LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao chất lượng tín

dụng trung dài hạn tại chi nhánh

ng6an hàng đầu tư và phát triển

thành phố hà nội

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài:

Đối với bất kì một quốc gia nào, nhu cầu về vốn nói chung và vốn trung, dài hạn

nói riêng cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết. Vì vậy trong nền kinh tế tín dụng

trung, dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng như: đối với doanh nghiệp, tín dụng trung, dài

hạn đáp ứng nhu cầu về vốn để cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất - kinh

doanh, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế tín dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công

nghiệp hoá - hiện đại hoá thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và trong hoạt động kinh

doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) thì hoạt động tín dụng nói chung hay hoạt

động tín dụng trung, dài hạn là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho ngân

hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi

xảy ra rủi ro thì tổn thất là rất lớn (do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có thời hạn

dài, giá trị lớn), thực tế trong những năm vừa qua đã có những vụ đổ bể tín dụng làm thất

thoát hàng nghìn tỷ đồng. Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đặc biệt là chất lượng tín

dụng trung, dài hạn trở thành mối quan tâm hàng đầu của các NHTM.

Do vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn có ý

nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Qua thời gian đi thực tập tại Chi nhánh Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, , nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này,

tôi chọn đề tài:

“GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN

TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ

NỘI”.

2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM

trong đó đi sâu vào cho vay trung, dài hạn của NHTM.

Qua phân tích thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Thành phố Hà Nội tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất

lượng tín dụng trung, dài hạn.Từ đó tìm ra những biện pháp khả thi để nâng cao hơn nữa

chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

3. Phương pháp nghiên cứu:

Thu thập những số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tập trung

ở hoạt động cho vay trung, dài hạn qua đó sử dụng những phương pháp thống kê, so sánh

để có nhận xét và đánh giá về chất lượng cho vay trung, dài hạn của ngân hàng. Trên cơ sở

đó sẽ tham khảo thêm ý kiến của các cán bộ ở trong ngân hàng, ý kiến đóng góp của giáo

viên hướng dẫn và qua các tài liệu sách báo để có những giải pháp và kiến nghị để nâng

cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

4. Kết cấu của đề tài:

Đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của

Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.

Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động

tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân

hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống

tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn

nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh

mẽ của tình hình kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong nước, hệ thống NHTM ngày

càng chiếm vị trí quan trọng và trở thành bộ phận không thể thiếu đối với nền kinh tế của

bất cứ một quốc gia nào.

Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng mà

hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn

trả và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Ngân hàng thương mại thường có các hoạt động cơ bản sau:

- Hoạt động huy động vốn:

Huy động vốn – là hoạt động quan trọng của các NHTM, trên cơ sở nguồn vốn huy

động được thì ngân hàng mới có kế hoạch triển khai tình hình kinh doanh của mình, ảnh

hưởng rất nhiều tới chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của

NHTM bao gồm nội tệ, ngoại tệ được hình thành chủ yếu từ: nhận tiền gửi, huy động vốn

thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, vay của NHNN, vay của các tổ chức tín dụng

khác ở trong và ngoài nước… Đồng thời, ngân hàng có thể tự lập nguồn vốn của mình

bằng cách phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng cổ phần), lập các quĩ từ lãi thu được.

Với số tiền có được từ huy động vốn, ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động tín dụng

(trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao) và đầu tư để đem lại thu nhập cho ngân

hàng.

- Hoạt động tín dụng và đầu tư

+ Hoạt động tín dụng (chủ yếu là hoạt động cho vay): là hoạt động chủ yếu của các

NHTM trong việc sử dụng vốn của ngân hàng để tiến hành cho vay với các thành phần

kinh tế với các thời hạn khác nhau nhằm các mục đích khác nhau như: bổ sung vốn lưu

động hoặc là để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định… đáp ứng các nhu cầu của sản

xuất kinh doanh hay chỉ là nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.

+ Hoạt động đầu tư: ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện đầu tư

trực tiếp, kinh doanh chứng khoán…

Đây là nguồn mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các NHTM nhưng hoạt động này

luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Các hoạt động nhằm cung cấp dịch vụ cho khách hàng:

Một số dịch vụ như:

+ Ngân hàng là trung gian thanh toán cho khách hàng với các khách hàng như: uỷ

nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, chuyển tiền, séc, L/C…

+ Bảo quản tài sản hộ khách hàng: các vật có giá như vàng bạc, đá quí, giấy tờ có

giá…

+ Cung cấp các dịch vụ uỷ thác, tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các

ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh

nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ

thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu

tư… Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính trên các

lĩnh vực như: đầu tư và quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập các doanh nghiệp.

+ Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán: nhiều ngân hàng

đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi

nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng triển khai dịch vụ bảo

hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán.

1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng

Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai bên, họ cam kết với nhau như sau:

- Một bên thì trao ngay một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ.

- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại lượng giá trị đó sau một thời gian nhất định

và theo một số điều kiện nhất định nào đó (như lượng giá trị hoàn lại phải lớn hơn lượng

giá trị ban đầu).

Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay, tuy nhiên khi

gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (trung gian tài chính khác) – tín dụng

ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.

Hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và

một số hoạt động khác. Việc mua trái phiếu của khách hàng cũng là một hình thức tài trợ

cho khách hàng, tuy vậy ở nội dung bài viết này tín dụng chỉ bao gồm việc tài trợ trực tiếp,

còn việc nắm giữ trái phiếu được xếp vào đầu tư chứng khoán. Trong các hoạt động tín

dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất chiếm tỷ trọng lớn

trong tổng tài sản và đây cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM vì

lẽ đó nên nhiều khi nhắc đến tín dụng ngân hàng thì được hiểu là hoạt động cho vay.

Quan hệ tín dụng ngân hàng có những đặc trưng sau:

- Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa một bên là ngân hàng và một bên là

các thành phần còn lại của nền kinh tế bao gồm: Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội, cá

nhân… Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm 2 hình thức cho vay (bằng tiền),

cho thuê (máy móc, thiết bị, bất động sản…).

- Quan hệ tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay chỉ được sử dụng

trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn sử dụng người đi vay phải hoàn trả cho

người vay, do đó khi ngân hàng xem xét việc cho vay thì yếu tố quan trọng nhất trong

quản lý tín dụng đó là xem xét khả năng trả nợ của khách hàng vay (dựa trên uy tín của

khách hàng, tình hình tài chính của người vay, dự án đầu tư có hiệu quả của khách hàng,

tài sản đảm bảo…).

- Nguyên tắc trong quan hệ tín dụng là giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn

giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm một phần lãi ngoài phần gốc có trách

nhiệm hoàn trả. Phần lãi này được ngân hàng xác định dựa trên lãi suất cho vay, thông

thường ngân hàng phải xác định một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn tỉ lệ lạm phát để

đảm bảo có được mức lãi suất thực dương.

1.1.3 Phân loại tín dụng

Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (thường chiếm khoản 70%) ở phần

lớn các NHTM và là hoạt động cơ bản của NHTM. Đối với loại tài sản này có thể được

phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.

- Phân chia theo thời gian: tín dụng được chia thành tín dụng ngắn hạn, trung hạn,

dài hạn. Đây là một trong những cách phân chia phổ biến vì thời gian nó có liên quan mật

thiết tới tính an toàn, sinh lợi của ngân hàng và khả năng hoàn trả của khách hàng.

+ Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn

ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất (thời gian từ 12 tháng trở xuống). Ngân

hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn

mức, có hoặc không có đảm bảo.

+ Tín dụng trung hạn: thông thường qui định là từ trên 1 năm – 5 năm (có ngân

hàng qui định là từ trên 1 năm – 7 năm), thường tài trợ cho các tài sản cố định như máy

móc thiết bi vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn.

+ Tín dụng dài hạn: có thời gian trên 5 năm thường được tài trợ cho các công trình

xây dựng, máy móc thiết bị có giá trị lớn và thường có thời gian sử dụng lâu.

Tuy vậy, việc xác định trên không hoàn toàn cứng nhắc, việc xác định thời hạn

nhiều khi cũng chỉ mang tính chất tương đối.Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng

thương mại thường cao hơn tín dụng trung, dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài

sản lưu động cho khách hàng, vì các khoản tín dụng trung, dài hạn thì ngân hàng thương

mại sẽ phải huy động nguồn vốn trung, dài hạn với chi phí đắt hơn, và các khoản vay

trung, dài hạn có nhiều rủi ro hơn.

- Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng: chiết khấu thương phiếu, cho vay, cho

thuê, bảo lãnh…

+ Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng khi

khách hàng cầm thương phiếu chưa đến hạn (hay giấy nợ) đến ngân hàng xin chiết khấu,

khoản tiền ứng trước được xác định dựa trên giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập

của ngân hàng (có tính đến các yếu tố rủi ro).

+ Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với sự cam kết hoàn trả của

khách hàng sau một thời gian xác định sẽ trả cả gốc và lãi. Cho vay là tài sản lớn nhất

trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: doanh số cho

vay trong kì (tổng số tiền ngân hàng đã cho vay trong kì), dư nợ cuối kì (tổng số tiền còn

cho vay tại thời điểm cuối kì). Khi lập các báo cáo tài chính thời điểm, cho vay được ghi

dưới hình thức dư nợ.

+ Cho thuê: hoạt động của ngân hàng chủ yếu là cho khách hàng vay bằng tiền để

mua tài sản, tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay (ví

dụ như đối với các doanh nghiệp mới thành lập), theo nhu cầu của khách hàng và trước

yêu cầu mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ đứng ra mua tài sản theo yêu cầu của

khách hàng rồi cho khách hàng thuê lại. Tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng,

do đó khi khách hàng không trả được nợ (tiền thuê), ngân hàng có thể thu hồi để cho thuê

lại hoặc đem bán điều này cũng góp phần giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.

+ Bảo lãnh: là hoạt động cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về

việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng

không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên bảo lãnh

(ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng), bên hưởng bảo lãnh (bên thứ

ba).

- Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:

+ Cho vay không có bảo đảm: đây là hình thức cho vay tín chấp, thường áp dụng

với những khách hàng có uy tín, làm ăn hiệu quả, không xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,

hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay hay các khoản cho vay theo chỉ thị

của Nhà nước không cần tài sản đảm bảo.

+ Cho vay có bảo đảm: đó là các khoản cho vay đối với các khách hàng có tài sản

cầm cố hoặc thế chấp, hay có bảo lãnh của người thứ ba.

Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: phân loại theo rủi ro, theo ngành kinh

tế, theo mục đích, theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định).

Với cách phân loại theo thời gian là phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài,

sang phần sau đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vào tín dụng trung, dài hạn và chất lượng tín

dụng trung, dài hạn.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn

1.2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn

Quan điểm tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt

Nam, người ta quan niệm tín dụng trung, dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên

1 năm:

- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như

phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị (thường hao mòn nhanh).

- Tín dụng dài hạn: tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, cầu, đường, sân

bay, máy móc thiết bi có giá trị lớn, hao mòn lâu.

Nguồn vốn trung, dài hạn là nguồn vốn quan trọng có thể đáp ứng các nhu cầu sau

của các chủ thể:

+ Đối với doanh nghiệp: đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định của doanh

nghiệp, gồm cả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Đầu tư chiều rộng để xây dựng

những công trình xí nghiệp, nhà xưởng mới. Đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết

bị. Đầu tư chiều sâu hiệu quả hơn hẳn đầu tư chiều rộng vì với cùng một diện tích nhà

xưởng nhưng năng lực sản xuất có thể tăng gấp 5 – 10 lần trước đó mà tiết kiệm vốn xây

dựng các công trình kiến trúc.

+ Đối với Nhà nước: Nhà nước vay trung, dài hạn để đầu tư phát triển, tăng trưởng

kinh tế.

+ Đối với cá nhân: ngân hàng cho vay với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu

mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, xe cộ…

Tín dụng trung, dài hạn có 3 đặc trưng chủ yếu sau:

Thứ nhất, giá trị của các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có giá trị lớn. Nền

kinh tế thế giới nói chung hay kinh tế mỗi nước đang nằm trong xu thế phát triển. Các

doanh nghiệp ở mỗi nước đều phải tích cực đổi mới khoa học công nghệ để nâng cao năng

suất lao động, đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo nên vị thế cạnh tranh,

nếu không đổi mới công nghệ thì họ sẽ bị lạc hậu sản phẩm làm ra không bán được và từ

đó đi đến chỗ phá sản. Tuy vậy, để đổi mới công nghệ (đầu tư mua máy móc trang thiết bị)

là chuyện không đơn giản vì số vốn để đầu tư là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với vốn tích

luỹ của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp sẽ tìm cách để huy động vốn hay vay vốn.

Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu tuy

nhiên để được phép huy động thì doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện cho việc phát

hành hoặc khi phát hành nhưng lại không có đủ được số vốn cần thiết. Vì vậy, để có đủ

lượng vốn lớn để đầu tư các doanh nghiệp sẽ tìm đến NHTM để vay vốn trung, dài hạn và

ngân hàng sẽ cho vay dựa trên tình hình hoạt động của doanh nghiệp, bản thân dự án có

hiệu quả.

Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn có thời gian dài, thời gian hoàn vốn chậm: tín dụng

trung, dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án có thời gian dài: đầu tư vào

các tài sản cố định, các tài sản này tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh, hơn nữa

việc thực hiện dự án thường phải trải qua thời gian thi công, lắp đặt… chính vì vậy, các

doanh nghiệp vay vốn sẽ không có tiền trả nợ trong thời gian này (khi dự án chưa có thu

nhập). Nguồn trả nợ của tín dụng trung, dài hạn được lấy chủ yếu từ nguồn khấu hao và lợi

nhuận sinh ra từ tài sản đầu tư và có thể từ một số nguồn khác mà doanh nghiệp có (ví dụ

như nguồn khấu hao lấy từ các tài sản hiện có khác của doanh nghiệp) do vậy doanh

nghiệp không thể giả nợ ngân hàng trong một thời gian ngắn được.

Chính vì đặc trưng này đòi hỏi ngân hàng phải có sự thẩm định kỹ càng vì dự án

kéo dài lâu (thời gian hoàn vốn chậm), trong thời gian kéo dài như vậy khả năng gặp phải

các rủi ro là rất lớn.

Thứ ba, lãi suất tín dụng trung, dài hạn thường cao hơn so với lãi suất ngắn hạn.

Như chúng ta đã biết thì lãi suất của một khoản vay phụ thuộc vào mức lãi suất chung của

thị trường, rủi ro của khoản vay đó, chi phí của ngân hàng, thời hạn cho vay… trong khi

đó các hoạt động của doanh nghiệp và quá trình sử dụng vốn vay luôn bị chịu ảnh hưởng

của các nhân tố trực tiếp, gián tiếp như chính trị, kinh tế, xã hội, các yếu tố tự nhiên, ngay

cả những yếu tố xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp. Do vậy khi thời gian cho vay bị kéo dài

thì việc tác động của các nhân tố trên tới tình hình của doanh nghiệp ngày càng nhiều và

nếu không có phương án dự phòng thì khả năng xảy ra rủi ro và tổn thất là rất lớn. Đồng

thời với khả năng xảy ra những rủi ro như vậy thì ngân hàng sẽ phải tốn nhiều nhân lực,

các nguồn lực vật chất khác để thẩm định dự án để tiến hành cho vay và ngân hàng sẽ phải

bỏ nhiều chi phí hơn cho việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn vay

trong một thời gian dài của các khoản tín dụng trung, dài hạn. Vì lẽ đó lãi suất của tín dụng

trung, dài hạn thường cao. Tuy vậy ngân hàng cần có một lãi suất hợp lí để tạo điều kiện

cho doanh nghiệp có thể vay được vốn và ngân hàng cũng có lợi nếu mức lãi suất mà quá

cao thì sẽ ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm ăn không hiệu

quả do chi phí cao và doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng điều này sẽ gây ra tổn

thất lớn cho ngân hàng.

1.2.1.2 Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường

Xem xét vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với khách hàng (chủ yếu là các

doanh nghiệp), ngân hàng, và trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.

- Đối với khách hàng:

Đối tượng chính của tín dụng trung, dài hạn chủ yếu là các doanh nghiệp. Các

doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đều cần có vốn để sản xuất, và hiện nay thì các

doanh nghiệp đều phải tự thân vận động để tìm vốn ngay cả các doanh nghiệp Nhà nước

cùng không thể trông chờ vào nguồn vốn ngân sách như trước. Kênh tín dụng ngân hàng là

một kênh cung cấp vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp bởi vì việc phát hành cổ

phiếu, trái phiếu để huy động vốn cũng gặp phải rất nhiều khó khăn và thị trường chứng

khoán của nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng sơ khai. Hình thức cấp tín dụng của

ngân hàng cũng là một hình thức cung cấp vốn có hiệu quả bởi vì việc cho vay đối với các

doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng vì vậy khi cho vay ngân hàng

sẽ phải thẩm định khách hàng vay kĩ lưỡng (năng lực tài chính, hiệu quả của dự án đầu tư,

nguồn trả nợ…) vì khi có rủi ro khách hàng không trả được nợ thì điều này sẽ gắn liền với

tổn thất của ngân hàng..

Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh

doanh liên tục, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư chiều sâu của các

doanh nghiệp, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Xét nhu cầu về vốn thực tế cho thấy xuất

phát từ đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn và sự không ăn khớp về thời gian, giữa khối

lượng mua và bán vật tư hàng hoá phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh dẫn đến một số

doanh nghiệp thiếu hụt về vốn. Mặt khác theo qui luật chung việc tái sản xuất mở rộng,

đầu tư theo chiều sâu (bởi vì một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nắm bắt và

tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm mẫu mã để đáp ứng nhu cầu của thị trường) là

không ngừng nếu doanh nghiệp chỉ trông chờ vào nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ để đầu

tư thì không thực tế, khó có thể thực hiện được.

Thêm vào đó, tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quyết định đến thời cơ kinh doanh và

chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ nguồn vốn tín dụng bổ sung

kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình.

Tín dụng trung, dài hạn đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế thúc góp phần làm tăng

năng lực sản xuất của doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.

- Đối với ngân hàng:

Ngoài khả năng sinh lợi tạo thu nhập khi cấp tín dụng trung, dài hạn cho khách

hàng, tín dụng trung, dài hạn còn tạo ra mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa khách hàng và

ngân hàng và nếu với sản phẩm dịch vụ này ngân hàng phục vụ khách hàng tốt thì sẽ tạo

ra được sự tin cậy của khách hàng, tạo ra điều kiện thuận lợi cho những giao dịch về sau.

Tín dụng trung, dài hạn còn tạo điều kiện gia tăng nhu cầu về vốn ngắn hạn. Như ta

đã biết khách hàng đến vay trung, dài hạn (xét với các doanh nghiệp) chủ yếu là để mua

sắm trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải hay là xây dựng mới mở rộng nhà xưởng

(tăng năng lực sản xuất) khi đó việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tăng lên kéo

theo đó nhu cầu của khách hàng về vốn lưu động, thêm vào đó là đã có mối quan hệ với

ngân hàng từ trước do đó khi có nhu cầu về vốn ngắn hạn họ sẽ tìm đến ngân hàng để vay.

- Đối với toàn bộ nền kinh tế

Đất nước ta đi lên nền kinh tế thị trường bắt đầu từ một nền sản xuất chủ yếu là

nông nghiệp với xuất phát điểm thấp cơ sở vật chất: máy móc, cơ sở hạ tầng… yếu kém

lạc hậu Trong điều kiện nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá

phát triển đất nước để theo kịp các nước phát triển, thì nhu cầu về vốn là rất lớn đặc biệt là

các khoản vốn trung, dài hạn. Do vậy, các NHTM có một vai trò quan trọng trong việc

cung cấp tín dụng trung, dài hạn cho nền kinh tế.

+ Tín dụng trung, dài hạn góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong

nền kinh tế. Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là một cầu nối

giữa những người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay để thoả mãn

được nhu cầu sản xuất kinh doanh và các chi tiêu. Chính nhờ quá trình này đã góp phần

làm giảm gánh nặng cho ngân sách, ngân sách Nhà nước không phải thực hiện việc bao

cấp nhiều như trước kia. Ngân sách chỉ được sử dụng vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường

xá, cầu cống, điện, nước…), đầu tư vào các công trình, hoạt động công ích hoặc vào một

số ngành kinh tế trọng yếu còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự thân vận động để

tìm vốn, trong đó kênh tín dụng của ngân hàng là một trong những quan tâm hàng đầu của

các doanh nghiệp.

+ Đầu tư vào những ngành then chốt, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất, tăng năng lực sản xuất của nền

kinh tế.

Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình ổn, tự chủ

về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh các ngành kinh tế

mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc

đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế cùng nhau phát triển toàn diện. Theo chiến lược

công nghiệp hoá là phải tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế đồng thời gắn

liền chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự

tăng trưởng vững chắc và lâu dài. Thông qua hoạt động của mình ngân hàng có thể cho

vay ngành này và không cho vay ngành khác (hay một số ngành then chốt mũi nhọn được

ưu tiên vay vốn phát triển, với lãi suất ưu đãi) điều này sẽ góp phần tăng tỷ trọng các

ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

+ Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu

Nhờ có nguồn vốn từ tín dụng trung, dài hạn các doanh nghiệp có thể đầu tư máy

móc qua việc nhập khẩu trang thiết bị từ nước ngoài - tận dụng khoa học công nghệ của

các nước tiên tiến trên thế giới để ứng dụng vào sản xuất và từ đó sản xuất ra nhiều mặt

hàng đẹp, tốt, giá rẻ để đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời nhiều mặt hàng chúng ta có

thể xuất khẩu ra nước ngoài. Việc mở rộng xuất nhập khẩu là con đường ngắn nhất để các

nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) theo kịp các nước phát triển.

+ Góp phần ổn định đời sống nhân dân tạo công ăn việc làm

Hoạt đông tín dụng góp phần cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục không

bị đình trệ, quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện nhờ vậy các cán bộ, công nhân

viên sẽ có việc làm ổn định có nguồn thu nhập ổn định từ đó ổn định đời sống nhân dân.

1.2.1.3 Các hình thức tín dụng trung, dài hạn

Tín dụng trung, dài hạn thường được diễn ra dưới một số hình thức chủ yếu sau:

- Tài trợ theo dự án:

Tài trợ theo dự án là một hình thức cho vay trung, dài hạn được tiến hành trên cơ sở

các dự án đầu tư. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng trong các dự án đầu tư hạ tầng

như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng lượng, xây lắp, giao thông…

Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện

dự án nhất định có thể xin vay ngân hàng, tuy vậy ngân hàng chỉ cho vay dựa trên những

dự án thể hiện được mục đích đầu tư, có kế hoạch đầu tư và quan trọng là dự án có hiệu

quả (sinh lời). Do vậy, việc thẩm định dự án là nội dung quan trọng của ngân hàng trước

khi tiến hành cho vay, từ đó sẽ quyết định được phần vốn vay và xác định khả năng hoàn

trả của khách hàng.

Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa

điểm, công nghệ, qui trình sản xuất, phân tích tài chính… trong đó phân tích tài chính là

mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng.

Có nhiều phương pháp để phân tích tài chính dự án, để đánh giá hiệu quả tài chính

của dự án có thể phân tích thông qua các chỉ tiêu sau: NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ

suất thu nhập bình quân… Bên cạnh việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá thích hợp, ngân hàng

đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn dùng để trả nợ ngân hàng. Do vậy, ngân hàng

luôn phân tích tài chính người vay kết hợp với phân tích dự án. Một doanh nghiệp có tình

hình tài chính lành mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay thực hiện

dự án. Các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở thành nguồn trả nợ cho ngân hàng

bên cạnh nguồn thu của dự án.

- Cho vay hợp vốn:

Cho vay hợp vốn là việc cho vay thực hiện bởi từ hai tổ chức cho vay trở lên để cho

vay một dự án đầu tư với những điều kiện và điều khoản tương đương: sử dụng hồ sơ

chung và quản lí bởi đầu mối chung. Có 2 loại:

+ Hợp vốn trực tiếp: với loại nghiệp vụ này sẽ có một số hợp đồng cho vay trong đó

mỗi ngân hàng cho vay sẽ đồng ý cung cấp một khoản vay với cùng các điều kiện và điều

khoản như các ngân hàng cùng tham gia cho vay khác. Mỗi hợp đồng cho vay sẽ độc lập

với các hợp đồng cho vay khác.

+ Hợp vốn gián tiếp: với loại nghiệp vụ này sẽ có một ngân hàng đứng đầu hoặc

nhiều ngân hàng cùng đứng đầu các ngân hàng này sẽ đứng ra ký hợp đồng cho vay tạm

(như là một bảng ghi nhớ) đối với khách hàng vay tiềm năng: các ngân hàng này sau đó sẽ

tiếp xúc với các ngân hàng khác để mời họ cùng tham gia góp vốn theo một tỉ lệ trong

khoản vay hợp vốn.

Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp dựa án đầu tư đòi hỏi một số

vốn vay quá lớn và một ngân hàng không thể đáp ứng được (vì giới hạn cho vay tối đa với

một khách hàng là 15% vốn tự có) hay như một dự án đầu tư mà ngân hàng thấy phức tạp,

tiềm ẩn rủi ro cao và khi đó các ngân hàng luôn muốn phối hợp thực hiện với nhau để san

sẻ rủi ro.

- Cho thuê tài chính:

Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay để khách hàng mua tài

sản. Tuy vậy trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ hay chưa đủ điều kiện để vay

(như các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập chưa đủ uy tín tín dụng). Vì vậy, ngân hàng

đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê. Cho thuê tài chính là một

trong 2 hình thức của cho thuê tài sản (còn một hình thức nữa là cho thuê nghiệp vụ - đáp

ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn), Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời

gian dài, hết hạn thuê bên đi thuê có thể mua lại, thuê tiếp hoặc trả cho ngân hàng. Vì tài

sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi tài sản để bán hoặc

cho người khác thuê nếu trong trường hợp khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng

điều này cũng giảm bớt một phần rủi ro cho ngân hàng.

Những vấn đề cần xem xét:

+ Ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng (để có tài sản để cho khách

hàng thuê) và sau một thời gian nhất định ngân hàng phải thu đủ cả gốc và lãi. Tiền gốc và

lãi sẽ được trả dưới hình thức tiền thuê hàng kì.

+ Ngân hàng có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải

bảo đảm về chất lượng tài sản đó. Ngân hàng có quyền thu hồi tài sản nếu thấy người thuê

không thực hiện đúng hợp đồng.

+ Ngân hàng không cam kết bảo dưỡng tài sản và không chịu trách nhiệm với

những thiệt hại của tài sản cho thuê.

+ Ngân hàng có thể gặp rủi ro khi khách hàng hoạt động kinh doanh không hiệu quả

họ không trả được tiền thuê, tài sản lại mang tính đặc chủng khó cho thuê lại khó bán, chi

phí tháo dỡ thu hồi cao…. hoặc tài sản của ngân hàng có thể gặp những rủi ro ngẫu nhiên

làm hư hại tài sản (đối với rủi ro này thi ngân hàng thường yêu cầu khách hàng mua bảo

hiểm cho tài sản).

+ Thời hạn cho thuê gồm 2 khoảng thời gian: thời hạn cơ bản, thời hạn gia hạn

thêm. Thời hạn cơ bản là thời hạn mà trong đó người đi thuê không được phép huỷ hợp

đồng. Thời hạn gia hạn thêm là thời hạn mà ngân hàng có thể cho khách hàng thuê tiếp

hoặc mua lại nếu khách hàng không thuê tiếp hay mua lại thì ngân hàng sẽ thu hồi để bán

hay cho người khác thuê. Nếu tài sản thuộc dạng khó bán hay khó cho thuê lại thì thời hạn

cơ bản phải đảm bảo cho ngân hàng thu đủ cả gốc và lãi. Do vậy lãi suất cho thuê thường

cao.

Cho thuê tài chính có những ưu điểm:

+ Cho thuê tài chính giúp ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình, mở

rộng khả năng kinh doanh, tăng thu nhập, tạo ra vị thế cạnh tranh trên thị trường.

+ Cho thuê tài chính giúp cho các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập chưa đủ uy

tín dụng thì vẫn có thể có tài sản theo ý muốn để sản xuất, và nó cũng giúp doanh nghiệp

sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của mình vẫn có tài sản để sử dụng mà không cần bỏ vốn

ra để mua tài sản, tránh ứ đọng vốn.

+ Việc giao dịch để cho thuê tài chính thì các thủ tục cũng đơn giản hơn so với các

hợp đồng tín dụng.

+ Việc cho thuê tài chính đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng đối tượng vì nó

gắn với tài sản cụ thể (theo mục đích của bên đi thuê) và trong trường hợp khách hàng thuê

không trả được tiền thuê thì ngân hàng có thể thu hồi tài sản điều này giảm bớt rủi ro cho

ngân hàng vì không thu hồi được vốn.

- Cho vay tiêu dùng

Ngân hàng cho vay tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của những người tiêu dùng

đối với các hàng hoá lâu bền như: nhà cửa, phương tiện vận chuyển, và một số các hình

thức khác như cho vay du lịch, du học…

Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng

khác, và việc nhiều doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn chính

vì vậy làm hoạt động cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp bị suy giảm

chính vi vây các ngân hàng đã phải tính đến phương án cho vay tiêu dùng. Và việc cho vay

này cũng phù hợp với nhu cầu của xã hội ngày một phát triển: đó là những người tiêu dùng

có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá

cao tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống tăng khả năng được đào

tạo… giúp họ tìm kiếm những công việc có mức thu nhập cao hơn về sau.

Phương thức cho vay: ngân hàng có thể cho vay trực tiếp với người mua (người tiêu

dùng trả tiền vốn vay và lãi cho ngân hàng thường là dưới hình thức trả góp) hoặc thông

qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh

nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn bộ hoặc một

phần giá trị hàng hoá.

Cho vay tiêu dùng thường có thời hạn dài, rủi ro cao vì nếu người vay bị ốm chết

hay bị mất việc ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Vì vậy nhiều ngân hàng lớn đã lập phòng

cho vay tiêu dùng để phụ trách mảng này. Thêm vào đó ngân hàng thường yêu cầu một

mức lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, mua bảo hiểm thất

nghiệp, bảo hiểm nhân thọ…

- Một hình thức nữa là FORFATING - thường là hình thức cung cấp tín dụng

ngắn hạn, trung hạn cho người bán trong các giao dịch mua bán hàng hoá trả chậm và

không truy đòi với người bán mà thu tiền thẳng từ người mua thực chất là mua lại quyền

thu nợ từ người bán và tài trợ trực tiếp cho người bán.

FORFAITING thực hiện tài trợ thông qua các công cụ như hối phiếu, lệnh phiếu,

thư tín dụng… Trừ khi người mua có đủ uy tín và không cần bảo đảm, thông thường hối

phiếu phải được kí hậu bảo đảm thanh toán bởi một ngân hàng của người mua. Trong một

số trường hợp ngân hàng có thể phát hành một thư bảo lãnh riêng. Với các chứng từ này

người bán có thể lấy được tiền hàng ngay bằng chiết khấu tại ngân hàng FORFAITING.

1.2.2 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn

1.2.2.1 Khái niệm

Hiện nay, có rất nhiều các ngân hàng, trung gian tài chính khác hoạt động (các

NHTM, ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài, các trung gian tài chính khác) cạnh

tranh gay gắt trong việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ và đây cũng là thị trường chứa

đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cuộc cạnh tranh và phát triển các dịch vụ, tiện ích ngân hàng

nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra sôi động và

căng thẳng. Với việc gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn

trong việc xâm nhập thị trường Việt Nam. Như vậy, sức ép cạnh tranh đối với các ngân

hàng nội địa cũng tăng lên và các ngân hàng trong nước đương nhiên sẽ gặp nhiều khó

khăn và thách thức. Trước điều kiện đó để đứng vững tồn tại phát triển trên thị trường đòi

hỏi các NHTM phải không ngừng cải tiến và ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân

hàng, và việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung, dài hạn nói riêng

cũng nằm trong guồng quay đó.

Chất lượng của một khoản tín dụng ngân hàng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất là

lợi ích kinh tế đem lại cho cả khách hàng, ngân hàng, và sự phát triển của kinh tế - xã hội.

Nghĩa là đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát

triển của ngân hàng, đồng thời đóng góp vào sự tăng trưởng, phát triển chung của xã hội.

Như vậy, chất lượng tín dụng trung, dài hạn là việc đáp ứng được nhu cầu vay vốn

trung dài hạn của khách hàng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng

thời phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.

Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng trung, dài hạn thể hiện là khoản tín dụng có

phù hợp với nhu cầu của khách hàng hay không, xét trên các mặt: qui mô, lãi suất, kỳ hạn,

thủ tục vay, phương thức giải ngân, thu nợ…

Đối với ngân hàng, chất lượng tín dụng trung, dài hạn thể hiện là sự phản ánh hiệu

quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại có hiệu quả hay không

trên phương diện an toàn, sinh lợi của ngân hàng do hoạt động tín dụng trung, dài hạn

mang lại.

Đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội, chất lượng của hoạt động tín dụng trung, dài

hạn thể hiện là sự đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế xã hội như: góp phần tích

tụ tập trung vốn trong nền kinh tế, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy sản xuất

kinh doanh lưu thông hàng hóa, giảm gánh nặng cho ngân sách…

Vì vậy, chúng ta cần căn cứ vào khái niệm chất lượng tín dụng để đánh giá hoạt

động tín dụng, nghĩa là cần đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn dưới giác độ khách

hàng, ngân hàng, kinh tế - xã hội.

1.2.2.2 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn

a) Dưới giác độ khách hàng

Khách hàng là những người sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng, khách hàng

(doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế) khi thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh, đầu tư họ

sẽ tìm đến các NHTM để vay vốn. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng

như hiện nay, nếu ngân hàng nào mà có thủ tục vay rườm rà, lã suất vay cao thì sẽ rất khó

giữ được khách hàng. Vì vậy, đối với khách hàng khi xem xét chất lượng tín dụng thì họ

xem xét các yếu tố như về lãi suất (gắn với chi phí của khách hàng), thời hạn vay, qui mô,

thủ tục vay, phương thức giải ngân, thu nợ của khoản tín dụng có đáp ứng được nhu cầu

của họ không. Cụ thể như sau:

- Khách hàng nhận được khoản vay với lãi suất phù hợp, khoản vốn đó đáp ứng đầy

đủ, kịp thời, đúng hạn theo đúng nhu cầu về vốn của khách hàng.

- Phương thức giải ngân và quá trình giải ngân của ngân hàng đáp ứng phù hợp với

phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng. Nếu một dự án của doanh

nghiệp đang trong quá trình thi công mà thiếu vốn, do ngân hàng giải ngân chậm trễ thì sẽ

gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Do vậy, việc giải ngân kịp thời là rất quan trọng.

- Khi tiến hành cho vay ngân hàng sẽ phải tiến hành thẩm định trên nhiều mặt. Tất

nhiên khi thực hiện dự án doanh nghiệp phải xây dựng một phương án kế hoạch sản xuất

kinh doanh hiệu quả, nhưng khi đến ngân hàng vay vốn thì ngân hàng thẩm định lại một lần

nữa và khi đó những ý kiến hợp lí của cán bộ tín dụng sẽ góp phần xây dựng cho dự án của

doanh nghiệp trở nên hiệu quả hợp lí hơn.

- Thủ tục vay đơn giản, thái độ của nhân viên nhiệt tình, chu đáo…

- Bên cạnh đó nếu khoản tín dụng trung, dài hạn đáp ứng được nhu cầu đổi mới

công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao

vị thế cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp thì khoản tín dụng đó là một khoản tín

dụng có chất lượng cao.

b) Dưới giác độ ngân hàng

Khi đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung hay hoạt động

tín dụng trung, dài hạn nói riêng, ngân hàng sẽ đánh giá cả về mặt định tính cũng như định

lượng để xem hoạt động tín dụng đó có đem lại hiệu quả hay không trên hai phương diện

an toàn và sinh lợi.

* Đánh giá về mặt định tính:

- Trước hết phải xem xét hoạt động tín dụng đó có phù hợp với mục tiêu chiến lược

của Ngân hàng Nhà nước, của bản thân ngân hàng mình trong từng giai đoạn, thì kì hay

không. Nếu hoạt động tín dụng đó mà đi ngược lại với mục tiêu trên thì chất lượng của

khoản tín dụng đó sẽ không được đảm bảo.

- Các khoản tín dụng có phù hợp với luật pháp, chính sách của Nhà nước, có đảm

bảo tuân thủ theo đúng qui trình tín dụng hay không? Chính điều này đảm bảo rằng việc

cấp tín dụng không đi ngược lại với luật pháp, và việc tuân thủ đúng qui trình tín dụng sẽ

làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng được nâng cao.

Khi đó, chất lượng tín dụng sẽ tăng.

- Một yếu tố nữa thuộc nhóm yếu tố định tính là trong quá trình cấp tín dụng sẽ góp

phần hoàn thiện dự án, phương án đầu tư của khách hàng, đem lại lợi ích cho cả hai bên.

Như chúng ta đã biết khi một khách hàng (doanh nghiệp) đến vay vốn thì họ sẽ phải trình

bày phương án đầu tư, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án cho ngân hàng, sau đó ngân

hàng sẽ tiến hành thẩm định để xét duyệt cho vay vốn, trong quá trình đó nếu ngân hàng

thấy có những điểm trong dự án chưa được hợp lí thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách

hàng điều chỉnh lại dự án cho hợp lí thay vì từ chối cấp tín dụng. Và khi trong quá trình thi

công dự án ngân hàng cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc phát sinh. Nếu

làm tốt được điều này doanh nghiệp thực hiện dự án có hiệu quả hơn và ngân hàng cũng

tránh được rủi ro do khách hàng không trả được nợ, chất lượng các khoản tín dụng dược

nâng cao.

- Quá trình theo dõi, giám sát đối với các khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Ngân

hàng sau khi cho vay vốn, sẽ tiến hành theo dõi, giám sát khách hàng có đầu tư vốn đúng

mục đích như các phương án đã trình bày với ngân hàng hay không, kê hoạch trả nợ ngân

hàng của khách hàng có đúng kì trả nợ hay không, tiến độ thi công công trình của khách

hàng ra sao… nếu thực hiện tốt điều này sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro từ các khoản tín

dụng, chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao.

* Đánh giá về mặt định lượng: ngân hàng sẽ đánh giá chất lượng các khoản tín

dụng trung, dài hạn trên một số chỉ tiêu như sau:

- Lượng vốn trung, dài hạn huy động được, tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn

trong tổng nguồn vốn huy động được trong 1 thời kỳ (thường là 1 năm).

Vốn huy động trung, dài hạn

Tỷ trọng huy động vốn trung dài hạn = ------------------------------------

Tổng nguồn vốn huy động

Thông qua chỉ tiêu này, ta biết được lượng vốn trung, dài hạn huy động được là bao

nhiêu và tỷ trọng của nó trong tổng nguồn vốn huy động. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ

lượng vốn huy động trung, dài hạn của ngân hàng là cao và sẽ có điều kiện để mở rộng cho

vay trung, dài hạn, khả năng lựa chọn các dự án có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng.

Tuy vậy, việc huy động vốn trung, dài hạn có chi phí rất cao do vậy ngân hàng phải là sao

sử dụng thật tốt nguồn vốn này nếu không sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.

- Chỉ tiêu về doanh số cho vay trung, dài hạn là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho

vay trung, dài hạn trong kì. Doanh số cho vay trung, dài hạn thể hiện qui mô tuyệt đối của

hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng – con số này và tốc độ tăng của nó cho

biết khả năng mở rộng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên chỉ tiêu này chưa

đủ để khẳng định về chất lượng tín dụng trung, dài hạn mà cần phải kết hợp với các nhóm

chỉ tiêu khác.

- Chỉ tiêu về dư nợ trung dài hạn, và tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn trong tổng dư nợ.

Dư nợ trung, dài hạn

Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn = ----------------------------

Tổng dư nợ tín dụng

Dư nợ trung dài hạn được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh số tiền mà ngân hàng

hiện đang cho vay trung, dài hạn tại thời điểm tính là bao nhiêu. Tỷ trọng dư nợ là số tương

đối thể hiện số tiền mà ngân hàng đang cho vay trung, dài hạn trong tổng số tiền mà ngân

hàng cho vay tại thời điểm tính. Như ta đã biết trên giác độ ngân hàng thì việc đánh giá

chất lượng tín dụng trên 2 phương diện là an toàn, sinh lợi do vậy nếu xem xét nhóm chỉ

tiêu này thì chưa thể đánh giá được về chất lượng tín dụng trung, dài hạn mà cần phải kết

hợp với các chỉ tiêu khác.

- Chỉ tiêu đánh giá tốc độ chu chuyển vốn trung, dài hạn

Doanh số thu nợ trung dài hạn trong năm

Vòng quay của vốn trung, dài hạn = -------------------------------------------------- trong năm

Tổng dư nợ trung dài hạn bình quân năm

Doanh số thu nợ trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn mà ngân hàng

giải ngân đã được hoàn trả trong một kì. Thông thường khi vòng quay vốn tăng lên tức là

ngân hàng có nhiều vốn hơn từ thu nợ để tiếp tục đầu tư, cho vay chứng tỏ ngân hàng đã

cho vay vốn có hiệu quả.

- Chỉ tiêu về khả năng cấp tín dụng trung, dài hạn

Vốn huy động trung, dài hạn

Khả năng cấp tín dụng trung, dài hạn = ----------------------------------

Dư nợ tín dụng trung, dài hạn

Chỉ tiêu này cho biết vốn huy động trung, dài hạn đáp ứng được bao nhiêu % nhu

cầu tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Nhìn chung chỉ tiêu này càng gần 1 là tốt cho

thấy việc ngân hàng sử dụng tốt nguồn vốn trung, dài hạn để cho vay. Nếu chỉ tiêu này

càng lớn hơn 1 thì cho thấy ngân hàng huy động được nhiều vốn trung, dài hạn hơn so với

nhu cầu và ngân hàng đã sử dụng vốn dài hạn cho vay ngắn hạn chứng tỏ sử dụng vốn lãng

phí, nếu chỉ tiêu này càng nhỏ hơn 1 chứng tỏ ngân hàng đã không huy động được vốn

trung, dài hạn để đáp ứng nhu cầu cho vay và phải sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay, khi

đó ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thanh khoản. Cả 2 trường hợp trên đều không hiệu

quả và ảnh hưởng đến khả năng an toàn, sinh lợi của ngân hàng, chất lượng hoạt động tín

dụng trung, dài hạn thấp.

- Chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ quá hạn / tổng dư nợ tín dụng (đã loại trừ nợ khoanh và

cho vay uỷ thác)

Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần

hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Đối với hoạt động tín dụng trung, dài hạn, sử

dụng chỉ tiêu nợ quá hạn trung, dài hạn và nợ quá hạn trung, dài hạn / tổng dư nợ tín dụng

trung, dài hạn.

Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng trung, dài hạn.

Khi đến hạn trả nợ ngân hàng (bao gồm gốc và lãi), nếu khách hàng không trả được nợ và

khoản nợ không được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kì hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ

cho khách hàng) thì ngân hàng sẽ chuyển khoản vay đó sang nợ quá hạn. Các khoản nợ quá

hạn là điều mà các ngân hàng đều không mong muốn và luôn tìm mọi cách để hạ tỉ lệ nợ

quá hạn tới mức thấp nhất.

Tuy vậy, theo các quan điểm khác nhau các cách tính toán khác nhau về kì hạn nợ

và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.

Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng

Các cán bộ tín dụng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh

của người vay, hoặc là họ sử dụng nguồn ngắn hạn là chủ yếu và họ đặt kì hạn ngắn để hạn

chế rủi ro nhưng chính điều này lại không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi

đến hạn thì đương nhiên người vay sẽ không trả được nợ.

Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ

Khi đến hạn người vay không trả được nợ, thì để che dấu khoản nợ quá hạn thì

khách hàng và nhân viên ngân hàng có thể thoả thuận để vay khoản mới để trả nợ cũ (đảo

nợ), hay có thể thực hiện giãn nợ. Những hành vi này làm cho các chỉ tiêu trên không phản

ánh đầy đủ chất lượng tín dụng.

Thứ ba, do chính sách cho vay

Ở các NHTM Nhà nước có rất nhiều khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, việc

xử lí các khoản nợ này rất phức tạp, nhiều ngân hàng đã đưa các khoản nợ này ra khỏi chỉ

tiêu nợ quá hạn và xếp vào nợ khoanh (nếu được Chính phủ đồng ý), tuy vậy chúng thực sự

đe doạ thu nhập của ngân hàng nếu Chính phủ chưa tìm được nguồn để bù đắp.

Thứ tư, do sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng

Theo điều 11 khoản 3 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì sau khi đã sử dụng dự

phòng để xử lí rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng phải chuyển các khoản nợ đã được xử lí rủi

ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có biện

pháp thu hồi triệt để. Do vậy các khoản nợ này không nằm trong chỉ tiêu nợ quá hạn.

- Chỉ tiêu nợ xấu, nợ xấu / tổng dư nợ (bao gồm nợ khoanh, loại trừ cho vay uỷ

thác). Và đối với hoạt động tín dụng trung, dài hạn: nợ xấu trung, dài hạn / tổng dư nợ

trung, dài hạn.

Trước hết ta phải hiểu thế nào là nợ xấu, theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN,

nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5 qui định tại điều 6 hoặc điều 7 của

cùng qui định này.

Nếu theo điều 6:

 Nhóm 3: bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày.

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.

Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.

 Nhóm 4: bao gồm

Các khoản nợ quá hạn từ 181 – 360 ngày.

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã

cơ cấu lại.

Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.

 Nhóm 5: bao gồm

Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.

Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5 theo qui định tại khoản 3, 4 điều này.

( Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng

(TCTD) mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc

phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn

tương ứng với mức độ rủi ro.

Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại

thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá là khả

năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các

khoản nợ đó vào các nhóm nợ có rủi ro cao hơn).

Nếu theo điều 7: (tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại

nợ theo phương pháp định tính, căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ)

 Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá

là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín

dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.

 Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả

năng tổn thất cao.

 Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng

đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Các ngân hàng đều muốn hạ thấp tỉ lệ này, nếu chỉ tiêu này cao thì chất lượng tín

dụng của ngân hàng là thấp.

Ngoài các chỉ tiêu trên còn có một số chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng hoạt

động tín dụng trung, dài hạn như:

- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi trung, dài hạn / tổng dư nợ trung, dài hạn

(Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn đã quá một kì gia hạn nợ)

- Chỉ tiêu nợ trung, dài hạn không có khả năng thu hồi / tổng dư nợ trung, dài hạn.

- Chỉ tiêu về lợi nhuận:

Lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn / Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn

Lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn / Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng

c) Dưới giác độ nền kinh tế

Một hoạt động tín dụng không chỉ đem lại lợi ích cho cả hai bên (ngân hàng và

khách hàng), mà đứng trên giác độ kinh tế - xã hội nó còn phải đóng góp vào sự phát triển

chung của xã hội. Ta có thể đánh giá hoạt động tín dụng trung, dài hạn dưới giác độ kinh

tế- xã hội thông qua một số chỉ tiêu sau:

Thứ nhất: hoạt động tín dụng đó có phù hợp với mục tiêu, chiến lược của Nhà nước

đối với từng vùng từng lãnh thổ hay không? Đóng góp ra sao vào việc thúc đẩy sản xuất

kinh doanh, lưu thông hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế… trên địa bàn đó.

Thứ hai: hoạt động tín dụng có góp phần thúc đẩy tích tụ tập trung vốn trong nền

kinh tế, giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước, đóng góp như thế nào vào sự tăng trưởng

kinh tế.

Thứ ba: trong việc giải quyết vấn đề công ăn việc làm của người lao động. Như

chúng ta đã biết tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế cao còn kéo theo hàng loạt các vấn đề

khác: đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, các tệ nạn xã hội, bất ổn về chính trị, gánh

nặng cho ngân sách vì phải tăng phúc lợi, trợ cấp… đây là điều mà các quốc gia không

mong đợi.Vì vậy, khi hoạt động tín dụng tài trợ cho các dự án, mà dự án đó hoạt động tốt

thì đã phần nào góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.

1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn

Hoạt động tín dụng ngân hàng là mối quan hệ giữa ngân hàng và các chủ thể khác

trong nền kinh tế, mối quan hệ này được đặt trong một môi trường kinh tế, xã hội nhất

định. Do đó có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Nếu đứng trên giác độ

ngân hàng trong mối quan hệ trên thì có thể phân thành hai nhóm các nhân tố: nhóm nhân

tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng, nhóm nhân tố khách quan (bao gồm: nhóm nhân

tố thuộc về môi trường kinh tế - xã hội và nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng).

a) Các nhân tố khách quan

* Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế, xã hội

Ta có thể xem xét sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến chất

lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng từ các yếu tố sau:

- Môi trường kinh tế:

Ngân hàng cũng như doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, hoạt động tín

dụng là hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế và nó

đóng vai trò như một hoạt động kinh doanh, một hoạt động đầu tư của ngân hàng, hoạt

động này đem lại thu nhập cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều rủi ro gây

tổn thất cho ngân hàng. Do vậy hoạt động tín dụng không thể tách rời môi trường kinh tế.

Nếu một môi trường kinh tế lành mạnh, phát triển thì cũng tạo điều kiện cho hoạt động tín

dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn mở rộng qui mô tín dụng vì có nhiều

cá nhân, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư, sản xuất đồng thời chất lượng tín dụng cũng

được nâng cao do nền kinh tế phát triển nhiều cá nhân, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và

họ trả được nợ ngân hàng đúng hạn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại khi nền

kinh tế suy thoái lâm vào khủng hoảng thì các ngân hàng sẽ không mở rộng được qui mô

tín dụng thậm chí còn phải thu hẹp qui mô, chất lượng các khoản tín dụng cũng không

được đảm bảo do các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế hoạt động không hiệu quả và

họ không trả được nợ ngân hàng, đồng thời sự thay đổi của nhiều biến số kinh tế khác như

lạm phát, tỷ giá, lãi suất… sẽ gây rủi ro rất lớn cho ngân hàng.

- Môi trường pháp lý

NHTM cũng là một tổ chức kinh tế - xã hội, không những thế NHTM là một tổ chức

hoạt động kinh doanh đặc biệt (hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ) có ảnh hưởng nhiều mặt

đến các hoạt động khác trong nền kinh tế. Do vậy, trong các hoạt động của mình ngân hàng

luôn phải tuân thủ các qui định về luật pháp của Nhà nước. Như vậy, môi trường pháp lý có

ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói

riêng. Với một hệ thống pháp lý đầy đủ đồng bộ ổn định thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động

tín dụng được mở rộng và phát triển.

- Môi trường chính trị xã hội

Một môi trường xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của

NHTM trong đó có hoạt động tín dụng. Nếu một đất nước mà có sự bất ổn về mặt chính trị

xã hội, thì đương nhiên rất nhiều nhà đầu tư (doanh nghiệp, cá nhân) sẽ không đầu tư sản

xuất kinh doanh ở đất nước đó nữa và khi đó hoạt động tín dụng sẽ không được mở rộng

đồng thời khi chính trị xã hội bất ổn sẽ dẫn tới việc rất nhiều khách hàng sẽ không có khả

năng trả được nợ cho ngân hàng, rủi ro là rất lớn.

* Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng

- Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp

Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động tín dụng trung, dài hạn của mình nhưng điều này lại

chỉ có thể thực hiện được khi khách hàng có nhu cầu về vốn trung, dài hạn. Hiện nay, đối

với nước ta, đang trong quá trình xây dựng phát triển đất nước thì nhu cầu về vốn trung, dài

hạn là rất lớn do vậy việc mở rộng tín dụng trung, dài hạn cũng là điều cấp thiết. Tuy vậy,

đối với từng ngân hàng cụ thể thì lại phải có những chiến lược riêng, bất kì một ngân hàng

nào cũng có những khách hàng truyền thống hoạt động trong một số lĩnh vực, tuỳ từng thời

kì những khách hàng của ngân hàng có những nhu cầu vốn khác nhau, do đó muốn mở

rộng hoạt động tín dụng trung, dài hạn ngân hàng cũng phải có chiến lược mở rộng đối với

những khách hàng mới có nhu cầu vốn trung, dài hạn.

- Năng lực của khách hàng

Đây là một trong những yếu tố mà các ngân hàng quan tâm trong việc cấp tín dụng

cho khách hàng. Không phải bất kì khách hàng nào muốn vay vốn đều được cho vay mà

ngân hàng phải tiến hành thẩm định kĩ càng các doanh nghiệp, cá nhân trên nhiều phương

diện: năng lực tài chính, năng lực quản lí, dự án hiệu quả, khả năng trả nợ… rồi mới quyết

định cho vay. Do vậy nhân tố này có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của khoản tín dụng, nếu

khách hàng có năng lực mạnh trên nhiều phương diện có khả năng trả nợ đúng hạn thì chất

lượng của khoản tín dụng cao còn ngược lại khách hàng mà không trả được nợ gây tổn thất

cho ngân hàng thì khoản tín dụng này có chất lượng thấp.

Năng lực của khách hàng (chủ yếu đề cập là các doanh nghiệp) được thể hiện ở

những mặt sau:

+ Năng lực tài chính: được thể hiện là doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không, khả

năng thanh khoản ra sao, vốn tự có của doanh nghiệp là bao nhiêu, tình hình nợ của doanh

nghiệp là như thế nào… Nhìn chung năng lực tài chính của doanh nghiệp cao thì khả năng

đáp ứng các yêu cầu của tín dụng càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

+ Năng lực quản lý: công tác quản lý trong doanh nghiệp luôn là một công tác quan

trọng, nếu công tác quản lý mà không tốt, không có sự nhạy bén thì khi có sự biến đổi

trong môi trường hoạt động của doanh nghiệp thì có rất nhiều khả năng các doanh nghiệp

bị thua lỗ nặng nề. Thực tế đã chứng minh ở nhiều doanh nghiệp chỉ cần có sự thay đổi ở

người điều hành công ty mà công ty từ chỗ sắp phá sản mà trở nên làm ăn có lãi. Năng lực

quản lý được thể hiện ở năng lực của các nhân sự quản lý và sự phối hợp giữa các thành

viên trong ban quản lý để tổ chức thực hiện các hoạt động của công ty.

+ Khả năng tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp

Bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều cần chiếm lĩnh thị trường có như vậy thì

hàng hoá sản xuất ra mới tiêu thụ được, nếu hàng hoá mà sản xuất ra có tốt đến mấy mà

người sử dụng không biết tới thì cũng chả có ý nghĩa gì. Do vậy, một doanh nghiệp mà

thực hiện công tác thị trường tốt, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường là tốt thì khả năng

đáp ứng các yêu cầu của tín dụng là cao, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung

và tín dụng trung, dài hạn nói riêng.

+ Hiệu quả của dự án, phương án đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp

Khi xem xét việc cho vay ngoài các yếu tố về doanh nghiệp (như năng lực quản trị

điều hành, uy tín, tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp…) thì ngân

hàng còn xem xét bản thân phương án đầu tư, dự án (sau đây gọi chung là dự án) có hiệu

quả hay không, có mang tính khả thi hay không, doanh nghiệp sử dụng những nguồn vốn

nào để thực hiện dự án, chi phí ra sao, xem xét các yếu tổ đầu vào đầu ra của dự án, có đảm

bảo tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho doanh nghiệp hay không, sự hoạt động của dự án có

đảm bảo cho việc trả nợ ngân hàng hay không… Nhìn chung dự án của doanh nghiệp có

hiệu quả và đảm bảo trả nợ cho ngân hàng, chính điều này góp phần nâng cao chất lượng

tín dụng.

+ Khả năng đáp ứng các điều kiện về tài sản đảm bảo

Ngoài trường hợp cho vay theo chỉ định của Nhà nước, hay cho vay với các khách

hàng lâu năm có uy tín thì không cần tài sản đảm bảo. Còn các trường hợp khác ngân hàng

đều yêu cầu về tài sản đảm bảo, nếu khách hàng đáp ứng được yêu cầu về tài sản đảm bảo

thì việc cấp tín dụng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, và chất lượng tín dụng phần nào dược bảo

đảm.

- Một yếu tố nữa được xem xét đó là sự trung thực của khách hàng

Nhiều khách hàng cố tình chây ì trong việc trả nợ ngân hàng, có một số khách hàng

còn thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Khi rơi vào các trường

hợp này thì rõ ràng các ngân hàng đã gặp phải rủi ro, chất lượng khoản tín dụng là thấp. Do

vậy, ngân hàng cần tiến hành thẩm định kỹ càng trước khi cho vay để giảm thiểu rủi ro này.

b) Các nhân tố chủ quan

Các nhân tố thuộc về khả năng, năng lực của ngân hàng luôn được coi là nhân tố

quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động

tín dụng cũng là một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, do vậy muốn nâng

cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn cần quan tâm tới các nhân tố sau:

- Chính sách về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng trong từng thời kì. Đối với

từng thời kì ngân hàng có những chính sách tín dụng trung, dài hạn riêng, thí dụ như ở từng

thời kì ngân hàng sẽ có những ưu tiên đối với một số lĩnh vực và hạn chế cho vay với một

số ngành nào đó. Nếu khoản tín dụng trung, dài hạn mà đi ngược lại chính sách của ngân

hàng thì khả năng gặp rủi ro là rất lớn.

- Nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn

Ngân hàng không thể mở rộng cho vay với nhiều đối tượng khách hàng nếu nguồn

vốn huy động trung, dài hạn là ít và khi đó ngân hàng sẽ bỏ qua rất nhiều các dự án có hiệu

quả mà ngân hàng không thể tham gia do không đủ nguồn vốn trung, dài hạn (nếu lấy

nguồn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn thì ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân

hàng). Do đó muốn mở rộng tín dụng trung, dài hạn, muốn nâng cao chất lượng tín dụng

trung, dài hạn cần phải quan tâm tới cơ cấu nguồn vốn trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn.

- Thông tin tín dụng

Chất lượng một khoản cho vay có tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào thông tin

mà ngân hàng thu thập được về phía khách hàng. Nếu các thông tin thu thập được bằng

nhiều nguồn khác nhau mà chính xác thì ngân hàng sẽ có những quyết định đúng. Ngược

lại cho vay mà thiếu thông tin thì khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn.

- Sự hợp lý của qui trình và chất lượng thẩm định tín dụng trung, dài hạn

Nếu công tác thẩm định được tiến hành kỹ càng, chặt chẽ, đúng qui trình thẩm định

thì sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được những dự án khả thi, từ đó góp phần giảm được rủi ro,

gây tổn thất cho ngân hàng.

- Kiểm soát tín dụng

Đây là khâu quan trọng sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng theo dõi

giám sát doanh nghiệp sử dụng vốn có đúng mục đích hay không, có đảm bảo được luồng

tiền về để trả nợ ngân hàng hay không. Nếu khâu này được làm tốt thì hạn chế rất nhiều các

rủi ro có thể xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

- Trình độ công nghệ, trang thiết bị ngân hàng

Nếu một ngân hàng mà có các công nghệ trang thiết bị hiện đại thì sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho các hoạt động của ngân hàng, hoạt động tín dụng trung, dài hạn cũng vậy.

Với máy móc hiện đại thì thuận lợi trong việc thu thập thông tin về khách hàng, nâng cao

được chất lượng thẩm định các thủ tục khi cho vay sẽ được đơn giản hoá rất nhiều, rút ngắn

được thời gian cho cả khách hàng lẫn ngân hàng… khi đó tạo điều kiện cho việc mở rộng,

nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

- Trình độ cán bộ tín dụng

Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào chứ không riêng gì lĩnh vực hoạt động kinh

doanh của ngân hàng, yếu tố con người chính là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành bại của

hoạt động đó. Khi hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng cán bộ

tín dụng ngày càng cao và luôn giữ đúng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

Ngoài ra còn một số nhân tố khác như: các chính sách khách hàng, thái độ phục vụ

của nhân viên tín dụng, các thủ tục của ngân hàng khi cho vay, công tác tổ chức hoạt động

tín dụng… ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

Trong chương 1 chuyên đề đã hệ thống hoá được những lý thuyết chung về: những

hoạt động kinh doanh của NHTM; đặc trưng, vai trò, các loại hình của hoạt động tín dụng

trung, dài hạn; khái niệm, đánh giá, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung,

dài hạn , trên cơ sở đó chương 2 sẽ đi sâu phân tích thực trạng chất lượng tín dụng trung,

dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH

NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ

VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.1 Quá trình phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố

Hà Nội

* Lịch sử hình thành phát triển:

Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội tiền thân của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Thành phố Hà Nội ngày nay được ra đời vào ngày 27/05/1957, gần một nửa thế

kỉ đã đi qua, Ngân hàng đã trải qua nhưng lần đổi tên để phù hợp với từng giai đoạn phát

triển:

- Chi hàng kiến thiết Thành phố Hà Nội (1957 – 1981).

- Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thành phố Hà Nội (1982 – 1989).

- Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội (1990 – nay) gọi tắt

là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.

Quá trình hoạt động của ngân hàng đã đóng góp vào quá trình phát triển của đất

nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng:

- Năm 1957 – 1965: Chi hàng cung cấp vốn phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế

sau chiến tranh chống Pháp và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

- Năm 1965 – 1975: Chi hàng cung cấp vốn phục vụ chống chiến tranh phá hoại của

giặc Mỹ, leo thang đánh phá miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước.

- Năm 1975 – 1995: sau khi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử hoàn toàn thắng lợi và

thống nhất, Chi hàng đã thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới: cung cấp vốn cho nền kinh tế

phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh góp phần xây dựng thủ đô trong điều

kiện mới. Và khi bước sang thời kì đổi mới, ngân hàng đã có những chuyển biến mới về

chất, phải thực hiện huy động vốn để hoạt động cả trong nước và ngoài nước chứ không thể

trông chờ mãi vào ngân sách như trước kia và thực sự đi vào kinh doanh tiền tệ tín dụng và

dịch vụ ngân hàng.

- Từ năm 1995 đến nay ngân hàng chuyển sang giai đoạn mới: kinh doanh đa năng

tổng hợp, thực sự trở thành một ngân hàng thương mại quốc doanh phục vụ chủ yếu trong

lĩnh vực đầu tư phát triển, thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới kinh doanh một cách

hợp lí theo hướng phát triển mạng lưới ngân hàng bán lẻ, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ cơ động.

Từ những ngày đầu khi mới thành lập, mô hình tổ chức của ngân hàng chỉ có 2

phòng: phòng Kế toán và phòng Cấp phát, trải qua quá trình hoạt động kinh doanh ngày

càng phát triển cho đến nay tổ chức của ngân hàng gồm: ngoài Ban giám đốc còn có 22

phòng ban, phòng giao dịch. Ngân hàng tới đây cũng khai trương thêm 2 điểm giao dịch

mới, ở nội dung bài viết này chưa được đề cập vào.

* Khái quát về cơ cấu tổ chức của chi nhánh: được chia thành các khối như sau:

- Khối tín dụng:

Sau khi chương trình dự án hiện đại hoá vận hành ổn định các phòng tín dụng được

bố trí gồm 4 phòng thực hiện nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp và tín dụng dân cư.

+ Phòng tín dụng 1: Chuyên sâu khách hàng là doanh nghiệp xây lắp, giao thông.

+ Phòng tín dụng 2: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế địa phương.

+ Phòng tín dụng 3: Chuyên sâu khách hàng tư nhân và các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh.

+ Phòng tín dụng 4: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế Trung Ương trong

lĩnh vực xây dựng công nghiệp.

- Khối dịch vụ:

+ Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch đối

với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức khác.

+ Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với

khách hàng cá nhân.

+ Phòng thanh toán quốc tế: trên cơ sở hạn mức, khoản vay, bảo lãnh, L/C đã được

phê duyệt thực hiện các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho khách hàng, thực hiện các

giao dịch mua bán ngoại tệ…

- Khối chức năng: bao gồm các phòng

+ Phòng kế hoạch - nguồn vốn

+ Phòng thẩm định và quản lý tín dụng

+ Phòng tài chính kế toán

+ Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ

+ Phòng tổ chức cán bộ

+ Văn phòng

Sơ đồ cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban được đề cập

chi tiết ở phụ lục 1.

Trong gần nửa thế kỉ qua, mặc dù gặp không ít khó khăn, nhưng Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Hà Nội đã không ngừng vươn lên. Đến nay, ngân hàng đã đạt được những

thành công nhất định và trở thành một trong những đơn vị mạnh nhất của hệ thống Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong nhiều năm liền Ngân hàng luôn đạt danh hiệu

vững mạnh, được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba (1997), huân

chương lao động hạng nhì (2002) và hàng loạt các huân chương bằng khen của Chủ tịch

nước, của Thủ tướng Chính Phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và rất nhiều các cá

nhân và liên đoàn khác tặng cho những danh hiệu cao quý.

2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Thành phố Hà Nội

2.1.2.1 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng

Hiện tại ở ngân hàng đang hoạt động trên những lĩnh vực sau:

- Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu đồng, nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ

đối với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo những kì hạn khác nhau.

- Cho vay khách hàng theo hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự phòng, khách

hàng từng lần, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay đồng tài trợ, cho vay cầm cố chứng từ có

giá và các hình thức cho vay khác.

- Nhận chuyển tiền trong và ngoài nước 2 chiều

- Bảo lãnh các khoản vay và thanh toán của các pháp nhân, thể nhân trong và ngoài

nước.

- Dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union

- Dịch vụ ngoại hối bao gồm mua bán ngoại tệ, hỗ trợ tư vấn khi sử dụng dịch vụ

ngoại hối.

- Dịch vụ thanh toán quốc tế xuất nhập khẩu, thanh toán và chi trả kiều hối, mở thư

tín dụng L/C và thanh toán nhanh chóng với chi phí thấp nhất qua mạng SWIFT.

- Dịch vụ uỷ thác: thanh toán lương tự động qua tài khoản.

- Dịch vụ gói BIDV – Smart Account gồm có dịch vụ thu hộ, quản lí vốn tự động,

tài khoản tiền gửi thanh toán lãi suất phân tầng theo số dư dành cho các tổ chức kinh tế, tổ

chức tài chính.

- Dịch vụ thẻ BIDV – ATM và hệ thống máy rút tiền tự động ATM.

- Dịch vụ Mobile Banking - gửi nhận tin nhắn tự động truy vấn thông tin tài khoản ,

lãi suất, tỉ giá ngoại hối…

2.1.2.2 Hoạt động huy động vốn

Công tác huy động vốn là công tác luôn được coi trọng tại Chi nhánh Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, toàn thể ban lãnh đạo cùng các nhân viên luôn

nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của công tác huy động vốn là sự quyết định tồn tại của ngân

hàng, xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp lí sẽ là cơ sở để nâng cao kết quả kinh

doanh của ngân hàng. Ta có thể nghiên cứu tình hình huy động vốn của chi nhánh thông

qua bảng sau:

Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh

Đơn vị: triệu đồng

(ngoại tệ qui đổi)

STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Tổng nguồn vốn huy động 4.044.022 4.688.034 6.931.151

I Phân theo loại nguồn vốn

+ Tiền gửi từ dân cư 1.507.439 1.663.149 1.895.397

+ Tiền gửi từ các tổ chức 2.536.583 3.024.885 5.035.754

II Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền

+ Nguồn nội tệ 3.083.090 3.741.723 5.349.945

+ Nguồn ngoại tệ qui đổi 960.932 946.311 1.581.206

(Các khoản tiền gửi đã bao gồm việc huy động bằng việc phát hành kì phiếu, trái phiếu)

Nguồn: Báo cáo tổng hợp huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Thành phố Hà Nội từ 2004 - 2006

Nhìn từ bảng số liệu trên ta thấy tình hình huy động vốn tại ngân hàng qua 3 năm

2004, 2005, 2006 liên tục tăng trưởng. Năm 2005 tổng nguồn tăng lên là 644.012 triệu đ

với tốc độ gia tăng là 15,925% và năm 2006 tăng so với 2005 là 2.243.117 triệu đ với tốc

độ gia tăng là 47,85% như vậy đã có một sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn huy động trong

năm 2006 với mức tăng kỉ lục là 47,85% trong đó tổng nguồn huy động nội tệ không

ngừng tăng trưởng. Năm 2005 nguồn ngoại tệ huy động lại thấp hơn năm 2004, vào thời

điểm này tỷ giá của đồng USD tăng mạnh so với VNĐ, người dân muốn giữ ngoại tệ để

bán ra đầu cơ kiếm lợi có thể là một nguyên nhân giải thích cho điều này. Và đến năm

2006 thì cả nguồn vốn huy động nội tệ và ngoại tệ đều tăng mạnh.

Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì nguồn vốn huy động từ các tổ chức là chiếm

tỷ trọng lớn (2004: 62,72%; 2005: 64,52%; 2006: 72,65%), lý giải cho điêu này là do các tổ

chức nắm giữ một lượng lớn các kì phiếu và trái phiếu huy động của ngân hàng.

Trong những năm tới ngân hàng cần chú trọng tăng mạnh nguồn vốn huy động từ

dân cư vì nguồn vốn này mang tính ổn định bền vững trong cơ cấu nguồn vốn.

Đạt được những thành tựu trên, ngân hàng đã thực hiện có hiệu quả các biện pháp

như: mở rộng mạng lưới huy động dân cư, đổi mới phong cách phục vụ với khách hàng,

chú trọng tiếp thị quảng cáo, chính sách tiền gửi với lãi suất cao, chú trọng tìm kiếm khách

hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu huy động có hiệu quả, chi nhánh cũng đã giao chỉ tiêu

và đôn đốc đối với từng đơn vị thực hiện công tác huy động vốn…

2.1.2.3 Hoạt động cho vay

Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng, xác định

đúng nhiệm vụ đó chi nhánh đã luôn chú trọng hoạt động cho vay, hoạt động cho vay đã

không ngừng tăng lên qua các năm, một mặt chi nhánh vẫn giữ vững mối quan hệ với các

khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp thuộc khối xây lắp và giao thông và một mặt

chi nhánh đã mở rộng sản phẩm cho vay và đối tượng khách hàng và một trong những nhân

tố quan trọng thúc đẩy việc cho vay đó là công tác huy động vốn đã hoàn thành tốt nhiệm

vụ của mình để tạo điều kiện cho cho vay tăng trưởng. Thêm vào đó trong những năm vừa

qua ngân hàng đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác tín dụng, cải tiến qui trình tín dụng,

đổi mới phong cách làm việc của cán bộ công nhân viên đồng thời thực hiện chế độ “giao

dịch một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến vay vốn.

Tổng dư nợ (đã loại trừ nợ khoanh, cho vay uỷ thác) qua các năm đã không ngừng

tăng lên từ 2.873.970 trđ năm 2004 lên 3.388.219 trđ (2005) với tốc độ gia tăng là 17,89%

và đến năm 2006 là 3.597.134 trđ với tốc độ gia tăng là so với năm 2005 là 6,17%. Ở năm

2006 tốc độ gia tăng bị chậm lại, nguyên nhân là do: vào thời gian này thì các doanh

nghiệp xây lắp, giao thông – khách hàng chủ yếu của ngân hàng bước vào thời kì khó khăn

bản thân các công ty này cũng có tốc độ tăng trưởng chậm lại, thêm nữa có một số đổ bể về

tín dụng của hệ thống các ngân hàng do vậy thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam, ngân hàng đã nâng cao hơn chất lượng tín dụng, rà soát một cách kĩ

càng hơn các doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn tuy vậy thì tổng dư nợ tín dụng của

ngân hàng vẫn tăng lên đã chứng tỏ một cố gắng lớn của ngân hàng.

Xem xét cơ cấu dư nợ qua bảng sau:

Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ

Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

STT Chỉ tiêu Dư (trđ) Tỷ lệ Dư (trđ) Tỷ lệ Dư (trđ) Tỷ lệ

(%) (%) (%)

Tổng dư nợ 2.873.970 100 3.388.219 100 3.597.134 100

I Cơ cấu theo thời gian

+ Dư nợ ngắn 2.045.871 71,2 2.527.792 74,6 2.856.539 79,4

hạn

+ Dư nợ trung, 828.099 28,8 860.427 25,4 740.595 20,6 dài hạn

II Cơ cấu theo đối tượng vay vốn

Dư nợ DN quốc 2.644.052 92 2.710.575 80 2.553.965 71 doanh

Dư nợ ngoài 229.918 8 677.644 20 1.043.169 29 quốc doanh

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội từ 2004 –2006

Nhìn từ bảng cơ cấu dư nợ, ta thấy sự chuyển dịch trong cơ cấu dư nợ là phù hợp

với sự phát triển của ngân hàng trong điều kiện mới. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng dần qua

các năm từ năm 2004 là 71,2% cho đến năm 2006 là 79,4%, điều này phù hợp với sự thay

đổi trong chính sách của ngân hàng, ngân hàng có chính sách là tăng tỷ trọng dư nợ ngắn

hạn trong tổng dư nợ giảm tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn (nhưng vẫn đảm bảo sự tăng

trưởng của dư nợ trung, dài hạn) vì các khoản cho vay ngắn hạn tiềm ẩn ít rủi ro hơn so với

cho vay trung, dài hạn. Đồng thời, thực hiện đúng chính sách thay đổi cơ cấu (chính sách

của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam) tăng cường tỷ trọng cho vay với khối doanh

nghiệp ngoài quốc doanh, và ngân hàng đã thu được những tín hiệu đáng mừng đó là tăng

tỷ trọng từ năm 2004 chỉ có 8% nhưng cho đến năm 2006 là 29%.

Đối với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ, nợ khoanh, chờ xử lí đã được giảm

đáng kể từ năm 2004 – 2006 chứng tỏ sự hoạt động hiệu quả trong công tác cho vay của

ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ: giảm từ năm 2004: 0,4%; 2005:0,36%; đến 2006

chỉ còn 0,32%. Nợ khoanh giảm từ năm 2004: 39.711 (trđ); 2005: 10.257 (trđ); 2006: 0

(trđ).

2.1.2.4 Các hoạt động khác

Công tác tự kiểm tra, kiểm toán nội bộ luôn được chi nhánh thực hiện tốt góp phần

chấn chỉnh và đảm bảo hoạt động của ngân hàng an toàn hiệu quả, tuân thủ theo đúng pháp

luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quá trình đổi mới.

Thực hiện mở rộng hệ thống mạng lưới ATM với số máy đang quản lí là 12 máy và

phát hành được 2.714 thẻ ATM.

Các hoạt động khác như hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thanh

toán quốc tế… đều thu được những kết quả khả quan. Những dịch vụ trên đem lại một phần

thu nhập trên tổng thu nhập của ngân hàng và bên cạnh đó nó đã giúp chi nhánh dần

chuyển thành một ngân hàng đa năng hiện đại.

2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI

NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Thành phố Hà Nội

Khi nghiên cứu về thực trạng tín dụng trung, dài hạn ở Chi nhánh thì đối tượng

nghiên cứu, đánh giá chủ yếu là các hoạt động cho vay (được phản ánh qua chỉ tiêu dư nợ)

còn có một số hình thức tín dụng khác (so sánh với nội dung lý thuyết đã trình bày) chưa

được triển khai hay như đối với hoạt động cho thuê thì hiện tại Chi nhánh không thực hiện

do đặc thù của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có riêng một công ty

phục vụ cho thuê tài chính

2.2.1.1 Tình hình nguồn vốn cho vay trung, dài hạn

Công tác huy động vốn nói chung hay công tác huy động vốn trung, dài hạn nói

riêng luôn được coi trọng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội,

ngân hàng luôn nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của công tác huy động vốn là sự quyết định

tồn tại của ngân hàng, xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp lí sẽ là cơ sở để nâng cao

kết quả kinh doanh của ngân hàng.

Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Tổng nguồn vốn huy động 4.044.022 4.688.034 6.931.151

- Nguồn ngắn hạn 2.709.495 3.047.222 4.366.625

- Tỷ trọng 67% 65% 63%

- Nguồn trung, dài hạn 1.334.527 1.640.812 2.564.526

- Tỷ trọng 33% 35% 37%

Nguồn: Báo cáo tổng hợp huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Thành phố Hà Nội từ 2004 - 2006

Nhìn chung qua các năm nguồn vốn trung, dài hạn huy động được đều tăng trưởng ở

mức cao, năm 2005 tăng 306.285 trđ tăng 23% so với năm 2004 và năm 2006 tăng 923.714

trđ (tăng 56,3% so với năm 2005), đây cũng là một thành công lớn của ngân hàng bởi vì

trước điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay mà ngân hàng vẫn đảm

bảo được việc huy động vốn tăng trưởng như vậy. Như ta đã biết công tác huy động vốn là

công tác vô cùng quan trọng nếu ngân hàng không huy động được vốn thì lấy đâu ra nguồn

để phục vụ cho vay và các hoạt động khác. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh

trong việc cân đối giữa nguồn vốn trung, dài hạn và khả năng cung cấp tín dụng trung, dài

hạn, phát triển hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Theo dõi sơ đồ dưới đây ta có thể thấy

được sự tăng lên rõ rệt của lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm.

Biểu đồ 2.4: Lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm

Trđ

3000000

2564526

2500000

2000000

1640812

1334527

1500000

1000000

500000

0

2004

2006

2005

Năm

Nguồn: Báo cáo huy động vốn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành

phố Hà Nội năm 2004 - 2006

Tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động như vậy là hợp lý

bởi vì nhu cầu vốn cho các hoạt động tín dụng ngắn hạn bao giờ cũng lớn hơn so với trung,

dài hạn và các ngân hàng hiện nay đều đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ngắn hạn lớn hơn

so với tăng trưởng tín dụng TDH

Khi xem xét chỉ tiêu khả năng cấp tín dụng TDH ta thấy chỉ tiêu này qua các năm

đều lớn hơn 1 (năm 2005 là: 1,9; năm 2006 là: 3,4). Điều này chứng tỏ nhu cầu vốn TDH

để phục vụ việc cho vay TDH ngân hàng luôn đáp ứng rất tốt. Tuy nhiên có một điểm lưu ý

là nguồn vốn huy động TDH của ngân hàng lớn hơn so với nhu cầu tín dụng trung, dài hạn.

Năm 2005: cho vay trung, dài hạn là 860.427 trđ ( vốn trung, dài hạn huy động được

là: 1.640.812 trđ).

Năm 2006: cho vay trung, dài hạn là 740.595 trđ (vốn trung, dài hạn huy động được

là: 2.564.526 trđ).

Tuy nhiên, ngân hàng đã sử dụng nguồn vốn dôi ra này để thực hiện các hoạt động

đầu tư nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiện việc

điều chuyển nguồn vốn TDH cho các chi nhánh khác trong cùng hệ thống gặp khó khăn

trong công tác huy động vốn TDH và với nguồn vốn dồi dào như vậy đảm bảo cho khả

năng thanh khoản của ngân hàng.

2.2.1.2 Tình hình cho vay trung, dài hạn

Xem xét tình hình cho vay thông qua một số chỉ tiêu dư nợ tín dụng, cơ cấu dư nợ,

doanh số cho vay.

Bảng 2.5: Tình hình cho vay trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội

Đơn vị: triệu đồng

Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Chỉ tiêu

Tổng dư nợ tín dụng 2.873.970 3.388.219 3.597.134

Trong đó:

Dư nợ tín dụng trung, dài hạn 828.099 860.427 740.595

Tỷ trọng (%) 28,8 25,4 20,6

* Cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo thành phần kinh tế

- Cho vay DNNN 799.116 817.226 677.644

- Cho vay ngoài quốc doanh 28.983 43.021 62.951

* Cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo loại tiền

- Cho vay VND 620.471 565.596 456.525

- Cho vay ngoại tệ 207.628 294.831 284.070

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 - 2006

Theo bảng trên ta có thể thấy tổng dư nợ tín dụng (chỉ tiêu tổng dư nợ đã được loại

trừ nợ khoanh và cho vay ủy thác) qua các năm liên tục tăng và ở mức tăng trưởng cao, từ

2.873.970 trđ năm 2004 lên 3.388.219 trđ (2005) với tốc độ gia tăng là 17,89% và đến năm

2006 là 3.597.134 trđ với tốc độ gia tăng là 6,17%. Bên cạnh đó, thì dư nợ trung dài hạn

không đạt được sự tăng trưởng liên tục, năm 2005 dư nợ trung, dài hạn tăng 32.328 trđ (tốc

độ gia tăng là 3,9%) nhưng sang năm 2006 chỉ tiêu này giảm 119.832 trđ (giảm 13,9%).

Như vậy, ta thấy năm 2006 thì tốc độ gia tăng dư nợ giảm, dư nợ trung dài hạn cũng giảm

mạnh có nhiều lý do giải thích cho điều này:

+ Sang năm 2006 rất nhiều các doanh nghiệp thuộc khối xây lắp giao thông (khách

hàng chủ yếu của ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ) làm ăn kém hiệu quả do

vậy ngân hàng rất khó khăn cho việc cấp vốn vì các khách hàng không đủ điều kiện đáp

ứng các yêu cầu của ngân hàng.

+ Trong thời gian này công tác thu nợ trung, dài hạn được thực hiện tốt, có nhiều dự

án được thu nợ mà các dự án mới thì chưa cho vay được tất yếu sẽ dẫn đến dư nợ trung, dài

hạn giảm.

+ Là do trong hoạt động cho vay hoạt động cho vay ngắn hạn có sự tăng trưởng

mạnh mẽ, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ liên tục tăng (năm 2004 là 71,2% đến

năm 2006 là 79,4%), tất yếu đẫn đến giảm tỷ trọng trọng của dư nợ trung, dài hạn trong

tổng dư nợ.

+ Và do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các NHTM trong cùng địa bàn, do

vậy việc phát triển hoạt động tín dụng gặp rất nhiều khó khăn.

Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn giảm qua các năm từ năm 2004 tỷ trọng là 28,8% đến

năm 2006 chỉ còn 20,6%, điều này cũng phù hợp với chính sách của ngân hàng, ngân hàng

có chính sách tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, giảm tỷ trọng cho vay trung, dài hạn (nhưng

vẫn đảm bảo sự tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn và không ngừng cao chất lượng cho vay

trung, dài hạn) bởi vì cho vay ngắn hạn tiềm ẩn ít rủi ro hơn so với trung, dài hạn. Tuy vậy,

trong năm 2006 dư nợ trung dài hạn giảm mạnh cũng chính là nguyên nhân dẫn tới tỷ trọng

dư nợ trung, dài hạn giảm chỉ còn 20,6%.

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy đối tượng chủ yếu của ngân hàng trong cho vay trung,

dài hạn vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước (năm 2006 dư nợ của khối DNNN là

677.644trđ chiếm tỷ trọng là 91,5%), trong những năm vừa qua ngân hàng Chi nhánh Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã chú trọng đến mở rộng đối tượng khách

hàng đối với khu vực ngoài quốc doanh va bước đầu có những kết quả khả quan dư nợ khối

ngoài quốc doanh và tỷ trọng trong tổng dư nợ liên tục tăng năm 2004 là 28.983 trđ chiếm

3,5 %; năm 2005 là 43.021 trđ chiếm 5%; năm 2006 là 62.951 trđ chiếm 8,5%. Tuy vậy

cho vay với khối ngoài quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ và hiện nay khối ngoài quốc

doanh phát triển rất mạnh mẽ đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển kinh tế, do vậy

Chi nhánh cần đẩy mạnh công tác mở rộng và tìm kiếm khách hàng đối với khối ngoài

quốc doanh.

Theo dõi sơ đồ dưới đây ta sẽ thấy được tương quan trong cơ cấu cho vay trung, dài

hạn đối với các DNNN và đối với khối ngoài quốc doanh.

Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng cơ cấu cho vay trung dài hạn theo thành phần kinh tế

Năm 2005

5%

Năm 2006

Năm 2004

3%

9%

95%

91%

Cho vay DNNN Cho vay ngoài quốc doanh

97 %

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 – 2006

Qua nghiên cứu, phân tích với chỉ tiêu doanh số cho vay và thu nhập từ lãi cho vay

trung, dài hạn ta cũng thấy sự phù hợp với những phân tích ở trên:

Bảng 2.7: Doanh số cho vay trung, dài hạn

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Doanh số cho vay trung, dài hạn 368.173 387.192 325.862

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 - 2006

Bảng 2.8: Thu nhập từ lãi của hoạt động cho vay

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Thu nhập từ lãi cho vay 275.941 368.588 378.019

Trong đó:

Thu nhập từ lãi cho vay TDH 98.712 112.156 89.472

Thu nhập từ lãi cho vay ngắn hạn 177.229 256.432 288.547

TN từ lãi cho vay TDH/ TN lãi cho vay 0,36 0,3 0,24

Nguồn: Báo cáo tình hình thu nhập lãi cho vay Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Thành phố Hà Nội năm 2004 – 2006

Năm 2005, doanh số cho vay tăng 19.019 trđ tăng 5,17% và thu nhập từ lãi cho vay

TDH tăng 13.444 trđ nhưng đến năm 2006 doanh số cho vay giảm 61.330 trđ giảm 15,84%

và thu nhập từ lãi cho vay TDH giảm 22.684 trđ. Vì sang năm 2006 ngân hàng gặp khó

khăn trong việc tìm ra những phương án khả thi để cho vay.

2.2.1.3 Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu cho vay trung, dài hạn

Ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác, trong hoạt động kinh doanh của

mình cụ thể ở đây là hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro do không thể thu hồi

được nợ. Vấn đề này được biểu hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau nợ quá hạn, nợ xấu.

- Nợ quá hạn cho vay trung, dài hạn

Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần

hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn trung, dài hạn và tỷ lệ nợ quá hạn

trung, dài hạn trong tổng dư nợ trung, dài hạn là một trong các chỉ tiêu phản ánh chất lượng

tín dụng trung, dài hạn.

Trong những năm qua, với sự cố gắng nỗ lực của ngân hàng nợ quá hạn đã được hạn

chế phát sinh đến mức thấp nhất (tỷ lệ nợ quá hạn luôn <1%).

Bảng 2.9: Nợ quá hạn trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, dài hạn

Đơn vị: triệu đ

Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Chỉ tiêu Số tiền % Số tiền % Số tiền %

Tổng dư nợ trung, dài hạn 828.099 100 860.427 100 740.595 100

Nợ quá hạn trung, dài hạn 5.962 0,72 5.592 0,65 3.851 0,52

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 - 2006

Nhìn vào bảng trên ta thấy trong những năm vừa qua thì nhìn chung tình hình nợ

quá hạn trung, dài hạn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội là

ở mức thấp và giảm đáng kể trong những năm vừa qua (giảm về lượng tuyệt đối và giảm cả

về tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ trung, dài hạn) năm 2004 là 5.962 trđ, chiếm 0,72%

đến năm 2005 còn 5.592 trđ (giảm 6,2% so với năm 2004), chiếm tỷ lệ 0,65% và cho đến

năm 2006 chỉ còn 3.851 trđ (giảm 31,1% so với năm 2005), chiếm tỷ lệ 0,52% trong tổng

dư nợ trung, dài hạn. Và nếu đem so sánh chỉ tiêu này của chi nhánh với chỉ tiêu trung bình

của toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (tỷ lệ nợ quá hạn TDH/ tổng dư nợ TDH

trung bình của cả hệ thống năm 2006 là 1,88%). Đây là một trong những thành công lớn

của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.

Theo dõi biểu đồ dưới đây, ta có thể thấy tình hình nợ quá hạn trung, dài hạn của

Chi nhánh giảm qua các năm 2004, 2005, 2006.

Biểu đồ 2.10: Nợ quá hạn trung, dài hạn qua các năm

5962

5592

Triệu đồng

3851

6000 5000 4000 3000 2000 1000 0

2004

2005

2006 Năm

Nợ quá hạn trung dài hạn

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 – 2006

- Tình hình nợ xấu trung, dài hạn:

Ngoài chỉ tiêu nợ quá hạn để xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn,

thì chỉ tiêu nợ xấu trung, dài hạn và tỷ lệ nợ xấu trung, dài hạn trên tổng dư nợ trung, dài

hạn cũng là một chỉ tiêu quan trọng. Việc xác định nợ xấu trong năm 2004, 2005, 2006 vẫn

được thực hiện theo điều 6 của QĐ 493 còn trong năm 2007 và những năm tiếp theo ngân

hàng sẽ xác định theo điều 7 của quyết định này.

Bảng 2.11: Nợ xấu trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, dài hạn

Đơn vị: triệu đ

Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006

Chỉ tiêu

Số tiền % Số tiền % Số tiền %

Tổng dư nợ trung, dài hạn (tính cả 867.810 100 870.864 100 740.595 100

nợ khoanh)

Nợ xấu trung, dài hạn 45.560 5,25 26.997 3,1 8.887 1,2

Nguồn: Báo cáo tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà

Nội năm 2004 - 2006

Xem xét tình hình nợ xấu ta thấy phù hợp với những phân tích về tình hình nợ quá

hạn. Năm 2004: nợ xấu trung, dài hạn là 45.560 trđ chiếm 5,25% đến năm 2005 còn là

26.977 trđ chiếm 3,1% và đến năm 2006 chỉ còn là 8.877 trđ chiếm 1,2 % tổng dư nợ trung,

dài hạn. Nhìn chung tình hình nợ xấu trung, dài hạn của ngân hàng là chấp nhận được.

Nguyên nhân của tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trung, dài hạn thấp:

+ Là do Chi nhánh đã chủ động tìm hiểu, đánh giá hiệu quả của dự án. Các dự án

hiệu quả thì sẽ không gây phát sinh nợ quá hạn cho ngân hàng. Mặt khác cũng do cơ chế

chính sách của Nhà nước ngày càng tạo thêm sự tự chủ cho ngân hàng, Chi nhánh có thể từ

chối các dự án nằm trong kế hoạch của Nhà nước nếu ngân hàng xét thấy là không hiệu

quả.

+ Trong thời gian qua hiệu lực quản lý và kỷ cương điều hành trong hoạt động tín

dụng được tăng cường. Thực hiện đúng qui chế, qui trình nghiệp vụ, uỷ quyền, phán quyết

và các giới hạn cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao.

+ Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, đồng thời còn kết

hợp với các đoàn thanh, kiểm tra trong và ngoài ngành phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ

này. Đồng thời, trong những năm vừa qua, Chi nhánh tập trung đẩy mạnh công tác thu hồi

nợ quá hạn, nợ xấu rà soát lại các hồ sơ pháp lý cho đến qui trình cho vay để giảm phát

sinh nợ quá hạn, nợ xấu.

Tuy vậy tốc độ xử lý nợ quá hạn, nợ xấu trung, dài hạn còn khá chậm đó là do: có

một số khoản nợ từ thời kỳ trước để lại cho vay dưới hình thức tín chấp hoặc việc phát mại

tài sản gặp rất nhiều khó khăn vì phải liên quan tới nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Và

Chi nhánh cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng

với ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ xấu.

2.2.2 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội

2.2.2.1 Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài

hạn nói riêng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã có sự

điều chỉnh căn bản từ nhận thức đến hành động, chuyển mạnh từ bao cấp sang cơ chế thị

trường với mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng, tăng mức độ an toàn và hiệu quả gắn

liền với chủ động kiểm soát gia tăng tín dụng trên cơ sở tăng cường kiểm tra, đánh giá phân

tích thực trạng khoản vay. Tích cực tìm kiếm khách hàng mới để từng bước thực hiện cơ

cấu lại khách hàng theo hướng đa dạng hoá khách hàng, chú trọng vào các lĩnh vực kinh tế

mũi nhọn, ngành sản xuất hàng xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay hỗ trợ sản xuất, kinh

doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tăng

cường công tác đánh giá, phân loại khách hàng đặc biệt đã xây dựng thành công hệ thống

xếp hạng tín dụng nội bộ để có chính sách khách hàng phù hợp kết hợp với chính sách phát

triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu hợp lý của khách hàng góp

phân tích cực phục vụ đầu tư phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai

đoạn hội nhập.

Những kết quả đạt được của hoạt động tín dụng trung, dài hạn:

Một là, Ngân hàng cũng luôn chú trọng tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn nhưng ở

năm 2006 ngân hàng gặp khó khăn trong tăng trưởng dư nợ trung, dài hạn do các nguyên

nhân đã nói ở trên nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các lĩnh vực xây lắp giao thông

(khách hàng truyền thống của ngân hàng) hoạt động không hiệu quả. Tuy vậy, dư nợ vẫn

đạt là 740.595 trđ (2006), đây cũng là một sự cố gắng lớn của ngân hàng.

Hai là, nhìn chung cơ cấu dư nợ trung, dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng là phù hợp

với chính sách phát triển của Chi nhánh cũng như trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam.

Ba là, đi đôi với tăng trưởng tín dụng, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Thành phố Hà Nội luôn luôn quan tâm chú trọng an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín

dụng, thường xuyên thực hiện rà soát và hoàn thiện lại thủ tục hồ sơ pháp lý của các khoản

vay. Bổ sung các hình thức bảo đảm tiền vay, giảm dần dư nợ xuống mức có thể kiểm soát

được rủi ro đối với những khách hàng có biểu hiện tài chính không lành mạnh sản xuất

kinh doanh không hiệu quả.

Bốn là, việc hoàn thiện qui trình nghiệp vụ tín dụng, chất lượng tín dụng trung, dài

hạn cũng được nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn có xu hướng giảm năm 2004 là

0,72%, năm 2005 là 0,65%, năm 2006 là 0,52%.

Như vậy trong thời gian qua hoạt động tín dụng thương mại nói chung và hoạt động

tín dụng trung, dài hạn nói riêng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố

Hà Nội đã có sự phát triển cả về chất và lượng. Trước yêu cầu hội nhập và phát triển , theo

mục tiêu kinh doanh: chất lượng, an toàn, hiệu quả và phát triển, nghiệp vụ tín dụng tại Chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội đã và đang khẳng định vị trí và

vai trò vô cùng quan trọng trong thời kì mới. Nó là một trong những yếu tố quyết định kết

quả kinh doanh của Chi nhánh, góp phần khẳng định Chi nhánh Hà Nội là một chi nhánh

bán buôn lớn trong khối các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội, khẳng định vai trò đầu

tàu trong toàn hệ thống BIDV.

2.2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

Trong những năm vừa qua, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng

trung, dài hạn nói riêng đã có những kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó hoạt động tín

dụng trung, dài hạn vẫn còn những mặt hạn chế.

- Trong những năm vừa qua, tăng trưởng dư nợ tín dụng trung, dài hạn không được

đảm bảo. Năm 2005 dư nợ trung, dài hạn là 860.427 trđ tăng lên 32.328 trđ tăng 3,9%

nhưng cho đến năm 2006 thì dư nợ chỉ còn 740.595 trđ (giảm 119.832 trđ, giảm 13,9%).

- Cơ cấu cho vay trung, dài hạn vẫn chủ yếu tập trung vào đối tượng quốc doanh,

việc phát triển cho vay tiêu dùng và các loại hình khác rất chậm chạp.

- Đối với cho vay trung, dài hạn ngân hàng vẫn áp dụng một mức lãi suất trung, dài

hạn cho mọi đối tượng, vẫn chưa triển khai được việc áp dụng nhiều mức lãi suất. Ngân

hàng cần nhanh chóng triển khai áp dụng nhiều mức lãi suất cho các đối tượng khác nhau,

ví dụ: đối với các khách hàng lâu năm truyền thống có uy tín thì sẽ áp dụng mức lãi suất

cho vay thấp hơn chính điều này góp phần tăng sự gắn bó giữa khách hàng và ngân hàng và

thu hút được nhiều khách hàng.

Lãi suất cho vay trung, dài hạn hiện nay là (chỉ mang tính tham khảo):

Lãi suất cho vay 6 tháng đầu là: 0,96% / tháng.

Lãi suất các kỳ tiếp theo thả nổi, 6 tháng điều chỉnh một lần = Lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ

hạn 12 tháng bình quân của các NHTM quốc doanh trên địa bàn + phí 3,2% / năm, nhưng

không thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn ở thời điểm điều chỉnh lãi suất.

- Ngân hàng chưa tích cực trong việc tìm kiếm các khách hàng mới, các dự án khả

thi để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn, chủ yếu ngân hàng vẫn dựa vào việc các

khách hàng tự tìm đến ngân hàng (nhờ uy tín của ngân hàng từ xưa), điều này cần được

sớm khắc phục trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay.

- Chất lượng thẩm định tín dụng còn thấp do nhiều yếu tố: cơ chế thu thập thông tin,

trình độ, sự quá tải của cán bộ tín dụng, trang thiết bị phục vụ còn yếu… những yếu tố này

sẽ được đề cập đến ở phần sau.

- Nợ quá hạn nhỏ nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do còn nhiều khoản nợ từ những

năm trước để lại không thể thu hồi được (một số khoản dưới hình thức cho vay tín chấp),

và nhiều khoản nợ sẽ phải tiến hành xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ nhưng việc thực hiện

phát mại tài sản gặp rất nhiều khó khăn.

b) Nguyên nhân

Có hai nhóm nguyên nhân: nhóm nguyên nhân khách quan (môi trường kinh tế,

nguyên nhân về phía khách hàng) và những nguyên nhân thuộc về phía chủ quan ngân

hàng.

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, là nguyên nhân từ môi trường kinh tế:

Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới do vậy còn nhiều

vấn đề bất cập, các chính sách cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước còn đang trong quá trình

điều chỉnh đổi mới, nhiều vấn đề chưa được hoàn thiện. Đối với môi trường cho các nhà

đầu tư, các doanh nghiệp: trong những năm gần đây Nhà nước đã có nhiều các chính sách

ưu đãi, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng vẫn còn nhiều mặt chưa

khắc phục được như cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường xá, cầu cống…) chưa đáp ứng được,

các thủ tục đầu tư còn phải qua rất nhiều khâu… Mà các nhà đầu tư lại chính là khách hàng

của ngân hàng vì họ là những người thiếu vốn để thực hiện các dự án đầu tư, do đó ảnh

hưởng đến việc mở rộng phát triển qui mô tín dụng của ngân hàng. Và ngay trong cả môi

trường hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng còn thiếu nhiều yếu tố như: hệ thống văn

bản pháp luật của Nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ thậm chí có khi

còn chồng chéo, các NHTM Nhà nước vẫn còn phải thực hiện các khoản vay theo chỉ thị

của Chính phủ mà rất nhiều dự án trong số đó không hiệu quả dẫn đến chất lượng tín dụng

không cao (trên bảng cân đối của ngân hàng vẫn tồn tại chỉ tiêu nợ khoanh, chờ xử lý, đối

với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì đến cuối năm 2005

nợ khoanh vẫn còn là: 10.257 trđ).

Thứ hai, là những nguyên nhân từ phía khách hàng:

Đó là do các khách hàng không đáp ứng đủ các điều kiện của ngân hàng khi vay

vốn. Rất nhiều các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng vay vốn nhưng tiềm lực tài chính yếu

nhiều năm làm ăn thua lỗ, phương án đầu tư xa vời thiếu tính khả thi, không tính tới nguồn

tiêu thụ sản phẩm, không tính tới sự thay đổi trong giá cả của các yếu tố đầu vào thậm chí

có một số doanh nghiệp trình bày phương án sau khi thẩm tra kỹ càng ngân hàng phát hiện

ra là doanh nghiệp định thực hiện dự án chỉ với mục đích là có việc làm cho xí nghiệp còn

thực sự dự án có hiệu quả ra sao họ cũng chưa tính đến, nhiều doanh nghiệp còn không đáp

ứng đủ các yêu cầu về tải sản đảm bảo. Chính vì vậy, rất nhiều các hồ sơ xin vay vốn

nhưng đã bị trả lại. Điều này đặt ra vấn đề thực tế là ngân hàng rất khó khăn trong việc tìm

ra các dự án khả thi để đầu tư vốn, mở rộng qui mô tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín

dụng.

Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện dự án sau khi vay vốn thì

không phải bất cứ doanh nghiệp nào đều hoạt động có hiệu quả. Có nhiều doanh nghiệp

chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về thời tiết (bão, lũ lụt…), diễn biến bất ngờ của thị trường

(ví dụ: sự thay đổi đột ngột của giá các nguyên liệu đầu vào, giá của sản phẩm sản xuất

ra…) đã làm cho dự án của doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả dẫn đến tình trạng

khách hàng không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn thậm chí mất khả năng trả nợ. Trong

nhiều trường hợp ngân hàng đã phải dùng đến biện pháp xử lý: phát mại tài sản, kiện ra toà

án… Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng của tín dụng nói chung và tín dụng

trung, dài hạn nói riêng.

Một số doanh nghiệp còn làm ăn thiếu trung thực: sử dụng vốn ngân hàng sai mục

đích, cung cấp thông tin cho ngân hàng không đúng sự thật… thậm chí có một số trường

hợp còn thực hiện hành vi lừa đảo, tất cả những điều trên đã ảnh hưởng tới việc mở rộng

tín dụng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.

* Nguyên nhân chủ quan: thuộc về phía ngân hàng

- Sự nghèo nàn trong các hình thức tín dụng trung, dài hạn chủ yếu ngân hàng vẫn

thực hiện là cho vay dự án đối với các doanh nghiệp còn hình thức cho vay tiêu dùng và

các hình thức khác phát triển rất chậm chạp. Mỗi loại hình cho vay đều có những đặc điểm

và thế mạnh riêng, do đó việc áp dụng chủ yếu một hình thức cho vay sẽ khiến cho khả

năng đáp ứng nhu cầu với khách hàng bị hạn chế, gây khó khăn cho việc mở rộng tín dụng,

khó khăn cho việc tìm kiếm các dự án khả thi, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung,

dài hạn.

- Hiện nay, khách hàng của ngân hàng vẫn chủ yếu tập trung vào đối tượng là các

doanh nghiệp Nhà nước, tỷ lệ cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất nhỏ,

hoạt động cho vay trung, dài hạn cũng vậy. Ngân hàng vẫn còn thụ động trong việc tìm các

khách hàng mới nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động Marketing của ngân

hàng không phát huy được khả năng của mình.

- Việc mở rộng tín dụng trong những năm trước chưa đi liền với sự quản lý, kiểm

soát của ngân hàng, có nhiều khoản cho vay tín chấp từ thời kì trước, khách hàng không trả

được nợ đã dẫn đến nợ quá hạn tồn đọng lại.

- Khả năng khai thác thông tin của ngân hàng còn hạn chế, các thông tin chủ yếu là

do các doanh nghiệp cung cấp, sự phối hợp với các đối tượng cung cấp thông tin còn yếu,

hay như ngân hàng cũng chưa có cơ chế chi cho cán bộ tín dụng để mua những thông tin có

chất lượng về khách hàng. Chính vì vậy có rất nhiều các thông tin mà cán bộ tín dụng

không thể thu thập đủ như: các thông tin liên quan đến hệ thống tổ chức quản lý, năng lực

chuyên môn, quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp, uy tín

của doanh nghiệp…

- Công việc thẩm định tín dụng cũng còn rất nhiều các vướng mắc, các dự án của

ngân hàng chủ yếu là về kỹ thuật với các thông số kỹ thuật của rất nhiều ngành: giao thông,

xây dựng cơ bản, các ngành công nghiệp. Mà các cán bộ tín dụng, thẩm định lại chủ yếu từ

khối kinh tế ra cho nên có sự hiểu biết hạn chế về các yếu tố kỹ thuật và việc phối hợp với

các cơ quan chuyên môn để cùng tiến hành thẩm định thì cũng chưa làm được. Do vậy, các

cán bộ tín dụng sẽ tiến hành tính toán, đánh giá dựa trên các số liệu do khách hàng cung

cấp và một số dữ liệu thông tin tự thu thập được. Chính vì vậy, việc thẩm định về phương

diện kỹ thuật, thị trường của dự án không được đúng đắn đặc biệt là đối với các dự án

trung, dài hạn. Chính vì vậy dẫn đến một số dự án của doanh nghiệp hoạt động không hiệu

quả, không trả được nợ ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

- Hiện nay tại chi nhánh có tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, như thực tế tại

phòng tín dụng 1 số lượng cán bộ tín dụng chỉ có 11 người nhưng phải thực hiện một khối

lượng công việc rất lớn từ việc thẩm định tiến hành cho vay, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh,

đánh giá, đăng ký tài sản đảm bảo theo dõi giám sát khách hàng, tư vấn cho khách hàng

cho đến các việc thu nợ, đòi nợ, việc phát mại tài sản, làm các thủ tục khởi kiện ra toà đối

với rất nhiều khách hàng từ nhiều ngành nghề khác nhau. Chính vì vậy việc nâng cao chất

lượng tín dụng gặp rất nhiều khó khăn.

Ngoài ra còn một số yếu tố khác như đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ tuy có trình độ

nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn, các trang thiết bị phục vụ cho công tác của cán bộ tín

dụng còn thiếu ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

Trên đây là thực trạng tình hình hoạt động trung, dài hạn của Chi nhánh, trong

những năm vừa qua Chi nhánh đã thu được những kết quả khả quan nhưng bên cạnh đó

còn những hạn chế phải khắc phục do nhiều nguyên nhân. Do đó để nâng cao chất lượng

tín dụng trung, dài hạn thì ngân hàng cần phải có những giải pháp để khắc phục những hạn

chế trên.

CHƯƠNG 3

NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN

DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT

TRIỂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI

HẠN

3.1.1 Định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)

Đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngày 11/1/2007 tại Hà Nội, Hội nghị

triển khai nhiệm vụ ngân hàng 2007, dựa trên những kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2006

và những yếu kém tồn tại trong hoạt động ngân hàng,Thủ tướng Chính phủ yêu cầu hệ

thống các ngân hàng thương mại phải nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát rủi ro, phát

triển dịch vụ mới và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nhằm tăng nguồn vốn

(theo định hướng năm 2007 cổ phần hoá 4 ngân hàng quốc doanh đó là: VCB, MHB, ICB,

BIDV và 2008: AGRIBANK).

Định hướng của NHNN đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng

trung, dài hạn nói riêng:

- Hoạt động tín dụng (đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn) phát triển để đáp

ứng các nhu cầu về vốn của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo an toàn, hiệu quả, nâng cao

chất lượng tín dụng. NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại chú trọng đến các giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. Không để nợ xấu gia tăng (cần chú trọng

vào tín dụng trung, dài hạn vì hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể dẫn đến phát sinh

nợ xấu). Các tổ chức tín dụng phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát chấp hành đúng những

thủ tục, nguyên tắc, nâng cao chất lượng thẩm định, chất lượng thông tin trong công tác

cho vay, bảo lãnh để giảm thiểu đến mức tối đa những rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng.

- Xử lí nhanh các khoản nợ tồn đọng từ thời trước để lại. Phối hợp mạnh mẽ hơn với

các bộ ngành có liên quan đẩy nhanh xử lí các khoản nợ tồn đọng tạo bước chuyển biến

trong 2 năm 2007, 2008.

- Các tổ chức tín dụng cần phát huy hơn nữa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong

hoạt động tín dụng, chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vay vốn,

tiếp tục cải cách lề lối làm việc, thủ tục đơn giản nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ qui trình, và

sự an toàn cho hoạt động tín dụng.

- Đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng tin học vào hoạt động của ngân hàng, sắp xếp lại

tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng cho những yêu cầu đổi mới

hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng của ngân hàng trong điều

kiện hội nhập quốc tế.

3.1.2 Định hướng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội

Quán triệt chủ trương định hướng của NHNN, của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam, đối với hoạt động tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã

có những định hướng cho những năm tới, trước mắt là những kế hoạch cho năm 2007 như

sau:

- Dư nợ cho vay tăng 15 – 18% so với năm 2006 (đảm bảo <= 18% mức khuyến cáo

tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đưa ra).

- Tỷ trọng nợ quá hạn/ tổng dư nợ < 1% (chỉ tiêu này đưa ra thấp hơn so với chỉ tiêu

của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đưa ra là tỉ lệ nợ quá hạn, tỉ lệ nợ xấu đưa ra

là <= 5%).

- Tăng trưởng dư bảo lãnh vào khoảng 40%.

- Tỷ lệ giảm dư lãi treo là 10%

- Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đảm bảo <= 30%.

- Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh >= 35% (phấn đấu đến năm 2010 là >= 45%).

- Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo là > 65% (phấn đấu đến năm 2010 là > 70%).

Được cụ thể hoá thành những chương trình cụ thể:

- Tăng cường hiệu lực quản lí và kỷ cương điều hành trong hoạt động tín dụng.

Thực hiện đúng qui chế, qui trình nghiệp vụ, uỷ quyền, phán quyết và các giới hạn, cơ cấu

tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao.

- Tăng trưởng tín dụng phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo hiệu quả kinh doanh

của ngân hàng. Tuy mức tăng trưởng có đề ra là như vậy nhưng ngân hàng luôn xác định

không phải là sự tăng trưởng bằng mọi giá mà sự tăng trưởng luôn gắn với bền vững, nâng

cao chất lượng tín dụng. Ta cũng phải hiểu thêm về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Thành phố Hà Nội đó là đặc thù là cho vay đầu tư phát triển chủ yếu 2 lĩnh vực giao

thông và xây lắp và như chúng ta đã biết việc cho vay xây lắp gặp khó khăn rất nhiều

doanh nghiệp xây lắp làm ăn không hiệu quả, còn ở lĩnh vực giao thông thì trong vài năm

trở lại đây tình hình cũng không mấy khả quan. Ưu tiên cho vay các ngành kinh tế có thế

mạnh đảm bảo được đầu ra và đánh giá là ít rủi ro: thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, hạ tầng

giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng không… quán triệt lộ trình

giảm cho vay dư nợ trong lĩnh vực cho vay xây lắp.

- Nâng cao tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản, tuân thủ luật pháp và đạt hiệu

quả kinh doanh tín dụng, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu khách hàng, mở rộng được khách

hàng thuộc ngành kinh tế ưu tiên hướng mạnh vào các khách hàng là doanh nghiệp vừa và

nhỏ (chỉ tiêu 2010: là 60%) thu hút khách hàng có năng lực tài chính, trình độ kinh doanh

đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tạo bứt phá trong tín dụng bán lẻ thông qua mở rộng qui mô

khách hàng là tư nhân cá thể…

- Giảm tỷ lệ nợ quá hạn, xử lí dứt khoát các khoản nợ quá hạn, nợ xấu từ thới kì

trước để lại, những khoản phát sinh trong năm 2006.

- Áp dụng phương pháp chấm điểm doanh nghiệp mới, có thể nói hệ thống các ngân

hàng Đầu tư và Phát triển có thể nói là đi đầu trong các NHTM ở Việt Nam (thẩm định

được cả các chỉ tiêu phi tài chính).

- Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm

định doanh nghiệp, dự án đầu tư của các cán bộ tín dụng trước nhu cầu mới. Đồng thời

tăng cường các cán bộ trẻ có năng lực có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, điều

chuyển luân chuyển cán bộ một cách hợp lí để ngày một phù hợp với các yêu cầu của hợp

đồng tín dụng.

- Xây dựng văn hoá tín dụng, nâng cao đạo đức trong kinh doanh tín dụng để đảm

bảo cho hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn.

Đối với riêng hoạt động tín dụng trung, dài hạn Chi nhánh đã có những định hướng

sau:

- Chi nhánh quán triệt chỉ thị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là giảm

tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn trong tổng dư nợ đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng trung,

dài hạn vì đây là lĩnh vực có nhiều rủi ro và đặc biệt là đối tượng cho vay của ngân hàng là

các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây lắp, giao thông như trên đã nói các đối tượng này hiện

nay tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi vì các NHTM hiện nay đều có xu hướng tăng tỷ trọng thu

nhập từ các hoạt động dịch vụ (lĩnh vực ít rủi ro) so với hoạt động tín dụng, còn riêng hoạt

động tín dụng thì các NHTM có xu hướng tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng ngắn hạn,

bảo lãnh so với hoạt dộng tín dụng trung, dài hạn.

- Gắn cho vay trung, dài hạn với nguồn vốn dài hạn. Tích cực huy động vốn trung,

dài hạn phục vụ cho các dự án.

- Phát huy thế mạnh của ngân hàng trong lĩnh vực đầu tư phát triển, đồng thời phải

chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để các nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài

hạn. Ưu tiên cho vay các ngành kinh tế có thế mạnh đảm bảo được đầu ra và đánh giá là ít

rủi ro: thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, hạ tầng giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt,

cảng biển, hàng không…

- Thực hiện việc đôn đốc xét duyệt giải ngân các dự án đã có kế hoạch từ năm trước,

đồng thời thực hiện đồng tài trợ các dự án lớn đối với các dự án có hiệu quả.

- Quán triệt giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu. Xử lí dứt điểm các khoản nợ tồn đọng từ

thời kì trước để lại (nhiều khoản nợ từ thòi kì trước cho vay dưới hình thức tín chấp, hay

nhiều khoản nợ có tài sản đảm bảo tuy vậy việc phát mại tài sản này gặp rất nhiều khó khăn

hoặc không phát mại được).

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG

TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Qua phân tích tình hình thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, ta thấy tình hình tín dụng trung, dài hạn trong

những năm vừa qua đã thu được những kết quả khả quan tuy vậy bên cạnh đó cũng còn

những mặt hạn chế cần phải khắc phục. Trong những năm tiếp theo, cùng với quá trình

phát triển đất nước bên cạnh sự đang phát triển của thị trường vốn thì kênh tín dụng ngân

hàng vẫn là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Do vậy,

Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần phải nâng cao hơn nữa

chất lượng tín dụng trung, dài hạn, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:

3.2.1 Giải pháp huy động vốn cho vay trung, dài hạn

Như đã phân tích ở trên về tình hình huy động vốn cho vay trung, dài hạn ta thấy

trong những năm vừa qua công tác huy động vốn của Chi nhánh được thực hiện tốt. Huy

động vốn nói chung và huy động vốn trung, dài hạn nói riêng luôn đạt sự tăng trưởng cao

không những đáp ứng đủ nhu cầu mà còn thực hiện việc điều chuyển vốn cho các Chi

nhánh khác trong cùng hệ thống mà gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Tuy vậy, trong

những năm tiếp theo, việc huy động vốn sẽ ngày càng khó khăn hơn trước sự cạnh tranh

khốc liệt của ngân hàng cổ phần trong nước và các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước

ngoài trong tiến trình hội nhập của nước ta và hiện nay ta có thể thấy có tình trạng người

dân, và nhiều công ty không mấy mặn mà gì với việc gửi tiền vào ngân hàng hay mua kỳ

phiếu, trái phiếu thay vào đó là họ đầu tư vào thị trường chứng khoán với một hi vọng kiếm

lời cao. Do vậy, để có thể chủ động hơn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn, Chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần áp dụng những giải pháp

sau:

- Mở rộng mạng lưới huy động vốn thông qua việc mở thêm các phòng giao dịch,

các điểm giao dịch mới tại những địa điểm mà hiện nay ngân hàng chưa thực hiện được.

- Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để đáp ứng nhu cầu của

người dân cũng như gia tăng được nguồn vốn huy động cho ngân hàng. Bên cạnh những

hình thức huy động vốn truyền thống có thể triển khai một số hình thức sau: phát triển thẻ

ATM có thể chuyển đổi sang các hình thức tiết kiệm khác, đổi mới việc phát hành trái

phiếu, kỳ phiếu có thời hạn dài bằng cách xây dựng một lãi suất hợp lý linh hoạt thay đổi

theo sự biến động của thị trường, có thể triển khai việc nhận trả tiền tiết kiệm tại nhà…

- Luôn có những chính sách ưu đãi với những khách hàng thường xuyên có số dư

tiền gửi lớn, thời hạn dài vào ngân hàng (ví dụ như những ưu đãi về lãi suất, ưu đãi khác

như khi các công ty đó thực hiện chuyển tiền, xin bảo lãnh thì sẽ chịu những mức phí thấp

hơn…), đồng thời chú trọng đối với những khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn như các

công ty bảo hiểm, dầu khí, tài chính, và một số tổng công ty lớn…

- Luôn chú trọng công tác Marketing ngân hàng trong lĩnh vực huy động vốn (như

quảng cáo, khuyến mãi, Marketing trực tiếp…).

- Chú trọng tới công tác phục vụ khách hàng, xây dựng một đội ngũ nhân viên giỏi

chuyên môn, có tinh thần phục vụ cao, nhiệt huyết với công việc. Chính những yếu tố đó

tạo ra sự thoải mái, tin tưởng, an tâm khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng và ngày càng thu

hút được nhiều khách hàng mới.

3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng

Khách hàng đến vay vốn ở ngân hàng thông thường sẽ phải trình bày các phương án

kinh doanh, đầu tư của họ. Sau đó ngân hàng sẽ tiến hành thu thập thông tin về khách hàng

trên nhiều mặt (thông tin về năng lực pháp lý, năng lực điều hành, quản lý sản xuất kinh

doanh của khách hàng, năng lực tài chính và các thông tin xoay quanh phương án kinh

doanh, dự án của khách hàng) tiếp đó các cán bộ tín dụng (có thể kết hợp cùng cán bộ thẩm

định) tiến hành thẩm định về khách hàng và dự án, phương án kinh doanh của họ. Nếu hồ

sơ của khách hàng đáp ứng được những điều kiện của ngân hàng, có khả năng trả nợ cho

ngân hàng thì ngân hàng sẽ quyết định cho khách hàng vay.

Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng:

Thứ nhất, là phải nâng cao chất lượng thông tin. Thông tin chính là cơ sở để cán bộ

thẩm định tiến hành các bước phân tích đánh giá một dự án. Việc thu thập, xử lý và quản lý

thông tin cần đầy đủ càng chính xác thì quyết định cho vay càng hiệu quả, hạn chế rủi ro

gây tổn thất cho ngân hàng. Thông tin tín dụng có thể lấy được từ các nguồn sau:

- Phỏng vấn trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: thăm quan

công ty, nhà xưởng, nói chuyện giám đốc và người lao động, xem xét cơ sở vật chất, vật

thế chấp… phỏng vấn trực tiếp giúp ngân hàng xác định được những gì đang diễn ra ở

doanh nghiệp, loại trừ phần nào những khách hàng không trung thực.

- Mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, bạn

hàng chủ nợ của người vay, qua các trung tâm thông tin, tư vấn…), thông qua đó thấy được

mối liên hệ của khách hàng với các trung gian trên, thấy được phần nào thình trạng phát

triển hay suy thoái của người vay. Kênh thu thập thông tin này khách quan hơn so với kênh

trực tiếp.

- Thông qua các báo cáo của người vay (báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, bán

hàng…), bản dự án, phương án kinh doanh của người vay. Dựa trên các báo cáo này và

phương án kinh doanh của người vay, ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả của

phương án kinh doanh, tình hình của người vay trên cơ sở đó ước tính nhu cầu vốn, trong

đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời, trả nợ, giá trị các tài sản thế chấp…

Thực tế việc thu thập thông tin tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành

phố Hà Nội chủ yếu dựa trên những số liệu mà người vay cung cấp, thông tin qua tiếp xúc

trực tiếp, thông tin trong quá khứ của khách hàng (uy tín người vay, dư nợ, tình hình trả nợ

của khách hàng…) còn việc mua hay tìm kiếm thông tin qua các trung gian còn rất hạn chế.

Để nâng cao chất lượng thông tin ngân hàng cần phải:

- Cần có cơ chế chi cho cán bộ tín dụng để thu thập thông tin, bởi vì có rất nhiều

thông tin hữu ích phải mua thông qua các trung gian.

- Cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng, các cơ quan quản lý, hiệp

hội ngành nghề, các đầu mối cung cấp thông tin có liên quan đến lĩnh vực của ngân hàng

như: Tổng cục thống kê, Tổng cục thuế, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch - Đầu tư, NHNN, các

ngân hàng thương mại khác, trung tâm thông tin CIC…

Thứ hai, là trong công tác thẩm định tín dụng thì phải luôn bám sát và thực hiện

đúng theo qui trình tín dụng của ngân hàng, vì nếu bỏ qua một bước nào hay thực hiện

không đúng theo qui trình thì có thể dẫn đến chất lượng khoản tín dụng không cao. Trong

công tác thẩm định các cán bộ tín dụng cần phải tuân thủ các bước sau:

- Thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng như: quyết định thành lập, đăng ký

kinh doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng, người quản lý tài chính, ai là

người đại diện pháp nhân…

- Thẩm định về năng lực hoạt động và uy tín của khách hàng.

Kiểm tra về sự phù hợp của ngành nghề trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề

kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, với dự án dự kiến đầu tư. Xu hướng phát triển của

ngành trong tương lai.

Mô hình tổ chức bố trí lao động.

Quản trị điều hành của lãnh đạo.

Quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác.

- Thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng.

Việc tính toán các chỉ số để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của

khách hàng cần phải được thực hiện qua nhiều năm (tối thiểu 2 năm). Khi đánh giá, nhận

xét cán bộ tín dụng cần phải nhìn một cách tổng thể về các chỉ tiêu đánh giá và có so sánh

với thực tế, đặc điểm kinh doanh của khách hàng để việc đánh giá được chính xác và toàn

diện.

- Thẩm định về hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án, thẩm định về kinh tế kỹ thuật

của dự án (thực hiện theo qui trình thẩm định dự án đầu tư).

- Thẩm định về khả năng đáp ứng nguồn vốn, lãi suất, thời hạn cho vay của bản thân

ngân hàng.

Cân đối các nguồn vốn đầu tư, nhu cầu vốn vay khả năng cân đối nguồn cho vay

loại tiền cho vay của ngân hàng, trường hợp món vay lớn, hoặc không thu xếp cho vay toàn

bộ có thể làm đầu mối để thực hiện cho vay đồng tài trợ.

Xác định thời hạn vay phù hợp với khả năng cân đối vay trả của khách hàng và ngân

hàng.

Xác định lãi suất cho vay phù hợp với chính sách khách hàng bảo đảm đủ bù đắp chi

phí, trích dự phòng rủi ro kinh doanh có lãi hợp lý.

- Thẩm định về các biện pháp bảo đảm tiền vay.

Ngân hàng thoả thuận với khách hàng lựa chọn các biện pháp bảo đảm tiền vay

thích hợp.

Thứ ba, là cần phải nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn cho các cán bộ tín

dụng, cán bộ thẩm định đồng thời cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn

trong công tác thẩm định. Như đã phân tích ở phần trên các dự án của ngân hàng thì có

phần lớn là các thông số kỹ thuật ở rất nhiều ngành nghề khác nhau mà trong khi đó các

cán bộ của ngân hàng chủ yếu là tốt nghiệp ở các trường kinh tế ra do vậy sự hiểu biết và

thẩm định được các dự án là gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, bên cạnh việc bồi dưỡng cho

cán bộ ngân hàng thì ngân hàng cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn để họ

phối hợp cùng ngân hàng thực hiện thẩm định dự án có như vậy thì chất lượng thẩm định

tín dụng mới được nâng cao.

3.2.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt

Lãi suất của một khoản vay tuỳ thuộc vào mức lãi suất chung, chi phí khi thực hiện

khoản vay của ngân hàng, thời hạn cho vay, rủi ro của khoản cho vay… Nếu các nhân tố

này tăng lên thì lãi suất cũng sẽ tăng lên. Đặc biệt đối với các khoản tín dụng trung, dài hạn

thì thường diễn ra trong thời gian dài, trong thời gian đó hoạt động kinh doanh của khách

hàng vay và hoạt động của bản thân dự án luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, nếu các yếu tố

này thay đổi bất thường thì sẽ làm cho các dự tính của người vay lẫn ngân hàng sẽ bị sai

lệch, khả năng xảy ra rủi ro sẽ cao. Chính bởi yếu tố này đã làm cho các khoản tín dụng

trung, dài hạn có lãi suất thường cao. Ngân hàng nào mà xây dựng được một chính sách lãi

suất phù hợp thì sẽ làm cho thu nhập của ngân hàng tăng lên, góp phần hạn chế rủi ro lãi

suất, đồng thời nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm tín dụng ngân hàng so với các

tổ chức tín dụng khác.

Hiện nay, ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có hướng chỉ đạo cho các

chi nhánh là áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau nhưng ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Thành phố Hà Nội thì chưa thực hiện được. Tôi xin đưa ra một số giải pháp

để góp phần xây dựng một chính sách lãi suất linh hoạt. Cần thực hiện:

- Lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng khách hàng như: đối với các khách hàng

truyền thống của ngân hàng, với những khách hàng là các doanh nghiệp lớn, tổng công ty

có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn hiệu quả… Tuy thực hiện chính sách này thì thu

nhập của ngân hàng có thể bị giảm sút nhưng nhờ vậy sẽ tăng sự gắn bó của các khách

hàng trong đó có nhiều các khách hàng lớn, duy trì thị phần của mình trong việc cung cấp

tín dụng. Đây là vấn đề mang tính chiến lược.

- Lãi suất thay đổi theo thời gian

Như ta đã biết các ngân hàng phải huy động vốn có các mức chi phí khác nhau theo

thời hạn do vậy khi cho vay ngân hàng cũng nên thực hiện mức lãi suất khác nhau theo thời

gian (áp dụng mức lãi suất thấp hơn đối với các khoản vay có thời hạn ngắn hơn vì chi phí

huy động vốn với thời hạn ngắn cũng rẻ hơn).Và một yếu tố nữa là những khoản vay với

thời hạn ngắn thì thường tiềm ẩn ít rủi ro hơn, do vậy những khoản vay có thời hạn ngắn

hơn mà áp dụng một mức lãi suất thấp hơn cũng là điều hợp lý.

- Lãi suất giảm dần theo mức tăng qui mô của các khoản tín dụng

Lý do là có thể áp dụng chính sách này là bởi vì cùng với một khoản cho vay mà có

giá trị lớn thì ngân hàng sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với nhiều khoản vay có giá trị nhỏ gộp

lại vì ngân hàng chỉ cần một lần thẩm định dự án, xác định giá trị tài sản đảm bảo… tuy

vậy chính sách này chỉ nên áp dụng với những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh

làm ăn hiệu quả và hoàn toàn có khả năng trả nợ đúng hạn. Bởi vì rủi ro đem lại cũng cao

hơn khi rủi ro tập trung toàn bộ cho một dự án thay vì chia sẻ cho nhiều dự án.

3.2.4 Đa dạng hoá các loại hình tín dụng trung, dài hạn

Việc phát triển tín dụng trung, dài hạn không chỉ dựa trên những hình thức tín dụng

đã có mà còn cần phải mở thêm những hình thức tín dụng mà hiện nay ngân hàng chưa có.

Hiện nay tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì đã triển khai

những hình thức tín dụng trung, dài hạn sau: cho vay dự án, cho vay hợp vốn, cho vay tiêu

dùng (chủ yếu là cho vay mua ô tô) vì vậy theo tôi ngân hàng có thể phát triển thêm các

hình thức sau: chiết khấu các khoản phải thu trung, dài hạn, và thêm một số lĩnh vực khác

trong cho vay tiêu dùng (còn do đặc thù của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt

Nam đã có một công ty chuyên thực hiện cho thuê tài chính, nên hình thức này không được

đề cập ở đây).

Những hình thức có thể triển khai thêm trong những năm tới là:

- FORFAITING (chiết khấu các khoản phải thu): khách hàng của ngân hàng sẽ là

những doanh nghiệp (người bán) họ có khoản phải thu từ đối tác (sau đây gọi là người

mua) của họ (họ bán hàng trả chậm), và họ đến ngân hàng để được xin chiết khấu. Nếu

ngân hàng chấp nhận cho chiết khấu, thì người bán sẽ nhận được tiền ngay từ ngân hàng (=

giá trị hợp đồng – lãi chiết khấu – chi phí khác liên quan) và ngân hàng sẽ chịu trách

nhiệm sau đó thu tiền từ người mua. FORFAITING thực hiện tài trợ thông qua các công cụ

như hối phiếu, lệnh phiếu, thư tín dụng… Trừ khi người mua có đủ uy tín và không cần bảo

đảm, thông thường hối phiếu phải được kí hậu bảo đảm thanh toán bởi một ngân hàng của

người mua.

- Cho vay mua nhà (hoặc xây dựng nhà ở):

Đây là hình thức cho vay trung, dài hạn đối với cá nhân để họ mua hoặc xây dựng

nhà ở. Đối tượng cho vay chính là các hộ gia đình (thường là gia đình trẻ) có thu nhập ổn

định, có nhu cầu về nhà ở nhưng hiện tại họ chưa tích luỹ đủ tiền cho mua hoặc xây nhà.

Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội nằm trên địa bàn có

kinh tế phát triển cao, đời sống người dân không ngừng được nâng cao, có nhu cầu về nhà

ở rất lớn, đặc biệt ở trên địa bàn Hà Nội thì có rất nhiều các cặp vợ chồng trẻ chưa có chỗ ở

hay là họ không muốn ở cùng bố mẹ với nhiều lý do, họ rất muốn có 1 ngôi nhà riêng

nhưng hiện tại vốn tích luỹ chưa đủ và họ chấp nhận trả góp cho ngân hàng (khi ngân hàng

cung cấp dịch vụ này) bằng số tiền trích ra từ thu nhập hàng tháng của họ.

Ngân hàng có thể cho vay với hình thức này trong khoảng từ 5 – 15 năm là phù hợp

và tiến hành dưới các hình thức như sau:

+ Ngân hàng có thể đứng ra mua đất xây nhà hay mua các căn hộ chung cư rồi bán

lại cho những người có nhu cầu theo phương thức trả góp.Trong thời gian khách hàng chưa

trả hết nợ thì nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, do vậy nếu gặp rủi ro (khách

hàng không thể trả được nợ) xảy ra thì ngân hàng vẫn có quyền thu hồi nhà để đem bán lại,

chính điều này giảm thiệt hại cho ngân hàng.

+ Ngân hàng có thể tiến hành cho vay đối với khách hàng có nhu cầu vay tiền để

xây nhà (khách hàng đã có quyền sử dụng đất). Để đảm bảo an toàn cho ngân hàng, ngân

hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng mảnh đất và giá trị ngôi nhà mới xây làm tài sản

thế chấp.

3.2.5 Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng

Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào chứ không riêng gì lĩnh vực hoạt động kinh

doanh của ngân hàng, yếu tố con người chính là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành bại của

hoạt động đó. Do vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì vấn đề cốt lõi

chính là cần nâng cao chất lượng các cán bộ tín dụng, thẩm định (sau đây gọi chung là cán

bộ tín dụng), cần những cán bộ có đủ tài và đức. Bên cạnh trình độ chuyên môn nghiệp vụ

được đào tạo các cán bộ cần phải có một phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm

cao, và cần phải có một bản lĩnh vững vàng trước mọi tình huống. Do vậy cho dù các cán

bộ nào có trình độ chuyên môn cao mà đạo đức có vấn đề, có biểu hiện tiêu cực thì dứt

khoát không thể để trong đội ngũ cán bộ tín dụng.

Để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết trong công tác tuyển dụng cán bộ mới,

ngân hàng cần chọn lọc (có thể thông qua thi tuyển khách quan) ra được những nhân viên

mới không chỉ có những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn có cả những sự hiểu biết

về các chính sách của Nhà nước, sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực liên quan đến công tác

sau này của họ, kỹ năng phân tích, khả năng xử lý trong các tình huống… đồng thời thực

hiện bố trí luân chuyển cán bộ sao cho phù hợp, bố trí đúng người đúng việc để các cán bộ

có thể phát huy tối đa năng lực của mình.

Tiếp đó, ngân hàng cần phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ,

về các chính sách tín dụng mới, kiến thức về pháp luật, kinh tế liên quan đến lĩnh vực mà

họ công tác, cần tăng cường tổ chức giao lưu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm nghiệp vụ

giữa các cán bộ tín dụng trong chi nhánh, giữa chi nhánh Hà Nội và các chi nhánh khác

trong cùng hệ thống. Và ngân hàng cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ đi học để nâng

cao trình độ, sau vẫn phục vụ cho ngân hàng (ví dụ như cho cán bộ đi học thạc sỹ, tiến sỹ

nhưng vẫn được hưởng lương).

Một yếu tố quan trọng nữa là ngân hàng cần quan tâm tới thu nhập của nhân viên, vì

nếu nhân viên của ngân hàng có nguồn thu nhập ổn định đảm bảo được cuộc sống của họ

từ đó sẽ tạo ra tâm lý tin tưởng và họ sẽ hết mình cống hiến cho công việc. Đồng thời ngân

hàng luôn đẩy mạnh thi đua lao động giỏi theo mục tiêu thi đua do Công đoàn và ban lãnh

đạo ngân hàng phát động. Định kỳ biểu dương thành tích của những cán bộ tín dụng xuất

sắc.

3.2.6 Tăng cường công tác quản lý nợ, cần tổ chức bộ phận quản trị rủi ro chuyên

trách

Công tác quản lý nợ là công tác vô cùng quan trọng đối với các NHTM, nếu công

tác này không được thực hiện tốt thì sẽ ảnh hưởng đến sự sống còn của các ngân hàng. Vì

vậy, công tác quản lý nợ cần luôn được tăng cường, cần thực hiện theo hướng sau:

- Cần thực hiện phân loại nợ định kỳ (sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, có

thể nói Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã đi đầu trong việc xây dựng hệ thống này) để xác

định đúng chất lượng tín dụng làm cơ sở trích lập các khoản dự phòng nhằm hạn chế rủi ro

tín dụng. Trên cơ sở đó ta sẽ có những chính sách cụ thể cho các khách hàng đó là: mở

rộng quan hệ tín dụng với khách hàng đó hay là duy trì theo mức cũ hoặc là hạn chế, ngừng

quan hệ tín dụng.

- Cần có sự giám sát chặt chẽ đối với những khách hàng có dư nợ lớn phải gia hạn,

những khách hàng có tình hình tài chính kém, kinh doanh không hiệu quả. Đối với những

khoản nợ mà xin gia hạn, cần có sự thẩm tra kỹ càng, và những khoản nợ nào nhận thấy

không đáp ứng được đủ các điều kiện đặt ra, không thể trả được nợ trong tương lai thì dứt

khoát phải dừng cấp tín dụng.

- Cần tăng cường kiểm tra giám sát đối với những khách hàng sau khi vay vốn, tuyệt

đối không để xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng nguồn vốn sai mục đích. Nếu phát hiện

ra những khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì phải dừng giải ngân các kỳ sau (thông

thường giải ngân tín dụng được chia làm nhiều đợt), triển khai các biện pháp mạnh để rút

dư nợ.

- Đối với các khoản nợ quá hạn ngân hàng có thể xử lý một cách linh hoạt không

nên cứng nhắc. Đối với những khách hàng bị nợ quá hạn chủ yếu là do những yếu tố khách

quan tác động và ngân hàng xét thấy họ có khả năng duy trì kinh doanh và có ý thức trả nợ

ngân hàng, thì ngân hàng có thể hỗ trợ họ bằng cách giảm một phần hoặc toàn bộ lãi phạt

của khoản nợ cũ, cho vay mới (nếu doanh nghiệp cần vốn để khắc phục khó khăn) với lãi

suất ưu đãi để họ có thể khắc phục khó khăn, khôi phục lại tình hình sản xuất kinh doanh

để họ có khả năng trả được nợ ngân hàng. Còn những khoản nợ mà ngân hàng xét thấy

khách hàng hoàn toàn không có khả năng thu hồi được nợ thì phải thực hiện:

+ Trường hợp với những khách hàng có tài sản đảm bảo, thì ngân hàng có thể tiến

hành phát mại tài sản, đối với những tài sản mà không thực hiện phát mại được ngay (ví dụ

như đối với những máy móc chuyên dụng) thì ngân hàng cần có biện pháp để khai thác một

cách kịp thời.

+ Trường hợp đối với khách hàng không có tài sản đảm bảo (chủ yếu do thời kỳ

trước để lại, nhiều khoản cho vay thực hiện dưới hình thức cho vay tín chấp), mà sau khi

dùng mọi cách không thể thu được nợ thì buộc phải thực hiện biện pháp mạnh là thông báo

toàn ngành, kiện ra toà án.

Và để công tác quản lý nợ được hiệu quả hơn, ngân hàng cần thành lập bộ phận

quản trị rủi ro chuyên trách để quản trị rủi ro tín dụng, thực hiện phân loại các khoản vay

theo mức độ rủi ro, xây dựng hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, ngành kinh tế,

khu vực và có những giải pháp xử lý đối với các khoản vay có vấn đề. Và việc thành lập bộ

phận chuyên trách này sẽ giảm tải khối lượng công việc cho các cán bộ tín dụng phụ trách

vì hiện nay một cán bộ tín dụng phụ trách sẽ phải đảm nhiệm tất cả các công việc sau cho

một khoản vay: từ việc hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay, tìm kiếm thông tin, đánh giá

thẩm định tiến hành cho vay, đăng ký tài sản đảm bảo theo dõi giám sát khách hàng, tư vấn

cho khách hàng cho đến các việc thu nợ, đòi nợ, việc phát mại tài sản, làm các thủ tục khởi

kiện ra toà. Do vậy, việc lập ra bộ phận này góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ luôn là một công tác quan trọng trong hoạt đọng

kinh doanh của ngân hàng nhằm đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả. Sự phát triển của

hoạt động tín dụng trong đó có hoạt động tín dụng trung, dài hạn, đồng thời muốn nâng cao

hơn nữa chất lượng tín dụng ngân hàng cũng ngày càng phải nâng cao chất lượng kiểm tra,

kiểm soát nội bộ trong ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng mà được mở rộng mà ngân hàng

không quan tâm tới công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì có thể ngân hàng sẽ gặp phải

những rủi ro trong hoạt động tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu sẽ tăng lên.

Trong những năm vừa qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của ngân hàng luôn

được thực hiện tốt và đã góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân

hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong những năm tới ngân hàng cần phát

huy và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát của mình. Đối với hoạt

động tín dụng để đạt hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần phải thực hiện đầy

đủ, theo từng giai đoạn cụ thể, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay:

Kiểm tra trước khi cho vay: là quá trình xem xét trước khi cho vay xem có vi phạm

những qui định của ngân hàng hay không, hay có điều gì là không hợp lý hay không, hồ sơ

vay vốn của khách hàng có đủ tài liệu cần thiết chưa…

Kiểm tra trong khi cho vay: là quá trình xem xét quá trình thực hiện việc thẩm định

và ra phán quyết tín dụng của các cán bộ tín dụng có điều gì sai sót hay không, quá trình

thực hiện có theo đúng thủ tục, qui trình tín dụng hay không…

Kiểm tra sau khi cho vay: là quá trình xem xét tính hợp lệ, hợp pháp thông qua rà

soát lại hồ sơ chứng từ của các hồ sơ cho vay đã được thực hiện, thực hiện kiểm tra quá

trình trả nợ của khách hàng cho ngân hàng có đúng thời hạn hay không, qui trình xử lý của

các cán bộ tín dụng đối với những khoản nợ quá hạn, nợ xấu ra sao…

Nếu thực hiện tốt những điều này, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có những

bước phát triển mới theo đúng phương châm của ngân hàng: “Chất lượng, an toàn, hiệu

quả và phát triển”.

3.2.8 Tăng cường công tác Marketing trong ngân hàng

Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của

ngành dịch vụ. Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để

đạt được mục tiêu đặt ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, cũng như các

dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các

biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận.

Hoạt động của Marketing ngân hàng nhằm đạt được những mục tiêu: đáp ứng tốt

nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng

thời có các biện pháp nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng để đạt mức sử dụng sản

phẩm của ngân hàng cao nhất và không chỉ dừng lại ở mức độ thoả mãn nhu cầu trực tiếp

của khách hàng mà còn tác động cả vào môi trường tinh thần của con người nhằm không

ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người trên mọi lĩnh vực cả vật chất lẫn tinh

thần. Để thực hiện tốt công tác tăng cường Marketing ngân hàng, các ngân hàng thương

mại cần phải thực hiện nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách

hàng. Trên cơ sở này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt,mềm dẻo bốn chính

sách để thoã mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Bốn chính sách lớn đó là:

- Chính sách thông tin – nghiên cứu – tìm hiểu - điều tra.

- Chính sách sản phẩm – giá cả

- Chính sách phân phối (chính sách cung ứng sản phẩm ngân hàng).

- Chính sách giao tiếp - khuếch trương.

Hiện nay, tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội thì chưa

thực sự chú ý tới công tác này, công việc này mới chỉ thực hiện đơn thuần là quảng cáo trên

một số tờ báo nhưng hiệu quả của hình thức này cũng không cao bởi vì khách hàng rất khó

cảm nhận được đầy đủ giá trị dịch vụ mà ngân hàng cung cấp và hoạt động này cũng được

thực hiện không nhiều, việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt

nhất nhu cầu của họ. Trước điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay

thì việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng khó khăn, việc phát triển hoạt động

tín dụng trung, dài hạn cũng vậy, ngân hàng sẽ không thể thụ động chông trờ vào khách

hàng tự tìm đến mình mà ngân hàng cần có sự thay đổi, chú trọng hơn vào hoạt động

Marketing, ngân hàng cần chủ động nắm bắt nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt nhất

nhu cầu của họ, ngân hàng cần tích cực tìm kiếm các khách hàng mới, các dự án khả thi để

nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

Ngân hàng cần chú trọng tới hình thức truyền thông bán hàng trực tiếp (là việc ngân

hàng thông qua giao dịch giữa khách hàng và nhân viên ngân hàng để thông tin về dịch vụ

ngân hàng, hình ảnh ngân hàng. Đây là hình thức phù hợp nhất với ngân hàng nhưng thực

tế hiện nay ở ngân hàng bị coi nhẹ, vì hình thức này nếu so với các hình thức truyền thông

khác như: quảng cáo, khuyến mại, PR, Marketing trực tiếp… thì không đòi hỏi ngân hàng

phải bỏ ra chi phí tốn kém nhưng lại là hình thức hữu hiệu nhất cung cấp thông tin cho

khách hàng.

Qua nghiên cứu thực tế bộ máy tổ chức tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Thành phố Hà Nội, tôi có ý kiến đề xuất là ngân hàng có thể thành lập phòng

Marketing để hoạt động Marketing được chuyên môn hoá cao hơn và thực sự đem lại hiệu

quả cho ngân hàng.

3.2.9 Ngân hàng phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và biện pháp phòng ngừa

Công tác dự báo luôn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của bất kì một tổ chức sản xuất kinh doanh nào và đối với hoạt động tín dụng của

ngân hàng cũng vậy. Như ta đã biết khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng (cho vay) ngân hàng

cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung

ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rủi ro tín dụng là không xảy ra. Tuy nhiên đó là

việc xét trên tính nguyên tắc bởi vì không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự đoán

chính xác các vấn đề xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi

do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng phân tích tín

dụng thích đáng. Do vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro đối với hoạt

động tín dụng là không thể tránh khỏi chỉ có thể đề phòng, hạn chế. Do đó ngân hàng phải

luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và trên cơ sở đó có các biện pháp phòng ngừa. Khi công tác

này được thực hiện tố thì rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế và chất lượng tín dụng sẽ được

nâng cao. Và đối với riêng hoạt động tín dụng trung, dài hạn thì công tác này phải được

quan tâm nhiều hơn do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có thời gian kéo dài do

đó khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn và khi rủi ro xảy ra thì sẽ xảy ra tổn thất rất lớn cho

ngân hàng (các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có giá trị lớn) và không chỉ có vậy

nếu rủi ro xảy ra thì sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều các ban ngành khác, và ảnh hưởng tới sự

phát triển kinh tế của đất nước.

Ngân hàng cần thực hiện công tác dự báo bao gồm cả những dự báo chung và các

dự báo cụ thể:

- Dự báo chung: đó là những dự báo của ngân hàng cho toàn bộ hoạt động tín dụng

trung, dài hạn trong những năm tới. Như với tình hình hiện nay và trong những năm tới Chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội cần giảm dư nợ đối với lĩnh vực

cho vay xây lắp (vì hiện nay lĩnh vực này hoạt động không hiệu quả) và ưu tiên cho vay với

các ngành kinh tế có thế mạnh, đảm bảo được đầu ra và được đánh giá là ít rủi ro như: thuỷ

điện, nhiệt điện, xi măng, chế biến xuất khẩu thuỷ hải sản, gỗ, công nghiệp khai khoáng, hạ

tầng giao thông, BOT cầu đường bộ, đường sắt, cảng biển, hàng không…

- Dự báo cụ thể: là ngân hàng thực hiện dự báo những rủi ro tiềm ẩn cho từng dự án

trung, dài hạn cụ thể. Ngân hàng cần xem xét những rủi ro: như thiên tai, thay đổi chính

sách vĩ mô của Nhà nước, biến động đột biến của thị trường (ví dụ như sự thay đổi trong

giá nguyên vật liệu đầu vào như giá xăng, dầu… sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới các dự án) và

những rủi ro trong tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng…có sự tác động tới dự

án.

3.2.10 Một số giải pháp khác

Trên đây là những giải pháp chính nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài

hạn, ngoài các biện pháp trên ngân hàng cần kết hợp với các giải pháp phụ trợ sau để nâng

cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung, dài hạn:

- Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng: ngân hàng

cần phối hợp với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để triển khai xây dựng hệ

thống công nghệ thông tin một cách đồng bộ trong đó chú trọng việc xây dựng các phần

mềm ứng dụng phục vụ cho các qui trình nghiệp vụ của ngân hàng (trong đó có nghiệp vụ

tín dụng) và công tác quản lý điều hành của ngân hàng.

- Nâng cao công tác tư vấn của ngân hàng: ngân hàng không chỉ tư vấn cho khách

hàng trong lập hồ sơ vay mà còn thực hiện tư vấn cho khách hàng ở trong công tác thẩm

định, giám sát sau khi cho vay, ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng những điểm chưa thực

sự phù hợp của dự án nhờ đó các dự án sẽ hoạt động một cách hiệu quả hơn và khách hàng

có khả năng trả được nợ ngân hàng đúng hạn cao, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng

trung, dài hạn.

- Phát huy hơn nữa sức mạnh của công đoàn, đoàn thể trong công tác thi đua, khen

thưởng…

3.3 KIẾN NGHỊ

3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước

Trong thời gian vừa qua, Nhà nước cùng với những định hướng, chính sách phát

triển kinh tế của mình đã tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế nước ta nói chung và với hoạt

động tín dụng của các NHTM nói riêng. Và tôi xin mạnh dạn đưa ra những đề xuất với Nhà

nước để phát huy hơn nữa vai trò của các NHTM trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế,

đặc biệt là các khoản tín dụng trung, dài hạn:

- Chính phủ cần phải ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ có hiệu lực tạo hành lang

pháp lý an toàn cho sự phát triển các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của ngành

ngân hàng nói riêng. Nhà nước cần có sự quản lý với các biến số kinh tế vĩ mô như tỷ giá,

lạm phát, lãi suất để hạn chế đến mức thấp nhất những biến động bất thường của nền kinh

tế.

- Nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động kinh doanh

của ngân hàng, có như vậy hoạt động tín dụng mới có thể phát triển mạnh mẽ:

+ Thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút mạnh các nguồn FDI, tạo ra

động lực phát triển thị trường nội địa, tạo sức cạnh tranh để kích thích các doanh nghiệp

trong nước phát triển. Cần phải xác định rõ các trọng điểm tăng trưởng của nền kinh tế để

có biện pháp củng cố và thúc đẩy các trọng điểm tăng trưởng kinh tế.

+ Nhà nước cần có những chính sách phát triển kinh tế đồng đều cho các vùng, ưu

tiên những vùng sâu vùng xa, nông thôn miền núi…, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải

không hiệu quả lãng phí ngân sách của Nhà nước.

+ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, huy động tối đa các nguồn lực

phát triển, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do

vậy, coi trọng phát triển thị trường vốn, thị trường tài chính, chỉ đạo tổ chức thực hiện sắp

xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá công khai, hoàn thiện cơ chế đấu

thầu đấu giá, định giá đất đai, tài sản theo hướng thị trường hoá các quan hệ kinh tế này,

bảo đảm tính công khai minh bạch của thị trường. Cần tạo ra môi trường kinh doanh bình

đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

ngoài Nhà nước để ngăn ngừa giảm thiểu các hình thức tài trợ, bảo lãnh các doanh nghiệp

tài chính và phi tài chính của Nhà nước. Nghiên cứu cơ chế quản lí và phát triển đối với thị

trường bất động sản. Đổi mới cơ chế quản lí Quĩ hỗ trợ xuất khẩu, bỏ những nhiệm vụ chi

có tính bao cấp, tăng chi hỗ trợ mở rộng thị trường, ưu tiên các chương trình xúc tiến

thương mại ngành hàng trọng điểm. Các tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng

đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở

rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính một cách triệt

để giảm bớt cơ chế xin cho gây phiền hà cho các nhà đầu tư.

+ Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường kiểm tra giám sát đối với các thành phần

kinh tế hạn chế đến mức thấp nhất những hoạt động kinh doanh trái phép gây tiêu cực xã

hội để tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh: như buôn lậu, trốn lậu thuế, làm hàng

quốc cấm, hàng giả, hàng nhái…

- Qua nghiên cứu tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn cụ thể tại ngân hàng thì

tôi thấy hiện nay trong vấn để bảo đảm tiền vay còn nhiều vướng mắc, tôi xin đưa ra một

số kiến nghị với Nhà nước về vấn để này:

+ Chính phủ cần đưa ra một khung giá phù hợp hơn về định giá đối với các tài sản

thế chấp vì hiện nay thì việc định giá này đã không đánh giá đúng giá trị tài sản, việc đánh

giá tài sản quá thấp đã gây khó khăn cho cả người vay và cho cả ngân hàng.

+ Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài

sản, quyền sử dụng đất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn ngân

hàng (được sử dụng để làm tài sản thế chấp), đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi trong

việc xử lý tài sản đảm bảo khi có rủi ro xảy ra (khách hàng không trả được nợ cho ngân

hàng).

+ Cần ban hành những chính sách cụ thể để hạn chế khó khăn cho các ngân hàng khi

phát mại tài sản, và đối với các trường hợp mà các khoản vay được bảo lãnh bằng bên thứ 3

khi gặp rủi ro xảy ra thì lại chưa có một khung pháp lý nào cụ thể qui định về quyền đòi nợ

của ngân hàng với bên thứ 3.

3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần tích cực đổi mới, bổ sung hoàn thiện cơ chế tín

dụng theo hướng thông thoáng phù hợp với thực tiễn hoạt động và thông lệ quốc tế, chú

trọng việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản qui định về nghiệp vụ

tín dụng nhằm nâng cao năng lực quản lý và đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của

ngân hàng. Cụ thể: tập trung hoàn thiện qui trình tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử

dụng dự phòng rủi ro, ban hành qui định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống

quản trị rủi ro hữu hiệu…

NHNN cần nghiên cứu và xây dựng một hệ thống các chỉ số mang tính chuẩn mực

để thống nhất đánh giá so sánh chất lượng tín dụng của các NHTM, hệ thống chỉ số và giới

hạn để dự báo trước các nguy cơ rủi ro cho các NHTM. Có thể định kỳ hàng năm thu thập

thông tin và tính toán các báo cáo của các NHTM để đánh giá tình hình chất lượng toàn

ngành và có những điều chỉnh kịp thời.

NHNN phối hợp cùng các NHTM có thể triển khai xây dựng qui trình tín dụng,

thẩm định chung toàn ngành để phục vụ cho công tác thẩm định và ra phán quyết tín dụng,

xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, xếp loại doanh nghiệp một cách thống nhất

nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro nhất là rủi ro tín dụng. Không nên để

tình trạng mỗi ngân hàng một kiểu như hiện nay.

NHNN cần tăng cường hỗ trợ cho các NHTM trong việc nâng cao trình độ cho đội

ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định. Có thể định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội nghị hội

thảo về kinh nghiệm tín dụng trong toàn ngành ngân hàng.

Đổi mới hoạt động thanh tra, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ thông tin, tăng

cường công tác giám sát từ xa kết hợp với thanh tra tại chỗ nhằm kịp thời ngăn chặn, phát

hiện và xử lý các sai phạm của các tổ chức tín dụng. Chú trọng công tác kiểm tra, đôn đốc

việc thực hiện xử lý và kiến nghị xử lý sau thanh tra đối với các tổ chức tín dụng.

Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát từ xa theo thông lệ quốc tế (CAMELS),

tuy phương pháp này đã được thực hiện từ lâu nhưng hiệu quả mang lại chưa cao, nhất là ở

các chi nhánh địa phương. Đồng thời xây dựng và hoàn thiện qui trình thanh tra tại chỗ

(BASEL I, II) theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

NHNN cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, cải thiện

chất lượng thông tin đầu vào để tạo nguồn đầu ra thông tin một cách chính xác về thị

trường và doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM có thể sử dụng thông

tin để phục vụ cho công tác thẩm định và ra phán quyết tín dụng, nhờ đó nâng cao được

chất lượng tín dụng.

3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cần hệ thống hoá một cách cụ thể

toàn bộ các văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến vấn đề về bảo đảm tiền vay để

ban hành trong hệ thống ngân hàng Đầu tư. Đồng thời cần thường xuyên giám sát, hỗ trợ

cho các chi nhánh trong việc thu thập thông tin tín dụng, thẩm định tín dụng, các vấn đề

liên quan đến bảo đảm tiền vay như: định giá tài sản bảo đảm, phát mại tài sản bảo đảm…

Theo tiến trình cổ phần hoá của BIDV, đòi hỏi yêu cầu cao hơn về chất lượng tín

dụng và điều kiện tín dụng. BIDV cần có những chỉ đạo và chấn chỉnh kịp thời đối với hoạt

động tín dụng sao cho theo đúng lộ trình cổ phần hoá. Cụ thể như chỉ đạo các chi nhánh

thực hiện xong việc cơ cấu nợ xấu trước thời điểm cổ phần hoá, hướng dẫn các chi nhánh

áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mới được xây dựng, thực hiện phân loại nợ và

trích lập dự phòng rủi ro theo điều 7 của QĐ 493…

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần tạo ra được sự liên kết các chi nhánh

trong hệ thống, các chi nhánh hợp tác chặt chẽ phối hợp thực hiện các chính sách về lãi

suất, khách hàng, nguồn vốn… tạo nên một sức mạnh thống nhất của hệ thống Ngân hàng

Đầu tư.

Thực hiện hỗ trợ, chỉ đạo, phối hợp các chi nhánh để nâng cao năng lực công nghệ

ngân hàng. Chú trọng cả về mặt trang thiết bị và những phần mềm tiện ích phục vụ cho

hoạt động tín dụng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất

lượng tín dụng.

BIDV cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

cho các chi nhánh, những buổi hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh

ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng giữa các chi nhánh, thực hiện tốt công

tác tuyển dụng cán bộ và phân công các cán bộ mới đó cho các chi nhánh, ngân hàng cần

quan tâm tới tình trạng quá tải của các cán bộ tín dụng ở các chi nhánh tránh tình trạng do

khối lượng công việc quá lớn mà dẫn đến các quyết định không hợp lý gây tổn thất cho

ngân hàng.

Những giải pháp và kiến nghị đưa ra ở đề tài này cũng mới chỉ là những giải pháp

nhỏ, việc nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi sự phối hợp nhiều giải pháp, sự cố gắng của

bản thân ngân hàng và sự tham gia của các cấp, các ngành.

KẾT LUẬN

Chất lượng tín dụng là vấn đề phức tạp, và việc nâng cao chất lượng tín dụng trung,

dài hạn của ngân hàng không phải là đơn giản, nó đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ từ những

chính sách vĩ mô của Nhà nước cho đến chính sách của NHNN, sự phối hợp cùng thực hiện

giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

Những giải pháp và kiến nghị tôi đưa ra ở đề tài này cũng mới chỉ là những giải

pháp nhỏ để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Do lĩnh vực nghiên cứu

là rất rộng và phức tạp trong khi đó thời gian nghiên cứu còn hạn chế, những kinh nghiệm

thực tiễn mà tôi được tiếp xúc vẫn còn thiếu, cho nên đề tài của tôi sẽ khó tránh khỏi những

thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý của thầy cô giáo, các cán bộ của Chi

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội để tôi có thể hoàn thiện và phát

triển đề tài cho luận văn tốt nghiệp sau này.

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... - 1 -

CHƯƠNG 1 ....................................................................................................... - 4 -

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................................... - 4 -

1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........ - 4 -

1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại .................................................... - 4 -

1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng ....................................................... - 5 -

1.1.3 Phân loại tín dụng ............................................................................... - 6 -

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ..................................................................... - 8 -

1.2.1 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn .................................................... - 8 -

1.2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn .......................... - 8 -

1.2.1.2 Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường .. - 11 -

1.2.1.3 Các hình thức tín dụng trung, dài hạn ......................................... - 13 -

1.2.2 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn .................................................... - 17 -

1.2.2.1 Khái niệm ................................................................................... - 17 -

1.2.2.2 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn................................ - 18 -

1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn..... - 25 -

CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... - 31 -

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH

NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ .................................................................................. - 31 -

VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................... - 31 -

2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... - 31 -

2.1.1 Quá trình phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố

Hà Nội ....................................................................................................... - 31 -

2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Thành phố Hà Nội ..................................................................................... - 33 -

2.1.2.1 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng ........................... - 33 -

2.1.2.2 Hoạt động huy động vốn ............................................................. - 34 -

2.1.2.3 Hoạt động cho vay ...................................................................... - 35 -

2.1.2.4 Các hoạt động khác ..................................................................... - 38 -

2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI

NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI- 38 -

2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Thành phố Hà Nội ................................................................. - 38 -

2.2.1.1 Tình hình nguồn vốn cho vay trung, dài hạn ............................... - 38 -

2.2.1.2 Tình hình cho vay trung, dài hạn ................................................. - 40 -

2.2.1.3 Tình hình nợ quá hạn, nợ xấu cho vay trung, dài hạn .................. - 44 -

2.2.2 Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội ..................................................... - 47 -

2.2.2.1 Kết quả đạt được ......................................................................... - 47 -

2.2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân ............................................................. - 49 -

CHƯƠNG 3 ..................................................................................................... - 54 -

NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN

DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT

TRIỂN ............................................................................................................. - 54 -

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................... - 54 -

3.1 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI

HẠN ............................................................................................................. - 54 -

3.1.1 Định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) .............. - 54 -

3.1.2 Định hướng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội -

55 -

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG

TRUNG, DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... - 57 -

3.2.1 Giải pháp huy động vốn cho vay trung, dài hạn ................................. - 57 -

3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ........................................... - 58 -

3.2.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt .............................................. - 61 -

3.2.4 Đa dạng hoá các loại hình tín dụng trung, dài hạn ............................. - 62 -

3.2.5 Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng ................................. - 64 -

3.2.6 Tăng cường công tác quản lý nợ, cần tổ chức bộ phận quản trị rủi ro chuyên

trách ........................................................................................................... - 65 -

3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ ............................... - 66 -

3.2.8 Tăng cường công tác Marketing trong ngân hàng .............................. - 67 -

3.2.9 Ngân hàng phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và biện pháp phòng ngừa- 69 -

3.2.10 Một số giải pháp khác ..................................................................... - 70 -

3.3 KIẾN NGHỊ ........................................................................................... - 70 -

3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước .................................................................... - 70 -

3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước .................................................. - 72 -

3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .................. - 73 -

KẾT LUẬN ..................................................................................................... - 74 -

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

Trang

1. Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh 39

2. Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ 42

3. Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn 44

4. Biểu đồ 2.4: Lượng vốn trung, dài hạn huy động qua các năm 45

5. Bảng 2.5: Tình hình cho vay trung, dài hạn tại Chi nhánh 46

6. Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng cơ cấu cho vay trung, dài hạn theo 48

thành phần kinh tế

7. Bảng 2.7: Doanh số cho vay trung, dài hạn 49

8. Bảng 2.8: Thu nhập từ lãi của hoạt động cho vay 49

9. Bảng 2.9: Nợ quá hạn trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ 50

trung, dài hạn

10. Biểu đồ 2.10: Nợ quá hạn trung, dài hạn qua các năm 51

11. Bảng 2.11: Nợ xấu trung, dài hạn xét trên tổng dư nợ trung, 52

dài hạn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. NHTM: Ngân hàng thương mại

2. NHNN: Ngân hàng Nhà nước

3. DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước

4. BIDV: Bank Investment Development Vietnam (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam)

5. Trđ: Triệu đồng

6. TDH: Trung, dài hạn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng hợp huy

động vốn, tình hình tín dụng, thu nhập từ lãi cho vay các năm 2004, 2005, 2006.

2. Đào Hải Hiền, Sửa đổi thông tư liên tịch số 03 về “ Hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo

đảm tiền vay” là một vấn đề cấp thiết, Tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006.

3.GS. TS. Lê Văn Tư, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính 2005.

4. Khắc Luyện, Gia hạn nợ vay ngân hàng: Phải xuất phát từ yếu tố khách quan, Tạp chí

ngân hàng số 9 tháng 5/2006.

5. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Qui trình tín dụng trung, dài hạn, tháng

9/2001.

6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban

hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt

động ngân hàng của tổ chức tín dụng, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.

7. Nguyễn Thị Thu Thủy, Rủi ro và những biện pháp hạn chế rủi ro, Tạp chí Ngân hàng số

15 tháng 8/2006.

8.PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê 2005

9. PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, 2006.

10 Phan Đức Quang, Kiểm soát các rủi ro của hoạt động cho vay đối với các ngân hàng

thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế, Tạp chí Ngân hàng số 11 tháng 6/2006.

11. ThS. Vũ Thuý Ngọc, Hệ thống kiểm soát nội bộ của một ngân hàng hiện đại, Tạp chí

Ngân hàng số 9 tháng 5/2006.

12. TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê

2002.

13.TS. Nguyễn Văn Tiến, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,

NXB Thống Kê 2003.

PHỤ LỤC O1

Sơ đồ cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ các phòng ban tại Chi nhánh

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội

GIÁM ĐỐC

P. GIÁM ĐỐC

P. GIÁM ĐỐC

P. GIÁM ĐỐC

KHỐI KINH DOANH

KHỐI CHỨC NĂNG

P.NGUỒN VỐN

P.GD1

DV KH DOANH NGHIỆP

P.TD1

P. TỔ CHỨC CÁN BỘ

P.GD2

P.TD2

P.TT ĐIỆN TOÁN

DV KH CÁ NHÂN

P.GD6

P.TD3

P.TĐ&QLTD

P.TT QUỐC TẾ

P.GD10

P.TD4

P.GD11

P. TÀI CHÍNH KẾ TOÁN

P.GD12

P. KIỂM TRA NỘI BỘ

P.GD17

P.VĂN PHÒNG

P.GD18

Nguồn: Tài liệu tập huấn nhân viên mới Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành

phố Hà Nội

1. Khối tín dụng

Sau khi chương trình dự án hiện đại hoá vận hành ổn định các phòng tín dụng được

bố trí gồm 4 phòng:

* Tín dụng 1: Chuyên sâu khách hàng là doanh nghiệp xây lắp, giao thông

* Tín dụng 2: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế địa phương

* Tín dụng 3: Chuyên sâu khách hàng tư nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh

* Tín dụng 4: Chuyên sâu phục vụ khách hàng khối kinh tế Trung Ương trong lĩnh

vực xây dựng công nghiệp: điện, lắp máy…

a) Nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp

* Bộ phận quan hệ trực tiếp với khách hàng:

- Thiết lập duy trì mở rộng quan hệ với khách hàng

- Nhận hồ sơ, kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ, chuyển đến các ban,

phòng liên quan để thực hiện theo chức năng.

- Phân tích doanh nghiệp, khách hàng vay theo qui trình nghiệp vụ, đánh giá tài sản

đảm bảo nợ vay.

- Đề xuất hạn mức tín dụng.

- Quản lí sau giải ngân.

- Cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng cho phòng thẩm định, quản lí

tín dụng tham gia xây dựng chính sách tín dụng.

- Thực hiện các chức năng khác đối với khách hàng và nhiệm vụ khác của giám đốc

phân công.

* Bộ phận tác nghiệp (gián tiếp):

Nhân viên tác nghiệp làm nhiệm vụ quản lí khoản vay bao gồm xem xét chứng từ

pháp lí để mở tài khoản của khách hàng và mở tài khoản tiền vay, thiết lập thông tin về

khách hàng, chuẩn bị các số liệu thống kê, các báo cáo về các khoản cho vay phục vụ cho

mục đích nội bộ của chi nhánh Thành phố Hà Nội, của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt

Nam và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các nhiệm vụ khác.

b) Nhiệm vụ tín dụng dân cư

Thực hiện các chức năng nhiệm vụ như như nhiệm vụ tín dụng doanh nghiệp đối với

đối tượng khác hàng là các cá nhân (bao gồm cho vay cầm cố, chiết khấu sổ tiết kiệm, các

chứng từ có giá…).

2. Khối dịch vụ ngân hàng

* Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp (tách ra từ phòng tài chính kế toán): chịu

trách nhiệm xử lí các giao dịch đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức khác.

* Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân (phòng huy động vốn dân cư cũ): chịu trách

nhiệm xử lí các giao dịch đối với khách hàng cá nhân.

Cả 2 phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp và cá nhân cùng thực hiện các chức

năng sau:

- Thực hiện giải ngân vốn vay cho khách hàng vay là tổ chức trên cơ sở hồ sơ giải

ngân được duyệt.

- Mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, chịu trách nhiệm xử lí các yêu cầu của

khách hàng về tài khoản hiện tại và tài khoản mới.

- Thực hiện tất cả các giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội tệ, ngoại tệ của

khách hàng.

- Thực hiện giao dịch mua ngoại tệ giao ngay đối với khách hàng doanh nghiệp theo

qui định và các chính sách kinh doanh ngoại tệ của giám đốc.

- Thực hiện các giao dịch thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng.

- Thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến khách hàng và giám đốc phân công.

* Phòng thanh toán quốc tế:

- Trên cơ sở các hạn mức,khoản vay, bảo lãnh, L/C đã được phê duyệt, thực hiện các

tác nghiệp trong tài trợ thương mại phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho

khác hàng.

- Mở các L/C có kí quĩ 100% vốn của khách hàng

- Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại với các ngân hàng nước ngoài

- Đầu mối trong việc thực hiện các dịch vụ thông tin đối ngoại

- Thực hiện các giao dịch mua, bán ngoại tệ với khách hàng doanh nghiệp gồm giao

ngay (trừ mua giao ngay), kì hạn, quyền chọn, SWAP theo quyết định và kế hoạch kinh

doanh ngoại tệ của giám đốc và thực hiện các nhiệm vụ khác khi được phân công.

* Phòng tiền tệ - kho quĩ:

Thực hiện các nhiệm vụ tiền tệ kho quĩ: quản lý nghiệp vụ của Chi nhánh, thu chi

tiền mặt, quản lý vàng bạc, kim loại quý, đá quý, quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế

chấp cầm cố, thực hiện xuất nhập tiền mặt…

3. Khối chức năng

* Phòng Kế hoạch - nguồn vốn:

- Tổ chức thu thập thông tin, nghiên cứu, phân tích môi trường, xây dựng chiến

lược, các chính sách kinh doanh, marketting, chính sách khách hàng, lãi suất, huy động

vốn, cân đối vốn.

- Tham mưu cho giám đốc các vấn đề liên quan đến an toàn trong hoạt động kinh

doanh của chi nhánh Thành phố Hà Nội

- Tổng hợp báo cáo, cung cấp thông tin kinh tế, phòng ngừa rủi ro, quản lí các hệ số

an toàn… để xây dựng chính sách giá cả cho các sản phẩm dịch vụ.

- Nghiên cứu các sản phẩm mới về huy động vốn, thu thập thông tin phản hồi về

chính sách, biện pháp huy động vốn…

- Làm thư kí hội đồng thi đua – khen thưởng Chi nhánh Thành phố Hà Nội.

- Thư kí hội đồng quản lí tài sản nợ - có của chi nhánh.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác của giám đốc phân công.

* Phòng thẩm định - quản lí tín dụng:

- Thu thập các thông tin và đánh giá các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật.

- Thẩm định, tham gia ý kiến quyết định cấp tín dụng các dự án cho vay, bảo lãnh

(trung, dài hạn) và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của Trưởng phòng

tín dụng.

- Thẩm định các đề xuất về hạn mức tín dụng, đánh giá tài sản đảm bảo nợ vay

- Thư kí hội đồng tín dụng, hội đồng xử lí rủi ro.. của chi nhánh.

- Giám sát chất lượng khách hàng xếp loại rủi ro tín dụng của khách hàng vay và

đánh giá phân loại, xếp hạng khách hàng doanh nghiệp và các hoạt động liên quan đến

giám sát và quản lí tín dụng khác.

- Nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và thực hiện các nhiệm vụ khác được giao

phó.

* Phòng tài chính kế toán:

Thực hiện công tác kế toán, tài chính cho toàn bộ hoạt động của Chi nhánh bao gồm

tổ chức hướng dẫn thực hiện, kiểm tra công tác hoạch toán kế toán và phân tích các báo cáo

tài chính, tham mưu thực hiện chế độ và các nhiệm vụ liên quan đến tình hình tài chính, chi

tiêu của chi nhánh Thành phố Hà Nội.

* Phòng điện toán:

Quản lí mạng, quản trị hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát theo quyết định của

giám đốc, quản lí hệ thống máy móc thiết bị tin học, đào tạo hỗ trợ các đơn vị trực thuộc

vận hành hệ thống và các vấn đề liên quan đến tin học phục vụ kinh doanh khác.

* Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ

- Hướng dẫn phổ biến lưu trữ các văn bản pháp qui, văn bản chế độ, tham mưu tư

vấn cho giám đốc, các phòng nghiệp vụ những vấn đề pháp lí, soạn thảo, đàm phán, ký kết

hợp đồng, giải quyết tố tụng trực tiếp.

- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại trụ sở Chi nhánh Thành phố Hà

Nội và tất cả các đơn vị trực thuộc chi nhánh Thành phố Hà Nội và các chức năng nhiệm

vụ khác của bộ phận kiểm tra nội bộ theo qui định của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt

Nam.

* Phòng tổ chức cán bộ:

Tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ chính sách của

pháp luật về trách nhiệm và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động.

Lập các kế hoạch tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu hoạt động của chi nhánh

và tham mưu cho giám đốc về bố trí nhân sự phù hợp tiêu chuẩn trình độ chuyên môn của

từng cán bộ.

Quản lí các vấn đề khác liên quan đến hồ sơ, chế độ tiền lương, bảo hiểm làm việc

của cán bộ công nhân viên.

* Văn phòng:

Thực hiện công tác hành chính và các công tác hậu cần, an ninh cho con người, tài

sản tiền bạc của Chi nhánh và các khách hàng đến giao dịch tại chi nhánh Thành phố Hà

Nội.