LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề

Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và

tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng

trưởng và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng

vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy,

việc huy động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT

(đặc biệt là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.

Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của

các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của

Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần

khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.

Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính nhà nước được Chính

phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 để thực hiện nhiệm vụ

huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT,

tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (HTXK). Kể từ khi thành lập đến nay, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà

nước thông qua hoạt động của Quỹ HTPT đã có những đóng góp nhất định trong việc

tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng

chiến lược và có lợi thế, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn

cho ĐTPT cũng như phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT

của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, việc

nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng

ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT là điều cần thiết, góp phần vào sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua

hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển" để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành: Kinh tế

các ngành sản xuất và dịch vụ.

2. Mục đích nghiên cứu của luận văn

+ Tập hợp một số vấn đề lý luận về tín dụng của Quỹ HTPT và hiệu quả của nó.

+ Phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ HTPT, đánh giá những kết quả đạt

được, các hạn chế trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ

HTPT.

+ Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, định hướng, mục tiêu phát

triển kinh tế của Đảng và Chính phủ để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT ở nước ta hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua

Quỹ HTPT từ khi thành lập đến 31-3-2004.

4. Các phương pháp nghiên cứu

Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng tổng hợp các phương

pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu, các

phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng để nghiên cứu.

Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và với kinh nghiệm

của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc... nhằm rút ra

những bài học kinh nghiệm đối với nước ta.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và hiệu quả của nó.

Chương 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ năm 2001 đến nay.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.

Chương 1

tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

và hiệu quả của nó

1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng

1.1.1. Khái niệm về tín dụng

Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay có

hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một

phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi tổ chức, cá nhân nhường quyền

sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một tổ chức hay cá nhân với những điều

kiện ràng buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn

và thu hồi...

Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài. Trong chế

độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp kém, công cụ lao

động hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân công lao động chưa phát

triển... do lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự

trữ và do vậy chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội

nguyên thủy chưa thể có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất

phát triển, cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản

xuất sản phẩm không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích lũy dự trữ, do đó,

xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu (cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, xã hội

lúc này đã có sự phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp được hình thành. Chế độ

tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất

hành hóa ra đời, do đó các quan hệ mua, bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những

hình thức vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.

Như vậy có thể khẳng định, tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế sản

xuất hàng hóa, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa, trong điều

kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa, tiền tệ thì tồn tại tín dụng là một

tất yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng hóa và mối quan hệ hàng hóa hình thành

quan hệ hàng hóa tiền tệ trong xã hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là

tiền đề khách quan phát sinh các quan hệ tín dụng, tính tất yếu khách quan của tín dụng

nảy sinh.

Do đặc điểm của tính luân chuyển của vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận động

của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện tượng phổ biến là

trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân phát sinh nhu

cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian

đó có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn

rỗi trong một thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xen kẽ lẫn nhau

trong quá trình tuần hoàn của vốn tiền tệ, mâu thuẫn đi đến phải được giải quyết bằng các

phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn đó, có nghĩa là phải tiến

hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm điều hòa kịp

thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản

xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải

được giải quyết bằng các quan hệ kinh tế để tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ

tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một yếu tố quan trọng

góp phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh vượng trong nền kinh tế thị

trường dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là quan hệ tín dụng.

1.1.2. Bản chất tín dụng

Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho

vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử

dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời

hạn và phải được "hoàn trả". Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được

nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.

1.1.3. Chức năng của tín dụng

Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất

những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động của vốn tiền tệ

trong xã hội, tín dụng có ba chức năng chính như sau:

+ Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ

Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà

các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng

nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành

chức năng cốt lõi của tín dụng.

Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc

hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc

đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.

+ Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội

Hoạt động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu

thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện

thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, chuyển khoản hoặc bù trừ... cho

phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có

liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền...

+ Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế

Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của

vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hóa, chi

phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm gương phản ánh

hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các

hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp...

trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

1.1.4. Vai trò của tín dụng

Nói đến vai trò của tín dụng nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền

kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm vai trò hai mặt tích cực, mặt tốt, và mặt tiêu

cực, mặt xấu. Chẳng hạn, nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không

những không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây

ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.

Nếu xét về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây:

Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa lưu thông phát triển: Tín

dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động) cho các

doanh nghiệp các tổ chức kinh tế; tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn

một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế.

Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Trong khi thực hiện

chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng góp phần làm giảm

khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp

dân cư, làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng

vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ

làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần

làm ổn định thị trường giá cả trong nước...

Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm: Tín dụng có tác

dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu

đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng

trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao

động, đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực

lượng sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Cuối cùng, có thể nói, tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các

mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng

không những ở đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm

giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước,

làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.

1.1.5. Các hình thức tín dụng

* Tín dụng thương mại

Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức

kinh tế với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau.

Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là

cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.

Tín dụng thương mại ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân

chuyển vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn nhau không

những giữa các doanh nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn

giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện tượng

trong một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng hàng hóa đang cần bán,

nhưng chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những

sản phẩm hàng hóa ấy để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền.

Hiện tượng này có thể giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu

hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại đều

có lợi đối với cả hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy

tín dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền kinh tế

hàng hóa phát triển cao như hiện nay.

* Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh

nghiệp và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng

tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối các đối tượng nói trên. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh

tiền tệ của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.

Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới dạng tiền tệ. Nguồn vốn tín

dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi

ngân hàng huy động được. Trong quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò

là "người đi vay", vừa đóng vai trò "người cho vay".

Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống

ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng

chuyên nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.

* Tín dụng quốc tế

Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức tài

chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau

để phát triển kinh tế xã hội của một nước.

* Tín dụng nhà nước

Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ,

chính quyền địa phương...) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó, chủ yếu là

Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành trái

phiếu để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.

Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ các đối

tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã

hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất

định, tín dụng nhà nước không phải là khoản thu của Nhà nước.

Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả, có thời hạn

và phải trả một khoản tiền về sử dụng vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy

động được dưới hình thức công trái (trái phiếu Chính phủ) thuộc quyền sử dụng của Nhà

nước, chúng được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của Nhà nước. Vốn ngân sách là

nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt động của kiến

trúc thượng tầng chính trị và sự vận động của vốn ngân sách, biểu hiện một bộ phận của

quan hệ tài chính Nhà nước.

Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước chủ yếu để

cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng

kinh tế - xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.

1.2. tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

1.2.1. Khái niệm

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng nhà nước

chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả. Tính kinh tế của hoạt động

tín dụng ĐTPT của Nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn

vốn này để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Giống như các

hình thức tín dụng khác, cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập

trung được nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn

và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng và chủ

động trong việc giải quyết các mục tiêu vào ĐTPT.

Tuy nhiên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở

đó tính kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là kinh tế đơn thuần. Thông thường tính

kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước có những đặc tính sau:

- Tính kinh tế vĩ mô: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực

then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc một ngành,

một vùng, hay một khu vực.

- Tính xã hội: Tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà tín

dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do

hiệu quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn,

hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước:

việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển

kinh tế vùng,...

1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

Cơ chế kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu, đó là sự phân hóa

giàu nghèo, khai thác tài nguyên, nguồn lực một cách bừa bãi, ảnh hưởng ô nhiễm môi

trường và sức khỏe dân cư làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng, tính chu kỳ trong phát

triển kinh tế đôi khi dẫn đến sự lầm đường lạc lối như khủng hoảng, độc quyền, lạm phát

và thất nghiệp.

Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp

giữa thị trường - bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình đang

ngày càng chiếm ưu thế, ở đây nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò điều tiết kinh tế

của Nhà nước.

Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài

chính vốn có như thuế, phí, chi ngân sách nhà nước (NSNN),... Ngoài ra, Nhà nước còn

thành lập các doanh nghiệp nhà nước và thông qua đó thực hiện việc đầu tư theo mục tiêu

của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp này thường nằm

trong các lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực hoạt động có

tính chất xã hội. Đối với các doanh nghiệp này, tùy theo điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh

tế từng thời kỳ và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước từng giai đoạn mà Nhà nước thường

cung cấp vốn dưới dạng cấp phát trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng. Như vậy, tín

dụng ĐTPT của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của

Chính phủ trong một giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi

nước.

Đối với nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để

tham gia hoạt động ĐTPT là một vấn đề tất yếu, do đó vai trò điều tiết kinh tế của Nhà

nước lúc này cần được tăng cường vì phải xây dựng các nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết

cho nền kinh tế và phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ

thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh sản phẩm,... Để thực hiện

được nhiệm vụ nặng nề này, phạm vi cấp phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN cho

ĐTPT kinh tế phải thu hẹp, thay thế vào đó là mở rộng diện tín dụng ĐTPT của Nhà

nước đối với các hoạt động chi ĐTPT của Nhà nước nhưng có khả năng thu hồi vốn. Đấy

chính là một trong những nội dung cải cách NSNN ở các nước chuyển đổi nền kinh tế.

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong trường hợp này là một hình thức mang tính quá độ

để các doanh nghiệp làm quen dần với cơ chế tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết

quả kinh doanh của mình. Đối với một số doanh nghiệp nhà nước, tín dụng ĐTPT của

Nhà nước có thể là những bước hỗ trợ chuyển tiếp để phát triển và sau đó có thể chuyển

giao cho khu vực ngoài quốc doanh thông qua cổ phần hóa.

Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, để có thể tham gia vào

nền kinh tế thế giới, trong điều kiện các thể chế kinh tế - tài chính của các nước đang phát

triển chưa có thời gian tiếp cận khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Nhà nước của

các nước đang phát triển luôn phải thực hiện chức năng trung gian hoặc nhà bảo lãnh cho

các hoạt động tài chính đối ngoại. Thực tế, Nhà nước đã phải đứng ra thực hiện việc cho

vay lại hoặc bảo lãnh đối với các khoản tín dụng nước ngoài.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc điều tiết kinh tế là một việc làm thiết yếu

của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp và tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ

điều tiết kinh tế vĩ mô trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là biện

pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà nước mà còn

là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm soát vĩ mô.

Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín dụng ĐTPT của Nhà nước

được biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:

- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc

lành mạnh hóa nền tài chính - tiền tệ quốc gia

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và phân

bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập trung và phân bổ

nguồn vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhà nước có thể tập

trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí

không cao. Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.

Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân quan trọng

trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và của khu vực

các thể chế tài chính phi ngân hàng.

Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng hết sức

quan trọng. Việc xóa bỏ cơ chế tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành

mạnh hóa khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ.

Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt động tín

dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung

gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế hạch

toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có

tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương

mại.

Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã

tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hòa các

nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và

mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa.

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế

Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách tiền tệ...

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của Nhà nước điều tiết

nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng ĐTPT là thực hiện chức năng điều tiết

vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho

phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành

nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mặt khác, tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào

những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động,

tăng sản phẩm xã hội,... nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các

nước, bảo đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của nền kinh tế

thế giới, khu vực.

- Tín dụng ĐTPTcủa Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư, xóa bao cấp về đầu

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước đối

với lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được Nhà nước cấp không

hoàn lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn đối với NSNN. Đồng thời, tín dụng

ĐTPT của Nhà nước cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc

đẩy huy động vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các

tầng lớp dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu quả trong

đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước được đưa ra chặt

chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới

các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng

minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của

Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp

được các khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng nhà nước. Đây cũng

là động lực mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu quả, là yếu tố quan trọng trong việc

động viên trí tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng

đất nước.

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư đổi

mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh

Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hoặc được bảo lãnh

hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (LSSĐT), các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội

mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công

nghệ, tăng qui mô phát triển sản xuất kinh doanh.

Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các thành

phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết

yếu cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của quá trình sản xuất. Khi một dự

án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản

xuất tăng lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về

chủng loại và chất lượng cao, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được

nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc

thiết bị từ nước ngoài vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới

với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu ngoại

tệ. Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông đường

không, bộ, thủy, khu công nghệ cao... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề phát

triển cho các ngành kinh tế khác.

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao động,

giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội

Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng được

Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các

dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương

trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát

triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp, do đó,

khi thửùc hieọn ủaàu tử phaựt trieồn saỷn xuaỏt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa

hoặc các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước đối với các thành

phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách,

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế... còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao

động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội, như thông qua chương trình mía

đường của Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế góp phần không phải nhập khẩu thì đã tạo được

việc làm cho trên 470.000 nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi trồng mía để cung cấp

cho các Nhà máy đường; chương trình đánh cá xa bờ của Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế

tạo ra hàng hóa xuất khẩu góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất

nước, còn có ý nghĩa về chính trị, đó là bảo vệ an ninh bờ biển của nước ta, tạo ra công ăn

việc làm cho trên 200.000 lao động tại các tỉnh ven biển...

1.2.4. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn huy động theo

kế hoạch của Nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ trương của Nhà nước.

- Tổ chức làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hệ

thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và hoạt động

theo nghị định của Chính phủ.

- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là những dự án đầu tư

theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo

chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cớ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được

qui định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

- Chu kỳ cho vay thường dài, lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước

là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy định phù hợp với chủ trương

khuyến khích ĐTPT kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

1.2.5. Phân biệt tín dụng ĐTPT của Nhà nước với các hình thức tín dụng

khác

So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng

quốc tế, tín dụng ĐTPT của nhà nước cũng hoạt động với nguyên tắc vay trả. Tuy nhiên,

tín dụng ĐTPT của Nhà nước với bản chất riêng luôn có những đặc thù so với các loại

hình tín dụng khác, cụ thể:

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo chủ

trương của Nhà nước.

- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập trung vào

các lĩnh vực then chốt, có tác động đến tăng trưởng kinh tế, mà các thành phần kinh tế

khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh lời thấp, nhu cầu vốn lớn, thời

hạn đầu tư dài,... nên thường phải gắn với những ưu đãi nhất định. Chẳng hạn, lãi suất

thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ, qui mô cho vay lớn hơn và các điều kiện

đảm bảo nợ vay với giá trị thường thấp hơn khoản vay,...

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát triển trong

giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các nhà

đầu tư đã quen với hoạt động cạnh tranh,... thì vai trò can thiệp, điều tiết kinh tế của Nhà

nước giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư của Nhà nước thu hẹp lại để chuyển dần sang tín

dụng thương mại.

- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Nhà nước xác định và

được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.

1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước

Hiện nay, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị

định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ và Quyết định số

133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ.

+ Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định số

43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ

* Mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các

thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước

và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.

* Nguyên tắc tín dụng chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư Nhà nước cần khuyến

khích, có hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo hoàn trả được vốn vay.

Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hai hình thức cho vay đầu tư và bảo

lãnh tín dụng đầu tư. Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện đúng theo mục tiêu và tiến

độ đầu tư của dự án. Dự án đó phải được Quỹ thẩm định phương án trả nợ vốn vay và

chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.

* Nguồn vốn tín dụng: Bao gồm các nguồn sau: Vốn điều lệ của Quỹ; vốn NSNN

cấp hàng năm; vốn thu hồi nợ hàng năm; vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ; vốn vay

nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại; vốn huy động như vay lại các

Quỹ: Tích lũy nước ngoài; tiết kiệm bưu điện; bảo hiểm xã hội hoặc huy động khác.

Nguồn vốn này được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu: Cho vay đầu tư, hỗ trợ

LSSĐT, thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư, trả nợ vốn vay.

* Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được

thực hiện thông qua các hình thức: Cho vay trung dài hạn để đầu tư, hỗ trợ LSSĐT, bảo

lãnh tín dụng đầu tư.

 Đối tượng cho vay đầu tư: Là các dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực

tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị

công nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế đầu tư tại các vùng khó khăn

theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư

trong nước (sửa đổi) thuộc các ngành. Các dự án có sử dụng vốn HTPT chính thức

(ODA) cho vay lại. Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo quyết định của Thủ

tướng Chính phủ.

 Điều kiện cho vay: Dự án phải thuộc đối tượng quy định, có đầy đủ thủ tục đầu

tư và xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước.

Chủ đầu tư là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tổ chức

và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, sản xuất kinh doanh có lãi, có

phương án trả được nợ vay được Quỹ chấp nhận, thực hiện các quy định về đảm bảo tiền

vay theo quy định của Nhà nước.

 Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay đối với các dự án đặc biệt: theo Quyết định

của Thủ tướng Chính phủ. Mức vốn cho vay đối với các dự án thuộc các chương trình phát

triển kinh tế của Nhà nước: 85% - 100% tổng vốn đầu tư của dự án. Mức vốn cho vay đối

với các dự án khác: 50% - 70% tổng vốn đầu tư.

 Thời hạn cho vay: Tối đa 10 năm, trường hợp đặc biệt trên 10 năm.

 Lãi suất cho vay: Tại thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay là 5,4%/ năm. Khi lãi

suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tăng, giảm 10%, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định

điều chỉnh. Một số dự án thuộc diện được ưu đãi đặc biệt, lãi suất cho vay 3%/ năm và

0%/ năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng.

 Đảm bảo tiền vay: Nếu chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước được dùng tài sản

hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay. Nếu chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp

nhà nước, ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay, phải có tài

sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Những trường hợp đặc biệt do Thủ

tướng quyết định.

 Rủi ro và xử lý rủi ro: Các dự án vay vốn bị rủi ro do các nguyên nhân khách

quan:

- Do chính sách nhà nước thay đổi, do biến động của giá cả thị trường trong và

ngoài nước ngoài dự kiến đã tính toán trong dự án khả thi mà chủ đầu tư gặp khó khăn

trong việc trả nợ vay, thì được xem xét gia hạn nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, khoanh nợ.

- Do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ làm mất tài sản, được cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền xác nhận mà chủ đầu tư không trả được nợ, thì sau khi đã nhận được tiền

bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có) được xem xét xóa một phần hoặc toàn bộ nợ

vay.

Các khoản bù đắp rủi ro nói trên được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng

rủi ro được trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro

không đủ bù đắp thì Hội đồng quản lý Quỹ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết

định.

- Thẩm quyền xử lý rủi ro: Quỹ quyết định gia hạn nợ, miễn giảm lãi tiền vay.

Thủ tướng chính phủ quyết định khoanh nợ, xóa nợ trên cơ sở đề nghị của Quỹ.

 Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

 Đối tượng hỗ trợ LSSĐT: Là các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư

theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư

trong nước (sửa đổi) do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp

tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay.

 Mức hỗ trợ LSSĐT: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm của dự án được tính bằng

nợ gốc trong hạn thực trả trong năm nhân với 50% lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước,

nhân (x) với thời hạn thực vay đối với nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Thời hạn hỗ trợ

LSSĐT tối đa bằng thời hạn quy định đối với dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà

nước.

 Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư

 Đối tượng được bảo lãnh: Là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được

hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật

khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) nhưng không được hỗ trợ LSSĐT, không được

vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng ĐTPT Nhà nước.

 Mức bảo lãnh: Đối với các dự án đặc biệt thực hiện theo quyết định của Thủ

tướng Chính phủ. Đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các dự án nông

nghiệp, mức bảo lãnh tối đa đến 100% số vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với các dự án

khác mức bảo lãnh từ 50% đến 80% trị giá khoản vay.

 Thời hạn bảo lãnh: Phù hợp với thời hạn vay vốn trong hợp đồng tín dụng đã

ký giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay thực hiện dự án.

 Điều kiện được bảo lãnh: Đã được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay và có

văn bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ HTPT chấp thuận phương án tài chính, phương án

trả nợ vốn vay và phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh.

 Phí bảo lãnh: 0,5%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh. Đối với các dự án sản

xuất hàng xuất khẩu: 0,3%/ năm tính trên số tiền đang bảo lãnh.

+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-09-

2001 của Thủ tướng Chính phủ

Tín dụng ngắn hạn HTXK là ưu đãi của Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất hàng xuất khẩu theo chính sách

khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước.

Hình thức tín dụng ngắn hạn được quy định theo các nội dung chủ yếu sau:

 Đối tượng được vay vốn ngắn hạn HTXK là các đơn vị thực hiện xuất khẩu

hàng hóa, gồm các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh các mặt hàng thuộc chương

trình ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định hàng năm hoặc

trong từng thời kỳ.

Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng 80% lãi suất tín dụng ĐTPT

của Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng và được giữ cố định trong suốt thời hạn vay vốn.

Hiện nay đang áp dụng mức lãi suất 0,36%/ tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi

suất nợ trong hạn.

Thời hạn cho vay: Tùy thuộc nhu cầu sử dụng vốn để thực hiện hợp đồng xuất

khẩu nhưng tối đa không quá 12 tháng. Trường hợp cho vay xuất khẩu hàng trả chậm đến

720 ngày thực hiện theo danh mục mặt hàng do Thủ tướng Chính phủ quy định.

 Hình thức cho vay: Có hai hình thức cho vay: Cho vay trước khi giao hàng:

theo hợp đồng xuất khẩu hoặc theo L/C, hoặc cho vay sau khi giao hàng: cho vay theo bộ

chứng từ hợp lệ.

 Mức vốn cho vay: Tối đa 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu, 80% trị giá L/C

hoặc 90% giá trị bộ chứng từ hàng xuất.

1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

+ Các nhân tố về môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội

- Môi trường chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bất kỳ

doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn định, thì

không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh mà bản thân tổ chức cho vay cũng

khó có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và trong điều kiện như vậy

việc duy trì sự phát triển như cũ đã là khó chứ chưa nói đến việc mở rộng. Hơn nữa sự

bất ổn về chính trị sẽ dẫn đến sự mất lòng tin đầu tư của dân chúng cũng như các chủ

doanh nghiệp trong và ngoài nước. Khả năng huy động vốn khó khăn, vì vậy nguồn vốn

cho ĐTPT cũng sẽ bị hạn chế.

- Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ có tác dụng

rất lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của

Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu.

- Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm tin

được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp

cũng như tổ chức tín dụng hoạt động được thuận lợi.

- Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế - xã hội tác

động lên hoạt động của doanh nghiệp, đó chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề

ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt được những

mục tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho lưu thông

hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền

kinh tế ổn định tăng trưởng tốt thì có nghĩa là đầu tư sẽ tăng, đồng thời với nó là hoạt

động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và có khả năng hoàn trả được vốn vay.

+ Các nhân tố về tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước

- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng: Năng lực thẩm định trước khi cho

vay: đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của khoản vay và dự án. Năng lực thẩm định cao

sẽ loại trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, việc dự đoán tương

lai hoạt động, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.

Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo cho việc sử dụng

vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng lực giám

sát và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng.

- Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và qui trình nghiệp vụ: Quy định rõ về

quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận sẽ có tác động lớn trong các mối

quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm định đến khi thiết lập

quan hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tình

trạng lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín dụng.

Quy trình nghiệp vụ khoa học, quy định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân

từng bộ phận sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho

vay, giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín

dụng.

+ Các nhân tố về phía tổ chức hưởng hỗ trợ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu

hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định: Biểu hiện cụ thể là quá

trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết quả như thế nào.

- Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể

hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn sử dụng. Năng

lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng

lớn thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.

- Khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp: Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ

máy có năng lực quản lý phù hợp. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch

toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các qui định của pháp luật.

- Sự đáp ứng của dự án với điều kiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước: Dự án đầu tư

phải thuộc đối tượng cần được khuyến khích đầu tư theo qui định của Nhà nước. Dự án

phải chứng minh được sự cần thiết, mục đích, kết quả của đầu tư. Sự phù hợp của quá

trình đầu tư với qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chủ đầu tư phải có đủ

vốn tự có tham gia đầu tư theo tỷ lệ qui định, có khả năng hoàn trả nợ từ bản thân dự án

và từ các khoản thu nhập hợp pháp khác của doanh nghiệp.

1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển

1.3.1. Tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển

Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính nhà nước, được Chính phủ thành lập theo

Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 6-7-1999 để thực hiện chính sách hỗ trợ ĐTPT của

Nhà nước thông qua một số hoạt động như cho vay, thu nợ các dự án đầu tư; bảo lãnh

vay vốn đối với các chủ đầu tư; tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh đối với các quỹ đầu tư;

hỗ trợ LSSĐT đối với các dự án ưu đãi của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành,

lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích

đầu tư... Hoạt động của Quỹ không vì mục đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm hoàn vốn

và bù đắp chi phí. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN để giảm lãi suất cho

vay và giảm phí bảo lãnh. Quỹ HTPT được NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, bố trí vốn hỗ

trợ LSSĐT, được bù đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện cho vay đầu tư và

bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu

tư của Quỹ luôn có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường. Trong

trường hợp lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động, Quỹ được Nhà nước cấp bù

chênh lệch lãi suất. Đây là điểm hết sức khác biệt so với các tổ chức tín dụng khác. Như

vậy, hoạt động cơ bản của Quỹ HTPT là hoạt động tín dụng, một trong những nội dung

của tín dụng nhà nước.

1.3.2. Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển

Theo Từ điển Tiếng Việt: "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại".

Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Vậy, trong trường hợp cụ thể đối với hoạt động

tín dụng của Quỹ thì hiệu quả được hiểu như thế nào?

Hoạt động tín dụng của Quỹ được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu quả

kinh tế - xã hội cho cả Quỹ, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế

quốc dân. Nghĩa là, bên cho vay, trong đó có Quỹ thu được nợ gốc và lãi trong khoảng

thời gian trong hạn. Còn đối với khách hàng vay vốn, nhờ có vốn tín dụng được vay đã

góp phần làm cho họ sản xuất kinh doanh có lãi, làm cho họ thực hiện được chức năng

vốn có của mình và đối với nền kinh tế quốc dân, khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng

tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là việc Quỹ HTPT cùng

các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức năng chủ động tìm ra giải

pháp để bên cho vay hạn chế tới mức thấp nhất nợ quá hạn phát sinh; bên đi vay vốn sản

xuất kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận càng cao càng tốt và hoạt

động của Quỹ HTPT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ

trợ phát triển

Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải huy động tối đa các nguồn lực cho ĐTPT. Tín

dụng trung dài hạn nói chung và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói riêng là một

trong những nguồn vốn quan trọng cho ĐTPT. Quỹ HTPT, với tư cách là đầu mối trung

tâm tiếp nhận, huy động, quản lý và thực hiện nguồn vốn này, có vai trò quan trọng trong

quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

Thứ nhất: Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thông qua hoạt động, Quỹ hỗ trợ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp ĐTPT sản xuất

thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn

cần khuyến khích đầu tư.

Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm

cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã,

phong phú về chủng loại và chất lượng cao. Do đó, nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ tăng

lên. Nếu các dự án đầu tư vào sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất có hiệu

quả, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm

được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào.

Nếu đầu tư vào công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng sẽ tạo điều kiện để người tiêu dùng

tiếp cận với sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu

ra nước ngoài để thu ngoại tệ.

Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông

đường không, bộ, thủy, khu công nghệ... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề

phát triển cho các ngành kinh tế khác.

Thứ hai: Thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu. Đối với những nước đang

phát triển, nếu kim ngạch xuất khẩu tăng lên, hàng hóa đứng vững được trên thị trường

quốc tế với thị phần ổn định sẽ khẳng định: sản phẩm có sức cạnh tranh cao, máy móc

thiết bị, trình độ công nghệ đã được quan tâm đúng mức. Quy chế tín dụng xuất khẩu mới

mở ra theo đó khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu không kể

trung, dài hay ngắn hạn và ngành nghề. Đây thực sự là một kích thích tố mạnh mẽ nhằm

tăng kim ngạch xuất. Như vậy, hoạt động của Quỹ HTPT là một trong những nhân tố

thúc đẩy xuất khẩu của nước nhà.

Thứ ba: Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Với

đặc điểm hạn chế về đối tượng được hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành của Chính

phủ, thông qua các hoạt động của mình, Quỹ có thể tập trung cho vay phát triển ngành

này, hay ngành khác. Điều đó, có nghĩa là khuyến khích và thúc đẩy lĩnh vực, ngành đó

phát triển hơn so với các ngành khác. Như vậy, hoạt động của Quỹ có tác động đối với các

ngành kinh tế và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là đặc biệt quan

tâm tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy mạnh các

hoạt động kinh tế đối ngoại; nâng cấp cải tạo và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ

tầng kinh tế; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành

trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách phải có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường,

phát huy tác dụng nhanh và hiệu quả.

Thứ tư: Tạo thêm việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm là vấn đề hết

sức quan trọng mà bất cứ nhà nước nào trên thế giới đều rất quan tâm. Một trong những

ưu tiên của Quỹ là các dự án đầu tư tạo thêm được nhiều việc làm mới. Khi thực hiện

ĐTPT sản xuất, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế... còn tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã

hội.

1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ

trợ phát triển

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT.

Tuy nhiên, những nhân tố cơ bản, quan trọng và tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến hiệu

quả hoạt động tín dụng của Quỹ bao gồm: Năng lực quản lý của người lãnh đạo Quỹ,

chính sách lãi suất của Nhà nước, năng lực giám sát và thẩm định của đội ngũ cán bộ

thuộc Quỹ và tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ.

- Yếu tố con người, tổ chức, chính sách luôn luôn có tầm quan trọng đặc biệt.

Năng lực quản lý của người lãnh đạo có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động của

Quỹ. Nếu năng lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không hợp lý, các sách lược

kinh doanh không phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

thì các hoạt động của Quỹ, mà chủ yếu là hoạt động tín dụng có hiệu quả thấp hoặc

không có hiệu quả và ngược lại.

- Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính, mục tiêu của Quỹ không vì mục đích lợi

nhuận. Song, Quỹ HTPT vẫn phải bảo tồn được vốn của mình khi cho vay đầu tư, để có

nguồn vốn tái đầu tư và cũng hạn chế sự bao cấp của nhà nước. Vì vậy, lãi suất là yếu tố

quan trọng không chỉ đối với hoạt động của Quỹ mà còn giúp chủ thể vay vốn sử dụng

vốn vay có hiệu quả hơn. Lãi suất của Quỹ do Nhà nước quy định thường thấp hơn so với

lãi suất Ngân hàng. Trong những trường hợp thị trường biến động, sự chênh lệch giữa lãi

suất cho vay ưu đãi và lãi suất cho vay thương mại là rất lớn hoặc không đáng kể. Nếu

chính sách lãi suất của Nhà nước không được điều chỉnh kịp thời thì hoạt động của Quỹ

sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Các khách hàng có thể sẽ tìm đến với các ngân hàng thương mại

khi sự chênh lệch đó là ít mặc dù họ được ưu đãi về vay vốn đầu tư thay vì đến với Quỹ.

Hoặc có thể họ sẽ tập trung tới Quỹ, khi đó Quỹ sẽ khó có khả năng đáp ứng kịp thời. Do

vậy, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ sẽ thấp.

- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của Quỹ HTPT:

Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo hiệu quả

của khoản vay và dự án. Nếu năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc

cung cấp thông tin của khách hàng cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng.

Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý

các thông tin tín dụng. Nếu thiếu khả năng này, tổn thất trong hoạt động tín dụng sẽ

không tránh khỏi. Do đó, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT sẽ thấp.

Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng

như ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi sát sao và

chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo việc sử

dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi.

- Tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ: Hoạt động của Quỹ HTPT có triển khai

được thuận lợi và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy và quy

trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận,

mối quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng trong quá trình thực hiện từ

thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn (gốc + lãi). Quy trình quản lý

tín dụng được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng

của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở

quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động của

Quỹ HTPT.

1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển

của Quỹ Hỗ trợ phát triển

* Các chỉ tiêu định tính

Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện qua khả năng thu

được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng đối với

Quỹ HTPT; khả năng sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ Quỹ và tác

động đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, về mặt định tính, chất lượng

hoạt động tín dụng được đánh giá qua các mặt sau:

Thứ nhất: Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện ở khả năng

thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng.

Nghĩa là, hoạt động tín dụng phải bảo đảm để Quỹ HTPT thực hiện được chức năng mà

Nhà nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập cho Quỹ HTPT đủ để trang trải các

khoản chi phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu hồi được vốn cho

vay hoặc thu hồi chậm).

Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt

nhu cầu của khách hàng. Nói cách khác, đối với bên đi vay thì điều này trước hết biểu hiện

ở chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc an toàn

cần thiết và theo những quy trình nhất định), cung cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời.

Qua đó, bên đi vay sẽ tiết kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là

sẽ không bỏ lỡ những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt.

Thứ hai: Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một cách

khác, bên đi vay sử dụng vốn vay được từ Quỹ HTPT phục vụ tốt hoạt động sản xuất

kinh doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề ra.

Thứ ba: Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa phương

và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Quỹ đều hoạt động tốt.

Nó được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của Quỹ sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật

chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu, thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ

trương, định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo thêm việc làm

cho người lao động, nâng cao mức sống người dân.

Nhìn chung, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một chỉ tiêu rất tổng

hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả ba đối tượng: Quỹ HTPT, khách hàng vay vốn

của Quỹ và nền kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ đánh giá hiệu

quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT một cách khái quát. Muốn có những kết luận

chính xác hơn, cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể liên quan

đến Quỹ. Riêng nhân tố kinh tế - xã hội rất khó có các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác

động cụ thể đối với từng hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đến sự phát triển chung đối

với phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, do nhân tố bên đi vay của Quỹ cũng rất đa

dạng như các doanh nghiệp, các dự án, các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra

được các chỉ tiêu định lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tùy từng trường hợp

cụ thể mà người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và định

lượng. Đôi khi chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.

* Các chỉ tiêu định lượng

- Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Doanh số cho vay là số tiền mà Quỹ cho các

khách hàng vay. Tốc độ tăng doanh số cho vay được thể hiện qua công thức:

Doanh số cho vay kỳ này

Tốc độ tăng doanh số = - 1 x 100

Doanh số cho vay kỳ trước

Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn tốc độ

tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay qua các thời kỳ.

Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng

của Quỹ. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, đó mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng

định hiệu quả tín dụng của Quỹ mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu

khác.

- Tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ huy động

từ các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ

tiêu này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ. Nếu tổng vốn huy động cao, khả năng cho

vay lớn và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu định lượng

khác để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của. Chẳng hạn, nếu tổng vốn huy động

của Quỹ, trong khi doanh số cho vay nhỏ, tốc độ tăng doanh số cho vay chậm thì hiệu

quả hoạt động của Quỹ không cao.

- Hiệu suất sử dụng vốn:

Tổng dư nợ

Hiệu suất sử dụng vốn = x 100

Tổng nguồn vốn

Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng nguồn vốn của

Quỹ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ có thể ngày càng cao

và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một

cách tổng quát, không chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả tín dụng của

Quỹ. Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ dẫn đến đánh giá sai. Chẳng hạn, tỷ nợ

quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của

Quỹ HTPT chưa chắc đã cao, thậm chí còn thấp.

- Tỷ lệ nợ quá hạn

Dư nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100

Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ trong quá trình

cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của Quỹ càng tốt và ngược lại.

Bởi vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ Quỹ đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế,

do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của Quỹ là

không thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như

giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới

5% là có thể chấp nhận được.

Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một hoạt động tín dụng chính sách cho

ĐTPT, không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động của Quỹ chủ yếu hoạt động và tổ chức

thực hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, hàng năm,

vì mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được quy định rõ: tín dụng ĐTPT của Nhà

nước nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh

vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của

Nhà nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu

quả kinh tế trực tiếp, nên hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ là một khái niệm tổng hợp,

vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng, nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu liên

quan đến nhiều đối tượng: Quỹ HTPT, bên đi vay của Quỹ và quan trong nhất là tình hình

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vì là hoạt động tín dụng chính sách nên các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động

tín dụng của Quỹ HTPT mang nhiều tính chất định tính hơn là tính định lượng (đây là

một đặc điểm khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại), nên trong

luận văn sẽ đi sâu vào phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT trên một số

các chỉ tiêu định tính; có một số chỉ tiêu mang tính chất định lượng hay định tính đánh

giá hiệu quả của Quỹ và nó có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có thể là bổ sung cho nhau

nhưng cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả

hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT thì phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ

thống cả trên tầm vi mô cũng như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào định hướng,

chủ trương ĐTPT trong từng lĩnh vực, ngành hay chương trình, dự án cụ thể để có sự

đánh giá mức độ ưu tiên cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối

tượng khác.

1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của một số nước

trong khu vực và trên thế giới

1.4.1. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Hàn Quốc

Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Vào cuối

giai đoạn "cất cánh", Hàn Quốc trở thành một nước công nghiệp. Sự phát triển nhanh

chóng đó có hai yếu tố quan trọng góp phần, một là chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất

khẩu, hai là chính sách tạo nguồn vốn hợp lý. Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ để huy

động các nguồn lực, trong đó có tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Đầu tư của Nhà nước nói

chung của tín dụng ĐTPT của Nhà nước nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc

hỗ trợ các ngành kinh tế phục vụ chiến lược phát triển trong thời kỳ này.

Chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ các nguồn tài chính thông qua Quỹ đầu tư quốc

gia để hỗ trợ cho các ngành được khuyến khích đầu tư. Các chính sách được áp dụng cho

vay có chọn lọc, ưu tiên lãi suất cho phát triển những ngành công nghiệp có mục tiêu

quốc gia. Từ năm 1973, Hàn Quốc chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp nặng

như công nghiệp sắt, thép, kim loại màu… và công nghiệp hóa chất như phân bón, sơn,

chất dẻo... bằng cách cho vay ưu đãi với lãi suất thấp.

Chính phủ hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu thông qua các biện pháp chủ yếu như:

cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu một số sản

phẩm quan trọng, cho vay với lãi suất ưu đãi để sản xuất hàng xuất khẩu, cấp tín dụng

cho các nhà nhập khẩu khẩu nguyên liệu thô và thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu, cho

vay để chuyển đổi nhà máy sang sản xuất hàng xuất khẩu,...

Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã xuất hiện những dấu hiệu phát

triển mất cân đối buộc Chính phủ phải điều chỉnh chính sách phát triển. Trước hết, Chính

phủ giảm hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay xuất khẩu, tín dụng ĐTPT của Nhà nước

cấp cho các công ty thuộc diện được vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước cho xuất khẩu

với lãi suất thấp. Mặt khác, Nhà nước chuyển sang khuyến khích phát triển doanh nghiệp

có quy mô vừa và nhỏ, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được ưu tiên phân bổ cho khu vực

này.

Tóm lại, sự tăng trưởng kinh tế nhanh của Hàn Quốc trong 4 thập kỷ liên tiếp

phần lớn nhờ thực hiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu và công nghiệp hóa chất với sự

hỗ trợ tài chính mạnh mẽ từ NSNN và tín dụng đầu tư Nhà nước.

1.4.2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Trung Quốc

Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống tín dụng

nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng đầu tư Nhà nước

ngày càng được hoàn thiện.

Một trong các nội dung của công cuộc cải cách cơ chế quản lý vốn đầu tư xây

dựng cơ bản là xác định rõ phạm vi đầu tư từ ngân sách và phân biệt ranh giới danh mục

các công trình dự án đầu tư công cộng và các công trình dự án đầu tư có khả năng thu hồi

vốn. Hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước dưới các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín

dụng đầu tư, bảo hiểm tín dụng và hỗ trợ LSSĐT.

Việc thực hiện tín dụng đầu tư của Nhà nước do ba Ngân hàng: Ngân hàng phát

triển, Ngân hàng phát triển nông nghiệp và Ngân hàng xuất nhập khẩu. Ngân hàng phát

triển nông nghiệp chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng phát triển chuyên về lĩnh

vực xây dựng cơ bản và Ngân hàng xuất nhập khẩu chuyên về lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Trong ba ngân hàng này chỉ có Ngân hàng phát triển là ngân hàng chính sách thuần túy,

hai ngân hàng còn lại hoạt động có tính lưỡng chế, vừa kinh doanh đồng thời vừa tiếp

nhận và quản lý nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho từng lĩnh vực.

1.4.3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Đài Loan

Trong những năm 1959 đến 1972, Đài Loan thực hiện vai trò hỗ trợ cho các

ngành công nghiệp nhẹ có định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động. Trong đó có

biện pháp hỗ trợ tài chính của Nhà nước là cấp tín dụng đầu tư với lãi suất thấp. Chế độ

ưu đãi đối với các công ty tham gia phát triển các ngành công nghiệp chiến lược bao

gồm:

- Sự trợ giúp vốn của Nhà nước: Các công ty đáp ứng được tiêu thức trên có thể

đề nghị sự giúp đỡ từ phía Chính phủ khi tiêu thức xác định các công ty được phân hạng

và Chính phủ có thể trợ giúp khoảng 50% số vốn của toàn bộ chương trình hỗ trợ;

- Cho vay với lãi suất thấp: Năm 1982, Chính phủ đã lập quỹ với số tiền 250 triệu

USD để đảm bảo các khoản cho vay với lãi suất thấp đối với các công ty trong ngành

công nghiệp chiến lược. Các khoản vay với lãi suất thấp được các công ty dùng để mua

máy móc, thiết bị là chủ yếu.

Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở

các nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu cho việc thực hiện

tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở Việt Nam.

Thứ nhất, các biện pháp hỗ trợ tài chính cho đầu tư được thực hiện dưới nhiều

hình thức khác nhau, trong đó bên cạnh hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách là cấp

tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Để quản lý hiệu quả nguồn vốn này, cần huy động các tổ

chức tín dụng, ngân hàng tham gia vào việc huy động vốn để cho vay theo các đối tượng

được Nhà nước quy định hoặc Nhà nước hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng đầu tư và quản

lý thống nhất thông qua một đầu mối.

Thứ hai, để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước,

cần thành lập một tổ chức có đủ năng lực và thẩm quyền để điều hòa vốn và quản lý

chung.

Thứ ba, hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước được áp dụng rộng rãi và luôn

được điều chỉnh trong mỗi thời kỳ.

Thứ tư, lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước thấp hơn lãi suất vay vốn trên thị

trường tự do. Lãi suất vay vốn thấp là công cụ quan trọng của Nhà nước trong hỗ trợ vốn

dài hạn để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt cần nhiều vốn trong thời kỳ đầu

của giai đoạn tăng trưởng kinh tế.

Thứ năm, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế phục

vụ chiến lược phát triển của Chính phủ.

Thứ sáu, đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước không nên quá

rộng, làm cho các doanh nghiệp ỷ lại, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và

tăng khoản nợ của Chính phủ.

Thứ bảy, bên cạnh hỗ trợ đầu tư thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước còn phải

thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp hỗ trợ khác.

Thứ tám, để có đủ nguồn vốn cho vay ĐTPT cần đa dạng hóa các hình thức huy

động. Bên cạnh việc đẩy mạnh huy động nguồn vốn dưới hình thức trái phiếu trên thị

trường trong nước, chúng ta cũng nên khẩn trương tiến hành huy động vốn dưới hình

thức phát hành trái phiếu quốc tế.

Chương 2

Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng

đầu tư phát triển của Quỹ hỗ trợ phát triển

từ năm 2001 đến nay

2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ hỗ trợ phát triển

2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ Hỗ trợ phát

triển

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước đã chủ trương đổi mới toàn

diện cơ chế quản kinh tế từ hình thức kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực ĐTPT đã có những bước thay đổi quan trọng

nhằm huy động tối đa các nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước

nhằm phát triển đất nước. Các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng, các dự án mang tầm chiến lược

quốc gia, thuộc ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án thuộc vùng khó khăn, kém phát triển

thường đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên các nhà đầu tư thường

không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Vì vậy, các dự án này thường được Chính

phủ tài trợ.

Với yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư, Chính phủ đã thay đổi cơ

chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chuyển từ hình thức cấp phát sang hình thức tín

dụng đầu tư đối với những dự án cần khuyến khích đầu tư và có khả năng thu hồi vốn

trực tiếp. Ban đầu thực hiện tín dụng chỉ thu hồi nợ gốc (không thu lãi) sau chuyển sang

cơ chế cho vay thu hồi cả nợ gốc và lãi (lãi suất thấp). Kênh tín dụng mới này thực chất

là tín dụng ưu đãi của Nhà nước (hiện nay gọi là tín dụng ĐTPT của Nhà nước).

Bên cạnh đó, để thực hiện việc cấp và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ NSNN,

nhằm đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước, để tập trung các

nguồn vốn, các chương trình cho vay ưu đãi của Nhà nước vào một đầu mối, nâng cao

hơn nữa vai trò và chất lượng của công tác

tín dụng ĐTPT của Nhà nước, ngày 8-7-1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

50/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT. Từ 1-1-2000, Quỹ HTPT chính

thức hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

Hiện nay, Quỹ Hỗ trợ phát triển có 62 chi nhánh và 1 văn phòng đại diện đặt tại 62

tỉnh, thành hoạt động dưới sự chỉ đạo của Quỹ Trung ương tại Hà Nội. Quỹ hỗ trợ phát

triển có quan hệ mật thiết với các cơ quan khác của Chính phủ như với Thủ tướng Chính

phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ và các

cơ quan chức năng khác.

2.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong thời

gian qua

+ Tình hình huy động vốn và quản lý điều hành nguồn vốn

Khi mới thành lập, Quỹ HTPT có vốn điều lệ là 3000 tỷ đồng, sau đó Quỹ được

bổ sung thêm 2000 tỷ đồng nữa nên hiện nay vốn điều lệ của Quỹ là 5.000 tỷ đồng.

Nguồn vốn của Quỹ cho hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước bao gồm: vốn được Nhà

nước cấp bổ sung hàng năm cho đến khi đủ vốn điều lệ, các nguồn theo theo chỉ định và

tự huy động.

Đối với nguồn vốn tự huy động, vốn vay từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Quỹ

Tiết kiệm bưu điện là nguồn vốn mang tính kế hoạch và do Chính phủ ấn định về số vốn

vay, mức lãi suất. Nguồn này có ưu điểm là tương đối ổn định, thời hạn vay vốn dài

(khoảng 5 năm). Tuy nhiên, do quy mô nhỏ nên chưa đáp ứng nhu cầu về vốn của Quỹ

HTPT.

Từ năm 2002, Quỹ HTPT chính thức phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua

thị trường chứng khoán tập trung. Mặc dù tỷ trọng nguồn này chiếm nhỏ trong tổng

nguồn vốn cho vay tín dụng nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện để mở

rộng hoạt động cho vay và đầu tư của Quỹ (xem bảng 2.1).

Bảng 2.1: Nguồn vốn hoạt động của Quỹ HTPT

trong 3 năm 2001, 2002, 2003

Đơn vị: Tỷ đồng

Tỷ Tỷ Tỷ Năm Năm Năm Nội dung trọng trọng trọng 2001 2002 2003 (%) (%) (%)

A. Vốn điều lệ và các quỹ 4.098 9.58 4.981 9.37 5.131 7.6

B. Vốn huy động 11.82 27,7 18.517 34.8 30.28 44.8

9 4

1. Tiết kiệm bưu điện 2.640 1.800 3.755

2. Bảo hiểm Xã hội VN 7.700 1.000 8.900

3. Vay Quỹ tích lũy trả nợ 1.339 823 1.336

nước ngoài

4.Vốn NS chuyển cho vay 0 600 1.000

các chương trình

5. Trái phiếu Kho bạc 150 544 500

6. Trái phiếu Chính phủ 1.586 5.371 0

7. Chi nhánh Quỹ huy động 495 2196 0

8. Nguồn khác (khấu hao 2.602 10.02 0

8 ngành điện, cấp phát ủy

thác)

C. Nguồn ghi thu ghi chi 26.71 62.65 29.648 55.7 32.88 48.7

ODA cho vay lại 9 4

Tổng cộng 42.64 53.146 67.50

6 5

(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003 của Quỹ HTPT).

Bước sang năm 2003, công tác huy động vốn được Quỹ HTPT xác định là một

nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, rất nặng nề. Việc huy động vốn của Quỹ HTPT trong năm

2003 có nhiều khó khăn hơn trước do nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư rất lớn trong

khi lãi suất huy động vốn trên thị trường biến động phức tạp. Từ đầu năm, Quỹ HTPT đã

trình Hội đồng quản lý, Bộ trưởng Bộ Tài chính phương án huy động vốn để đáp ứng nhu

cầu giải ngân và hoàn trả các nguồn vốn huy động đến hạn. Ngoài các nguồn vốn theo chỉ

định của Chính phủ, Quỹ đã chú trọng đa dạng hóa các nguồn vốn huy động khác, đặc

biệt đẩy mạnh huy động vốn tại các Chi nhánh Quỹ, từng bước đảm bảo nhu cầu cho vay

trên địa bàn.

Tính đến hết ngày 31-3-2004, toàn hệ thống Quỹ HTPT đã huy động được 7462

tỷ đồng vốn từ các nguồn, đạt 30% kế hoạch năm (trong đó thu hồi nợ cho vay ngắn hạn

HTXK, cho vay tín dụng đầu tư trung, dài hạn 1.745 tỷ đồng (xem bảng 2.2).

Bảng 2.2: Tình hình thực hiện nguồn vốn hoạt động

của Quỹ HTPT trong quý I/2004

Đơn vị: Tỷ đồng

Kế hoạch được Tỷ lệ% so Nguồn vốn Thực hiện Thủ tướng CP giao với kế hoạch

Tổng cộng 7462

- Công ty DVTKBĐ 2.500 29.2% 730

- Thu hồi nợ dài hạn 4.000 15% 600

- Thu hồi nợ ngắn hạn 1.145

- Huy động khác 12.100 41.2% 4.987

Trong đó: 2.840

+ Trái phiếu CP 579

+ Huy động tại Chi 200

nhánh

+ Huy động từ BHXH

(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT quý I/2004).

Về cơ bản, trong 3 tháng đầu năm 2004, Quỹ HTPT đã đảm bảo đủ vốn để đáp

ứng nhu cầu giải ngân cho các dự án. Trong đó, đã giải ngân các dự án đầu tư trung và

dài hạn với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng

đạt 46% kế hoạch giao, cấp hỗ trợ LSSĐT 25 tỷ đồng đạt 25% kế hoạch và đảm bảo

thanh toán các khoản vốn huy động đến hạn trả nợ.

Song song với việc huy động vốn, công tác quản lý điều hành nguồn vốn đã đặc

biệt được chú trọng. Nguồn vốn về cơ bản đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu

của các Chi nhánh Quỹ. Quỹ HTPT bước đầu đã ban hành quy định về quản lý và điều

hành nguồn vốn theo hướng quản lý tập trung thống nhất, nâng cao trách nhiệm huy động

vốn và sử dụng vốn.

+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng đầu tư

Trong thời gian qua, do chủ động được trong việc triển khai nhiệm vụ, đồng thời,

kịp thời nghiên cứu tổng hợp trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chủ động phối

hợp với các ngành, các cấp có liên quan để xử lý, giải quyết các vướng mắc nên công tác

giải ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được thực

hiện triển khai đạt kết quả tốt, có thể thấy được tình hình công tác cho vay, giải ngân cho

số dự án vay vốn qua các năm (xem bảng 2.3).

Bảng 2.3: Tình hình cho vay, giải ngân, thu nợ các dự án vay vốn

tín dụng ĐTPT của Nhà nước (nguồn vốn trong nước)

Đơn vị: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004

1 Số dự án vay vốn 960 1.246 412

2 Số vốn giải ngân 9.376 13.475 1.200

3 Thu nợ 2.912 4.066 790

Trong đó: + Gốc 2.299 3.266 600

+ Lãi 613 800 190

4 Dư nợ 21.848 30.281 32.500

Trong đó: + Nợ quá hạn 635 1.020 1.290

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).

Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã giải ngân các dự án đầu tư trung và dài hạn cho

các dự án chuyển tiếp và dự án mới với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay

ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng đạt 46% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

Tổng dư nợ vay đến 31-3-2004 là 32.500 tỷ đồng, tăng 7% so với thời điểm 31-

12-2003, trong đó nợ quá hạn là 1.290 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ vay vốn tín dụng

đầu trung dài hạn bằng nguồn vốn trong nước (trong đó nợ quá hạn của 02 chương trình

mía đường và đánh cá xa bờ chiếm 43% tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống).

Tổng số lãi đến hạn chưa trả là 970 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31-12-

2003, trong đó lãi đến hạn chưa trả của hai chương trình mía đường và đánh bắt hải sản

xa bờ là 420 tỷ đồng chiếm 51% tổng số lãi đến hạn trả chưa trả của toàn hệ thống Quỹ

HTPT.

Quỹ HTPT đã đảm bảo được vốn cho 44 dự án nhóm A là các dự án đầu tư theo

quyết định của Thủ tướng Chính phủ (bao gồm cả chuyển tiếp và khởi công mới) với số

vốn giải ngân 5629 tỷ đồng, các chương trình lớn của Chính phủ như: Đóng mới tàu biển:

971 tỷ đồng; xi măng: 1500 tỷ đồng; thép: 800 tỷ đồng; dệt may: 700 tỷ đồng; chế biến

thủy sản: 820 tỷ đồng,...

Có thể nói, trong thời gian qua, tuy có những khó khăn nhất định thuộc về cơ chế,

chính sách, nhưng Quỹ luôn chủ động tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương

trong việc xây dựng hướng dẫn và triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước để tập trung vốn đầu tư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ góp phần vào thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm. Quỹ luôn chủ động, sáng tạo

trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhiều khó khăn vướng mắc đã được tháo gỡ kịp

thời như: bảo đảm tiền vay, đối tượng cho vay tín dụng xuất khẩu, điều chỉnh các dự án

nhóm A, thực hiện phân cấp mạnh cho các đơn vị thuộc hệ thống nhằm tăng tính chủ

động và nâng cao vai trò trách nhiệm của đơn vị, rút ngắn thời gian thẩm định và quyết

định cho vay, hỗ trợ LSSĐT, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư nắm bắt thời cơ

sản xuất kinh doanh.

+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay đối với tín dụng ngắn hạn hỗ trợ

xuất khẩu

Thực hiện Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng

Chính phủ, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay ngắn hạn HTXK đối với các đối tượng được

hưởng ưu đãi theo danh mục mặt hàng do Bộ Thương mại quy định.

- Trong 3 tháng của quý IV năm 2001, Quỹ HTPT thực hiện cho vay 150 tỷ đồng

đối với 85 hợp đồng xuất khẩu; trong năm 2002, có 14 mặt hàng thuộc diện được vay

vốn. Quỹ HTPT thực hiện cho vay 3.222 tỷ đồng đối với 923 hợp đồng xuất khẩu, đạt

179% kế hoạch năm.

- Trong năm 2003 có 21 mặt hàng thuộc diện được vay vốn ngắn hạn HTXK tại

Quỹ HTPT gồm: Gạo; lạc nhân; cà phê; chè, hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến), rau quả

(hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả); đường; thủy sản; thịt gia súc, gia cầm; gốm, sứ; đồ gỗ

mỹ nghệ; mây tre lá; sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp điện; sản phẩm cơ khí...

Quỹ đã thực hiện cho vay 6.320 tỷ đồng đối với 1.800 hợp đồng xuất khẩu, đạt 206% kế

hoạch năm

- Một số mặt hàng mới như đường, sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp

điện, khăn bông,... Quỹ HTPT đang tích cực triển khai (riêng mặt hàng máy tính nguyên

chiếc xuất khẩu trả chậm sang Cu Ba, gạo xuất khẩu trả chậm sang thị trường một số

nước Đông Nam á, Quỹ HTPT triển khai theo một cơ chế cho vay đặc biệt theo quyết

định của Thủ tướng Chính phủ).

- Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay trên 2.500 tỷ đồng đối với

149 hợp đồng xuất khẩu, đạt 46% kế hoạch năm 2004 được Thủ tướng Chính phủ giao;

Mặt hàng được HTXK tập trung, chiếm tỷ trọng lớn nhất là thủy hải sản và gạo, điều, cà

phê chủ yếu sang thị trường EU, Mỹ, Trung Đông, ASEAN (xem bảng 2.4 và 2.5).

Bảng 2.4: Tình hình cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu

Đơn vị: Tỷ đồng

STT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004

1 Số khoản vay 923 2.292 149

2 Số vốn cho vay 3.222 6.200 2.200

3 Thu nợ gốc 2.316 5.900 1.200

4 Dư nợ 1.015 2.000 2.100

Trong đó: Nợ quá hạn 8 212 100

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).

Bảng 2.5: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo mặt hàng

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm 2002 Năm 2003 TT Mặt hàng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng

1 Gạo 1.095 34,0% 1.779 28.1%

2 Thủy hải sản 1.176 36,5% 3.138 49.6%

3 Điều 136 4,2% 299 4.7%

4 Dệt may 397 12,3% 194 3%

5 Dệt kim 0 0,0% 96 1.5%

6 Cà phê 82 2,5% 130 2%

684 10.8% 7 Mặt hàng khác 336 10,5%

3.222 100% 6.320 100% Tổng cộng

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).

Về thị trường xuất khẩu: Quỹ HTPT đã cho vay để thực hiện hợp đồng xuất khẩu

sang thị trường 28 quốc gia, trong đó thị trường Mỹ, Nhật, Liên minh châu Âu và các

nước Đông Nam á là những thị trường lớn. Cơ cấu cho vay theo thị trường (xem bảng

2.6).

Bảng 2.6: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo thị trường

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm 2002 Năm 2003 TT Thị trường Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng

1 Đông Nam á 20,0% 1.412 22,3% 644

697 21,6% 2.283 36.1% 2 Mỹ

600 18,6% 784 12.4% 3 Nhật

537 16,7% 137 2,1% Trung Đông 4

236 7,3% 451 7,1% Liên minh Châu Âu 5

43 1,3% 113 1.7% Trung Quốc 6

15 0,5% 20 0.3% 7 Nga

8 Khác 450 14,0% 1.120 17.7%

Tổng cộng 3.222 100% 6.320 100%

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).

Trong cho vay ngắn hạn HTXK, các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng vay

71%, các loại hình doanh nghiệp khác chiếm 29% (công ty trách nhiệm hữu hạn 16,13%,

công ty cổ phần 7,52%,...).

Để đạt được kết quả trên, trong thời gian qua Quỹ đã sửa đổi, bổ sung các Quy

chế, Quy trình cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh nhất

đối với nguồn vốn này, việc phân cấp cho các Chi nhánh quyết định cho vay được mở

rộng hơn giải quyết yêu cầu HTXK của các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo an toàn

các khoản vay, thông qua đó Quỹ đã tập trung cho vay đối với những mặt hàng thuộc

diện khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ, mở rộng cho vay đối với các thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước.

+ Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT

Trong năm 2001, Quỹ HTPT đã ký kết 261 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 261 dự

án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 149,6 tỷ đồng, số thực cấp năm 2001 là 1,6 tỷ đồng.

Năm 2002, Quỹ HTPT đã ký kết 471 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 471 dự án với tổng số

vốn cam kết hỗ trợ là 284,9 tỷ đồng, số thực cấp năm 2002 là 31,8 tỷ đồng. Năm 2003, đã

ký kết hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 350 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 215 tỷ

đồng, số thực cấp là 117 tỷ đồng bằng 78% kế hoạch năm. Quý I/2004, Quỹ HTPT đã ký

kết hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 92 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 100 tỷ đồng,

số thực cấp là 25 tỷ đồng bằng 25% kế hoạch năm (xem bảng 2.7).

Bảng 2.7: Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT

Đơn vị: Tỷ đồng

Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004

Số dự án hỗ trợ LSSĐT 471 350 92

Số vốn cam kết 284,9 215 100

Số đã cấp 31,8 117 25

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).

Tính đến 31-3-2004, tổng số dự án được Quỹ HTPT cấp hưởng hỗ trợ LSSĐT

lên 1276 dự án với tổng số vốn hỗ trợ 776 tỷ đồng. Với số vốn cam kết hỗ trợ LSSĐT

này, Quỹ HTPT đã góp phần thu hút trên 25.000 tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng để

ĐTPT. Có thể nói, hình thức hỗ trợ LSSĐT thực sự là hình thức hỗ trợ có hiệu quả của

Nhà nước, vừa đạt mục tiêu huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho ĐTPT, vừa giảm

dần sự bao cấp của Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản, đồng thời nâng cao trách

nhiệm của các chủ đầu tư trong vay và trả nợ vốn vay.

Tuy nhiên, tình hình thực hiện kế hoạch hỗ trợ LSSĐT đạt thấp so với kế hoạch

đề ra nguyên nhân là do việc cấp hỗ trợ LSSĐT thường tập trung vào nửa cuối năm do

nhiều công trình, dự án được duyệt quyết toán và đưa vào sử dụng vào thời điểm cuối

năm. Mặt khác, vào thời điểm cuối năm, việc tổng hợp, kiểm tra đánh giá tình hình trả nợ

vốn vay các ngân hàng thương mại của các chủ đầu tư mới có số liệu đầy đủ. Dự kiến

trong năm 2004, Quỹ HTPT sẽ thực hiện 100% kế hoạch hỗ trợ LSSĐT được Thủ tướng

Chính phủ giao.

Công tác hỗ trợ LSSĐT trong thời gian qua cũng chịu tác động khá lớn của sự

biến động lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ. Do lãi suất vay vốn trên thị trường

trong thời gian qua luôn ở mức khá cao trong khi lãi suất vay vốn tín dụng ĐTPT của

Nhà nước vẫn chưa được điều chỉnh, khoảng cách giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thương

mại quá lớn đã làm giảm tính hấp dẫn của hình thức hỗ trợ LSSĐT do mức được hỗ trợ

trở lên ít đi tương đối.

Ngoài ra, một số dự án đề nghị được hỗ trợ LSSĐT không đủ điều kiện để được

hỗ trợ theo qui định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ về

tín dụng ĐTPT của Nhà nước, ví dụ như đã được vay một phần vốn tín dụng ưu đãi của

Nhà nước; hoặc đã đầu tư trước khi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết thi

hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Nghị định 35/2002/NĐ-CP).

+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư

Hình thức hỗ trợ của Nhà nước thông qua bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa thu hút

được sự quan tâm của các chủ đầu tư vì theo nhiều ý kiến từ các Bộ, địa phương và các

chủ đầu tư, thì việc thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư sẽ dẫn đến dự án vừa phải qua hai

đầu mối là tổ chức tín dụng và Quỹ HTPT thẩm định chặt chẽ như dự án vay vốn tín

dụng đầu tư, vừa phải chịu lãi suất cao của tổ chức tín dụng cộng với phí bảo lãnh của

Quỹ HTPT, hơn nữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại phải có tài sản thế chấp theo

quy định.

Vì vậy, việc bảo lãnh tín dụng đầu tư được triển khai rất chậm, thực tế trong năm

2000 chỉ có một dự án của tư nhân ở Vĩnh Long đề nghị Quỹ bảo lãnh nhưng qua thẩm

định dự án không bảo đảm đủ điều kiện bảo lãnh theo quy định của Chính phủ nên Quỹ

không chấp thuận bảo lãnh.

Năm 2001, có 8 dự án đề nghị Quỹ bảo lãnh tín dụng đầu tư với số tiền 201 tỷ

đồng, trong đó có một số dự án xin bảo lãnh để vay vốn đầu tư bằng ngoại tệ tại các ngân

hàng. Trong năm 2001, Quỹ HTPT mới chỉ ký được 2 hợp đồng bảo lãnh tín dụng đầu tư

với số tiền 19,6 tỷ đồng.

Trong năm 2002, không dự án nào được Quỹ HTPT bảo lãnh vay vốn đầu tư do

có sự thay đổi trong quy định về bảo lãnh tín dụng đầu tư. Theo Nghị định 43/1999/NĐ-

CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ, trong trường hợp dự án được Quỹ HTPT bảo lãnh

vay vốn tại các ngân hàng thương mại, nếu khách hàng không trả được nợ vay (một phần

hoặc toàn bộ) cho tổ chức tín dụng cho vay vốn, Quỹ HTPT sẽ đứng ra trả toàn bộ phần

thiếu.

Tuy nhiên, Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng

Chính phủ về việc ban hành quỹ chế tín dụng HTXK lại quy định trách nhiệm về tài

chính khi chủ đầu tư không trả được nợ "Tổ chức tín dụng cho vay vốn và Quỹ HTPT

cùng chịu trách nhiệm ngang nhau về tài chính đối với khoản đã bảo lãnh". Chính vì quy

định này, nên các tổ chức tín dụng khó chấp nhận bảo lãnh của Quỹ HTPT.

Mặc dù vậy, trong năm 2003, Quỹ HTPT đã bảo lãnh vay vốn đầu tư cho 3 dự

án, với số tiền bảo lãnh 7,9 tỷ đồng. Quý I/2004, Quỹ HTPT chưa nhận được hồ sơ dự án

thuộc diện ưu đãi đầu tư của các Doanh nghiệp gửi đến đề nghị Quỹ HTPT bảo lãnh.

Nhìn chung, các Bộ, ngành, địa phương các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan

tâm đến hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư nên việc đăng ký kế hoạch chậm và số dự án

chưa nhiều.

Bảng 2.8: Tình hình thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư

Đơn vị: Tỷ đồng

Nội dung Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003

Số dự án bảo lãnh TDĐT 2 0 3

Số vốn cam kết 19,6 0 7,9

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT 2002, 2003).

Đánh giá chung: Công tác bảo lãnh tín dụng đầu tư còn nhiều hạn chế do hình

thức này không hấp dẫn các nhà đầu tư vì vừa phải vay thương mại với lãi suất cao, vừa

phải chịu phí bảo lãnh (0,5%/năm). Ngoài ra mức bảo lãnh chỉ dừng ở 50% và 70% tổng

số vốn vay là còn thấp.

Trong năm 2004, khi Nghị định mới thay thế Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-

06-1999 của Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư được hấp

dẫn hơn và Quỹ HTPT sẽ tích cực tuyên truyền để đẩy mạnh hình thức hỗ trợ này của

Nhà nước đối với các doanh nghiệp.

+ Công tác quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại

Nhiệm vụ quản lý, cho vay lại các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA (nguồn

vốn HTPT chính thức) theo ủy quyền của Bộ Tài chính được coi là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống Quỹ HTPT.

Tính đến 31-3-2004, Quỹ HTPT đã triển khai việc quản lý cho vay lại đối với

233 dự án từ nguồn vốn ODA của 22 tổ chức đa phương và song phương trên thế giới với

tổng số vốn vay theo hiệp định khoảng 5 tỷ USD tương đương 80.000 tỷ VND được phân

bổ cho các ngành kinh tế sau:

- 55 dự án thuộc lĩnh vực năng lượng (cải tạo, xây dựng các nhà máy điện, trạm

biến áp, đường dây và trạm truyền tải điện,...) với số vốn vay tương đương 3 tỷ USD,

chiếm 65,6%.

- 45 dự án thuộc lĩnh vực cấp thoát, nước và xử lý nước thải với số vốn vay

tương đương trên 500 triệu USD, chiếm 9,5%.

- 48 dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm thủy sản với số vốn vay tương đương trên

169 triệu USD chiếm 3,5%.

- 84 dự án thuộc các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, viễn thông,...

với số vốn vay tương đương trên 1 tỷ USD chiếm trên 21%.

Tính đến 31-3-2004, tổng dư nợ vốn ODA cho vay lại do Quỹ HTPT đang quản

lý là 33.100 tỷ đồng (tương đương 2,5 tỷ USD).

Đa số các dự án có số vốn vay lớn đang trong giai đoạn giải ngân, dự kiến từ năm

2004, các dự án này bắt đầu đến hạn trả nợ gốc. Đến nay, Quỹ HTPT đã thu và hoàn trả

Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài 4.811 tỷ đồng, gồm: 2.206 tỷ đồng gốc, 2.605 tỷ đồng

lãi, tỷ lệ nợ quá hạn 0,3% (xem bảng 2.9).

Bảng 2.9: Tình hình cho vay lại vốn ODA

Đơn vị: Tỷ đồng

TT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004

1 Số dự án ODA quản lý 210 227 233

2 Số vốn giải ngân 3.763 3.282 1.560

3 Thu nợ 1.621 1.429 443

Trong đó: + Thu gốc 831 812 268

+ Thu lãi 790 617 175

4 Dư nợ 28.312 30.782 33.100

Trong đó: + Nợ quá hạn 70 93 133

(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT năm 2002, 2003, Quý I/2004)

Tính đến 31-3-2004, đã có 98 dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho vay lại thuộc

các lĩnh vực hạ tầng: Cải tạo nhà máy điện, nâng cấp hệ thống cấp nước, giao thông vận

tải đã hoàn thành đi vào sản xuất và phát huy hiệu quả đầu tư đồng thời thực hiện tốt

nghĩa vụ trả nợ như: Dự án Nhiệt điện Phả Lại (vốn vay Chính phủ Nhật Bản), dự án cải

tạo lưới điện ba thành phố Hà Nội - Nam Định - Hải Phòng (vốn vay ADB), dự án Nhà

máy Đường Lam Sơn (vốn vay Chính phủ ấn Độ)…

Tuy nhiên, đến nay đã có 16 dự án phát sinh nợ quá hạn, các dự án này không

phát huy được hiệu quả đầu tư, giá thành sản xuất cao hơn giá bán dẫn đến sản xuất kinh

doanh thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do báo cáo khả thi không sát với tình hình thực tế

sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế các dự án sau khi đầu tư công suất sử dụng

thấp, thậm chí có dự án chỉ đạt 10% công suất thiết kế như dự án sản xuất nhũ tương nhựa

đường (vốn vay Chính phủ Tây Ban Nha), dự án sản xuất téc nhựa Thái Bình (vốn vay

Chính phủ ấn Độ)…

2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

qua hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển

2.2.1. Những kết quả đạt được

* Chỉ tiêu định tính

Hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải đầu tư ở mức độ

cao, trong đó quan trọng là đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, tăng cường hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh, tạo nên những

bước chuyển biến về chất và lượng trong lực lượng sản xuất, từ đó nâng cao sức cạnh

tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, chủ

trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đã được các Bộ ngành, các địa phương và các

đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế triển khai thực hiện một cách nghiêm túc.

Trong hoạt động cho vay đầu tư của Quỹ HTPT, cho vay đầu tư cho các dự án

lớn của Chính phủ (Nhóm A) và cho vay theo các chương trình kinh tế có một vị trí rất

quan trọng. Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đã tạo điều kiện tập trung vốn đầu tư cho

các chương trình lớn, dự án quan trọng và then chốt của nền kinh tế: Điện, than, xi măng,

chế biến đường, phát triển bưu chính viễn thông, phát triển cây công nghiệp, khu công

nghiệp, khu chế xuất...

Với vai trò là một công cụ của Chính phủ trong việc thực thi chính sách hỗ trợ

ĐTPT của Nhà nước, Quỹ HTPT đã luôn bám sát thực tiễn kinh tế đất nước, đáp ứng nhu

cầu vốn và dẫn vốn cho nhiều dự án lớn quan trọng, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp

đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đến nay

trên 4.000 dự án (trong đó có 32 dự án nhóm A) đã hoàn thành đưa vào khai thác sử

dụng, tạo việc làm trực tiếp cho gần 410.000 người lao động và hàng triệu lao động gián

tiếp, tăng thu cho NSNN hàng năm gần 1.400 tỷ đồng và tăng kim ngạch xuất khẩu ước

tăng trên 360 triệu USD/ năm; Ngoài ra, trong thời gian qua gần 1.300 dự án với tổng số

vốn hỗ trợ LSSĐT khoảng 750 tỷ đồng đã được Quỹ ký kết hợp đồng hỗ trợ lãi suất, góp

phần thu hút hàng chục ngàn tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng cho ĐTPT; Sau gần 3 năm

triển khai tín dụng HTXK ngắn hạn Quỹ HTPT đã cho vay gần 17.000 tỷ đồng hỗ trợ cho

các doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện trên 5.500 hợp đồng xuất khẩu thuộc các nhóm

mặt hàng được Chính phủ khuyến khích xuất khẩu...

Có thể nhận thấy một số kết quả cơ bản sau hơn 04 năm hoạt động của Quỹ

HTPT thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:

- Thông qua việc hỗ trợ các dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần tăng

cường cơ sở vật chất kinh tế-xã hội, thu hút và tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy

sản xuất phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với đặc điểm là tập trung sự hỗ trợ của Nhà nước

đối với các dự án thuộc các lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích phát triển. Tính đến

thời điểm 31-3-2004, Quỹ HTPT đã cho vay đầu tư gần 7000 dự án với tổng số vốn cam

kết trên 120.000 tỷ đồng, trong đó hầu hết là các dự án nhóm A của Chính phủ (59 dự

án), các chương trình kinh tế lớn như cơ khí, đóng tàu biển, đóng mới toa xe đường sắt,

điện, than, thép, xi măng, chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, sản xuất hàng xuất khẩu,

kiến cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở, trồng

rừng nguyên liệu tập trung... Đến nay, gần 2.700 dự án vay vốn từ Quỹ đã hoàn thành đưa

vào khai thác sử dụng, sản xuất kinh doanh, trong đó có nhiều dự án nhóm A của Chính

phủ, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội rất thiết thực. Các dự án về cơ sở hạ tầng như

thông tin liên lạc, giao thông đường bộ, thủy,... có một ý nghĩa rất quan trọng làm tiền đề

phát triển cho các ngành kinh tế khác.

Vốn đầu tư từ Quỹ HTPT đã được tập trung để triển khai một số chương trình

kinh tế lớn của Chính phủ:

+ Chương trình kiên cố hóa kênh mương: Với đặc điểm nông nghiệp, nông thôn

nước ta hiện nay, sản xuất hàng hóa chưa phát triển cao, để phát triển một cách toàn diện

nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy, trong xây

dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, Đảng ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, với cơ cấu:

nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới và

tín dụng giành cho nông nghiệp nông thôn được đặt trong hệ thống hình thành cơ cấu

kinh tế hợp lý đó; Hàng năm, Chính phủ đã dành vốn tín dụng ĐTPT cho ngân sách tỉnh

vay với lãi suất 0% để thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương, ngân sách tỉnh

trả nợ dần trong thời hạn 5-6 năm. Đến nay Quỹ đã cho vay 3.000 tỷ để thực hiện chương

trình này, ngoài việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, nhờ có vốn của Quỹ

HTPT cho vay đã làm thay đổi diện mạo nông thôn với việc tạo ra gần 30.000 km kênh

mương nội đồng được cứng hóa, có thời hạn sử dụng lâu dài, hàng vạn km giao thông

nông thôn đã được Quỹ đầu tư tạo tiền đề cho phát triển giao thông vận tải, sản xuất kinh

doanh, đời sống nông dân ở nông thôn được cải thiện đáng kể.

+ Chương trình đóng tàu khai thác hải sản xa bờ: Trong thời gian qua, Quỹ đã

cho các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và hộ ngư dân vay hơn trên 2000 tỷ để nuôi

trồng, chế biến thủy hải sản, đóng mới và cải hoán gần 1.000 con tàu có công suất lớn;

Hơn 900 con tàu đã hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao năng lực và sản

lượng khai thác xa bờ, tái tạo môi trường và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh thái biển, tạo

khả năng khai thác lâu dài, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy hải sản tăng khá, đứng hàng

thứ hai sau xuất khẩu dầu thô, tạo thêm công ăn việc làm cho trên 700.000 ngư dân vùng

ven biển, đời sống của một bộ phận bà con ngư dân đã được cải thiện đáng kể.

+ Chương trình mía đường: Thực hiện mục tiêu chương trình 1 triệu tấn đường

vào năm 2000 của Chính phủ, tính đến nay, Quỹ đã cho vay gần 1500 tỷ đồng để đầu tư

30 Nhà máy đường, trên 300 tỷ đồng để đầu tư vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy.

Đến nay, chương trình 1 triệu tấn đường đã hoàn thành, thu hút trên 300.000 lao động

trực tiếp, tạo thêm việc làm cho trên 700.000 lao động nông nghiệp, ổn định đời sống cho

khoảng 1,4 triệu người, đời sống nông dân ở một số vùng trồng mía được cải thiện rõ rệt.

Có thể nói, nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ

trọng lớn trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, thông qua vốn tín dụng ưu đãi của Quỹ

HTPT, năng lực của một số ngành kinh tế đã có bước tăng trưởng nhất định, góp phần

tăng năng lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế, các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như:

thông tin liên lạc, công trình giao thông đường bộ, thủy, khu công nghệ cao... có ý nghĩa

quan trọng làm tiền đề cho phát triển của các ngành khác; nhờ có vốn đầu tư của Quỹ

HTPT mà công suất phát điện tăng hơn 2.000 Mega Watt; năng lực sản xuất thép tăng 1,6

triệu tấn; phân bón hóa chất tăng 650 nghìn tấn; xi măng tăng hơn 5 triệu tấn; sản xuất

giấy tăng hơn 150 nghìn tấn; diện tích cà phê tăng hơn 100 nghìn héc ta...

Đến 31-3-2004, tổng dư nợ cho vay đầu tư của Quỹ HTPT đạt 65.600 tỷ đồng.

Trong đó vốn trong nước thực hiện 32.500 tỷ đồng, vốn ODA cho vay lại thực hiện

32.100 đồng. Tỷ trọng của các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ

36% năm 2001 lên 50,6% vào 2003, góp phần quan trọng vào tăng tốc giá trị công nghiệp

từ 13,9% lên 16% trong năm 2003 và quý đầu năm 2004.

Hiệu quả đối với các doanh nghiệp

- Nguồn tín dụng từ Quỹ HTPT với chi phí vốn rẻ (lãi suất thấp) và các điều kiện

tín dụng ưu đãi đã thực sự tạo điều kiện hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong sản

xuất và xuất khẩu Việt Nam đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, hạ thấp giá thành sản

phẩm, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.

- Cải cách và tăng cường sức mạnh cũng như hiệu quả của khu vực tài chính là

một yêu cầu đúng đắn và bức thiết, trong thời gian qua, thông qua các hoạt động của mình,

Quỹ HTPT đã góp phần có những tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đến hoạt động của các

ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng như:

+ Hình thức cho vay trực tiếp để đầu tư các dự án tạo điều kiện để các ngân hàng

thương mại và các tổ chức tài chính - tín dụng khác cùng cho vay, hình thành cơ cấu

nguồn vốn đa dạng để đầu tư.

+ Hình thức hỗ trợ LSSĐT tạo điều kiện tích cực thúc đẩy tín dụng trung dài hạn

của các tổ chức tín dụng. Tính đến nay, Quỹ HTPT đã hỗ trợ theo hình thức này cho

1.276 dự án với số vốn cam kết là 776 tỷ đồng, thu hút trên 21.000 tỷ đồng từ các tổ chức

tín dụng cho ĐTPT.

+ Nhờ có lượng tín dụng lớn và dài hạn từ Quỹ HTPT cung cấp cho các doanh

nghiệp, các ngân hàng có thêm khách hàng, thêm điều kiện để mở rộng và tăng qui mô

cung ứng các dịch vụ tài chính, nhất là thanh toán và thanh toán quốc tế, đẩy nhanh tốc

độ lưu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế.

Những hoạt động bước đầu có hiệu quả của Quỹ trong thời gian qua đã góp phần

vào sự tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán lên 11%, tổng dư nợ của toàn nền

kinh tế tăng 16%, tăng tổng nguồn vốn huy động 12,4%.

Ngoài ra, thông qua việc huy động các nguồn vốn trung, dài hạn trong các thành

phần kinh tế để thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước, Quỹ HTPT đã chấp

hành nghiêm túc chủ trương huy động nội lực cho phát triển kinh tế đất nước của Đảng

và Nhà nước.

- Như vậy, ngoài tác dụng như "vốn mồi" góp phần tăng nguồn tài trợ cho doanh

nghiệp, các hình thức HTPT của Nhà nước thông qua Quỹ HTPT thực sự là nguồn tài

chính đầu tư có tác dụng tích cực góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và

doanh nghiệp Việt Nam.

Nguồn vốn của Quỹ HTPT đã có tác động tích cực đối với các doanh nghiệp sản

xuất và kinh doanh trong thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu của Chính

phủ:

Chiến lược xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua được đặc biệt chú trọng,

chuyển hướng từ sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất để xuất khẩu,

tìm kiếm và mở rộng thị trường, tăng cường năng lực cạnh tranh để hội nhập. Môi trường

đầu tư đã được cải thiện, thuận lợi hơn và đặc biệt là sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước

trong đó có tín dụng HTXK. Chính vì vậy, kim ngạch xuất khẩu nước ta trong thời gian

vừa qua đã có tăng trưởng đáng kể.

Với đặc điểm là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đa số là nhỏ, vốn ít, rủi ro

xuất khẩu cao, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ về vốn, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, từ

cuối năm 2001 đến nay, Quỹ HTPT đã hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện xuất

khẩu thông qua hình thức tín dụng ngắn hạn với tổng số vốn trên 8.500 tỷ đồng (trong đó

năm 2002 thực hiện 3.222 tỷ đồng, bằng 167% kế hoạch Chính phủ giao, số cho vay năm

2003 là 6.230 tỷ đồng, bằng 206% kế hoạch cả năm, quý I/2004 đạt danh số cho vay là

2.500 tỷ đạt 46% kế hoạch năm), góp phần vào tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 28%

tính đến cuối tháng 03/2004.

Trong quá trình triển khai nhiệm vụ tín dụng ngắn hạn xuất khẩu của mình, ngoài

việc cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi theo chủ trương của Nhà nước nhằm khuyến

khích xuất khẩu, Quỹ HTPT cũng đã tư vấn cho khách hàng nhằm hạn chế rủi ro trong

xuất khẩu, đặc biệt là các rủi ro về thanh toán và rủi ro thương mại có thể xảy ra từ phía

nhà nhập khẩu, đồng thời cũng tư vấn lựa chọn các dịch vụ tài chính thích hợp với doanh

nghiệp. Biện pháp này đã được các doanh nghiệp xuất khẩu đánh giá cao, một mặt vừa

giúp giảm rủi ro đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, vừa hạn chế rủi ro đối với khoản tín

dụng mà Quỹ HTPT cung cấp, đồng thời góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu và thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ được Chính phủ giao.

Đồng thời với việc đẩy mạnh xuất khẩu, Quỹ HTPT cũng đặc biệt coi trọng việc

hỗ trợ các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, coi việc sản xuất và xuất khẩu là hai mặt không

tách rời trong chủ trương phát triển kinh tế, thực hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà

nước. Sản xuất một mặt vừa đáp ứng cầu trong nước và chiếm lĩnh thị trường trong nước,

một mặt vừa là nguồn cung cho xuất khẩu, đáp ứng cho cầu về xuất khẩu vốn đang được

đẩy mạnh tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo đó, Quỹ HTPT hỗ trợ cho các dự án đổi

mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực sản xuất và cạnh tranh để xuất

khẩu.

Có thể nói rằng, cùng với tín dụng ĐTPT, tín dụng HTXK là một trong những

quyết sách kịp thời của Chính phủ, có tác động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sản xuất

trong nước và xuất khẩu, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị

trường quốc tế.

Hiệu quả đối với Quỹ HTPT

Với vai trò là một công cụ của Chính phủ, Quỹ là một tổ chức tài chính nhưng

hoạt động trên công nghệ ngân hàng, các hoạt động của Quỹ gắn với các nhiệm vụ huy

động vốn, thu hồi nợ gốc và lãi như ngân hàng chính sách, bởi vậy hiệu quả hoạt động

của Quỹ HTPT gắn liền với các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao,

trong thời gian qua nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thông qua Quỹ HTPT tăng

trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, vốn tín dụng ưu đãi

của Quỹ HTPT đã được giải ngân kịp thời đáp ứng được tiến độ của dự án, vốn tín dụng

ĐTPT của Nhà nước đã đáp ứng được cho nhiều chương trình kinh tế lớn của Nhà nước,

các dự án quan trọng, trọng điểm, các ngành kinh tế then chốt, phục vụ cho sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Là một tổ chức tài chính nhà nước, được Chính phủ giao và quản lý số vốn lớn,

thông qua các hình thức tín dụng, bên cạnh việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các dự án,

các doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng từ Quỹ HTPT cũng thực hiện vai trò như lượng

"vốn mồi", kích thích ĐTPT sản xuất của các doanh nghiệp, một mặt vừa là trung gian tài

chính trực tiếp, một mặt vừa là kích thích tố cho tín dụng của hệ thống ngân hàng thương

mại và các tổ chức tài chính - tín dụng khác.

Hoạt động của Quỹ HTPT không vì mục mục đích lợi nhuận nhưng phải đảm bảo

hoàn vốn và bù đắp chi phí, trong trường hợp thu không đủ bù chi thì NSNN sẽ cấp bù

phần còn thiếu, trong thời gian qua, Quỹ HTPT luôn có biện pháp tích cực thu hồi nợ gốc

và lãi đối với các dự án vay vốn tại Quỹ, trên cơ sở đó đã tự chủ được về tài chính, chênh

lệch thu chi luôn (+), hàng năm, NSNN không phải cấp bù và từ năm 2003, Quỹ HTPT

cũng đã giành 1% phí được hưởng (theo cơ chế tài chính được Thủ tướng quy định), để

bù đắp một phần vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất còn thiếu hàng năm, vì vậy, có thể

nói rằng trong thời gian qua, hoạt động của Quỹ là đúng hướng, tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá

hạn (gốc và lãi) ngày càng gia tăng theo tổng dư nợ, do đó, cần phải có biện pháp để

giảm tỷ lệ này xuống thì hiệu quả đạt được của Quỹ sẽ được tốt hơn.

Nhờ kiểm soát chặt chẽ, giải ngân đúng nguyên tắc, đúng chế độ về quản lý đầu

tư và xây dựng các nguồn vốn ủy thác, đặc biệt là nguồn vốn ODA cho vay lại của Chính

phủ, nên các tổ chức trong nước và quốc tế, Chính phủ các nước đã ủy thác cho Quỹ

HTPT quản lý và cấp phát, giải ngân trực tiếp một số dự án như: Cấp phát vốn đầu tư

XDCB cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam, quản lý và cấp phát vốn khấu hao của ngành điện,

hàng không, quản lý Quỹ Phà (Đan Mạch), Dự án EU (hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ),

Dự án cấp nước và điện nông thôn, Quỹ giống cây trồng do WB tài trợ...

* Chỉ tiêu định lượng

Trong thời gian qua, các chỉ tiêu hoạt động của Quỹ luôn đạt theo chỉ tiêu kế

hoạch đề ra:

- Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Tốc độ huy động vốn năm sau cao hơn năm

trước, dư nợ năm sau cao hơn năm trước.

Doanh số cho vay kỳ này

Tốc độ tăng doanh số = -1 x 100 > 1

Doanh số cho vay kỳ trước

Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của Quỹ

HTPT, còn tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay

qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả năng

mở rộng tín dụng của Quỹ HTPT. Đây là tình hình tốt đối với Quỹ HTPT.

- Tổng vốn huy động: Căn cứ vào kế hoạch tín dụng ĐTPT của Nhà nước được

Chính phủ giao hàng năm, Quỹ HTPT đã chủ động trong huy động các nguồn vốn để đáp

ứng yêu cầu của kế hoạch tín dụng ĐTPT của Nhà nước hàng năm với quy mô năm sau

cao hơn năm trước, đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ HTPT huy động từ

các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ

tiêu này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ HTPT lớn.

- Hiệu suất sử dụng vốn:

Tổng dư nợ

Hiệu suất sử dụng vốn = x 100 >1

Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn của Quỹ hàng năm cao thể hiện Quỹ đã luôn chủ

động được việc cân đối giữa huy động và sử dụng vốn, không để ứ đọng nguồn vốn.

- Tỷ lệ nợ quá hạn:

Dư nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100

Tổng dư nợ

Với đặc điểm là cho vay chính sách, cho vay theo kế hoạch của Nhà nước đối

tượng vay vốn của Quỹ là các dự án thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực

khó khăn được Nhà nước khuyến khích đầu tư (đây là điểm khác biệt lớn giữa đối tượng vay

vốn của Quỹ HTPT với các Ngân hàng thương mại), do đó, hoạt động tín dụng của Quỹ

HTPT gặp rủi ro nhiều hơn với hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này

phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ HTPT trong quá trình cho vay.

Trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung, đặc biệt là

trong hoạt động tín dụng chính sách trong lĩnh vực đầu tư của Quỹ HTPT là điều không thể

thể tránh khỏi. Mặc dù tổng dư nợ tăng, nhưng dư nợ quá hạn cũng tăng theo về số tương

đối và tuyệt đối, năm sau cao hơn năm trước (xem bảng 2.10; 2.11; 2.12).

Bảng 2.10: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn tín dụng ĐTPT

(vốn trung và dài hạn)

Đơn vị tính: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004

Dư nợ 21.848 30.281 32.500 1

Trong đó: + Nợ quá hạn 635 1020 1.290

Tỷ trọng (%) 2.9 3.3 3.9 2

(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT năm 2002, 2003, Quý I/2004).

Bảng 2.11: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn vốn ODA

Đơn vị tính: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004

Dư nợ 28.312 30.782 33.100 1

Trong đó: + Nợ quá hạn 70 93 133

Tỷ trọng (%) 0.02 0.03 0.04 2

(Nguồn: Báo cáo năm 2002, 2003, quý I/2004 của Quỹ HTPT).

Bảng 2.12: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn tín dụng

HTXK ngắn hạn

Đơn vị tính: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004

1 Dư nợ 1.015 2.000 2.100

Trong đó: Nợ quá hạn 8 212 100

2 Tỷ trọng (%) 0.007 0.106 0.047

(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT năm 2002, 2003, quý I/2004).

Tính đến 31-3-2004, tỷ lệ nợ quá hạn đối với vốn trung và dài hạn của Quỹ là

4%; Vốn ODA là 0.4%; vốn tín dụng HTXK là 4,7%, tuy chỉ tiêu này có tăng so với các

năm trước nhưng đây là một tỷ lệ có thể chấp nhận được được coi như giới hạn an toàn.

Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp

nhận được.

Hiệu quả hoạt động tín dụng là một khái niệm tổng hợp, vừa mang tính cụ thể,

vừa mang tính trừu tượng. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của

Quỹ HTPT có thể là chỉ tiêu định lượng hay định tính và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn

nhau, có thể là bổ sung cho nhau nhưng cũng có thể mâu thuẫn với nhau.

Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ

HTPT thì phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống cả trên tầm vi mô

cũng như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có sự ưu tiên

cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác.

2.2.2. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

và nguyên nhân

2.2.2.1. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

+ Công tác thanh toán chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Công tác thanh toán của Quỹ HTPT chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ,

thể hiện ở các bất cập sau:

- Vốn luân chuyển chậm: Việc chuyển vốn thực hiện duy nhất qua tài khoản tiền

gửi tại các ngân hàng thương mại nên chưa đa dạng hóa hình thức thanh toán, khi người

thụ hưởng có tài khoản tại ngân hàng khác hệ thống ngân hàng nơi Quỹ HTPT mở tài

khoản tiền gửi thì việc chuyển tiền thường bị chậm do phụ thuộc vào thời gian xử lý

chứng từ tại ngân hàng và đường luân chuyển vốn nội bộ ngân hàng. Nguồn vốn của Quỹ

HTPT bị đọng trên đường đi, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ.

- Nguồn vốn của Quỹ HTPT chưa được quản lý tập trung do hệ thống Quỹ HTPT

chưa tổ chức thanh toán điện tử nội bộ.

- Thiệt hại cho chủ đầu tư: Do vốn chuyển chậm nên dẫn đến thiệt hại cho chủ

đầu tư vì tiền thanh toán cho nhà thầu không kịp thời nên phải chịu phạt chậm thanh toán.

Trong trường hợp nhập khẩu thiết bị, chủ đầu tư phải mua ngoại tệ còn bị thiệt hại do

chênh lệch tỷ giá ngoại hối.

- Rủi ro tỷ giá: Khi thu hồi nợ vốn vay ODA thường có nhiều rủi ro về tỷ giá.

Trường hợp vốn thu hồi được ngay trong ngày chủ đầu tư trả nợ vay thì việc áp dụng tỷ

giá quy đổi ngoại tệ ra tiền đồng Việt Nam để thu nợ được thực hiện đúng quy định. Tuy

nhiên do vốn luân chuyển chậm, nên Chi nhánh Quỹ chỉ nhận được tiền trả nợ sau 2 - 3

ngày, khi mà tỷ giá có thể thay đổi. Nhiều trường hợp biến động lớn dẫn đến thiệt hại cho

NSNN.

- Khó khăn trong việc kiểm soát vốn vay: Do các hạn chế trong thanh toán của

Quỹ HTPT hiện nay, chủ đầu tư mới chỉ mở tài khoản tiền gửi để gửi vốn ủy thác cấp

phát (vốn tự có để đầu tư xây dựng cơ bản), chưa gửi các nguồn vốn khác, dẫn đến việc

kiểm soát sử dụng vốn vay cũng như thu hồi nợ vay của Quỹ HTPT gặp nhiều khó khăn,

không gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ của Chủ đầu tư đã cam kết khi vay vốn tín dụng

đầu tư của Nhà nước.

+ Tiến độ giải ngân các dự án chậm

Trong thời gian qua, Quỹ HTPT đã phấn đấu đảm bảo nhu cầu vốn theo kế

hoạch cho các chương trình lớn của Chính phủ: Nâng cấp các nhà máy đóng tàu biển,

đóng mới toa xe đường sắt, tôn nền vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long,... cho đến nay,

mặc dù nguồn vốn của Quỹ đã đáp ứng được nhu cầu giải ngân nhưng việc giải ngân các

dự án vay vốn rất chậm, đặc biệt là các dự án nhóm A. Rất nhiều dự án nhóm A chậm

tiến độ thực hiện dự án do phương án tài chính trong quyết định đầu tư được cấp có thẩm

quyền phê duyệt không thực hiện được, như dự án Nhà máy Xi măng Hạ Long, Nhà máy

Bột giấy Kon Tum, Nhà máy Xi măng Thăng Long, Nhà máy sản xuất Giấy và Bột giấy

Thanh Hóa,... Một số nguyên nhân cố hữu khác như đền bù giải phóng mặt bằng, đấu

thầu rất khó khăn và chậm chạm cũng làm chậm tiến độ thực hiện và tiến độ giải ngân dự

án. Tiến độ giải ngân cho chương trình tôn nền vượt lũ 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

có thể được đẩy mạnh hơn nếu như nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cụm tuyến

dân cư được đảm bảo theo tiến độ. Thực tế ở các tỉnh này, tiến độ đầu tư nền nhà bằng

nguồn vốn tín dụng đầu tư của Quỹ HTPT được đảm bảo, nhưng phần đầu tư cơ sở hạ

tầng như điện, đường giao thông, nước từ nguồn vốn NSNN còn chậm.

Số liệu cụ thể về công tác giải ngân vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước như sau:

- Đối với hoạt động cho vay bằng nguồn vốn trong nước, tiến độ giải ngân trong

các năm 2001, 2002 chậm, không đạt kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao: Năm 2001, kế

hoạch cho vay ĐTPT bằng nguồn vốn trong nước 14.600 tỷ đồng, giải ngân 7.087 tỷ

đồng, đạt 48,5% kế hoạch năm; năm 2002, kế hoạch cho vay ĐTPT bằng nguồn vốn

trong nước: 12.480 tỷ đồng, giải ngân 9.376 tỷ đồng, đạt 75% kế hoạch năm; năm 2003,

giải ngân 13.475 tỷ đồng, đạt 98% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2003 là 13.750 tỷ đồng).

- Đối với hoạt động cho vay vốn ODA cho vay lại: Số vốn giải ngân năm 2001 là

6.598 tỷ đồng, đạt 67% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2001: 9.800 tỷ đồng); năm 2002, số

vốn giải ngân: 3.763 tỷ đồng, đạt 42% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2002: 9.000 tỷ

đồng); năm 2003, số vốn giải ngân 3.282 tỷ đồng, đạt 47% kế hoạch năm (kế hoạch năm

2003 là 7.000 tỷ đồng).

Tổng dư nợ vay tăng 7%, nhưng nợ quá hạn ngày càng gia tăng về số tuyệt đối là

1.290 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ vay vốn tín dụng trung, dài hạn bằng nguồn vốn

trong nước (trong đó nợ quá hạn của 02 chương trình mía đường và đánh cá xa bờ chiếm

43% tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống).

+ Các hình thức hỗ trợ gián tiếp (hỗ trợ LSSĐT, bảo lãnh) chưa phát huy đúng

vai trò trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư khác.

Hình thức hỗ trợ LSSĐT mặc dù được coi là một trong những hình thức hỗ trợ

tiên tiến của Nhà nước, sau khi dự án hoàn thành và đi vào sử dụng, nhưng qua thực tế

cho thấy, hình thức này chưa thật sự phát huy hiệu quả và chưa được các chủ đầu tư quan

tâm lựa chọn. Kết quả thực hiện hình thức này của Quỹ HTPT qua các năm mặc dù đạt

những kết quả nhất định những vẫn còn nhỏ bé, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể như

sau:

- Năm 2001, Quỹ HTPT ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 261 dự án, với số vốn

cam kết 150 tỷ đồng, số thực cấp năm 2001: 1,6 tỷ đồng;

- Năm 2002, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 471 dự án, với số vốn cam kết 285 tỷ

đồng, số thực cấp năm 2002: 31,8 tỷ đồng, bằng 26,5% kế hoạch.

- Năm 2003, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 350 dự án, với số vốn cam kết 215

tỷ đồng, số thực cấp: 117 tỷ đồng, bằng 75% kế hoạch năm;

- Quý I/2004, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 92 dự án, với số vốn cam kết 100

tỷ đồng, số thực cấp: 25 tỷ đồng, bằng 25% kế hoạch năm;

Việc mở rộng hỗ trợ LSSĐT không chỉ đơn giản là làm giảm áp lực về vốn đối

với hệ thống Quỹ HTPT, mà điều quan trọng hơn là bằng một khoản "vốn mồi" của Nhà

nước sẽ huy động được nhiều hơn nguồn vốn của xã hội để đầu tư vào các lĩnh vực ưu

đãi, khuyến khích đầu tư. Hơn nữa, với hình thức này sẽ đảm bảo nâng cao được hiệu quả

đầu tư, giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính, đồng thời phát huy tính chủ động sáng

tạo, tự chịu trách nhiệm và sẵn sàng tham gia hội nhập của chủ đầu tư.

Tương tự như hình thức hỗ trợ LSSĐT, hình thức bảo lãnh tín dụng ĐTPT của

Nhà nước cũng chưa phát huy được hiệu quả: Tính đến thời điểm hiện nay, tức là sau gần

4 năm hoạt động, Quỹ HTPT mới bảo lãnh vay vốn đầu tư cho 5 dự án với tổng số tiền

bảo lãnh 27,5 tỷ đồng.

Tính đến nay, Quỹ HTPT chưa thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu xuất

khẩu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu do các đơn vị có quan hệ không có nhu

cầu thực hiện tại Quỹ HTPT.

+ Nợ gốc quá hạn và lãi treo ngày càng tăng.

Nợ gốc quá hạn của Quỹ HTPT ngày càng tăng:

- Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đến thời điểm 31-3-2004 ở mức 4%

tổng dư nợ, ở mức 1.296 tỷ đồng (trên dư nợ vốn tín dụng ĐTPT trong nước 32.438 tỷ

đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đã tăng

336 tỷ đồng. Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT tập trung chủ yếu ở hai chương

trình: Mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ (riêng nợ gốc quá hạn của hai chương trình

này là 450 tỷ đồng, chiếm 43% nợ quá hạn của toàn hệ thống Quỹ HTPT). Riêng chương

trình đánh bắt hải sản xa bờ đã được Chính phủ quyết định cơ chế xử lý nợ vay theo

Quyết định 89/2003/QĐ-TTg ngày 08-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay đã có

văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành và Quỹ HTPT đang khẩn trương phối hợp với các

ngành, địa phương triển khai thực hiện. Tuy nhiên, theo đánh giá của Quỹ HTPT, việc xử

lý nợ vay của các dự án theo chương trình này cần một quá trình dài và khả năng thu hồi

nợ không cao. Chương trình mía đường đến nay chưa có cơ chế xử lý cụ thể.

- Nợ quá hạn vốn ODA cho vay lại của Quỹ HTPT đến thời điểm

31-3-2004 ở mức 0,3% tổng dư nợ, ở mức 93,2 tỷ đồng (trên dư nợ vốn ODA cho vay lại

30.782 tỷ đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn vốn ODA cho vay lại của Quỹ

HTPT đã tăng 27,2 tỷ đồng.

- Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn HTXK của Quỹ HTPT đến thời điểm 31-3-2004

ở mức 0,47% tổng dư nợ, ở mức 100 tỷ đồng (trên dư nợ cho vay ngắn hạn HTXK 2100

tỷ đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn cho vay ngắn hạn HTXK của Quỹ

HTPT tăng 0.36%.

Tình hình lãi treo biến động theo chiều hướng xấu: Tính đến 31-3-2004, tổng số lãi

đến hạn chưa trả là 970 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31-12-2003, trong đó lãi đến hạn

chưa trả của hai chương trình mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ là 420 tỷ đồng chiếm

51% tổng số lãi đến hạn trả chưa trả của toàn hệ thống Quỹ HTPT.

+ Chưa xây dựng được một nền vốn ổn định, vững chắc

Nguồn vốn huy động của Quỹ HTPT mặc dù có tăng trưởng nhanh nhưng chưa

bền vững. Tỷ trọng vốn ngắn hạn tăng nhanh hơn vốn trung, dài hạn trong khi nhu cầu

vốn của Quỹ HTPT chủ yếu là vốn trung, dài hạn. Từ đó đặt ra vấn đề tính hợp lý của cơ

cấu nguồn vốn và giữa cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu sử dụng vốn.

Theo định hướng, các nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ, Tiết kiệm

Bưu điện là các nguồn vốn chiến lược và phải chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu

nguồn vốn của Quỹ HTPT. Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác phát hành trái phiếu

Chính phủ chưa đạt kết quả như mong muốn. Những diễn biến trên thị trường tài chính,

tiền tệ có ảnh hưởng không tích cực đến việc huy động nguồn vốn này: Lãi suất huy động

vốn của các ngân hàng thương mại biến động liên tục, thị trường chứng khoán ảm đạm

(chỉ số chứng khoản liên tục giảm, khối lượng và giá trị giao dịch thấp),...

Cơ chế huy động vốn của Quỹ HTPT chưa thông thoáng do các vấn đề lãi suất,

thủ tục huy động vốn và đối tượng huy động vốn, đặc biệt là tính chủ động của Quỹ

HTPT trong công tác huy động vốn.

Nhiều Chi nhánh Quỹ HTPT chưa thật sự vào cuộc huy động với Quỹ HTPT

Trung ương; còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, không triển khai các biện pháp hữu hiệu để

huy động vốn dẫn đến việc kết quả huy động vốn không thật đồng đều; chưa chú trọng

đến kỳ hạn của nguồn vốn huy động.

2.2.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế

+ Vốn điều lệ: Vốn điều lệ của Quỹ HTPT được Chính phủ quy định là 5.000 tỷ

đồng. Mặc dù, đến nay Quỹ HTPT đã được cấp đủ vốn điều lệ tuy nhiên số tiền thực

chuyển cho Quỹ HTPT chỉ có 2.300 tỷ đồng, trong đó 1.000 tỷ đồng để cho vay kiên cố

hóa kênh mương với lãi suất 0%; còn 1.300 tỷ đồng cho vay các dự án đầu tư; số còn lại

nhận bàn giao từ Tổng cục Đầu tư Phát triển sang, kể cả tài sản. Như vậy số vốn khả

dụng trong vốn điều lệ thực tế thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi chính sách.

+ Công tác huy động vốn:

- Các nguồn vốn Quỹ HTPT huy động chưa đa dạng và không ổn định. Các

nguồn vốn do Chính phủ chỉ định ngày càng thu hẹp. Nguồn huy động từ Bảo hiểm Xã

hội Việt Nam trước đây và hiện nay là nguồn vốn rất quan trọng của Quỹ HTPT, tuy

nhiên, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản yêu cầu từ năm 2004, nguồn vốn tạm thời

nhàn rỗi của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam được sử dụng để mua trái phiếu Chính phủ,

không sử dụng để cho Quỹ HTPT vay nữa.

- Việc huy động vốn của Quỹ HTPT tập trung vào thị trường vốn trung và dài

hạn, tuy nhiên thị trường vốn ở nước ta còn chưa phát triển. Số lượng các nhà đầu tư trên thị

trường chứng khoán còn ít và thị trường thứ cấp chưa phát triển. Vì vậy việc huy động

vốn qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường giao dịch chứng khoán

tập trung chưa đạt được yêu cầu đặt ra.

- Quỹ HTPT chưa được chủ động quyết định lãi suất huy động vốn. Cơ chế lãi

suất huy động chưa linh hoạt, kịp thời, thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động vốn thị

trường (thường thấp hơn ngân hàng thương mại 5%, tức bằng 95% lãi suất huy động của

ngân hàng). Điều này dẫn đến huy động vốn, đặc biệt là vốn dài hạn hết sức khó khăn,

trong khi nhu cầu đầu tư là rất lớn.

- Có sự mâu thuẫn, chưa phù hợp giữa nhiệm vụ huy động vốn (phải huy động

lớn) với khả năng bố trí vốn NSNN để cấp bù chênh lệch lãi suất. Số cấp bù chênh lệch

lãi suất sẽ ngày càng tăng do hai nguyên nhân chính: Chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho

vay hiện nay (cao nhất là 5,4%/năm) và lãi suất huy động trên thị trường; lãi suất cho vay

giữ nguyên cả đời dự án mà hầu hết là các dự án dài hạn.

+ Về công tác thanh toán:

Mặc dù Quy định cho phép Quỹ HTPT được tham gia hệ thống thanh toán nhưng

thực tế Quỹ HTPT chưa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện. Điều

này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ luân chuyển vốn và an toàn

vốn vay, thu hồi nợ vay bị động.

+ Về xử lý nợ:

Nợ từ nguồn NSNN: Tính đến thời điểm hiện nay, NSNN cấp thiếu tiền bù chênh

lệch lãi suất trên 700 tỷ đồng (bao gồm số cấp thiếu năm 2002 và số vượt dự toán chi

NSNN năm 2003). Bộ Giao thông Vận tải và Ngân sách các địa phương bố trí thiếu kế

hoạch trả nợ cho Quỹ HTPT trên 1.000 tỷ đồng.

+ Nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn:

- Việc thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu

tư với tổ chức cho vay chưa tốt và đầy đủ nên mọi rủi ro cuối cùng chỉ còn lại tổ chức

cho vay với chủ đầu tư.

- Trách nhiệm, quyền hạn xử lý rủi ro chưa rõ, qua nhiều cấp trung gian dẫn đến

chậm xử lý. Quá trình xử lý chưa dứt điểm (xử lý như hiện nay nhìn chung mới dừng ở

mức xử lý nợ quá hạn ở từng thời điểm, chưa phải xử lý nợ xấu).

- Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đến 31-3-2004 ở mức 4% tổng dư

nợ. Trong đó tập trung ở hai chương trình: Mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ. Chương

trình mía đường đến nay chưa có cơ chế xử lý cụ thể. Chương trình đánh bắt xa bờ đến

nay được Chính phủ quyết định cơ chế xử lý nợ vay theo Quyết định số 89/2003/QĐ-

TTg, ngày 08-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay đã có văn bản hướng dẫn của

các Bộ, Ngành và Quỹ HTPT đang khẩn trương triển khai thực hiện. Tuy nhiên, theo

đánh giá của Quỹ HTPT, việc xử lý nợ vay của các dự án theo chương trình này cần một

quá trình dài và khả năng thu hồi nợ là thấp.

+ Chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển của Nhà nước có nhiều điểm không còn

phù hợp với thực tế

Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính

phủ ban hành Quy chế tín dụng HTXK và giao cho Quỹ HTPT thực hiện nhiệm vụ cho

vay tín dụng HTXK ngắn hạn. Đối tượng vay vốn tín dụng ngắn hạn HTXK cũng không

ngừng tăng lên: Năm 2001 mới chỉ có 4 mặt hàng, năm 2002 là 14 mặt hàng và năm 2003

đầu năm quy định là 18 mặt hàng đến giữa năm lại bổ sung thêm 3 mặt hàng.

Việc bổ sung các danh mục mặt hàng được hưởng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu có

tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu nhưng cũng gây khó khăn

cho việc bố trí NSNN để cấp bù chênh lệch lãi suất cho Quỹ HTPT.

Thực tế này cho thấy cần phải rà soát và hệ thống hóa lại danh mục các đối tượng

cho phù hợp với yêu cầu thực tế, đảm bảo tính ổn định của chính sách, đồng thời tránh hỗ

trợ tràn lan qua kênh tín dụng ưu đãi.

+ Có quá nhiều mức lãi suất cho vay:

Đến thời điểm hiện nay, đang tồn tại rất nhiều mức lãi suất tín dụng ĐTPT của

Nhà nước:

- Mức lãi suất 0% đối với chương trình kiên cố hóa kênh mương, giao thông

nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản do ngân sách Tỉnh vay.

- Mức lãi suất 2,7%/năm cho dự án trồng rừng nguyên liệu Nhà máy Bột giấy

Kon Tum.

- Mức lãi suất 3%/năm cho chương trình cơ khí theo Nghị quyết số 11/2000/NQ-

CP của Chính phủ, các dự án theo Quyết định số 117/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ, các dự án ĐTPT thượng nguồn ngành thép.

- Mức lãi suất 3,5%/năm cho chương trình cơ khí theo Nghị quyết số

11/2000/NQ-CP của Chính phủ, cơ sở đóng tàu biển theo Quyết định số 117/2000/QĐ-

TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Mức lãi suất 4,2%/năm đối với các dự án đầu tư vào một số lĩnh vực dệt may

theo Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Mức lãi suất 5%/năm cho doanh nghiệp mua tàu biển theo Quyết định số

117/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Mức lãi suất 5,4%/năm đối với các dự án vay vốn ĐTPT của Nhà nước từ 30-3-

2004 trở về trước.

Việc có nhiều mức lãi suất ưu đãi đã gây khó khăn trong quản lý, tạo sự bất bình

đẳng trong ưu đãi đầu tư và tăng thêm gánh nặng cho NSNN. Vì vậy, cần thiết phải đưa

về một mức lãi suất ưu đãi bên cạnh việc mở rộng các hình thức hỗ trợ khác như hỗ trợ

LSSĐT và bảo lãnh tín dụng đầu tư.

+ Cơ chế kế hoạch hóa:

Quỹ HTPT luôn bị động trong việc bố trí kế hoạch vốn tín dụng ĐTPT của Nhà

nước, theo chỉ đạo của Chính phủ bổ sung thêm các dự án trong năm, do đó Quỹ HTPT

phải ký hợp đồng tín dụng ngoài kế hoạch tín dụng nhà nước được Thủ tướng Chính phủ

giao hàng năm cho Quỹ HTPT.

+ Các vấn đề liên quan đến đến xử lý tài chính doanh nghiệp:

Các văn bản xử lý các vấn đề liên quan đến tài chính doanh nghiệp trong đó có

vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước không đề cập đến khoản vay của Quỹ HTPT gây

khó khăn trong việc triển khai.

+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư:

Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa được mở rộng chủ yếu do cơ chế, chính

sách chưa phù hợp như:

- Những dự án khó khăn mới yêu cầu được hưởng ưu đãi, tuy nhiên, không được

hưởng lãi suất ưu đãi (phải đi vay vốn ngân hàng thương mại). Như vậy, thực chất xét về

mặt chi phí và lợi ích kinh tế là không hấp dẫn các doanh nghiệp.

- Mặc dù được phép bảo lãnh 100% số vốn vay nhưng khi rủi ro Quỹ HTPT chỉ

chịu trách nhiệm 50%, còn 50% do Ngân hàng cho vay chịu rủi ro. Điều này không hấp

dẫn các ngân hàng thương mại, vì như vậy, thực chất đối với những dự án có khả năng

hoàn trả vốn vay tốt thì ngân hàng cũng chẳng cần đến sự bảo lãnh của Nhà nước mà có

thể cho vay không cần tài sản đảm bảo, còn đối với các dự án Chính phủ cần ưu đãi

nhưng khi cho vay ngân hàng vẫn phải chịu rủi ro (xem như cho vay không có tài sản

đảm bảo 50%). Vì vậy các ngân hàng không tha thiết với hình thức hỗ trợ kiểu này của

Nhà nước.

+ Hỗ trợ LSSĐT:

Mặc dù được coi là một trong những hình thức hỗ trợ tiên tiến của Nhà nước, sau

khi dự án đi vào hoàn thành thì sẽ hỗ trợ, nhưng qua thực tế cho thấy, hình thức này chưa

thực sự phát huy hiệu quả, bởi lẽ cách thức hỗ trợ hiện nay chưa hấp dẫn, chưa mang tính

kích thích các doanh nghiệp đi vay vốn các tổ chức tín dụng để ĐTPT vì việc cấp hỗ trợ

lãi suất chưa đủ liều lượng để kích thích, chưa đúng thời điểm và chưa có tính hỗ trợ.

- Liều lượng: Nếu tính theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được hỗ trợ

2,7%/năm (nếu đi vay ngân hàng thì lãi suất khoảng 11%/năm thì lãi suất thực vay của dự

án khoảng 8,3%/năm cao hơn tương đối so với lãi suất vay vốn tín dụng ĐTPT hiện nay

là 5,4%/năm). Vì vậy, các chủ đầu tư vẫn mong muốn được vay vốn trực tiếp hơn.

- Thời điểm: Nhìn chung các dự án đều gặp khó khăn trong giai đoạn đầu thực

hiện (không có vốn và buộc phải đi vay với lãi suất cao, lãi trong thời gian thi công còn

phải nhập gốc). Như vậy, nếu Nhà nước hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp trong giai đoạn

đầu khi dự án mới đi vào khai thác hoạt động thì sẽ hợp lý hơn khi dự án đã phát huy

hiệu quả được rồi (gần như chẳng cần bất cứ sự hỗ trợ nào của Nhà nước nữa cũng vẫn

hoạt động tốt). Thay vì hỗ trợ theo số nợ thực trả như hiện nay nên đổi thành hỗ trợ theo dư

nợ thực tế. Các nhà lập định chính sách cũng không nên quan ngại về việc doanh nghiệp cố

tình kéo dài thời gian trả nợ để có dư nợ cao nhằm hướng tới sự hỗ trợ nhiều hơn của Nhà

nước (vì ở đây còn có cả lợi ích của ngân hàng, nơi sẽ chú trọng hạn chế thời hạn cho

vay). Chỉ trừ khi dự án thật sự có hiệu quả kinh tế cao thì ngân hàng mới muốn nuôi nợ

(mà phần lớn các dự án thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư thì làm gì có nhiều dự án có

hiệu quả kinh tế cao để ngân hàng muốn nuôi nợ).

+ Quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA:

Bên cạnh những nguyên nhân do vướng mắc chung về thủ tục đầu tư, thủ tục đấu

thầu, vấn đề giải phóng mặt bằng,... đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải ngân và

hiệu quả đầu tư đang được các cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ. Những bất cập cơ bản

liên quan đến cơ chế chính sách cho vay lại vốn ODA cũng là nguyên nhân quan trọng

ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân và hiệu quả đầu tư. Những bất cập đó là:

- Cơ chế tài chính áp dụng cho các dự án cho vay lại chưa thống nhất: Cùng một

loại dự án, mỗi nguồn vốn vay áp dụng lãi suất cho vay, điều kiện cho vay khác nhau. Ví

dụ các dự án cấp nước có nơi cho vay lại với lãi suất 1%/năm, có nơi 3,5%/năm,... có địa

bàn miền núi, doanh thu không đủ bù đắp chi phí những vẫn áp dụng cơ chế cho vay lại

với điều kiện trích Ngân sách Tỉnh trả nợ,... từ đó dẫn đến việc đánh giá khả năng hoàn

vốn cho vay, hiệu quả sử dụng vốn vay của dự án không chính xác.

- Thủ tục rút vốn ODA cần được quy định chặt chẽ, cụ thể hơn đối với từng

nguồn vốn khác nhau; Quy trình, thủ tục ghi thu - ghi chi hiện còn rườm rà qua nhiều

khâu dẫn đến dẫn đến việc nhận nợ không kịp thời,... đòi hỏi phải được cải tiến đơn giản

hơn.

- Trách nhiệm và nghĩa vụ của người vay vốn, người ra quyết định đầu tư chưa

được xác định rõ ràng hợp lý dẫn đến người vay vốn có tâm lý ỷ lại vào Nhà nước. Hơn

nữa các dự án sử dụng vốn ODA không phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay như

các dự án sử dụng vốn tín dụng nhà nước, trường hợp dự án không trả được nợ vay, việc

xử lý các tài sản hình thành từ vốn vay không có căn cứ pháp lý để thực hiện. Thời gian

qua, trường hợp người vay vốn không có khả năng trả nợ, NSNN đã phải trả nợ thay.

- Theo quy định hiện hành, Quỹ HTPT chỉ thực hiện việc quản lý, cho vay lại,

thu hồi vốn vay sau khi dự án đã có quyết định đầu tư và đi vào giai đoạn giải ngân

(không tham gia quá trình thẩm định dự án). Từ đó vai trò của Quỹ HTPT với trách

nhiệm là người cho vay đã bị hạn chế rất nhiều.

+ Nguyên nhân về mô hình tổ chức

Mặc dù được tổ chức theo mô hình Quỹ HTPT, nhưng trên thực tế hoạt động của

Quỹ HTPT hiện nay như một ngân hàng chính sách, với một số đặc điểm thể hiện rõ là:

- Được Nhà nước cấp vốn điều lệ và thuộc sở hữu Nhà nước.

- Thực thi chính sách hỗ trợ ĐTPT và xuất khẩu của Nhà nước thông qua các

hình thức tín dụng.

- Các nhiệm vụ triển khai một mặt vừa hỗ trợ trực tiếp, vừa gián tiếp, tạo "vốn

mồi" nhằm thúc đẩy đầu tư toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Các nghiệp vụ mang tính ngân hàng: Huy động vốn, cho vay, thu hồi nợ vay,...

Sự chưa đồng bộ và thống nhất giữa chính sách hỗ trợ và mô hình tổ chức có ảnh

hưởng trực tiếp đến việc triển khai chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Mô hình Quỹ HTPT

hiện nay một mặt vừa mang tính chất là tổ chức tài chính, một mặt vừa hoạt động như

một ngân hàng chính sách, thiếu tự chủ,... những vấn đề này là nguyên nhân dẫn đến khó

khăn trong việc nâng cao hiệu quả, mở rộng hoạt động, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm

tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật và kinh nghiệm từ nước ngoài,... hạn chế khả năng phát huy tính

tức cực của một ngân hàng chính sách.

+ Công tác quy hoạch phát triển tổng thể còn nhiều bất cập

Số lượng chương trình của Chính phủ được đầu tư ồ ạt trong khi chưa làm tốt

công tác quy hoạch, công tác nghiên cứu thị trường, đầu tư dàn trải, không có hoặc không

tuân thủ theo quy hoạch được duyệt, đầu tư thiếu đồng bộ giữa nhà máy và vùng nguyên

liệu (phần lớn vùng nguyên liệu là do dân tự đầu tư, tự phát, chất lượng giống không phù

hợp với yêu cầu sản xuất, năng suất cây trồng thấp, giá cả bấp bênh, phụ thuộc vào điều

kiện tự nhiên) dẫn đến nhiều nhà máy xây dựng xong không có đủ nguyên liệu để sản

xuất. Một số nhà máy sản xuất cầm chừng hoặc phải di dời địa điểm, nhiều dự án phải

thay đổi chủ trương đầu tư, một số nhà máy mới triển khai đã phải thay đổi máy móc,

thiết bị, công suất do nhập máy thế hệ cũ.

Công tác dự báo phát triển còn yếu, một phần do năng lực nghiên cứu còn hạn

chế, chưa có tầm nhìn chiến lược, một phần do thiếu tính khách quan, chưa bắt kịp xu

hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế.

Quy hoạch phát triển vùng còn hạn chế. Các địa phương đều mong muốn phát

triển tất cả các ngành có thể có tại địa phương mình để có thể phát triển toàn diện nên

xuất hiện tình trạng đầu tư theo phong trào, làm mất cân bằng cung cầu, hiệu quả đầu tư

kém.

+ Quá trình triển khai dự án của chủ đầu tư chưa tốt

Tổ chức thực hiện dự án của nhiều chủ đầu tư chưa tốt. Nhiều dự án đầu tư triển

khai chậm các thủ tục xây dựng cơ bản như thiết kế dự toán, tổ chức đấu thầu, công tác giải

phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư,... Nhiều trường hợp không có sự thống nhất

về cơ cấu nguồn vốn đầu tư của dự án giữa báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê

duyệt dự án,... ảnh hưởng lớn đến quả trình triển khai dự án, đặc biệt là trong công tác

giải ngân vốn đầu tư.

Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng chủ đầu tư không đảm bảo được các nguồn vốn

khác tham gia đầu tư dự án như trong quyết định đầu tư, dẫn tới sự thay đổi trong phương

án tài chính. Vì vậy, chủ đầu tư phải lập lại phương án tài chính, phương án trả nợ trình

các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt làm chậm tiến độ thực hiện dự án.

Một số chủ đầu tư còn mang nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của

Nhà nước nên chưa chủ động sáng tạo trong kinh doanh, một số chủ đầu tư thiếu kiến

thức về kinh tế - kỹ thuật, trách nhiệm với đồng vốn chưa cao,... do đó không phát huy

được hiệu quả của vốn đầu tư.

Xuất hiện xu hướng nhiều chủ đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi để đăng ký

vay vốn tại Chi nhánh Quỹ, sau đó mới tiếp tục lập thiết kế tổng dự toán; vì thế có những

dự án sau khi thẩm định xong nhưng vẫn chưa có thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán để ký

hợp đồng tín dụng.

Có những doanh nghiệp có năng lực quản lý điều hành kém, tình hình tài chính

và sản xuất kinh doanh kém do đó, nếu giao cho những doanh nghiệp này làm chủ đầu tư

và vận hành quản lý khi dự án đi vào hoạt động thì có khả năng sẽ không phát huy được

hiệu quả như tính toán và trong thực tế đã xảy ra nhiều dự án không trả được nợ vay do

quản lý điều hành kém và do tình hình sản xuất kinh doanh trước đây thua lỗ.

+ Năng lực thẩm định dự án của Quỹ HTPT còn hạn chế

Năng lực thẩm định dự án, quản lý tín dụng của hệ thống Quỹ HTPT mặc dù đã

có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn những hạn chế do

đó chất lượng thẩm định chưa cao, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

- Trình độ, kỹ năng thẩm định giữa các Chi nhánh Quỹ không đều nhau. Có

những chủ đầu tư vay nhiều dự án tại nhiều Chi nhánh Quỹ nhưng quá trình thẩm định

giữa các Chi nhánh không đồng bộ, chất lượng thẩm định và đánh giá của thẩm định

nhiều khi không thống nhất với nhau.

+ Việc phân tích phương án tài chính, phương án trả nợ vay của dự án chủ yếu

trên cơ sở lý thuyết, chưa căn cứ vào thực tiễn nên độ tin cậy thấp.

+ Trong phân tích tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp qua các năm chưa đề cập đến yếu tố trượt giá do lạm phát, những ảnh hưởng tác

động của cơ chế, chính sách. Do đó, việc so sánh giữa các năm bị giảm ý nghĩa, cũng vì

vậy việc dự tính trong tương lai sẽ có độ tin cậy thấp. Đây là nguyên nhân làm tăng độ sai

lệch giữa kết quả tính toán khi thực hiện thẩm định với kết quả thu được khi đưa dự án

vào khai thác sử dụng.

- Trình độ, năng lực cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ làm ảnh hưởng

đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư và quản lý tín dụng. Quỹ HTPT với

khoảng gần một nửa lực lượng cán bộ viên chức là cán bộ trẻ, bên cạnh những ưu điểm

của tuổi trẻ cũng có những mặt hạn chế về kinh nghiệm công tác và còn chưa cập nhật

được đầy đủ các thông tin, kiến thức về xã hội, khoa học kỹ thuật ở trong và ngoài nước.

+ Công tác kiểm tra, kiểm soát chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Theo quy định hiện nay, nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chủ

trương, chính sách, chế độ thể lệ nghiệp vụ trong hệ thống Quỹ HTPT được giao nhiệm

vụ cho hai bộ phận chính: Ban Kiểm soát, Ban Kiểm tra Giám sát và Pháp chế. Hai bộ

phận này có chức năng gần giống nhau nhưng hoạt động độc lập với nhau. Ban Kiểm

soát chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản lý kiểm soát toàn bộ hoạt động của Quỹ

HTPT và hoạt động theo chương trình đã được Hội đồng quản lý thông qua. Ban Kiểm

tra giám sát và pháp chế có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc Quỹ kiểm tra giám

sát nội bộ các hoạt động của Quỹ HTPT trong việc chấp hành chủ trương, chính sách, chế

độ thể lệ nghiệp vụ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT, bảo đảm an toàn

tài sản của Quỹ HTPT và của khách hàng, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực và

tham nhũng trong toàn hệ thống Quỹ HTPT. Trong thời gian qua sự phối hợp giữa hai bộ

phần này chưa đồng bộ nên xuất hiện tình trạng kiểm tra chồng chéo, hiệu quả thấp.

Tóm lại, việc nhìn nhận một cách toàn diện hoạt động của Quỹ HTPT trong thời

gian qua, từ đó đánh giá những kết quả đã đạt được, những điểm còn hạn chế và nguyên

nhân của các hạn chế là rất quan trọng đối với Quỹ HTPT. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng

hơn là phải tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng ĐTPT của Quỹ

HTPT trong thời gian tới là điều cần thiết. Các giải pháp cụ thể sẽ được trình bày ở

chương tiếp theo.

Chương 3

một số Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển qua Quỹ hỗ trợ phát triển

3.1.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển

qua Quỹ Hỗ trợ phát triển

Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm,

ngành và lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất

khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế đất nước ta đối mặt với sự

cạnh tranh từ các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, để nâng cao sức

cạnh tranh của hàng hóa trong nước trước khi phải thực hiện các cam kết quốc tế, chúng

ta cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ cho các ngành, các doanh nghiệp, các mặt hàng

sản xuất trong nước mà đất nước có lợi thế. Về lâu dài việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho

các hoạt động sản xuất trong nước cũng như xuất khẩu hiện nay sẽ không còn phù hợp do

Việt Nam phải thực hiện cam kết theo các hiệp định song phương và đa phương.

Trong điều kiện hiện nay, việc kết hợp giữa tín dụng ĐTPT trung, dài hạn với tín

dụng ngắn hạn HTXK, kết hợp giữa hỗ trợ trực tiếp với các hình thức hỗ trợ gián tiếp

trong chính sách tín dụng HTPT của Nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện nâng

cao khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế đang đến gần. Do đó, cần phải

giảm dần hình thức hỗ trợ trực tiếp và mở rộng các hình thức hỗ trợ gián tiếp như: Đẩy

mạnh việc thực hiện hỗ trợ LSSĐT, bảo lãnh tín dụng đầu tư, khuyến khích các tổ chức

kinh tế, các hộ kinh doanh bỏ vốn đầu tư, hoặc vay vốn các ngân hàng thương mại để

phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.

- Thu hẹp đối tượng vay vốn trực tiếp từ Quỹ HTPT, tăng cường hỗ trợ LSSĐT,

không ưu đãi tràn lan, chỉ ưu đãi đối với những dự án, mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế

nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì không phát triển được, tập trung chủ yếu vào

những lĩnh vực quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

và những dự án cấp thiết thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, đào

tạo, các chương trình thuộc diện ưu đãi này cũng phải quy định cụ thể thời hạn được

hưởng ưu đãi và thu hẹp mức lãi suất ưu đãi.

- Trong quá trình triển khai thực hiện cần bám sát văn kiện, Nghị quyết của Đảng,

tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP ngày 12-1-2004 về

một số giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch NSNN năm

2004 và Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày

23-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh quản lý đầu tư xây dựng bằng

nguồn vốn NSNN.

3.1.2. Các mục tiêu hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

- Hoạt động của Quỹ HTPT cần hướng tới khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, là khu

vực kinh tế có vai trò quan trọng trong việc tạo ra GDP, tạo ra nhiều việc làm cho người lao

động. Việc sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thông qua các hoạt động của Quỹ

HTPT cần có trọng tâm, trọng điểm, có điều kiện, có thời hạn cho những chương trình, dự

án, sản phẩm đặc biệt quan trọng của nền kinh tế nhằm đảm bảo cho công nghiệp hóa, tăng

trưởng kinh tế, phát triển bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh hỗ trợ tràn

lan, ỷ lại vào Nhà nước, đồng thời phù hợp với nguồn lực tài chính của Nhà nước hàng năm.

- Nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ NSNN (tín dụng ĐTPT của Nhà nước) phải bố

trí đúng theo mục tiêu hỗ trợ ghi trong kế hoạch, không điều chỉnh vốn từ mục tiêu này

sang mục tiêu khác.

- Có phương án huy động vốn, đáp ứng được yêu cầu giải ngân của các dự án vay

dở dang, các dự án chuyển tiếp và các dự án nhóm A được Chính phủ giao hàng năm.

- Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần được đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm, trọng

điểm đúng đối tượng, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, thực hiện

tốt lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, nhằm tập trung nguồn lực tài chính để

giải quyết các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng.

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển qua Quỹ hỗ trợ phát triển

3.2.1. Các cơ sở khoa học của giải pháp

* Dựa vào quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà

nước và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX và báo cáo của Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa IX tại Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

định hướng chính sách ĐTPT Nhà nước:

- Chính sách đầu tư Nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng ĐTPT nguồn

nhân lực, đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

cơ cấu lao động; thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác ĐTPT sản

xuất kinh doanh. Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ sử dụng hỗ trợ cho một số

dự án ở những ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ.

- Cần xác định rõ những lĩnh vực, chương trình, dự án, sản phẩm quan trọng có ý

nghĩa nền tảng của nền kinh tế và có hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, quốc phòng và

an ninh của đất nước, để có chính sách HTPT phù hợp thông qua tín dụng ĐTPT của Nhà

nước;

- Cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN, khắc phục tình trạng ưu đãi

tín dụng tràn lan như hiện nay; hạn chế cho vay trước đầu tư, mở rộng các hình thức bảo

lãnh tín dụng và ưu đãi sau đầu tư.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định "Mục tiêu tổng quát của

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng

với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật,

công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu

quốc phòng, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến

năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp,...".

Để có thể đạt được các chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Đảng thì đầu

tư là cốt lõi của mọi vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Kết quả của quá trình đầu tư là những năng lực sản xuất mới, trong đó có cả tài sản cố

định, vốn sản xuất kinh doanh, những công trình, năng lực sản xuất được đưa vào khai

thác, sử dụng, phát huy hiệu quả. Chính quá trình đầu tư quy định mức tăng trưởng tổng

sản phẩm trong nước (GDP) và góp phần giải quyết các nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và

thực hiện công bằng xã hội. Nói cách khác, khả năng huy động, khai thác và sử dụng có

hiệu quả vốn đầu tư của toàn xã hội nói chung, vốn đầu tư của Nhà nước nói riêng sẽ

quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

* Trên cơ sở thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua Quỹ HTPT

trong những năm vừa qua

Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua

Quỹ HTPT trong thời gian qua để từ đó xác định được các hạn chế cũng như nguyên

nhân của các hạn chế là căn cứ cơ bản và quan trọng để đề ra các giải pháp hoàn thiện và

nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua của Quỹ HTPT trong thời

gian tới.

* Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực về

chính sách tín dụng đầu tư phát triển

Như đã phân tích trong chương I, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của

mỗi quốc gia, vai trò của chính sách HTPT của Nhà nước đối với nền kinh tế đất nước

thể hiện rất rõ ở các nước trên thế giới và trong khu vực. Kinh nghiệm của các nước

trên thế giới, nhất là một số nước Đông á (Hàn Quốc, Trung Quốc) đã khẳng định vai

trò quan trọng của nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với quá trình phát triển

kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Đối với Trung Quốc, một quốc gia có đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội khá

tương đồng với Việt Nam, trong thời gian qua đã thực hiện rất thành công công cuộc phát

triển kinh tế - xã hội, đã thực hiện tốt hình thức tín dụng đầu tư của Nhà nước và đây là

nguồn vốn đầu tư rất quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Nhật Bản cũng có chính sách tín dụng đầu tư và cơ quan thực hiện là Ngân hàng

phát triển Nhật Bản (JDB) - một ngân hàng chính sách do Bộ Tài chính quản lý nhằm cho

vay các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng và những dự án nhà nước khuyến khích đầu tư, có thời

gian thu hồi vốn dài. Thời gian đầu khi đang trong quá trình khôi phục lại cơ sở vật chất

kỹ thuật của nền kinh tế sau chiến tranh, nguồn vốn tín dụng đầu tư tăng trưởng rất lớn.

Đến giai đoạn có trình độ phát triển cao như hiện nay, Nhật Bản tập trung nguồn vốn cho

vay của Nhà nước dưới hình thức hỗ trợ tín dụng xuất khẩu để tiêu thụ hàng hóa sản xuất

trong nước ra thị trường nước ngoài.

Qua thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, tín dụng ĐTPT của Nhà nước

là một giải pháp cần thiết và quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của

mỗi nước.

ở Việt Nam, Quỹ HTPT là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách tín

dụng HTPT của Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, khi các khuôn khổ pháp lý cùng

các điều kiện hoạt động khác còn chưa ổn định, hoàn thiện nên các hoạt động của Quỹ

HTPT bên cạnh những mặt được vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế cần phải được

khắc phục. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động tín

dụng ĐTPT của Nhà nước qua Quỹ HTPT có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là

trong giai đoạn bắt đầu xây dựng cơ sở vật chất để phát triển kinh tế - xã hội; khi năng

lực sản xuất và trình độ phát triển của nền kinh còn ở mức thấp.

3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

Giải pháp 1: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và nâng cao hiệu quả

công tác quản lý và điều hành nguồn vốn trong toàn hệ thống.

Với mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ các dự án ĐTPT của

các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn

có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền

vững. Do đó, trong thời gian tới nhu cầu về nguồn vốn dành cho tín dụng ĐTPT của Nhà

nước sẽ không ngừng tăng cả về quy mô và số lượng. Tuy nhiên, cơ chế huy động các

nguồn vốn cần tiếp tục hoàn thiện nhằm tạo động lực, sức hấp dẫn để khuyến khích, thu

hút được các nguồn vốn nhàn rỗi hoặc đang được sử dụng kém hiệu quả trong xã hội.

Đối với các tổ chức tài chính trong nước được Thủ tướng Chính phủ chỉ định huy

động vốn (Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện,...) cho Quỹ HTPT,

trên cơ sở khuôn khổ quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Quỹ HTPT cần xây dựng cơ

chế khuyến khích về lãi suất huy động vốn, điều kiện và đặc biệt là cơ chế phí huy động

vốn. Lãi suất huy động vốn của các tổ chức này phải đảm bảo được lợi ích của cả tổ chức

đi huy động lẫn tổ chức được huy động. Điều kiện và cơ chế huy động vốn phải minh

bạch, thông thoáng. Thời hạn huy động vốn cần được cải thiện cho phù hợp với thời hạn

cho vay vốn, tránh trường hợp bị động về nguồn vốn do phải huy động vốn ngắn hạn để

cho vay trung, dài hạn.

Cần tiếp tục mở rộng các hình thức huy động vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước

thông qua hình thức phát hành trái phiếu đầu tư với lãi suất và thời hạn hấp dẫn. Từng

bước tiến tới gia nhập vào thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động vốn cho

ĐTPT.

Cần cụ thể hóa và thống nhất về chính sách và cơ chế huy động vốn, thực hiện

bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc huy động và sử dụng vốn tín dụng

ĐTPT của Nhà nước.

Đẩy mạnh công tác huy động tại các Chi nhánh Quỹ. Các Chi nhánh Quỹ trong

quá trình triển khai nghiệp vụ huy động vốn, bên cạnh việc nâng cao chất lượng phục vụ

cần tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh, các

Sở ban, ngành của Tỉnh, các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn địa phương

Tiếp tục phối hợp nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách, cơ chế huy động và sử

dụng vốn ODA trong các ngành, các vùng lãnh thổ sao cho phù hợp với điều kiện và

năng lực quản lý và thực hiện của phía Việt Nam trình các cơ quan có thẩm quyền ban

hành. Hỗ trợ các nhà tư vấn, nhà thầu Việt Nam tham gia được nhiều hơn vào việc thực

hiện các dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại. Nhà nước cần xây dựng quy hoạch huy

động và sử dụng vốn ODA cho vay lại gắn với quy hoạch phát triển chung, tuân thủ

chiến lược và cụ thể hóa chiến lược phát triển dài hạn, bước đi trong từng thời kỳ.

Bên cạnh nhiệm vụ huy động vốn để thực hiện nhiệm vụ được giao thì một yêu

cầu quan trọng không kém là phải tổ chức công tác điều hành nguồn vốn có hiệu quả.

Với mục tiêu chính là huy động tối đa các nguồn lực dành cho tín dụng ĐTPT

đồng thời giảm được cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN, trong điều kiện công tác tổ

chức thanh toán của Quỹ HTPT còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý điều hành nguồn

vốn trong hệ thống Quỹ HTPT cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản:

- Quỹ HTPT Trung ương phải là trung tâm điều chuyển, điều hòa vốn. Toàn bộ

các nguồn vốn phát sinh tại các Chi nhánh Quỹ (như vốn thu hồi nợ vay, vốn huy

động,...) phải được tập trung vị Quỹ Trung ương. Tuy nhiên, cần xác định tập trung

không có nghĩa là mọi nguồn vốn phát sinh tại Chi nhánh Quỹ điều phải chuyển về Quỹ

Trung ương. Chi nhánh Quỹ chỉ phải điều chuyển vốn về Quỹ Trung ương khi nguồn vốn

tại Chi nhánh Quỹ vượt quá một hạn mức nhất định, tạm gọi là hạn mức tồn ngân. Hạn

mức tồn ngân do Quỹ Trung ương quy định cho từng Chi nhánh Quỹ, được xác định trên

cơ sở định mức chi tiêu thường xuyên, nhu cầu chi trả vốn huy động dự kiến và nhu cầu

giải ngân vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định. Như

vậy, việc xác định hạn mức tồn ngân được Quỹ Trung ương xác định trên cơ sở đặc điểm

và tình hình thực tế của mỗi Chi nhánh Quỹ, có tính đến việc điều hòa, điều chuyển

chung trong toàn hệ thống.

- Tăng cường công tác điều chuyển, điều hòa vốn trong hệ thống Quỹ thông qua

cơ chế phí điều chuyển vốn và phí sử dụng vốn. Là một tổ chức hạch toán tập trung toàn

ngành, cả hệ thống trước đây chưa phải huy động vốn trên thị trường (từ năm 2001 trở về

trước, nguồn vốn của Quỹ HTPT đều được Chính phủ chỉ định), với hệ thống thanh toán

chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu vị thời gian, thì việc triển khai áp dụng các quy định

trên là một nỗ lực rất lớn của cả hệ thống Quỹ. Trong thời gian tới, hệ thống Quỹ cần

phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể hoàn thành nhiệm vụ được Chính phủ giao.

Giải pháp 2: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án

Công tác thẩm định các dự án để tham gia ý kiến trước khi các cấp có thẩm

quyền quyết định đầu tư có một vai trò hết sức quan trọng, để nâng cao chất lượng công

tác thẩm định các dự án vay vốn, Quỹ HTPT cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các Quy

chế, Quy trình công tác thẩm định, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn vị công tác

thẩm định cho các bộ tín dụng. Để làm tốt công tác này, cần chú ý tới một số vấn đề sau:

- Tập trung kiện toàn bộ máy làm công tác thẩm định từ Trung ương đến các Chi

nhánh Quỹ: Cán bộ làm công tác thẩm định phải là những người có năng lực, được đào

tạo cơ bản, có hiểu biết vị kinh tế, chính trị, xã hội và phải có nhiệt tình và tinh thần trách

nhiệm cao trong công việc. Tại các Chi nhánh Quỹ cần phân định rõ hơn khâu thẩm định

và khâu quyết định cho vay, nâng cao tính độc lập của bộ phận thẩm định trong việc thực

hiện nhiệm vụ thẩm định dự án đầu tư.

- Cần phải đánh giá các chỉ tiêu vị hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, tức là đánh

giá hiệu quả của một dự án đầu tư trên quan điểm tổng thể, đánh giá mức độ đóng góp vào

việc phát triển nền kinh tế quốc dân và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô chung, đồng

thời, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp thẩm định phương án tài

chính và hiệu quả của dự án đầu tư có xét tới yếu tố thời gian của tiền tệ thông qua các chỉ

tiêu kinh tế kỹ thuật, phân tích điểm hòa vốn, thời gian thu hồi vốn đầu tư; quan tâm đến

công tác dự báo và thông tin cần được chú trọng hơn nữa đặc biệt là thông tin về thị trường,

giá cả. Tổ chức khai thác thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ thống Ngân hàng.

- Công tác thẩm định phải đánh giá chính xác vị năng lực và khả năng tài chính

của chủ đầu tư. Chủ đầu tư được hiểu theo nghĩa rộng gồm đơn vị thực hiện dự án, cơ

quan cấp trên của chủ dự án (Tổng công ty Nhà nước nếu chủ dự án là đơn vị thành viên

Tổng công ty) và cá nhân người đứng đầu đơn vị thực hiện dự án. Việc đánh giá chủ dự

án phải được thực hiện trên các phương diện chủ yếu: Năng lực pháp lý, uy tín trong giao

dịch, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, tài sản thế chấp, triển vọng ngành kinh

doanh.

- Công tác thẩm định phải được tiến hành theo suốt một quá trình: Thẩm định dự

án khả thi, thẩm định trong quá trình triển khai dự án (thẩm định phiếu giá thanh toán) và

thẩm định khi dự án đưa vào sản xuất, sử dụng. Toàn hệ thống Quỹ HTPT từ Trung ương

đến địa phương cần nghiêm túc thực hiện các quy định về phân cấp và đối tượng vay

vốn.

Giải pháp 3: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống các Quy chế, Quy trình nghiệp vụ

quản lý vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Quỹ HTPT cần nghiên cứu xây dựng quy trình nghiệp vụ khoa học theo phương

châm tránh gây phiền hà cho khách hàng, như:

- Chủ dự án chỉ phải liên hệ với một đầu mối duy nhất, không phải đi lại nhiều

lần và qua nhiều Phòng, Ban tại Chi nhánh và Quỹ Trung ương.

- Tổ chức quy trình nghiệp vụ khoa học, có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng

thẩm định với các phòng nghiệp vụ để đảm bảo tính chính xác và khách quan của các chỉ

tiêu đánh giá về tính khả thi của dự án đầu tư và năng lực vay vốn của chủ dự án.

- Thực hiện tốt công tác công khai quy trình nghiệp vụ để khách hàng năm rõ thủ

tục và các bước công việc khi giao dịch tại hệ thống Quỹ HTPT.

- Tích cực tìm hiểu và học hỏi từ các mô hình tài chính phát triển tương tự ở các

nước trên thế giới và trong khu vực, từ đó nắm bắt được kinh nghiệm và vận dụng thực

tiễn trong hoạt động của mình.

Bên cạnh đó, cần tăng cường phân cấp cho Chi nhánh Quỹ trong việc thẩm định,

quyết định cho vay. Cùng với sự trưởng thành của Quỹ HTPT, năng lực chỉ đạo về

chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ các Chi nhánh Quỹ đã được nâng cao thêm

một bước. Vì vậy, việc đẩy mạnh phân cấp cho Chi nhánh Quỹ trong việc thẩm định,

quyết định cho vay sẽ tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tiếp cận nhanh và xử lý cơ hội

kinh doanh được thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thời gian và thủ tục đầu tư.

Theo quy định hiện hành, Tổng giám đốc Quỹ HTPT quyết định hoặc ủy quyền

cho Giám đốc Chi nhánh Quỹ xem xét và quyết định việc cho vay dự án. Hiện nay. Từ

năm 2003, thực hiện chủ trương phân cấp mạnh hơn cho cơ sở, Tổng giám đốc Quỹ đã ủy

quyền hầu hết cho các Chi nhánh Quỹ quyết định cho vay các dự án nhóm C. Sắp tới nên

ủy quyền mạnh hơn cho các Chi nhánh Quỹ đã có đủ năng lực và điều kiện. Ngoài việc

nâng cao năng lực ở các địa phương, cũng cần thấy rằng khi ủy quyền thì Tổng giám đốc

Quỹ vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới. Như vậy, nếu được phân cấp (ai làm người ấy

chịu) thì chắc chắn Quỹ HTPT sẽ mạnh dạn thực hiện hơn nữa nhờ việc phân định trách

nhiệm rõ ràng.

Theo quy định tại Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30-01-2003 của Chính phủ

về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm

theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP

ngày 05-5-2000 của Chính phủ thì việc Quỹ HTPT ủy quyền các dự án nhóm B, C tùy

thuộc năng lực và điều kiện của các Chi nhánh Quỹ là phù hợp. Theo đó, kiến nghị:

- Tổng giám đốc Quỹ HTPT thay vì ủy quyền thì phân cấp luôn cho Giám đốc

các Chi nhánh Quỹ thẩm định và quyết định cho vay đối với các dự án nhóm B, C.

- Chủ đầu tư là các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực lập báo cáo nghiên cứu

khả thi phù hợp với quy định của Nhà nước và đảm bảo tính khả thi của dự án với tầm

nhìn phù hợp khả năng thu hồi vốn của dự án.

Đẩy mạnh phân cấp nhưng không có nghĩa là phân cấp tràn lan. Phân cấp cần

gắn liền với năng lực và khả năng huy động vốn của từng Chi nhánh Quỹ và phải đảm

bảo có sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Trung ương, phải thực hiện

nghiêm túc các quy chế và quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài

sản của Nhà nước và của đội ngũ cán bộ trong hệ thống Quỹ.

Giải pháp 4: ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng thông tin trong

toàn hệ thống.

Tin học hóa hiện nay đang là một vấn đề then chốt đối với bất cứ một tổ chức

nào. Hiện trạng hệ thống tin học và ứng dụng công nghệ thông tin của Quỹ HTPT còn

hạn chế. Quỹ HTPT cần xây dựng được một hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin với

các phần mềm đủ mạnh, sử dụng thống nhất từ trung ương tới địa phương nhằm đáp ứng

các yêu cầu xử lý nhanh, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, phục vụ tác nghiệp và

chỉ đạo điều hành. Một hệ thống được tin học hóa tốt có nghĩa là đáp ứng được các yêu

cầu về lưu trữ, xử lý và truy xuất thông tin kịp thời, đẩy đủ, và chính xác. Đồng thời, hệ

thống được tin học hóa còn đòi hỏi có sự kết nối và thông tin với các hệ thống bên ngoài

theo những nguyên tắc bảo mật đủ độ tin cậy. Có một hệ thống được tin học hóa cao sẽ là

một điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng các mặt công tác khác, đặc biệt

là thẩm định dự án và quản lý tín dụng.

Giải pháp 5: Đẩy mạnh công tác thu hồi và xử lý nợ vay

Công tác thu hồi nợ vay là công việc nặng nề và hết sức quan trọng với hệ thống

Quỹ HTPT. Các dự án do Quỹ HTPT cho vay bên cạnh hiệu quả kinh tế thì vấn đề hiệu

quả xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn được đặt ra với các dự án này. Vì

vậy, các dự án vay vốn tại Quỹ HTPT thường có rủi ro cao do số tiền vay lớn, thời hạn

cho vay dài. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đẩy mạnh công tác thu nợ, xử lý nợ càng trở nên

quan trọng.

Cần phân định rõ trách nhiệm trong công tác thu hồi và xử lý nợ vay đối với từng

cấp (cơ quan Quỹ Trung ương và các Chi nhánh Quỹ HTPT các tỉnh, thành phố).

- Tại cơ quan Quỹ Trung ương:

+ Thường xuyên rà soát toàn bộ kế hoạch thu nợ của từng dự án, để giao đúng,

giao đủ kế hoạch thu nợ cho các Chi nhánh Quỹ.

+ Đối với các dự án có nguồn trả nợ từ Ngân sách Trung ương, cần chủ động làm

việc với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải... để bố trí bổ sung

nguồn trả nợ đủ cho Quỹ theo hợp đồng tín dụng.

+ Theo dõi chặt chẽ tình hình nợ quá hạn, lãi treo, nên tổ chức các đoàn đốc thu

tại các Chi nhánh Quỹ có nợ tồn đọng nhiều hoặc mới phát sinh mà Chi nhánh Quỹ chưa

có biện pháp xử lý hiệu quả.

+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để triển khai thực hiện Quyết

định của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp xử lý nợ vay vốn ĐTPT để đóng mới,

cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ.

+ Cần sớm tiến hành xây dựng quy chế, quy trình về xử lý nợ vay vốn tín dụng

ĐTPT của Nhà nước; xây dựng chế tài xử lý trách nhiệm trả nợ vay vốn tín dụng ĐTPT

của Nhà nước đối với các chủ đầu tư chây ỳ, cố tình chiếm dụng vốn của Nhà nước.

+ Nghiên cứu áp dụng thí điểm hình thức thu hồi nợ thông qua Công ty mua bán

nợ của Bộ Tài chính đối với một số dự án.

+ Cần xây dựng cơ chế gắn chặt hơn kết quả thu hồi nợ vay với quỹ lương được

hưởng của từng Chi nhánh.

- Tại Chi nhánh Quỹ HTPT các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương:

+ Quán triệt sâu sắc tới từng phòng, từng cán bộ về tầm quan trọng của công tác

thu hồi nợ vay, để mỗi phòng, mỗi cán bộ thấy rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình

trong công tác này.

+ Rà soát lại toàn bộ dự án. Phân tích thực trạng tài chính và hoạt động sản xuất

kinh doanh của Chủ đầu tư để xác định khả năng trả nợ trong hiện tại và tương lai, từ đó

có biện pháp thu nợ cụ thể đối với từng doanh nghiệp. Bám sát các nguồn thu của dự án

để kịp thời đôn đốc chủ đầu tư hoàn trả nợ vay theo hợp đồng tín dụng.

+ Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Tổng công ty và Chính quyền địa phương

để được hỗ trợ các biện pháp thu hồi nợ. Đối với các dự án có nguồn trả nợ từ ngân sách

địa phương, đề nghị ủy ban nhân dân tỉnh bố trí đủ nguồn trả nợ. Trường hợp chưa được

bố trí đủ nguồn trả nợ, Chi nhánh Quỹ nên tạm ngừng giải ngân các dự án đầu tư thuộc

kinh tế địa phương.

+ Việc đề xuất tháo gỡ khó khăn của chủ đầu tư phải đảm bảo mục tiêu nâng cao

khả năng trả nợ của chủ đầu tư và khả năng thu nợ của Quỹ trên cơ sở phân tích thấu đáo

tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư, tránh tình trạng thỏa

hiệp với chủ đầu tư, gây thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước và của Quỹ HTPT.

+ Có cơ chế gắn kết quả thu hồi nợ vay với tiền lương của từng cán bộ Chi nhánh

Quỹ.

Giải pháp 6: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết

định sự thành công của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của

chế độ và là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng".

Có thể khẳng định, chất lượng hoạt động của hệ thống Quỹ HTPT trước hết phụ

thuộc vào trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ viên chức Quỹ

HTPT. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Quỹ HTPT gắn liền với việc nâng

cao trình độ chuyên môn, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ

viên chức Quỹ HTPT.

Để thực hiện được yêu cầu trên, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao

và mở rộng trong năm 2004 và các năm tiếp theo, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

viên chức của hệ thống Quỹ nên tập trung vào các hướng chủ yếu sau:

- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,

cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ viên chức theo yêu cầu công việc. Nhằm thực

hiện yêu cầu này, Quỹ HTPT trước hết phải xác định chính xác nhu cầu đào tạo để có kế

hoạch đào tạo phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả.

- Trên cơ sở định mức biên chế được giao, để nâng cao chất lượng cán bộ, Quỹ

HTPT cần chú trọng việc tuyển dụng cán bộ có trình độ đại học loại khá trở lên thuộc các

chuyên ngành tài chính, ngân hàng, ngoại thương,... hệ chính quy các trường Đại học

công lập. Có biện pháp khuyến khích cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại

ngữ; cử cán bộ trẻ, có trình độ có năng lực thuộc diện quy hoạch phát triển lâu dài đi đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao.

- Định kỳ hàng năm, tổ chức công tác kiểm tra sát hạch đối với cán bộ viên chức

trong cơ quan.

Giải pháp 7: Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần được thực hiện thường xuyên, kịp thời

và trở thành một trong những hoạt động cơ bản của hệ thống Quỹ HTPT. Thông qua

công tác kiểm tra để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định, có hiệu quả,

tránh thất thoát lãng phí và bảo vệ được cán bộ,...

Công tác kiểm soát phải được thực hiện ngay từ khâu đầu tiên, tức ngay từ khi

văn bản chính sách ra đời (các văn bản của Quỹ ban hành hướng dẫn nghiệp vụ) nhằm có

được hiệu quả thực thi cao nhất, tránh trường hợp kiểm tra kiểm soát chỉ giải quyết hậu

quả, khi có phát sinh vụ việc, tức đã đến giai đoạn cuối của vấn đề.

Cần phải áp dụng nhiều hình thức kiểm tra, kiểm soát nhằm không ảnh hưởng

đến việc thực hiện công tác chuyên môn tại đơn vị bị kiểm tra nhưng vẫn thực hiện

nhiệm vụ được giao. Các hình thức có thể áp dụng kiểm tra trước, trong và sau khi thực

hiện quá trình công tác, kiểm tra từ xa, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất, thông tin báo cáo

định kỳ,...

Các Đoàn kiểm tra của Quỹ Trung ương trước khi tiến hành kiểm tra tại các Chi

nhánh Quỹ cần xây dựng đề cương kiểm tra cụ thể, quán triệt đến từng cán bộ trong

Đoàn. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện sai phạm

cần làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể; đề xuất hướng xử lý cụ thể đồng thời thông báo

rút kinh nghiệm trong toàn hệ thống. Các vấn đề nghiệp vụ vướng mắc phát hiện trong

quá trình kiểm tra cần được Quỹ Trung ương xử lý kịp thời.

Các sai phạm của tập thể, cá nhân khi bị phát hiện cần được xử lý nghiêm, phải

đạt được yêu cầu răn đe, phòng ngừa chung trong toàn hệ thống, tránh trường hợp khi dự

kiến kỷ luật thì "đầu voi", khi tiến hành kỷ luật lại là "đuôi chuột".

Giải pháp 8: Đẩy mạnh công tác hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.

Việt Nam đang từng bước thực hiện cam kết AFTA, hội nhập kinh tế khu vực và

thế giới, nên các doanh nghiệp, bên cạnh những cơ hội lớn cũng đang phải chịu những

sức ép cạnh tranh ngày càng lớn từ hàng hóa nhập khẩu. Để có thể tạo lập được một "thế

đứng" vững vàng khi cạnh tranh trở lên gay gắt hơn, trong điều kiện xuất phát điểm hạn

chế, các doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.

Mặc dù vậy, tiến trình hội nhập đòi hỏi chúng ta phải giảm dần sự hỗ trợ tài

chính trực tiếp của Nhà nước cho doanh nghiệp, trong đó chính sách tín dụng ĐTPT của

Nhà nước với vai trò là một bộ phận cũng phải có những thay đổi thích hợp. Trong thời

gian tới, một điều không thể tránh được của chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước là

phải giảm dần ưu đãi về lãi suất, chú trọng ưu đãi về điều kiện vay vốn, thời gian vay

vốn,... và cần phải mở rộng hình thức hỗ trợ gián tiếp, trong đó có hình thức hỗ trợ

LSSĐT.

Để mở rộng hình thức hỗ trợ LSSĐT với mục tiêu chỉ cần bỏ ra một lượng "vốn

mồi" nhất định có thể huy động một lượng vốn lớn hơn nhiều lần cho ĐTPT (gấp hàng

chục lần) cần thực hiện một số giải pháp để tăng cường tính hấp dẫn của hình thức hỗ trợ

LSSĐT. Những giải pháp đó là:

- Chủ động nghiên cứu, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh mức

hỗ trợ LSSĐT linh hoạt, phù hợp với định hướng phát triển từng thời kỳ: Mức hỗ trợ

LSSĐT tác động và ảnh hưởng rất lớn đến việc chủ đầu tư lựa chọn sử dụng nguồn vốn

tín dụng ĐTPT của Nhà nước hay sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại để đầu tư.

Theo phương pháp xác định mức hỗ trợ LSSĐT hiện nay, mức hỗ trợ ảnh hưởng

rất nhiều bởi lãi suất tín dụng ĐTPT. Mức hỗ trợ thấp dẫn đến tình trạng chủ đầu tư lựa

chọn nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước để thực hiện đầu tư dự án. Do vậy, cần

điều chỉnh mức hỗ trợ LSSĐT phù hợp để khuyến khích chủ đầu tư nghiêng về việc lựa

chọn nguồn vốn tín dụng thương mại của các tổ chức tín dụng.

- Nghiên cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền quyết định thay đổi phương thức

cấp hỗ trợ LSSĐT để đồng vốn hỗ trợ của Nhà nước đến với doanh nghiệp đúng thời

điểm doanh nghiệp cần vốn. Thực tế cho thấy, hầu hết các dự án đều gặp khó khăn trong

giai đoạn đầu khi đi vào sản xuất, đặc biệt là khó khăn về tài chính. Sản phẩm mới sản

xuất ra đòi hỏi phải có thời gian để thâm nhập thị trường, sản lượng sản xuất chưa đạt dự

kiến trong khi vẫn phải trả nợ vay các tổ chức cung ứng vốn. Các lý do này dẫn đến một

điều hiển nhiên là trong giai đoạn đầu dự án mới đi vào sản xuất, chủ đầu tư dự án cần

được hỗ trợ nhiều hơn để ổn định sản xuất kinh doanh.

- Theo quy định hiện nay, số tiền hỗ trợ LSSĐT được cấp, trên cơ sở số nợ gốc

trong hạn mà chủ đầu tư trả được cho các tổ chức tín dụng. Như vậy, càng về sau, chủ

đầu tư càng được hỗ trợ nhiều hơn khi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã

ổn định hơn, nhu cầu hỗ trợ tài chính đã giảm đi nhiều. Xuất phát từ những lý do đó, Quỹ

HTPT cần nghiên cứu, đề xuất áp dụng hình thức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ. Nguyên tắc

cơ bản của việc cấp hỗ trợ LSSĐT theo phương thức này là khi xác định mức hỗ trợ

LSSĐT Quỹ HTPT chỉ việc thay số nợ gốc trong hạn thực trả trong năm bằng dư nợ

trong hạn bình quân trong năm vào công thức để tính toán. Khi so sánh mức hỗ trợ

LSSĐT theo dư nợ với mức hỗ trợ LSSĐT theo số nợ gốc thực trả đang áp dụng cho thấy

kết quả tổng số vốn hỗ trợ cho một dự án là như nhau, chỉ khác nhau ở mức hỗ trợ trong

từng năm.

Giải pháp 9: Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn hỗ trợ

xuất khẩu

Xét trên khía cạnh kinh tế, toàn cầu hóa là sự hội nhập với nền kinh tế thế giới

thông qua mở cửa và áp dụng chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Việt Nam có

thể tham gia vào thị trường thương mại thế giới trên nguyên tắc có đi có lại, không phân

biết đối xử theo quy chế tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Sự mở rộng và đa

dạng hóa thị trường xuất khẩu không những tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn phân án

rủi ro thương mại; tuy nhiên sự lệ thuộc vào xuất khẩu sẽ khiến nền kinh tế dễ bị tổn

thương bởi những biến động của thị trường thế giới.

Tỷ trọng xuất khẩu trên GDP của Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở

mức khá cao, trên 50%. Chúng ta có nhiều mặt hàng có lợi thế so sánh như gạo, cà phê,

thủy sản,... đều thuộc diện được Chính phủ cho hưởng tín dụng HTXK và giao cho Quỹ

HTPT tổ chức thực hiện. Việc cho vay HTXK là một nhiệm vụ mới đối với Quỹ HTPT,

có nhiều tiềm năng những cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng

chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm tín dụng xuất khẩu cần đươc quan tâm đúng mức.

Việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng HTXK không những phục

vụ cho sự phát triển kinh tế mà còn tạo điều kiện và tiền đề vững chắc để hoàn thiện

nhiệm vụ của Quỹ HTPT trong tình hình mới.

Giải pháp 10: Hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng vốn ODA

Để khắc phục những tồn tại trong quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA cho vay lại,

các giải pháp cần thực hiện là:

- Việc phân bổ nguồn vốn ODA cho vay lại cần được ưu tiên tập trung đầu tư vào

lĩnh vực hạ tầng kinh tế xã hội có khả năng hoàn vốn theo đúng Nghị định của Chính phủ

về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Cần cân nhắc khi đầu tư

vốn cho các dự án quy mô nhỏ, năng lực Chủ đầu tư hạn chế do thông lệ quốc tế rất phức

tạp đòi hỏi mất rất nhiều thời gian để tìm hiểu, triển khai dẫn đến mất tính ưu đãi của

khoản vay và cơ hội cạnh tranh của sản phẩm. Đối với những khoản vay với lãi suất

không hấp dẫn cộng với yếu tố giá thiết bị cao, chi phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư không

cao cần xem xét, cân nhắc kỹ, thậm chí không vay.

- Cùng với việc nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn và trách nhiệm của cơ

quan thẩm định dự án để loại trừ các yếu tố rủi ro do đánh giá không chính xác về tính

khả thi, khả năng trả nợ của dự án, Quỹ HTPT cần tham gia thẩm định phương án tài

chính, phương án trả nợ các dự án sử dụng vốn ODA trước khi cơ quan có thẩm quyền

quyết định đầu tư để ràng buộc trách nhiệm của cơ quan cho vay lại với trách nhiệm thu

hồi nợ vay nhằm thống nhất quá trình sử dụng vốn vay với việc trả nợ nước ngoài.

- Cần nghiên cứu và áp dụng một cơ chế tài chính cho vay lại thống nhất cho

từng loại dự án nhằm đảm bảo tính công bằng, hợp lý, hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi

ích của chủ đầu tư khi sử dụng nguồn vốn ODA.

- Có giải pháp áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay theo hình thức bảo đảm bằng

tài sản hình thành từ vốn vay để có căn cứ pháp lý bảo đảm khả năng thu hồi cho Nhà

nước khi rủi ro xảy ra.

- Bổ sung, sửa đổi quy trình và thủ tục rút vốn ODA theo hướng phù hợp với

thực tế, đơn giản về thủ tục, giảm đầu mối, nâng cao vai trò của hệ thống Quỹ HTPT

trong quá trình giải ngân.

- Cải tiến trình tự và thời gian kiểm soát hồ sơ rút vốn, giảm thủ tục phiền hà

nhằm góp phần thúc đẩy tiến độ giải ngân đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính theo

chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

- Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay; tập trung vào

việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA cho vay lại thông qua hệ thống Quỹ HTPT để

đề xuất những giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn

vốn ODA không những mang lại lợi ích cho đất nước trong giai đoạn chuyển đổi nền

kinh tế mà còn nâng cao uy tín của đất nước với các nhà tài trợ, Chính phủ các nước đồng

thời khẳng định vị trí, vai trò của nước ta trong nền kinh tế toàn cầu.

Giải pháp 11: Hoàn thiện công tác thanh toán trong hệ thống.

Công tác thanh toán có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính,

tín dụng - những tổ chức có thực hiện nghiệp vụ huy động vốn và hoàn trả vốn huy động,

trong đó có Quỹ HTPT. Công tác thanh toán nếu không được tổ chức nhanh, gọn, hiệu

quả thì hậu quả rất khó lường, nhẹ thì gây lãng phí vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh (đối với Quỹ HTPT là giảm chênh lệch thu chi),

nặng thì làm tổ chức đó mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản.

- Để hoàn thiện công tác thanh toán ở Quỹ HTPT, về mặt cơ chế chính sách, Quỹ

HTPT phải được tham gia các hệ thống thanh toán và các dịch vụ thanh toán gồm:

+ Thanh toán điện tử liên ngân hàng.

+ Tổ chức thanh toán điện tử nội bộ Quỹ HTPT

+ Tham gia các dịch vụ thanh toán như mở tài khoản tiền gửi và cung ứng các dịch vụ

thanh toán cho các khách hàng có quan hệ với hệ thống Quỹ HTPT:

- Hệ thống Quỹ mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước: Quỹ Trung ương mở tài

khoản tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Chi nhánh Quỹ mở tài khoản tại Chi nhánh

Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Hệ thống Quỹ mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại.

- Các Chi nhánh Quỹ thực hiện mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng có liên

quan đến hoạt động của Quỹ.

 Các khách hàng mở tài khoản tại Trung tâm thanh toán bù trừ của Quỹ HTPT:

Quỹ HTPT thực hiện mở tài khoản tại trung tâm thanh toán bù trừ trên địa bàn để phục

vụ cho việc thanh toán điện tử liên ngân hàng.

 Cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng như: ủy nhiệm chi, séc,...

- Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ thanh

toán (chủ yếu là các thiết bị tin học, các phần mềm nghiệp vụ, đường truyền) mặc dù rất

tốn kém nhưng cần được Ban Lãnh đạo Quỹ xác định rõ là phải gấp rút đầu tư. Việc đầu

tư này không chỉ có ý nghĩa tại thời điểm hiện tại mà còn là tiền đề để hệ thống Quỹ có

điều kiện thực thi các nhiệm vụ nặng nề hơn trong tương lai. Tuy nhiên để tránh dàn trải,

lãng phí vốn, công tác tin học phục vụ nhiệm vụ thanh toán phải xác định được mục tiêu

cụ thể, xây dựng được lộ trình đầu tư phù hợp với khả năng (tài chính và cơ chế chính

sách) và nhiệm vụ được giao. Do chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức thực hiện nên quá

trình lập và triển khai đề án tin học phục vụ thanh toán của Quỹ HTPT cần được các cơ

quan chuyên môn, có kinh nghiệm tư vấn, giám sát đầy đủ, chặt chẽ.

- Về con người: Quỹ HTPT cần khẩn trương bổ sung cán bộ có năng lực, chuyên

môn để thực hiện công tác thanh toán. Tại Quỹ TW, trước mắt thành lập tổ thanh toán.

Đây là bước chuẩn bị để thành lập Trung tâm thanh toán. Tại Chi nhánh Quỹ gấp rút bổ

sung cán bộ, chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện nghiệp vụ.

Quỹ HTPT cần mời các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm đã từng công tác trong

các tổ chức tài chính tín dụng tư vấn, cộng tác xây dựng quy chế, quy trình nghiệp vụ

thanh toán, triển khai thực hiện thanh toán,...

Giải pháp 12: Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy tại Quỹ Trung ương:

Tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ nói chung và tại cơ quan Quỹ Trung ương nói

riêng đến nay đã vận hành được 4 năm, khoảng thời gian không nhiều nhưng đã đi vào hoạt

động ổn định, từng bước được củng cố kiện toàn. Mặc dù vậy, trước yêu cầu và nhiệm vụ

mới được Chính phủ giao cho, công tác đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy

hiện tại nhằm kiện toàn củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy để đáp ứng yêu cầu hoạt

động theo chủ trương của Hội đồng quản lý là nội dung hết sức cấp bách và cần thiết.

Chính vì vậy, Ban lãnh đạo Quỹ đặt chương trình xây dựng đề án hoàn thiện tổ chức bộ

máy Quỹ, hoạch định những bước đi cần thiết để từ đó kiện toàn tổ chức, bố trí sắp xếp

lại đội ngũ cán bộ và đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ và coi đây là trọng

tâm của chương trình chiến lược phát triển hệ thống Quỹ.

Để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ

HTPT nói chung và cơ quan Quỹ Trung ương nói riêng phải được củng cố kiện toàn;

đồng thời, điều chuyển và bổ sung chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng đơn vị

trong hệ thống cho phù hợp với yêu cầu đổi mới ngày càng cao hơn cả chiều rộng và

chiều sâu của nhiệm vụ chính trị được Chính phủ giao cho Quỹ HTPT.

Yêu cầu đặt ra việc sắp xếp tổ chức bộ máy tại cơ quan Quỹ Trung ương nhằm

đáp ứng những nội dung cơ bản là:

- Cơ quan Quỹ Trung ương tập trung làm công tác chỉ đạo điều hành, xây dựng

và ban hành các cơ chế, chính sách, Quy chế, Quy trình nghiệp vụ và tăng cường vai trò

kiểm soát khi thực hiện phân cấp cho đơn vị nhằm đảm bảo phát huy năng lực và trách

nhiệm của cơ sở nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của Quỹ Trung ương.

- Bộ máy của Quỹ quản lý, theo dõi chặt chẽ hoạt động của toàn hệ thống theo

ngành, lãnh thổ và dự án.

- Tổng hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình hoạt động nghiệp vụ của hệ

thống, nâng cao chất lượng các báo cáo, đề xuất tham mưu cho lãnh đạo Quỹ trong quá

trình chỉ đạo, điều hành.

- Quan tâm tới tính ổn định, tính kế thừa và tổ chức phù hợp với số lượng và chất

lương đội ngũ cán bộ hiện có từ Quỹ HTPT để bộ máy mới hoạt động được hiệu quả

ngay từ đầu, đáp ứng kịp thời chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Quỹ; mặt khác, đầu mối

quản lý cũng không để xáo trộn lớn, đây cũng là dịp để thực hiện cải cách thủ tục hành

chính trong khâu nghiệp vụ.

Qua nghiên cứu các mô hình tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng chính sách cho

ĐTPT của các nước trong khu vực và mô hình tổ chức bộ máy của các tổ chức tín dụng

trong nước, hiện nay tại cơ quan Quỹ Trung ương có 12 Ban, Văn phòng giúp việc Tổng

Giám đốc (Ban Kế hoạch nguồn vốn; Ban Kinh tế kĩ thuật và thẩm định, Ban Tài chính kế

toán, Ban Tín dụng đầu tư Trung ương, Ban Tín dụng đầu tư địa phương, Ban quản lý

vốn vay nước ngoài và Quan hệ quốc tế, Ban Bảo lãnh - Hỗ trợ lãi suất, Ban Tổ chức cán

bộ, đào tạo và lao động tiền lương, Ban Kiểm tra giám sát và pháp chế, Ban Thông tin

tin học, Văn phòng, Ban Kho quỹ). Theo chúng tôi trong thời gian tới cần thiết phải

chuẩn hóa và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo và gắn với chủ trương

cải cách hành chính của Chính phủ; Vì vậy, mô hình tổ chức bộ máy, một mặt phải có sự

kế thừa của mô hình tổ chức bộ máy cũ để không làm ảnh hưởng đến việc triển khai công

việc chuyên môn, đồng thời phải có điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của một số Ban cho

phù hợp như:

- Chuyển nghiệp vụ Bảo lãnh về các Ban Tín dụng vì hoạt động tác nghiệp bảo

lãnh giống và gắn với nghiệp vụ tín dụng. Chuyển chức năng quản lý theo dõi cấp phát

vốn đầu tư và cho vay ủy thác, các Quỹ ĐTPT địa phương từ Ban Kế hoạch nguồn vốn

sang Ban Hỗ trợ LSSĐT.

- Hiện nay tại Quỹ Trung ương có 02 Ban Tín dụng (Ban Tín dụng Trung ương

và Ban Tín dụng địa phương), thực hiện chủ trương cải cách hành chính, theo quan điểm

của chúng tôi là nên tập trung vào 01 Ban Tín dụng khi đã tin học hóa được nghiệp vụ

quản lý tín dụng.

- Không thành lập tổ chức khi khối lượng công việc chưa có hoặc chưa nhiều

như: Ban Kho quỹ.

- Do nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao thêm, do vậy, cần thành lập thêm Ban

Tín dụng HTXK và cho vay theo hiệp định của Chính phủ (vốn ODA Việt nam) nhằm tổ

chức thực hiện công tác quan trọng là cho vay HTXK (khối lượng công việc như một

ngân hàng EXIMBANK);

- Cần thiết phải thành lập mới Phòng Pháp chế trực thuộc Tổng Giám đốc trên cơ sở

tách chức năng, nhiệm vụ này từ Ban Kiểm tra giám sát và pháp chế.

- Các Trung tâm mới sẽ được thành lập như: Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Trung

tâm Xử lý nợ và phòng ngừa rủi ro, Trung tâm Tin học... sẽ tăng thêm tính chuyên trách

giúp việc cho Tổng giám đốc về những mảng công việc lớn như đào tạo, xử lý nợ và

công nghệ thông tin.

3.3. Kiến nghị

Qua hơn 4 năm triển khai chính sách HTPT của Nhà nước, thực tế đã xuất hiện

nhiều vướng mắc ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai chính sách cũng như đến các dự

án, chủ đầu tư, các ngành. Yêu cầu thực tiễn đòi hỏi các chính sách hiện hành về tín dụng

ĐTPT của Nhà nước cần được điều chỉnh kịp thời và thích hợp để phát huy được các mặt

tích cực và khắc phục những tồn tại, vướng mắc hiện nay để chính sách ưu đãi của Nhà

nước phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Việc

hoàn thiện chính sách HTPT của Nhà nước đề nghị cần nghiên cứu theo các nội dung sau

đây:

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

* Hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước

Thứ nhất: Cần đa dạng hóa hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước

Với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, các doanh nghiệp thường có quy mô

vốn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, trình độ quản ở mức độ

thấp nên muốn cạnh tranh được, các doanh nghiệp trong nước rất cần sự hỗ trợ tài chính

của Nhà nước. Trong điều kiện thời gian còn lại để nước ta thực hiện các cam kết về hội

nhập kinh tế quốc tế không nhiều, Nhà nước cần gia tăng việc thực hiện chính sách

HTXK, tập trung vốn có lựa chọn cho các ngành, các doanh nghiệp, các mặt hàng có lợi

thế, có cơ hội cạnh tranh, có thời gian thu hồi vốn nhanh và tạo tỷ suất lợi nhuận cao hơn

nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường và tạo đà cho các doanh

nghiệp đón đầu trước cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Vì vậy, bên cạnh các hình thức HTXK như hiện nay, kiến nghị Thủ tướng Chính

phủ mở rộng thêm các hình thức hỗ trợ sau:

- Tín dụng xuất khẩu cho nhà nhập khẩu: Hình thức hỗ trợ này nhằm mục đích hỗ

trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Đây là hình thức nhằm giúp nhà nhập khẩu có thể

thanh toán tiền ngay cho nhà xuất khẩu.

- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Hình thức hỗ trợ này nhằm bảo vệ các doanh

nghiệp xuất khẩu trước những rủi ro phát sinh từ những rủi ro thương mại và chính trị

trong quá trình thực hiện các giao dịch quốc tế. Thông thường, bảo hiểm tín dụng xuất

khẩu bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu khỏi bị thiệt hại do không được trả tiền sau khi giao

hàng. Trong các trường hợp khác, bảo hiểm cũng trang trải cho những mất mát mà doanh

nghiệp xuất khẩu gặp phải trước khi giao hàng do doanh nghiệp nhập khẩu không muốn

nhận hàng.

Thứ hai: Về đối tượng cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước

Với những phân tích nói ở chương một ta thấy, đối tượng cho vay tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước không giống với đối tượng vay vốn tín dụng thương mại. Lựa

chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần đảm bảo mục tiêu

kinh tế và mục tiêu xã hội. Một mặt, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải là

vốn "mồi" khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau phát huy tiềm năng, vật lực để

đưa vào sản xuất tạo ra của cải vật chất mới cho xã hội, mặt khác nhằm thực hiện mục

tiêu công bằng xã hội, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế - xã hội.

Theo chúng tôi, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải

được mở rộng bao gồm cả những chương trình phát triển của Chính phủ, những vùng có

điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.

Ngay trong việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước cũng còn có sự mâu thuẫn. Một mặt, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải

đảm bảo tính hiệu quả, phải đảm bảo sự hoàn trả vốn như bất kỳ vốn tín dụng nào khác,

mặt khác lại phải đảm bảo tính xã hội, chú trọng đầu tư vào những dự án mà phần lớn có

hiệu quả trực tiếp không cao.

Để đồng thời đáp ứng nguyên tắc tín dụng (hoàn trả) và mục đích điều tiết kinh tế

của Chính phủ, theo chúng tôi việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

+ Đối tượng cho vay phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói

chung và chiến lược đầu tư phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể nói riêng.

+ Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chủ yếu phải thuộc

các lĩnh vực, các ngành, các chương trình Nhà nước cần được khuyến khích đầu tư và

những vùng kinh tế - xã hội khó khăn nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì không

phát triển được.

+Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải có vị trí xung

yếu trong nền kinh tế, trong từng ngành, từng vùng và lĩnh vực.

+ Đối tượng vay vốn phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành, các vùng, các

lĩnh vực phát triển. Sau khi hoàn thành sứ mạng của mình, đối tượng vay vốn tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước sẽ được thay đổi phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế

xã hội từng thời kỳ cụ thể.

+ Đối tượng vay vốn phải đảm bảo sự an toàn vốn vay (nguyên tắc chung đối với

tín dụng), đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước đúng mục đích và hiệu quả. An toàn và hiệu quả trở thành một nguyên tắc

quan trọng trong việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước.

Như vậy, việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý, sử dụng loại vốn tín dụng này, nó

thực sự là một công cụ tài chính - tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế vĩ

mô của Nhà nước. Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần được

ổn định trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong giai đoạn 2001

- 2010 cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện chính sách chuyển dịch

cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Như vậy không nên qui định chỉ những dự án đầu

tư thuộc vùng kinh tế khó khăn mới được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước.

Thứ ba: Tăng tính chủ động cho Quỹ HTPT trong việc quyết định lãi suất huy

động vốn

Hiện nay, lãi suất huy động vốn của Quỹ HTPT do Thủ tướng Chính phủ quyết

định hàng năm (vay Bảo hiểm xã hội), một số nguồn do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết

định hàng tháng, hàng quý (trái phiếu Chính phủ, tiết kiệm bưu điện, huy động vốn của

các tổ chức khác...). Để chủ động và linh hoạt cho Quỹ HTPT, kiến nghị Chính phủ và

Thủ tướng Chính phủ:

- Đối với vốn vay các Quỹ: Tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, các

nguồn vốn và các quỹ khác của Nhà nước: Lãi suất tối đa bằng lãi suất trái phiếu Chính

phủ cùng kỳ hạn.

- Đối với các nguồn vốn huy động khác: Không cao hơn lãi suất huy động của

các ngân hàng thương mại nhà nước.

- Lãi suất huy động vốn trong từng thời kỳ do Tổng Giám đốc Quỹ HTPT quyết

định theo nguyên tắc nêu trên.

Cơ sở của kiến nghị là thực hiện theo cơ chế này sẽ giúp tăng tính chủ động của

Quỹ HTPT trong huy động vốn, cân đối vốn cho vay đầu tư các dự án, thực hiện được cơ

chế kế hoạch hóa theo hướng đổi mới. Đồng thời với lãi suất huy động không cao hơn lãi

suất huy động của các ngân hàng thương mại Nhà nước không gây ảnh hưởng đến thị

trường vốn, vẫn đảm bảo sự lành mạnh của thị trường.

Thứ tư: Mở rộng các hình thức huy động vốn của Quỹ HTPT

Theo quy định hiện nay, Quỹ HTPT không được huy động vốn ngắn hạn từ dân

cư và không được huy động vốn bằng ngoại tệ. Để Quỹ HTPT có nguồn cho vay ngắn

hạn HTXK với chi phí thấp, thay vì phải huy động vốn dài hạn với lãi suất cao để cho

vay như hiện nay, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép Quỹ HTPT

được huy động vốn ngắn hạn từ dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay ngắn hạn

HTXK. Cơ chế huy động vốn cũng nên cho Quỹ HTPT được quyền chủ động trên cơ sở

khống chế mức cấp bù chênh lệch hàng năm.

Quỹ HTPT cần được huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn cho

các dự án có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị bằng ngoại tệ.

Thứ năm: Hoàn thiện cơ chế kế hoạch hóa

Theo quy định hiện nay, Thủ tướng Chính phủ giao cho Quỹ HTPT tổng mức vốn

tín dụng ĐTPT của Nhà nước chia theo các hình thức: Cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu

tư và hỗ trợ LSSĐT phân theo cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng. Căn cứ kế hoạch được Thủ

tướng Chính phủ giao, Quỹ HTPT thông báo tổng mức cho các Bộ, ngành, địa phương. Căn

cứ kế hoạch được Quỹ HTPT thông báo, các Bộ ngành, địa phương phân khai kế hoạch cho

từng dự án. Cơ chế này dẫn đến đầu tư tràn lan, không dứt điểm, giảm hiệu quả đầu tư của

các dự án.

Để khắc phục tình trạng trên, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ hoàn

thiện cơ chế kế hoạch hóa theo hướng:

- Kế hoạch tín dụng HTPT của Nhà nước chỉ mang tính định hướng, hàng năm

Thủ tướng Chính phủ giao một số chỉ tiêu quan trọng, bao gồm:

+ Vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất đối với việc cho vay đầu tư trung dài

hạn, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Vốn NSNN cấp hỗ trợ LSSĐT.

+ Vốn ODA cho vay lại.

+ Vốn NSNN cho vay đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định của Chính phủ,

+ Vốn NSNN dành cho cho vay theo các chương trình mục tiêu của Chính phủ.

+ Danh mục và mức vốn cho vay của các dự án Nhóm A và một số dự án quan

trọng khác của Chính phủ.

- Chủ đầu tư các dự án thuộc đối tượng theo quy định đăng ký trực tiếp với Quỹ

HTPT về nhu cầu vay vốn và các hình thức hỗ trợ đầu tư.

- Quỹ HTPT có trách nhiệm tổng hợp và thông báo cho các Bộ, ngành và UBND

Tỉnh, thành phố về tình hình tín dụng HTPT của Bộ, ngành và trên địa bàn. Trong trường

hợp vượt kế hoạch được giao thì Quỹ HTPT cân đối khả năng, nhu cầu đầu tư báo cáo Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.

Lý do: Thực hiện như vậy giúp tăng tính chủ động của Quỹ HTPT trong huy

động vốn trong phạm vi số vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, tạo tiền đề căn bản và

thuận lợi cho huy động vốn theo lãi suất thị trường; đồng thời Quỹ HTPT hoàn toàn chủ

động trong việc điều hành kế hoạch, quyết định cho vay và phân bổ vốn trực tiếp tới từng

dự án. Đồng thời giảm bớt các khâu trung gian trong việc lập và thông báo kế hoạch, tiết

kiệm thời gian, tạo điều kiện cho chủ đầu tư chớp thời cơ ĐTPT sản xuất.

Thứ sáu: Hoàn thiện cơ chế hỗ trợ LSSĐT

Kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ: Thay đổi phương thức cấp hỗ trợ

LSSĐT để đồng vốn hỗ trợ của Nhà nước đến với doanh nghiệp đúng thời điểm doanh

nghiệp cần vốn, đề xuất áp dụng hình thức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ. Nguyên tắc cơ bản

của việc cấp hỗ trợ LSSĐT theo phương thức này là khi xác định mức hỗ trợ LSSĐT Quỹ

HTPT chỉ việc thay số nợ gốc trong hạn thực trả trong năm bằng dư nợ trong hạn bình

quân trong năm vào công thức để tính toán. Khi so sánh mức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ

với mức hỗ trợ LSSĐT theo số nợ gốc thực trả đang áp dụng cho thấy kết quả tổng số

vốn hỗ trợ cho 1 dự án là như nhau, chỉ khác nhau ở mức hỗ trợ trong từng năm.

Thứ bảy: Nên thực hiện cho vay bằng ngoại tệ.

Hiện nay nhiều dự án thuộc đối tượng phục vụ có nhu cầu vay ngoại tệ, việc cho

vay các dự án cần ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị và công nghệ từ nước ngoài là con

đường ngắn nhất và tích cực nhất hỗ trợ cho dự án thay vì chỉ cho dự án vay nội tệ như

hiện nay, để dự án phải vay ngoại tệ từ thị trường hoặc phải dùng nội tệ để mua ngoại tệ

đáp ứng yêu cầu đầu tư. Cho vay bằng ngoại tệ sẽ giảm rủi ro tỷ giá trong thanh toán của

các dự án khi dùng nội tệ mua ngoại tệ để thanh toán các khoản cần thiết.

* Về giải ngân cho các dự án nhóm A và các dự án sử dụng vốn ODA

Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, đặc biệt là các dự án nhóm A, kiến

nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ

giúp đỡ các chủ đầu tư rà soát lại từng dự án, sớm lập lại và trình cấp có thẩm quyền phê

duyệt phương án tài chính, phương án trả nợ của dự án trong trường hợp phương án tài

chính có thay đổi so với dự kiến ban đầu. Trường hợp dự án đã được bố trí vốn phải khẩn

trương giải phóng mặt bằng, phê duyệt thiết kế dự toán, tổ chức đấu thầu,... để đẩy nhanh

tiến độ thực hiện dự án, tiến độ giải ngân.

Đối với các dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại: Kiến nghị Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ kiểm tra lại hiệu quả

các dự án để có biện pháp dừng cho vay đối với một số dự án ODA hoạt động kém hiệu

quả, không có khả năng trả vốn vay, tránh gây thiệt hại lớn cho NSNN.

Những dự án vay vốn ODA chắc chắn không có thể hoàn trả, các dự án cấp nước

ở các tỉnh miền núi, xử lý rác thải, đề nghị cho thực hiện từ nguồn vốn cấp phát.

* Chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm nợ xấu cho Quỹ HTPT

Như đã trình bày ở chương 2, nợ quá hạn và lãi đến hạn chưa trả của quỹ HTPT

có xu hướng ngày càng tăng do các dự án thuộc diện xử lý nợ chưa được xử lý dứt điểm.

Các dự án đầu tư Quỹ HTPT nhận bàn giao từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, các dự án

thuộc chương trình đánh bắt hải sản xa bờ và chương trình mía đường không có khả năng

hoặc khả năng trả nợ thấp. Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ

quan có thẩm quyền xử lý nợ xấu dứt điểm cho Quỹ.

Việc xử lý nợ gắn chặt với tiến trình cổ phần hóa, bán khoán cho thuê doanh

nghiệp nhà nước. Do đó cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời đối với các khoản nợ tín

dụng nhà nước tại các doanh nghiệp theo một cơ chế thật rõ ràng, tránh tình trạng xử lý

nợ tín dụng nhà nước đang phải vận dụng các văn bản quy định xử lý nợ tín dụng ngân

hàng.

* Nâng vốn điều lệ cho Quỹ HTPT

Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về việc nâng vốn điều lệ cho Quỹ

HTPT lên 10.000 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, việc tăng cường tiềm lực tài chính

cho Quỹ HTPT là rất cần thiết để góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nền kinh tế,

phục vụ cho các mục tiêu chiến lược của Chính phủ. Vì vậy, kiến nghị Chính Phủ, Thủ

tướng chính phủ xem xét dành một phần vốn hàng năm từ phát hành trái phiếu Chính phủ

cấp bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ HTPT.

* Hoàn thiện về mô hình tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ HTPT

Để chính sách tín dụng HTPT của của Nhà nước phát huy hiệu quả mong muốn,

trên cơ sở đánh giá tổng kết chính sách HTPT của Nhà nước trong thời gian qua, thông

qua việc đánh giá hoạt động của Quỹ HTPT, phân tích điều kiện hiện tại của Việt Nam,

kiến nghị Chính phủ, căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ, thành lập Ngân hàng Chính sách

Phát triển Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ HTPT. Cùng với việc thành lập Ngân

hàng Chính sách Xã hội hoạt động trong lĩnh vực xã hội, việc thành lập Ngân hàng Chính

sách Phát triển hoạt động trong lĩnh vực HTPT kinh tế, trên cơ sở tổ chức lại Quỹ HTPT

có những ưu thế sau:

- Tập trung được tiềm lực tài chính của Nhà nước để tài trợ một cách toàn diện

cho cả quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Quỹ HTPT hiện là tổ chức tài chính Nhà

nước được cấp vốn điều lệ lớn nhất, hiện nay là 5.000 tỷ đồng và được Chính phủ chấp

thuận về nguyên tắc tăng lên 10.000 tỷ đồng. Cùng với cơ chế huy động vốn chủ yếu qua

phát hành trái phiếu Chính phủ, Quỹ có điều kiện sử dụng linh hoạt các nguồn vốn để

HTPT.

- Quỹ HTPT đang thực hiện chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với các dự án

đầu tư trung dài hạn thuộc lĩnh vực ưu đãi; hỗ trợ vốn tín dụng ngắn hạn để thực hiện các

hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, do

đó, đây là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động gần nhất với mô hình của một Ngân

hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam.

- Quỹ HTPT có bộ máy ở Trung ương và có Chi nhánh ở 61 tỉnh, thành phố, có

đội ngũ cán bộ viên chức có trình độ và kinh nghiệm trong việc thực hiện các hình thức

hỗ trợ tài chính của Nhà nước cho ĐTPT và xuất khẩu. Với hệ thống tổ chức bộ máy và

con người hiện có, Quỹ HTPT khi chuyển thành Ngân hàng Chính sách Phát triển sẽ có

đủ điều kiện và triển khai tốt các nhiệm vụ hỗ trợ ĐTPT và HTXK của Nhà nước.

- Việc thành lập Ngân hàng Chính sách Phát triển trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại

hệ thống Quỹ HTPT hoàn toàn phù hợp với chủ trương cải cách hành chính Nhà nước,

tinh giảm đầu mối, sẽ tiết kiệm được chi phí rất lớn do không phải thành lập mới nhiều tổ

chức thực hiện các chính sách của Nhà nước, tận dụng được mạng lưới tổ chức sẵn có và

có thể triển khai hoạt động HTPT ngay trong năm 2004 vừa tiết kiệm chi phí, không gây

xáo trộn về mặt tổ chức, vừa không phải mất thời gian cho việc hình thành tổ chức mới.

đây là bước đi phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam.

Ngân hàng Chính sách Phát triển là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt động

không vi mục đích lợi nhuận. Có vốn điều lệ là 10.000 tỷ đồng do NSNN cấp, với các

nhiệm vụ chủ yếu:

- Huy động và tiếp nhận vốn của các tổ chức, cá nhân và các nguồn vốn hỗ trợ

trong và ngoài nước để thực hiện chính sách HTPT của Nhà nước.

- Cho vay HTPT (cho vay đầu tư, cho vay HTXK, quản lý nguồn vốn ODA cho

vay lại), thực hiện nhiệm vụ cấp ODA ra nước ngoài của Chính phủ Việt Nam, hỗ trợ

LSSĐT, bảo lãnh tín dụng đầu tư.

- Nhận ủy thác quản lý các quỹ của Chính phủ, các địa phương cho mục tiêu hỗ

trợ ĐTPT và hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu.

- Thực hiện dịch vụ thanh toán và tham gia hệ thống thanh toán.

Ngân hàng Chính sách Phát triển có Hội đồng quản lý và bộ máy điều hành. Để

kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản

lý. Bộ máy điều hành của Ngân hàng Chính sách Phát triển được tổ chức thống nhất

trong phạm vi cả nước. Ngân hàng Chính sách Phát triển có Chi nhánh tại các tỉnh, thành

trong cả nước.

3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, Ngành, Địa phương

- Kiến nghị Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

+ Trình Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội bố trí kế hoạch cấp bù chênh lệch lãi

suất và phí quản lý cho phù hợp với việc thực hiện kế hoạch tín dụng ĐTPT, thực hiện

chuyển tiền cấp bù chênh lệch lãi suất, phí quản lý cho Quỹ HTPT đúng tiến độ.

+ Bố trí kế hoạch ngân sách đề cấp bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ HTPT (lên

10.000 tỷ đồng) đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

- Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

+ Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý ngoại

hối và thanh toán của Quỹ HTPT.

+ Hướng dẫn Quỹ HTPT tham gia hệ thống thanh toán và cung cấp dịch vụ thanh

toán cho khách hàng theo đúng quy định. Chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội, các ngân

hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phối hợp với Quỹ HTPT thực hiện các nghiệp

vụ ủy thác cho vay, bảo lãnh và hỗ trợ LSSĐT theo quy định của Quỹ HTPT và quy chế

hoạt động của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.

- Kiến nghị với Bộ Thương mại

Hàng năm sớm ban hành danh mục mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, tránh việc

áp dụng lẻ tẻ, thỉnh thoảng mới đưa ra bổ sung 1-2 mặt hàng như hiện nay, gây khó khăn

cho hoạt động của cả Quỹ HTPT lẫn các chủ đầu tư, các chủ đầu tư rất khó nắm bắt.

- Kiến nghị với Bộ Công nghiệp

+ Đề nghị Bộ Công nghiệp phối hợp với các Bộ, Ngành sớm trình Thủ tướng

Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch chương trình cơ khí trọng điểm và hướng dẫn

việc triển khai thực hiện chương trình theo đúng Quyết định của Thđ tướng Chính phủ để

Quỹ HTPT có cơ sở cho vay đầu tư và hỗ trợ tín dụng ngắn hạn HTXK. Quỹ HTPT đề

nghị việc tổ chức triển khai thực hiện chương trình trên cơ sở quy hoạch chi tiết, rà soát

lại các cơ sở cơ khí hiện có để có sự phân công, hợp tác rõ ràng từ đó có kế hoạch đầu tư

hợp lý, chủ yếu là tận dụng cơ sở hiện có, đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, thực hiện

chuyên môn hóa, hiệp tác hóa trong sản xuất, tránh mở ra quá nhiều dự án mới hoặc đầu

tư khép kín trong từng nhà máy, từng Tổng công ty sẽ gây lãng phí lớn về vốn đầu tư,

kém hiệu quả kinh tế.

+ Cần phải tập trung rà soát lại quy hoạch; rà soát lại lại các cơ sở sản xuất hiện

có, trên cơ sở đó mới có kế hoạch đầu tư hợp lý, tránh lãng phí vốn và nâng cao hiệu quả

kinh tế, cũng như đánh giá khả năng phát huy hiệu quả, khả năng hoàn vốn đầu tư của

các dự án.

- Kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

+ Đối với các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nông nghiệp đang gặp khó khăn, kiến

nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ đạo các đơn vị trong ngành nông

nghiệp tập trung rà soát, đánh giá một cách đầy đủ các vấn đề có liên quan đến việc xây

dựng và triển khai thực hiện dự án; tổ chức sản xuất kinh doanh; đánh giá lại hiệu quả

đầu tư các dự án; đề xuất phương án kinh doanh có hiệu quả đảm bảo sự bền vững lâu dài

cho dự án.

+ Chỉ đạo giúp đỡ các đơn vị xử lý khó khăn, tồn tại của các dự án thuộc chương

trình mía đường, các dự án đầu tư sản xuất ván nhân tạo của Tổng công ty Lâm nghiệp

Việt Nam và một số dự án chế biến nông sản khác. Phối hợp với Quỹ HTPT và các bộ,

ngành có liên quan tìm biện pháp đề xuất với Chính phủ xử lý các vấn đề khó khăn,

vướng mắc phát sinh trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của các dự án trong việc

sát nhập, giải thể, chuyển đổi chủ đầu tư đối với một số đơn vị vay vốn Quỹ. Chỉ đạo các

chủ đầu tư hoặc đơn vị bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn vay Nhà nước, tránh tình

trạng chiếm dụng vốn của Nhà nước để sử dụng cho mục đích khác cũng như tránh tình

trạng bảo lãnh vay vốn một cách hình thức lấy lệ.

- Kiến nghị với các Bộ, Cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ủy

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

+ Công bố rộng rãi quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển và các quy trình,

quy phạm tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật của ngành, lĩnh vực sản phẩm, vùng

lãnh thổ và các thông tin cần thiết khác trong từng thời kỳ làm cơ sở thẩm định các dự án

được Nhà nước hỗ trợ đầu tư.

+ Chỉ đạo kiểm tra các chủ đầu tư triển khai thực hiện đầu tư theo đúng quy định

của Nhà nước về đầu tư, đảm bảo tiến độ và hoàn trả vốn vay theo đúng cam kết của hợp

đồng tín dụng.

+ Phối hợp với Quỹ HTPT giải quyết hậu quả đối với các dự án bị đình chỉ hoặc

không trả được nợ vay thuộc phạm vi trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Kết Luận

Kể từ khi chính thức đi vào hoạt động, ngày 01-01-2000, mặc dù còn nhiều khó

khăn nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,

Ngành, địa phương và cùng với sự nỗ lực, cố gắng của mình, hệ thống Quỹ HTPT đã có

những góp đáng kể trong việc hỗ trợ ĐTPT và xuất khẩu của đất nước. Qua đó, Quỹ

HTPT đã khẳng định được vai trò là công cụ đắc lực và quan trọng của Chính phủ trong

quản lý điều hành vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Tuy vậy, trong quá trình triển khai thực hiện, về mặt cơ chế, chính sách và quá

trình tổ chức triển khai thực hiện đã xuất hiện nhiều vướng mắc ảnh hưởng trực tiếp đến

hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT. Bên cạnh đó những tồn tại của bản thân hệ thống

Quỹ HTPT về con người, tổ chức bộ máy, quy chế, quy trình nghiệp vụ là những nguyên

nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của Quỹ

HTPT trong nền kinh tế.

Với mong muốn hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT ở

Việt Nam, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động, đánh giá những mặt được, những

điểm còn hạn chế đồng thời đưa ra nguyên nhân của các hạn chế, luận văn đã trình bày

một hệ thống các giải pháp phù hợp tình hình thực tiễn đất nước, xu hướng phát triển

kinh tế thế giới. Các kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền nếu được thực hiện sẽ góp

phần nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của Quỹ HTPT trong nền kinh tế.

danh mục Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Đầu tư phát triển và nguồn tài trợ chính thức (ODA)

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Hà Nội.

2. Chính phủ (1998), Nghị định số 90/1998/NĐ-CP, ngày 07-11, về việc ban hành Quy

chế quản và sử dụng vốn ODA

3. Chính phủ (1999), Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-6, về tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước.

4. Chính phủ (1999), Nghị định 50/1999/NĐ-CP ngày 08-7, về việc thành lập Quỹ Hỗ

trợ phát triển.

5. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg ngày 17-12 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển.

6. Chính phủ (2001), Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, ngày 10-9 của Thủ tướng

Chính phủ về việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu.

7. Chính phủ, Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999, 12/2000/NĐ-CP ngày 05-5-

2000, 07/2003/NĐ-CP ngày 30-01-2003 của về việc ban hành Quy chế Quản lý

Đầu tư và Xây dựng; sửa đổi một số điều của Quy chế.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. PTS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Nhuệ - ThS. Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài

chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.

10. Luật các Tổ chức tín dụng.

11. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.

12. Luật Ngân hàng Nhà nước.

13. Luật Ngân sách nhà nước.

14. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, Nxb Thống kê, Hà Nội.

15. Quỹ Hỗ trợ phát triển, Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ, Hà Nội.

16. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2002), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2001,

Hà Nội.

17. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2003), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2002,

Hà Nội.

18. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2004), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2003,

Hà Nội.

19. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2004), Báo cáo kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm 2004, Hà

Nội.

20. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển, số 1, 2, 3/2003.

21. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển, số 1, 2, 3, 4/2004.

22. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1999), Chương trình và dự án phát triển kinh tế -

xã hội, Hà Nội.

Mục lục

Trang

1 mở đầu

4 Chương 1: tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và hiệu

quả của nó

1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng 4

4 1.1.1. Khái niệm về tín dụng

5 1.1.2. Bản chất tín dụng

6 1.1.3. Chức năng của tín dụng

7 1.1.4. Vai trò của tín dụng

8 1.1.5. Các hình thức tín dụng

10 1.2. Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

10 1.2.1. Khái niệm

11 1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

12 1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

16 1.2.4. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

1.2.5. Phân biệt tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với các hình 16

thức tín dụng khác

1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng đầu tư phát triển của 17

Nhà nước

1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà 21

nước

24 1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển

24 1.3.1. Tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển

1.3.2. Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát 24

triển

1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ 25

Hỗ trợ phát triển

1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ 27

Hỗ trợ phát triển

1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển 29

của Quỹ Hỗ trợ phát triển

1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đầu tư phát triển ở một số nước 33

trong khu vực và trên thế giới

1.4.1. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Hàn Quốc 33

1.4.2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Trung Quốc 34

1.4.3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Đài Loan 34

37 Chương 2: thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển của Quỹ hỗ trợ phát triển từ năm 2001

đến nay

2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ Hỗ trợ phát triển 37

2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ Hỗ trợ phát 37

triển

2.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong thời 38

gian qua

2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà 50

nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

2.2.1. Những kết quả đạt được 50

2.2.2. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 60

và nguyên nhân

75 Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ

thống Quỹ hỗ trợ phát triển

3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 75

tư phát triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển

3.1.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát 75

triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển

3.1.2. Các mục tiêu hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao 76

hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 77

tư phát triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển

3.2.1. Các cơ sở khoa học của giải pháp 77

3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 80

tư phát triển qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

3.3. Kiến nghị 97

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 97

3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, ngành, địa phương 105

108 Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo 109