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ 50
trung, dài hạn
10. Biểu đồ 2.10: Nợ quá hạn trung, dài hạn qua các năm 51
11. Bảng 2.11: Nợ xấu trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, 52
dài hạn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. NHTM: Ngân hàng thương mại
2. NHNN: Ngân hàng Nhà nước
3. DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
4. BIDV: Bank Investment Development Vietnam (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam)
5. Trđ: Triệu đồng
6. TDH: Trung, dài hạn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng hợp huy
động vốn, tình hình tín dụng, thu nhập từ lãi cho vay các năm 2004, 2005, 2006.
2. Đào Hải Hiền, Sửa đổi thông tư liên tịch số 03 về “ Hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay” là một vấn đề cấp thiết, Tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006.
3.GS. TS. Lê Văn Tư, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính 2005.
4. Khắc Luyện, Gia hạn nợ vay ngân hàng: Phải xuất phát từ yếu tố khách quan, Tạp chí
ngân hàng số 9 tháng 5/2006.
5. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Qui trình tín dụng trung, dài hạn, tháng
9/2001.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
7. Nguyễn Thị Thu Thủy, Rủi ro và những biện pháp hạn chế rủi ro, Tạp chí Ngân hàng số
15 tháng 8/2006.
8.PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê 2005
9. PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, 2006.
10 Phan Đức Quang, Kiểm soát các rủi ro của hoạt động cho vay đối với các ngân hàng
thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế, Tạp chí Ngân hàng số 11 tháng 6/2006.
11. ThS. Vũ Thuý Ngọc, Hệ thống kiểm soát nội bộ của một ngân hàng hiện đại, Tạp chí
Ngân hàng số 9 tháng 5/2006.
12. TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê
2002.
13.TS. Nguyễn Văn Tiến, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,
NXB Thống Kê 2003.
PHỤ LỤC O1
Sơ đồ cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ các phòng ban tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội
GIÁM ĐỐC
P. GIÁM ĐỐC
P. GIÁM ĐỐC
P. GIÁM ĐỐC
KHỐI KINH DOANH
KHỐI CHỨC NĂNG
P.NGUỒN VỐN
P.GD1
DV KH DOANH NGHIỆP
P.TD1
P. TỔ CHỨC CÁN BỘ
P.GD2
P.TD2
P.TT ĐIỆN TOÁN
DV KH CÁ NHÂN
P.GD6
P.TD3
P.TĐ&QLTD
P.TT QUỐC TẾ
P.GD10
P.TD4
P.GD11
P. TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
P.GD12
P. KIỂM TRA NỘI BỘ
P.GD17
P.VĂN PHÒNG
P.GD18
Nguồn: Tài liệu tập huấn nhân viên mới Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành
phố Hà Nội
1. Khối tín dụng
Sau khi chương trình dự án hiện đại hoá vận hành ổn định các phòng tín dụng được
bố trí gồm 4 phòng:
* Tín dụng 1: Chuyên sâu khách hàng là doanh nghiệp xây lắp, giao thông
* Tín dụng 2: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế địa phương
* Tín dụng 3: Chuyên sâu khách hàng tư nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
* Tín dụng 4: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế Trung Ương trong lĩnh
vực xây dựng công nghiệp: điện, lắp máy…
a) Nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp
* Bộ phận quan hệ trực tiếp với khách hàng:
- Thiết lập duy trì mở rộng quan hệ với khách hàng
- Nhận hồ sơ, kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ, chuyển đến các ban,
phòng liên quan để thực hiện theo chức năng.
- Phân tích doanh nghiệp, khách hàng vay theo qui trình nghiệp vụ, đánh giá tài sản
đảm bảo nợ vay.
- Đề xuất hạn mức tín dụng.
- Quản lí sau giải ngân.
- Cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng cho phòng thẩm định, quản lí
tín dụng tham gia xây dựng chính sách tín dụng.
- Thực hiện các chức năng khác đối với khách hàng và nhiệm vụ khác của giám đốc
phân công.
* Bộ phận tác nghiệp (gián tiếp):
Nhân viên tác nghiệp làm nhiệm vụ quản lí khoản vay bao gồm xem xét chứng từ
pháp lí để mở tài khoản của khách hàng và mở tài khoản tiền vay, thiết lập thông tin về
khách hàng, chuẩn bị các số liệu thống kê, các báo cáo về các khoản cho vay phục vụ cho
mục đích nội bộ của chi nhánh Thành phố Hà Nội, của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các nhiệm vụ khác.
b) Nhiệm vụ tín dụng dân cư
Thực hiện các chức năng nhiệm vụ như như nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp đối với
đối tượng khác hàng là các cá nhân (bao gồm cho vay cầm cố, chiết khấu sổ tiết kiệm, các
chứng từ có giá…).
2. Khối dịch vụ ngân hàng
* Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp (tách ra từ phòng tài chính kế toán): chịu
trách nhiệm xử lí các giao dịch đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức khác.
* Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân (phòng huy động vốn dân cư cũ): chịu trách
nhiệm xử lí các giao dịch đối với khách hàng cá nhân.
Cả 2 phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp và cá nhân cùng thực hiện các chức
năng sau:
- Thực hiện giải ngân vốn vay cho khách hàng vay là tổ chức trên cơ sở hồ sơ giải
ngân được duyệt.
- Mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, chịu trách nhiệm xử lí các yêu cầu của
khách hàng về tài khoản hiện tại và tài khoản mới.
- Thực hiện tất cả các giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội tệ, ngoại tệ của
khách hàng.
- Thực hiện giao dịch mua ngoại tệ giao ngay đối với khách hàng doanh nghiệp theo
qui định và các chính sách kinh doanh ngoại tệ của giám đốc.
- Thực hiện các giao dịch thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng.
- Thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến khách hàng và giám đốc phân công.
* Phòng thanh toán quốc tế:
- Trên cơ sở các hạn mức,khoản vay, bảo lãnh, L/C đã được phê duyệt, thực hiện các
tác nghiệp trong tài trợ thương mại phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho
khác hàng.
- Mở các L/C có kí quĩ 100% vốn của khách hàng
- Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại với các ngân hàng nước ngoài
- Đầu mối trong việc thực hiện các dịch vụ thông tin đối ngoại
- Thực hiện các giao dịch mua, bán ngoại tệ với khách hàng doanh nghiệp gồm giao
ngay (trừ mua giao ngay), kì hạn, quyền chọn, SWAP theo quyết định và kế hoạch kinh
doanh ngoại tệ của giám đốc và thực hiện các nhiệm vụ khác khi được phân công.
* Phòng tiền tệ - kho quĩ:
Thực hiện các nhiệm vụ tiền tệ kho quĩ: quản lý nghiệp vụ của Chi nhánh, thu chi
tiền mặt, quản lý vàng bạc, kim loại quý, đá quý, quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế
chấp cầm cố, thực hiện xuất nhập tiền mặt…
3. Khối chức năng
* Phòng Kế hoạch - nguồn vốn:
- Tổ chức thu thập thông tin, nghiên cứu, phân tích môi trường, xây dựng chiến
lược, các chính sách kinh doanh, marketting, chính sách khách hàng, lãi suất, huy động
vốn, cân đối vốn.
- Tham mưu cho giám đốc các vấn đề liên quan đến an toàn trong hoạt động kinh
doanh của chi nhánh Thành phố Hà Nội
- Tổng hợp báo cáo, cung cấp thông tin kinh tế, phòng ngừa rủi ro, quản lí các hệ số
an toàn… để xây dựng chính sách giá cả cho các sản phẩm dịch vụ.
- Nghiên cứu các sản phẩm mới về huy động vốn, thu thập thông tin phản hồi về
chính sách, biện pháp huy động vốn…
- Làm thư kí hội đồng thi đua – khen thưởng Chi nhánh Thành phố Hà Nội.
- Thư kí hội đồng quản lí tài sản nợ - có của chi nhánh.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác của giám đốc phân công.
* Phòng thẩm định - quản lí tín dụng:
- Thu thập các thông tin và đánh giá các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật.
- Thẩm định, tham gia ý kiến quyết định cấp tín dụng các dự án cho vay, bảo lãnh
(trung, dài hạn) và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của Trưởng phòng
tín dụng.
- Thẩm định các đề xuất về hạn mức tín dụng, đánh giá tài sản đảm bảo nợ vay
- Thư kí hội đồng tín dụng, hội đồng xử lí rủi ro.. của chi nhánh.
- Giám sát chất lượng khách hàng xếp loại rủi ro tín dụng của khách hàng vay và
đánh giá phân loại, xếp hạng khách hàng doanh nghiệp và các hoạt động liên quan đến
giám sát và quản lí tín dụng khác.
- Nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và thực hiện các nhiệm vụ khác được giao
phó.
* Phòng tài chính kế toán:
Thực hiện công tác kế toán, tài chính cho toàn bộ hoạt động của Chi nhánh bao gồm
tổ chức hướng dẫn thực hiện, kiểm tra công tác hoạch toán kế toán và phân tích các báo cáo
tài chính, tham mưu thực hiện chế độ và các nhiệm vụ liên quan đến tình hình tài chính, chi
tiêu của chi nhánh Thành phố Hà Nội.
* Phòng điện toán:
Quản lí mạng, quản trị hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát theo quyết định của
giám đốc, quản lí hệ thống máy móc thiết bị tin học, đào tạo hỗ trợ các đơn vị trực thuộc
vận hành hệ thống và các vấn đề liên quan đến tin học phục vụ kinh doanh khác.
* Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ
- Hướng dẫn phổ biến lưu trữ các văn bản pháp qui, văn bản chế độ, tham mưu tư
vấn cho giám đốc, các phòng nghiệp vụ những vấn đề pháp lí, soạn thảo, đàm phán, ký kết
hợp đồng, giải quyết tố tụng trực tiếp.
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại trụ sở Chi nhánh Thành phố Hà
Nội và tất cả các đơn vị trực thuộc chi nhánh Thành phố Hà Nội và các chức năng nhiệm
vụ khác của bộ phận kiểm tra nội bộ theo qui định của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam.
* Phòng tổ chức cán bộ:
Tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ chính sách của
pháp luật về trách nhiệm và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động.
Lập các kế hoạch tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu hoạt động của chi nhánh
và tham mưu cho giám đốc về bố trí nhân sự phù hợp tiêu chuẩn trình độ chuyên môn của
từng cán bộ.
Quản lí các vấn đề khác liên quan đến hồ sơ, chế độ tiền lương, bảo hiểm làm việc
của cán bộ công nhân viên.
* Văn phòng:
Thực hiện công tác hành chính và các công tác hậu cần, an ninh cho con người, tài
sản tiền bạc của Chi nhánh và các khách hàng đến giao dịch tại chi nhánh Thành phố Hà
Nội.