LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề
Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và
tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu
tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy, việc huy
động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT (đặc biệt
là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của
các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính nhà nước được Chính
phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 để thực hiện nhiệm vụ
huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT, tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu (HTXK). Kể từ khi thành lập đến nay, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước thông qua hoạt động của Quỹ HTPT đã có những đóng góp nhất định trong việc
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chiến
lược và có lợi thế, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho
ĐTPT cũng như phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT là điều cần thiết, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi lựa chọn đề tài: " Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ
Hỗ trợ phát triển " để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành: Kinh tế các ngành sản
xuất và dịch vụ.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
+ Tập hợp một số vấn đề lý luận về tín dụng của Quỹ HTPT và hiệu quả của nó.
+ Phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ HTPT, đánh giá những kết quả đạt
được, các hạn chế trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT.
+ Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, định hướng, mục tiêu phát
triển kinh tế của Đảng và Chính phủ để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua
Quỹ HTPT từ khi thành lập đến 31-3-2004.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu, các
phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng để nghiên cứu.
Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và với kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc... nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm đối với nước ta.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và hiệu quả của nó.
Chương 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Chương 1
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
và hiệu quả của nó
1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay có hoàn
trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một phạm
trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi tổ chức, cá nhân nhường quyền sử dụng
một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một tổ chức hay cá nhân với những điều kiện ràng
buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn và thu hồi...
Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài. Trong chế
độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp kém, công cụ lao động
hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân công lao động chưa phát triển... do
lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự trữ và do
vậy chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội nguyên thủy
chưa thể có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất phát triển, cùng
với sự phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản xuất sản phẩm
không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích lũy dự trữ, do đó, xuất hiện mầm
mống của chế độ tư hữu (cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, xã hội lúc này đã có sự
phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp được hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất hành hóa ra đời, do
đó các quan hệ mua, bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những hình thức vay mượn
đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.
Như vậy có thể khẳng định, tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa, trong điều kiện
nền kinh tế sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa, tiền tệ thì tồn tại tín dụng là một tất
yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng hóa và mối quan hệ hàng hóa hình thành quan hệ
hàng hóa tiền tệ trong xã hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là tiền đề
khách quan phát sinh các quan hệ tín dụng, tính tất yếu khách quan của tín dụng nảy sinh.
Do đặc điểm của tính luân chuyển của vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận động
của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện tượng phổ biến là
trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân phát sinh nhu
cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian
đó có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong một thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xen kẽ lẫn nhau
trong quá trình tuần hoàn của vốn tiền tệ, mâu thuẫn đi đến phải được giải quyết bằng các
phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn đó, có nghĩa là phải tiến
hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm điều hòa kịp
thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng các quan hệ kinh tế để tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường
dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là quan hệ tín dụng.
1.1.2. Bản chất tín dụng
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho
vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử
dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời
hạn và phải được "hoàn trả". Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được
nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
1.1.3. Chức năng của tín dụng
Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất
những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động của vốn tiền tệ trong
xã hội, tín dụng có ba chức năng chính như sau:
+ Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà
các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng
nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành
chức năng cốt lõi của tín dụng.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc
đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
+ Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
Hoạt động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu
thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện thanh
toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, chuyển khoản hoặc bù trừ... cho phép thay
thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như
in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền...
+ Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của
vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hóa, chi
phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm gương phản ánh
hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các hoạt
động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp... trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.1.4. Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền
kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm vai trò hai mặt tích cực, mặt tốt, và mặt tiêu
cực, mặt xấu. Chẳng hạn, nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không những
không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.
Nếu xét về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây:
Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa lưu thông phát triển: Tín
dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động) cho các
doanh nghiệp các tổ chức kinh tế; tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn
một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế.
Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Trong khi thực hiện
chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng góp phần làm giảm
khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp
dân cư, làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng
vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ
làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần
làm ổn định thị trường giá cả trong nước...
Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm: Tín dụng có tác
dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu
đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong
việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động,
đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng
sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, có thể nói, tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng
không những ở đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm
giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước,
làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.5. Các hình thức tín dụng
* Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau.
Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là
cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.
Tín dụng thương mại ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân chuyển
vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn nhau không những
giữa các doanh nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn giữa
các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện tượng trong
một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng hàng hóa đang cần bán, nhưng
chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm
hàng hóa ấy để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền.
Hiện tượng này có thể giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu
hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại đều có
lợi đối với cả hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy tín
dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa
phát triển cao như hiện nay.
* Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp
và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và
cho vay (cấp tín dụng) đối các đối tượng nói trên. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ
của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới dạng tiền tệ. Nguồn vốn tín
dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngân
hàng huy động được. Trong quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò là
"người đi vay", vừa đóng vai trò "người cho vay".
Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống
ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên
nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.
* Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức tài
chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau để
phát triển kinh tế xã hội của một nước.
* Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ, chính
quyền địa phương...) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó, chủ yếu là Nhà nước
đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành trái phiếu để sử
dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ các đối
tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã
hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định,
tín dụng nhà nước không phải là khoản thu của Nhà nước.
Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả, có thời hạn
và phải trả một khoản tiền về sử dụng vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy
động được dưới hình thức công trái (trái phiếu Chính phủ) thuộc quyền sử dụng của Nhà
nước, chúng được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của Nhà nước. Vốn ngân sách là
nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt động của kiến
trúc thượng tầng chính trị và sự vận động của vốn ngân sách, biểu hiện một bộ phận của
quan hệ tài chính Nhà nước.
Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước chủ yếu để
cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.
1.2. tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng nhà nước
chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả. Tính kinh tế của hoạt động
tín dụng ĐTPT của Nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn
vốn này để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Giống như các
hình thức tín dụng khác, cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập
trung được nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng và chủ
động trong việc giải quyết các mục tiêu vào ĐTPT.
Tuy nhiên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở
đó tính kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là kinh tế đơn thuần. Thông thường tính
kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước có những đặc tính sau:
- Tính kinh tế vĩ mô: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực
then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc một ngành,
một vùng, hay một khu vực.
- Tính xã hội: Tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà tín
dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do hiệu
quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn, hay
thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: việc
làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế
vùng,...
1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Cơ chế kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu, đó là sự phân hóa giàu
nghèo, khai thác tài nguyên, nguồn lực một cách bừa bãi, ảnh hưởng ô nhiễm môi trường
và sức khỏe dân cư làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng, tính chu kỳ trong phát triển kinh tế
đôi khi dẫn đến sự lầm đường lạc lối như khủng hoảng, độc quyền, lạm phát và thất
nghiệp.
Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp
giữa thị trường - bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình đang ngày
càng chiếm ưu thế, ở đây nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò điều tiết kinh tế của
Nhà nước.
Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài chính
vốn có như thuế, phí, chi ngân sách nhà nước (NSNN),... Ngoài ra, Nhà nước còn thành
lập các doanh nghiệp nhà nước và thông qua đó thực hiện việc đầu tư theo mục tiêu của
Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp này thường nằm trong
các lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực hoạt động có tính
chất xã hội. Đối với các doanh nghiệp này, tùy theo điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh tế
từng thời kỳ và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước từng giai đoạn mà Nhà nước thường
cung cấp vốn dưới dạng cấp phát trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng. Như vậy, tín dụng
ĐTPT của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của Chính phủ
trong một giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Đối với nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để
tham gia hoạt động ĐTPT là một vấn đề tất yếu, do đó vai trò điều tiết kinh tế của Nhà
nước lúc này cần được tăng cường vì phải xây dựng các nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết
cho nền kinh tế và phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh sản phẩm,... Để thực hiện được
nhiệm vụ nặng nề này, phạm vi cấp phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN cho ĐTPT
kinh tế phải thu hẹp, thay thế vào đó là mở rộng diện tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với
các hoạt động chi ĐTPT của Nhà nước nhưng có khả năng thu hồi vốn. Đấy chính là một
trong những nội dung cải cách NSNN ở các nước chuyển đổi nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT
của Nhà nước trong trường hợp này là một hình thức mang tính quá độ để các doanh
nghiệp làm quen dần với cơ chế tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
của mình. Đối với một số doanh nghiệp nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có thể là
những bước hỗ trợ chuyển tiếp để phát triển và sau đó có thể chuyển giao cho khu vực
ngoài quốc doanh thông qua cổ phần hóa.
Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, để có thể tham gia vào nền
kinh tế thế giới, trong điều kiện các thể chế kinh tế - tài chính của các nước đang phát triển
chưa có thời gian tiếp cận khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Nhà nước của các
nước đang phát triển luôn phải thực hiện chức năng trung gian hoặc nhà bảo lãnh cho các
hoạt động tài chính đối ngoại. Thực tế, Nhà nước đã phải đứng ra thực hiện việc cho vay
lại hoặc bảo lãnh đối với các khoản tín dụng nước ngoài.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc điều tiết kinh tế là một việc làm thiết yếu
của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp và tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ
điều tiết kinh tế vĩ mô trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là biện
pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà nước mà còn là
công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm soát vĩ mô.
Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc
lành mạnh hóa nền tài chính - tiền tệ quốc gia
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và phân bổ
nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập trung và phân bổ nguồn
vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhà nước có thể tập trung một
cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí không cao.
Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.
Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân quan trọng
trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và của khu vực các
thể chế tài chính phi ngân hàng.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng hết sức
quan trọng. Việc xóa bỏ cơ chế tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành
mạnh hóa khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ.
Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt động tín
dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung
gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế hạch
toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có
tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương
mại.
Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã
tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hòa các
nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở
rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách tiền tệ... Tín
dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của Nhà nước điều tiết nền
kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng ĐTPT là thực hiện chức năng điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát
triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mặt khác, tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào những
ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản
phẩm xã hội,... nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, bảo
đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới, khu
vực.
- Tín dụng ĐTPTcủa Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư, xóa bao cấp về đầu
tư
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước đối với
lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được Nhà nước cấp không hoàn
lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn đối với NSNN. Đồng thời, tín dụng ĐTPT
của Nhà nước cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy
huy động vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu quả trong
đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước được đưa ra chặt chẽ
nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới các
áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh
và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các
khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng nhà nước. Đây cũng là động lực
mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu quả, là yếu tố quan trọng trong việc động viên trí
tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư đổi mới
công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh
Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hoặc được bảo lãnh hay
hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (LSSĐT), các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội mở
rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ,
tăng qui mô phát triển sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các thành
phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu
cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của quá trình sản xuất. Khi một dự án đầu
tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng
lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và
chất lượng cao, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ
tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài
vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo,
giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở hạ
tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông đường không, bộ, thủy, khu công
nghệ cao... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề phát triển cho các ngành kinh tế
khác.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao động, giữ
vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội
Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng được
Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự
án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình
kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển
được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp, do đó, khi
thửùc hieọn ủaàu tử phaựt trieồn saỷn xuaỏt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa hoặc
các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước đối với các thành phần
kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế... còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động,
giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội, như thông qua chương trình mía đường của
Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế góp phần không phải nhập khẩu thì đã tạo được việc làm cho
trên 470.000 nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi trồng mía để cung cấp cho các Nhà
máy đường; chương trình đánh cá xa bờ của Chính phủ, ngoài ý nghĩa kinh tế tạo ra hàng hóa
xuất khẩu góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, còn có ý
nghĩa về chính trị, đó là bảo vệ an ninh bờ biển của nước ta, tạo ra công ăn việc làm cho trên
200.000 lao động tại các tỉnh ven biển...
1.2.4. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn huy động theo kế
hoạch của Nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ trương của Nhà nước.
- Tổ chức làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hệ
thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo
nghị định của Chính phủ.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là những dự án đầu tư theo
các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính
sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cớ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được qui định
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Chu kỳ cho vay thường dài, lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là
lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy định phù hợp với chủ trương
khuyến khích ĐTPT kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
1.2.5. Phân biệt tín dụng ĐTPT của Nhà nước với các hình thức tín dụng
khác
So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
quốc tế, tín dụng ĐTPT của nhà nước cũng hoạt động với nguyên tắc vay trả. Tuy nhiên,
tín dụng ĐTPT của Nhà nước với bản chất riêng luôn có những đặc thù so với các loại
hình tín dụng khác, cụ thể:
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo chủ
trương của Nhà nước.
- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập trung vào
các lĩnh vực then chốt, có tác động đến tăng trưởng kinh tế, mà các thành phần kinh tế
khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh lời thấp, nhu cầu vốn lớn, thời
hạn đầu tư dài,... nên thường phải gắn với những ưu đãi nhất định. Chẳng hạn, lãi suất
thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ, qui mô cho vay lớn hơn và các điều kiện đảm
bảo nợ vay với giá trị thường thấp hơn khoản vay,...
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát triển trong
giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các nhà đầu
tư đã quen với hoạt động cạnh tranh,... thì vai trò can thiệp, điều tiết kinh tế của Nhà nước
giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư của Nhà nước thu hẹp lại để chuyển dần sang tín dụng
thương mại.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Nhà nước xác định và
được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.
1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước
Hiện nay, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định
số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ và Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg
ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định số
43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ
* Mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước
và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
* Nguyên tắc tín dụng chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư Nhà nước cần khuyến
khích, có hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo hoàn trả được vốn vay.
Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hai hình thức cho vay đầu tư và bảo
lãnh tín dụng đầu tư. Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện đúng theo mục tiêu và tiến độ
đầu tư của dự án. Dự án đó phải được Quỹ thẩm định phương án trả nợ vốn vay và chấp
thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.
* Nguồn vốn tín dụng: Bao gồm các nguồn sau: Vốn điều lệ của Quỹ; vốn NSNN
cấp hàng năm; vốn thu hồi nợ hàng năm; vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ; vốn vay
nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại; vốn huy động như vay lại các
Quỹ: Tích lũy nước ngoài; tiết kiệm bưu điện; bảo hiểm xã hội hoặc huy động khác.
Nguồn vốn này được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu: Cho vay đầu tư, hỗ trợ LSSĐT,
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư, trả nợ vốn vay.
* Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
thực hiện thông qua các hình thức: Cho vay trung dài hạn để đầu tư, hỗ trợ LSSĐT, bảo
lãnh tín dụng đầu tư.
Đối tượng cho vay đầu tư: Là các dự án ĐTPT có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
(bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công
nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế đầu tư tại các vùng khó khăn theo quy
định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước
(sửa đổi) thuộc các ngành. Các dự án có sử dụng vốn HTPT chính thức (ODA) cho vay lại.
Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Điều kiện cho vay: Dự án phải thuộc đối tượng quy định, có đầy đủ thủ tục đầu
tư và xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Chủ đầu tư là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tổ chức
và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, sản xuất kinh doanh có lãi, có
phương án trả được nợ vay được Quỹ chấp nhận, thực hiện các quy định về đảm bảo tiền
vay theo quy định của Nhà nước.
Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay đối với các dự án đặc biệt: theo Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ. Mức vốn cho vay đối với các dự án thuộc các chương trình phát
triển kinh tế của Nhà nước: 85% - 100% tổng vốn đầu tư của dự án. Mức vốn cho vay đối với
các dự án khác: 50% - 70% tổng vốn đầu tư.
Thời hạn cho vay: Tối đa 10 năm, trường hợp đặc biệt trên 10 năm.
Lãi suất cho vay: Tại thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay là 5,4%/ năm. Khi lãi suất
cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tăng, giảm 10%, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định điều
chỉnh. Một số dự án thuộc diện được ưu đãi đặc biệt, lãi suất cho vay 3%/ năm và 0%/
năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng.
Đảm bảo tiền vay: Nếu chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước được dùng tài sản
hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay. Nếu chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp
nhà nước, ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay, phải có tài
sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Những trường hợp đặc biệt do Thủ
tướng quyết định.
Rủi ro và xử lý rủi ro: Các dự án vay vốn bị rủi ro do các nguyên nhân khách
quan:
- Do chính sách nhà nước thay đổi, do biến động của giá cả thị trường trong và
ngoài nước ngoài dự kiến đã tính toán trong dự án khả thi mà chủ đầu tư gặp khó khăn
trong việc trả nợ vay, thì được xem xét gia hạn nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, khoanh nợ.
- Do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ làm mất tài sản, được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền xác nhận mà chủ đầu tư không trả được nợ, thì sau khi đã nhận được tiền
bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có) được xem xét xóa một phần hoặc toàn bộ nợ
vay.
Các khoản bù đắp rủi ro nói trên được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng
rủi ro được trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro
không đủ bù đắp thì Hội đồng quản lý Quỹ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định.
- Thẩm quyền xử lý rủi ro: Quỹ quyết định gia hạn nợ, miễn giảm lãi tiền vay. Thủ
tướng chính phủ quyết định khoanh nợ, xóa nợ trên cơ sở đề nghị của Quỹ.
Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Đối tượng hỗ trợ LSSĐT: Là các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư
theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư
trong nước (sửa đổi) do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp
tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay.
Mức hỗ trợ LSSĐT: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm của dự án được tính bằng nợ
gốc trong hạn thực trả trong năm nhân với 50% lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước,
nhân (x) với thời hạn thực vay đối với nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Thời hạn hỗ trợ LSSĐT
tối đa bằng thời hạn quy định đối với dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư
Đối tượng được bảo lãnh: Là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được
hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) nhưng không được hỗ trợ LSSĐT, không được
vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng ĐTPT Nhà nước.
Mức bảo lãnh: Đối với các dự án đặc biệt thực hiện theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các dự án nông
nghiệp, mức bảo lãnh tối đa đến 100% số vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với các dự án
khác mức bảo lãnh từ 50% đến 80% trị giá khoản vay.
Thời hạn bảo lãnh: Phù hợp với thời hạn vay vốn trong hợp đồng tín dụng đã ký
giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay thực hiện dự án.
Điều kiện được bảo lãnh: Đã được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay và có văn
bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ HTPT chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ
vốn vay và phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh.
Phí bảo lãnh: 0,5%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh. Đối với các dự án sản
xuất hàng xuất khẩu: 0,3%/ năm tính trên số tiền đang bảo lãnh.
+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-09-
2001 của Thủ tướng Chính phủ
Tín dụng ngắn hạn HTXK là ưu đãi của Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất hàng xuất khẩu theo chính sách khuyến
khích xuất khẩu của Nhà nước.
Hình thức tín dụng ngắn hạn được quy định theo các nội dung chủ yếu sau:
Đối tượng được vay vốn ngắn hạn HTXK là các đơn vị thực hiện xuất khẩu
hàng hóa, gồm các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh các mặt hàng thuộc chương trình
ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định hàng năm hoặc trong
từng thời kỳ.
Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng 80% lãi suất tín dụng ĐTPT
của Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng và được giữ cố định trong suốt thời hạn vay vốn.
Hiện nay đang áp dụng mức lãi suất 0,36%/ tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất
nợ trong hạn.
Thời hạn cho vay: Tùy thuộc nhu cầu sử dụng vốn để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu nhưng tối đa không quá 12 tháng. Trường hợp cho vay xuất khẩu hàng trả chậm đến
720 ngày thực hiện theo danh mục mặt hàng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Hình thức cho vay: Có hai hình thức cho vay: Cho vay trước khi giao hàng: theo
hợp đồng xuất khẩu hoặc theo L/C, hoặc cho vay sau khi giao hàng: cho vay theo bộ
chứng từ hợp lệ.
Mức vốn cho vay: Tối đa 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu, 80% trị giá L/C hoặc
90% giá trị bộ chứng từ hàng xuất.
1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
+ Các nhân tố về môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội
- Môi trường chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bất kỳ
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn định, thì
không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh mà bản thân tổ chức cho vay cũng khó
có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và trong điều kiện như vậy việc
duy trì sự phát triển như cũ đã là khó chứ chưa nói đến việc mở rộng. Hơn nữa sự bất ổn
về chính trị sẽ dẫn đến sự mất lòng tin đầu tư của dân chúng cũng như các chủ doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Khả năng huy động vốn khó khăn, vì vậy nguồn vốn cho
ĐTPT cũng sẽ bị hạn chế.
- Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ có tác dụng
rất lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu.
- Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm tin
được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp cũng
như tổ chức tín dụng hoạt động được thuận lợi.
- Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế - xã hội tác
động lên hoạt động của doanh nghiệp, đó chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề
ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng
hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế
ổn định tăng trưởng tốt thì có nghĩa là đầu tư sẽ tăng, đồng thời với nó là hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả cao và có khả năng hoàn trả được vốn vay.
+ Các nhân tố về tổ chức quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng: Năng lực thẩm định trước khi cho vay:
đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của khoản vay và dự án. Năng lực thẩm định cao sẽ loại
trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, việc dự đoán tương lai hoạt
động, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.
Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo cho việc sử dụng
vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng lực giám sát
và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và qui trình nghiệp vụ: Quy định rõ về
quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận sẽ có tác động lớn trong các mối
quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm định đến khi thiết lập quan
hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tình trạng
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín dụng.
Quy trình nghiệp vụ khoa học, quy định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân từng
bộ phận sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay,
giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Các nhân tố về phía tổ chức hưởng hỗ trợ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu
hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định: Biểu hiện cụ thể là quá
trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết quả như thế nào.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể
hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn sử dụng. Năng
lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn
thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
- Khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp: Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ
máy có năng lực quản lý phù hợp. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch
toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các qui định của pháp luật.
- Sự đáp ứng của dự án với điều kiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước: Dự án đầu tư
phải thuộc đối tượng cần được khuyến khích đầu tư theo qui định của Nhà nước. Dự án
phải chứng minh được sự cần thiết, mục đích, kết quả của đầu tư. Sự phù hợp của quá trình
đầu tư với qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chủ đầu tư phải có đủ vốn tự có
tham gia đầu tư theo tỷ lệ qui định, có khả năng hoàn trả nợ từ bản thân dự án và từ các
khoản thu nhập hợp pháp khác của doanh nghiệp.
1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển
1.3.1. Tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính nhà nước, được Chính phủ thành lập theo
Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 6-7-1999 để thực hiện chính sách hỗ trợ ĐTPT của
Nhà nước thông qua một số hoạt động như cho vay, thu nợ các dự án đầu tư; bảo lãnh vay
vốn đối với các chủ đầu tư; tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh đối với các quỹ đầu tư; hỗ trợ
LSSĐT đối với các dự án ưu đãi của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực,
chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư...
Hoạt động của Quỹ không vì mục đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm hoàn vốn và bù đắp
chi phí. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN để giảm lãi suất cho vay và
giảm phí bảo lãnh. Quỹ HTPT được NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, bố trí vốn hỗ trợ
LSSĐT, được bù đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện cho vay đầu tư và bảo
lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu tư
của Quỹ luôn có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường. Trong
trường hợp lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động, Quỹ được Nhà nước cấp bù chênh
lệch lãi suất. Đây là điểm hết sức khác biệt so với các tổ chức tín dụng khác. Như vậy, hoạt
động cơ bản của Quỹ HTPT là hoạt động tín dụng, một trong những nội dung của tín dụng
nhà nước.
1.3.2. Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại".
Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Vậy, trong trường hợp cụ thể đối với hoạt động
tín dụng của Quỹ thì hiệu quả được hiểu như thế nào?
Hoạt động tín dụng của Quỹ được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội cho cả Quỹ, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế
quốc dân. Nghĩa là, bên cho vay, trong đó có Quỹ thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời
gian trong hạn. Còn đối với khách hàng vay vốn, nhờ có vốn tín dụng được vay đã góp
phần làm cho họ sản xuất kinh doanh có lãi, làm cho họ thực hiện được chức năng vốn có
của mình và đối với nền kinh tế quốc dân, khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích cực
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là việc Quỹ HTPT cùng các
đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức năng chủ động tìm ra giải pháp
để bên cho vay hạn chế tới mức thấp nhất nợ quá hạn phát sinh; bên đi vay vốn sản xuất
kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận càng cao càng tốt và hoạt động của
Quỹ HTPT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ
phát triển
Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải huy động tối đa các nguồn lực cho ĐTPT. Tín
dụng trung dài hạn nói chung và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói riêng là một
trong những nguồn vốn quan trọng cho ĐTPT. Quỹ HTPT, với tư cách là đầu mối trung
tâm tiếp nhận, huy động, quản lý và thực hiện nguồn vốn này, có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ nhất: Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông
qua hoạt động, Quỹ hỗ trợ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp ĐTPT sản xuất thuộc các
ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến
khích đầu tư.
Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm
cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã,
phong phú về chủng loại và chất lượng cao. Do đó, nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ tăng
lên. Nếu các dự án đầu tư vào sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất có hiệu quả,
trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được
một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào. Nếu đầu
tư vào công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng sẽ tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với
sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước
ngoài để thu ngoại tệ.
Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông
đường không, bộ, thủy, khu công nghệ... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề
phát triển cho các ngành kinh tế khác.
Thứ hai: Thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu. Đối với những nước đang phát
triển, nếu kim ngạch xuất khẩu tăng lên, hàng hóa đứng vững được trên thị trường quốc tế
với thị phần ổn định sẽ khẳng định: sản phẩm có sức cạnh tranh cao, máy móc thiết bị,
trình độ công nghệ đã được quan tâm đúng mức. Quy chế tín dụng xuất khẩu mới mở ra
theo đó khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu không kể trung, dài
hay ngắn hạn và ngành nghề. Đây thực sự là một kích thích tố mạnh mẽ nhằm tăng kim
ngạch xuất. Như vậy, hoạt động của Quỹ HTPT là một trong những nhân tố thúc đẩy xuất
khẩu của nước nhà.
Thứ ba: Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Với
đặc điểm hạn chế về đối tượng được hưởng ưu đãi theo quy định hiện hành của Chính phủ,
thông qua các hoạt động của mình, Quỹ có thể tập trung cho vay phát triển ngành này, hay
ngành khác. Điều đó, có nghĩa là khuyến khích và thúc đẩy lĩnh vực, ngành đó phát triển
hơn so với các ngành khác. Như vậy, hoạt động của Quỹ có tác động đối với các ngành kinh
tế và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là đặc biệt quan tâm tới công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh
tế đối ngoại; nâng cấp cải tạo và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế; xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu
đòi hỏi bức bách phải có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và
hiệu quả.
Thứ tư: Tạo thêm việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm là vấn đề hết
sức quan trọng mà bất cứ nhà nước nào trên thế giới đều rất quan tâm. Một trong những ưu
tiên của Quỹ là các dự án đầu tư tạo thêm được nhiều việc làm mới. Khi thực hiện ĐTPT
sản xuất, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế... còn tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ
trợ phát triển
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT. Tuy
nhiên, những nhân tố cơ bản, quan trọng và tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động tín dụng của Quỹ bao gồm: Năng lực quản lý của người lãnh đạo Quỹ, chính sách lãi
suất của Nhà nước, năng lực giám sát và thẩm định của đội ngũ cán bộ thuộc Quỹ và tổ
chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ.
- Yếu tố con người, tổ chức, chính sách luôn luôn có tầm quan trọng đặc biệt.
Năng lực quản lý của người lãnh đạo có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động của
Quỹ. Nếu năng lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không hợp lý, các sách lược
kinh doanh không phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì
các hoạt động của Quỹ, mà chủ yếu là hoạt động tín dụng có hiệu quả thấp hoặc không có
hiệu quả và ngược lại.
- Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính, mục tiêu của Quỹ không vì mục đích lợi
nhuận. Song, Quỹ HTPT vẫn phải bảo tồn được vốn của mình khi cho vay đầu tư, để có
nguồn vốn tái đầu tư và cũng hạn chế sự bao cấp của nhà nước. Vì vậy, lãi suất là yếu tố
quan trọng không chỉ đối với hoạt động của Quỹ mà còn giúp chủ thể vay vốn sử dụng vốn
vay có hiệu quả hơn. Lãi suất của Quỹ do Nhà nước quy định thường thấp hơn so với lãi
suất Ngân hàng. Trong những trường hợp thị trường biến động, sự chênh lệch giữa lãi suất
cho vay ưu đãi và lãi suất cho vay thương mại là rất lớn hoặc không đáng kể. Nếu chính
sách lãi suất của Nhà nước không được điều chỉnh kịp thời thì hoạt động của Quỹ sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn. Các khách hàng có thể sẽ tìm đến với các ngân hàng thương mại khi sự
chênh lệch đó là ít mặc dù họ được ưu đãi về vay vốn đầu tư thay vì đến với Quỹ. Hoặc có
thể họ sẽ tập trung tới Quỹ, khi đó Quỹ sẽ khó có khả năng đáp ứng kịp thời. Do vậy, hiệu
quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ sẽ thấp.
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của Quỹ HTPT:
Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo hiệu quả của
khoản vay và dự án. Nếu năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung
cấp thông tin của khách hàng cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng. Năng
lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các
thông tin tín dụng. Nếu thiếu khả năng này, tổn thất trong hoạt động tín dụng sẽ không
tránh khỏi. Do đó, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT sẽ thấp.
Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng như
ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi sát sao và chặt
chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo việc sử dụng
vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi.
- Tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ: Hoạt động của Quỹ HTPT có triển khai
được thuận lợi và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy và quy
trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối
quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng trong quá trình thực hiện từ thẩm định
đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn (gốc + lãi). Quy trình quản lý tín dụng
được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông
tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng
để nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT.
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của
Quỹ Hỗ trợ phát triển
* Các chỉ tiêu định tính
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện qua khả năng thu được
nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng đối với Quỹ
HTPT; khả năng sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ Quỹ và tác động đến
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, về mặt định tính, chất lượng hoạt động tín
dụng được đánh giá qua các mặt sau:
Thứ nhất: Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện ở khả năng
thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng. Nghĩa
là, hoạt động tín dụng phải bảo đảm để Quỹ HTPT thực hiện được chức năng mà Nhà
nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập cho Quỹ HTPT đủ để trang trải các khoản
chi phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu hồi được vốn cho vay
hoặc thu hồi chậm).
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Nói cách khác, đối với bên đi vay thì điều này trước hết biểu hiện ở
chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc an toàn
cần thiết và theo những quy trình nhất định), cung cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời.
Qua đó, bên đi vay sẽ tiết kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ
không bỏ lỡ những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt.
Thứ hai: Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một cách
khác, bên đi vay sử dụng vốn vay được từ Quỹ HTPT phục vụ tốt hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề ra.
Thứ ba: Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa phương
và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Quỹ đều hoạt động tốt. Nó
được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của Quỹ sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ trương,
định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo thêm việc làm cho người
lao động, nâng cao mức sống người dân.
Nhìn chung, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một chỉ tiêu rất tổng
hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả ba đối tượng: Quỹ HTPT, khách hàng vay vốn
của Quỹ và nền kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ đánh giá hiệu
quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT một cách khái quát. Muốn có những kết luận chính
xác hơn, cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể liên quan đến Quỹ.
Riêng nhân tố kinh tế - xã hội rất khó có các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác động cụ
thể đối với từng hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đến sự phát triển chung đối với phát
triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, do nhân tố bên đi vay của Quỹ cũng rất đa dạng như
các doanh nghiệp, các dự án, các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra được các
chỉ tiêu định lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà
người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và định lượng. Đôi khi
chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.
* Các chỉ tiêu định lượng
- Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Doanh số cho vay là số tiền mà Quỹ cho các
khách hàng vay. Tốc độ tăng doanh số cho vay được thể hiện qua công thức:
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số = - 1 x 100
Doanh số cho vay kỳ trước
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn tốc độ tăng
doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay qua các thời kỳ. Doanh
số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng của Quỹ.
Tuy nhiên, như trên đã phân tích, đó mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu
quả tín dụng của Quỹ mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu khác.
- Tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ huy động
từ các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ
tiêu này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ. Nếu tổng vốn huy động cao, khả năng cho
vay lớn và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu định lượng
khác để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của. Chẳng hạn, nếu tổng vốn huy động của
Quỹ, trong khi doanh số cho vay nhỏ, tốc độ tăng doanh số cho vay chậm thì hiệu quả hoạt
động của Quỹ không cao.
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = x 100
Tổng nguồn vốn
Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng nguồn vốn của
Quỹ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ có thể ngày càng cao
và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một
cách tổng quát, không chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả tín dụng của
Quỹ. Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ dẫn đến đánh giá sai. Chẳng hạn, tỷ nợ
quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của
Quỹ HTPT chưa chắc đã cao, thậm chí còn thấp.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ trong quá trình
cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của Quỹ càng tốt và ngược lại. Bởi
vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ Quỹ đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế, do
những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của Quỹ là không
thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn
an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể
chấp nhận được.
Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một hoạt động tín dụng chính sách cho
ĐTPT, không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động của Quỹ chủ yếu hoạt động và tổ chức
thực hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ, hàng năm, vì mục
đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được quy định rõ: tín dụng ĐTPT của Nhà nước
nhằm hỗ trợ các dự án ĐTPT của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực
quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà
nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả
kinh tế trực tiếp, nên hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ là một khái niệm tổng hợp, vừa
mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng, nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu liên quan
đến nhiều đối tượng: Quỹ HTPT, bên đi vay của Quỹ và quan trong nhất là tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì là hoạt động tín dụng chính sách nên các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
tín dụng của Quỹ HTPT mang nhiều tính chất định tính hơn là tính định lượng (đây là một
đặc điểm khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại), nên trong luận
văn sẽ đi sâu vào phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT trên một số các chỉ
tiêu định tính; có một số chỉ tiêu mang tính chất định lượng hay định tính đánh giá hiệu
quả của Quỹ và nó có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có thể là bổ sung cho nhau nhưng
cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt
động tín dụng của Quỹ HTPT thì phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống
cả trên tầm vi mô cũng như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào định hướng, chủ trương
ĐTPT trong từng lĩnh vực, ngành hay chương trình, dự án cụ thể để có sự đánh giá mức độ
ưu tiên cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác.
1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của một số nước trong
khu vực và trên thế giới
1.4.1. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Hàn Quốc
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Vào cuối
giai đoạn "cất cánh", Hàn Quốc trở thành một nước công nghiệp. Sự phát triển nhanh
chóng đó có hai yếu tố quan trọng góp phần, một là chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất
khẩu, hai là chính sách tạo nguồn vốn hợp lý. Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ để huy
động các nguồn lực, trong đó có tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Đầu tư của Nhà nước nói
chung của tín dụng ĐTPT của Nhà nước nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ
trợ các ngành kinh tế phục vụ chiến lược phát triển trong thời kỳ này.
Chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ các nguồn tài chính thông qua Quỹ đầu tư quốc
gia để hỗ trợ cho các ngành được khuyến khích đầu tư. Các chính sách được áp dụng cho
vay có chọn lọc, ưu tiên lãi suất cho phát triển những ngành công nghiệp có mục tiêu quốc
gia. Từ năm 1973, Hàn Quốc chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp nặng như
công nghiệp sắt, thép, kim loại màu… và công nghiệp hóa chất như phân bón, sơn, chất
dẻo... bằng cách cho vay ưu đãi với lãi suất thấp.
Chính phủ hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu thông qua các biện pháp chủ yếu như:
cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu một số sản phẩm
quan trọng, cho vay với lãi suất ưu đãi để sản xuất hàng xuất khẩu, cấp tín dụng cho các
nhà nhập khẩu khẩu nguyên liệu thô và thiết bị để sản xuất hàng xuất khẩu, cho vay để
chuyển đổi nhà máy sang sản xuất hàng xuất khẩu,...
Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã xuất hiện những dấu hiệu phát
triển mất cân đối buộc Chính phủ phải điều chỉnh chính sách phát triển. Trước hết, Chính
phủ giảm hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay xuất khẩu, tín dụng ĐTPT của Nhà nước
cấp cho các công ty thuộc diện được vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước cho xuất khẩu
với lãi suất thấp. Mặt khác, Nhà nước chuyển sang khuyến khích phát triển doanh nghiệp
có quy mô vừa và nhỏ, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được ưu tiên phân bổ cho khu vực
này.
Tóm lại, sự tăng trưởng kinh tế nhanh của Hàn Quốc trong 4 thập kỷ liên tiếp phần
lớn nhờ thực hiện các chính sách thúc đẩy xuất khẩu và công nghiệp hóa chất với sự hỗ trợ
tài chính mạnh mẽ từ NSNN và tín dụng đầu tư Nhà nước.
1.4.2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Trung Quốc
Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống tín dụng
nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng đầu tư Nhà nước
ngày càng được hoàn thiện.
Một trong các nội dung của công cuộc cải cách cơ chế quản lý vốn đầu tư xây
dựng cơ bản là xác định rõ phạm vi đầu tư từ ngân sách và phân biệt ranh giới danh mục
các công trình dự án đầu tư công cộng và các công trình dự án đầu tư có khả năng thu hồi
vốn. Hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước dưới các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh tín
dụng đầu tư, bảo hiểm tín dụng và hỗ trợ LSSĐT.
Việc thực hiện tín dụng đầu tư của Nhà nước do ba Ngân hàng: Ngân hàng phát
triển, Ngân hàng phát triển nông nghiệp và Ngân hàng xuất nhập khẩu. Ngân hàng phát
triển nông nghiệp chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng phát triển chuyên về lĩnh
vực xây dựng cơ bản và Ngân hàng xuất nhập khẩu chuyên về lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Trong ba ngân hàng này chỉ có Ngân hàng phát triển là ngân hàng chính sách thuần túy,
hai ngân hàng còn lại hoạt động có tính lưỡng chế, vừa kinh doanh đồng thời vừa tiếp nhận
và quản lý nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho từng lĩnh vực.
1.4.3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Đài Loan
Trong những năm 1959 đến 1972, Đài Loan thực hiện vai trò hỗ trợ cho các ngành
công nghiệp nhẹ có định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động. Trong đó có biện
pháp hỗ trợ tài chính của Nhà nước là cấp tín dụng đầu tư với lãi suất thấp. Chế độ ưu đãi
đối với các công ty tham gia phát triển các ngành công nghiệp chiến lược bao gồm:
- Sự trợ giúp vốn của Nhà nước: Các công ty đáp ứng được tiêu thức trên có thể đề
nghị sự giúp đỡ từ phía Chính phủ khi tiêu thức xác định các công ty được phân hạng và
Chính phủ có thể trợ giúp khoảng 50% số vốn của toàn bộ chương trình hỗ trợ;
- Cho vay với lãi suất thấp: Năm 1982, Chính phủ đã lập quỹ với số tiền 250 triệu
USD để đảm bảo các khoản cho vay với lãi suất thấp đối với các công ty trong ngành công
nghiệp chiến lược. Các khoản vay với lãi suất thấp được các công ty dùng để mua máy
móc, thiết bị là chủ yếu.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở
các nước, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu cho việc thực hiện tín
dụng ĐTPT của Nhà nước ở Việt Nam.
Thứ nhất, các biện pháp hỗ trợ tài chính cho đầu tư được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, trong đó bên cạnh hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách là cấp tín
dụng ĐTPT của Nhà nước. Để quản lý hiệu quả nguồn vốn này, cần huy động các tổ chức
tín dụng, ngân hàng tham gia vào việc huy động vốn để cho vay theo các đối tượng được
Nhà nước quy định hoặc Nhà nước hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng đầu tư và quản lý
thống nhất thông qua một đầu mối.
Thứ hai, để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, cần
thành lập một tổ chức có đủ năng lực và thẩm quyền để điều hòa vốn và quản lý chung.
Thứ ba, hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước được áp dụng rộng rãi và luôn
được điều chỉnh trong mỗi thời kỳ.
Thứ tư, lãi suất tín dụng ĐTPT của Nhà nước thấp hơn lãi suất vay vốn trên thị
trường tự do. Lãi suất vay vốn thấp là công cụ quan trọng của Nhà nước trong hỗ trợ vốn
dài hạn để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt cần nhiều vốn trong thời kỳ đầu
của giai đoạn tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế phục vụ
chiến lược phát triển của Chính phủ.
Thứ sáu, đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước không nên quá
rộng, làm cho các doanh nghiệp ỷ lại, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và
tăng khoản nợ của Chính phủ.
Thứ bảy, bên cạnh hỗ trợ đầu tư thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước còn phải
thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp hỗ trợ khác.
Thứ tám, để có đủ nguồn vốn cho vay ĐTPT cần đa dạng hóa các hình thức huy
động. Bên cạnh việc đẩy mạnh huy động nguồn vốn dưới hình thức trái phiếu trên thị
trường trong nước, chúng ta cũng nên khẩn trương tiến hành huy động vốn dưới hình thức
phát hành trái phiếu quốc tế.
Chương 2
Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của Quỹ hỗ trợ phát triển
từ năm 2001 đến nay
2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ hỗ trợ phát triển
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ Hỗ trợ phát triển
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước đã chủ trương đổi mới toàn diện
cơ chế quản kinh tế từ hình thức kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực ĐTPT đã có những bước thay đổi quan trọng nhằm huy
động tối đa các nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm phát
triển đất nước. Các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng, các dự án mang tầm chiến lược quốc gia,
thuộc ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án thuộc vùng khó khăn, kém phát triển thường đòi
hỏi lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên các nhà đầu tư thường không muốn
hoặc không có khả năng đầu tư. Vì vậy, các dự án này thường được Chính phủ tài trợ.
Với yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư, Chính phủ đã thay đổi cơ
chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chuyển từ hình thức cấp phát sang hình thức tín
dụng đầu tư đối với những dự án cần khuyến khích đầu tư và có khả năng thu hồi vốn trực
tiếp. Ban đầu thực hiện tín dụng chỉ thu hồi nợ gốc (không thu lãi) sau chuyển sang cơ chế
cho vay thu hồi cả nợ gốc và lãi (lãi suất thấp). Kênh tín dụng mới này thực chất là tín
dụng ưu đãi của Nhà nước (hiện nay gọi là tín dụng ĐTPT của Nhà nước).
Bên cạnh đó, để thực hiện việc cấp và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ NSNN,
nhằm đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước, để tập trung các
nguồn vốn, các chương trình cho vay ưu đãi của Nhà nước vào một đầu mối, nâng cao hơn
nữa vai trò và chất lượng của công tác
tín dụng ĐTPT của Nhà nước, ngày 8-7-1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
50/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT. Từ 1-1-2000, Quỹ HTPT chính
thức hoạt động và thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Hiện nay, Quỹ Hỗ trợ phát triển có 62 chi nhánh và 1 văn phòng đại diện đặt tại 62
tỉnh, thành hoạt động dưới sự chỉ đạo của Quỹ Trung ương tại Hà Nội. Quỹ hỗ trợ phát triển
có quan hệ mật thiết với các cơ quan khác của Chính phủ như với Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ và các cơ quan
chức năng khác.
2.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong thời
gian qua
+ Tình hình huy động vốn và quản lý điều hành nguồn vốn
Khi mới thành lập, Quỹ HTPT có vốn điều lệ là 3000 tỷ đồng, sau đó Quỹ được bổ
sung thêm 2000 tỷ đồng nữa nên hiện nay vốn điều lệ của Quỹ là 5.000 tỷ đồng. Nguồn
vốn của Quỹ cho hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước bao gồm: vốn được Nhà nước cấp
bổ sung hàng năm cho đến khi đủ vốn điều lệ, các nguồn theo theo chỉ định và tự huy
động.
Đối với nguồn vốn tự huy động, vốn vay từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Quỹ
Tiết kiệm bưu điện là nguồn vốn mang tính kế hoạch và do Chính phủ ấn định về số vốn
vay, mức lãi suất. Nguồn này có ưu điểm là tương đối ổn định, thời hạn vay vốn dài
(khoảng 5 năm). Tuy nhiên, do quy mô nhỏ nên chưa đáp ứng nhu cầu về vốn của Quỹ
HTPT.
Từ năm 2002, Quỹ HTPT chính thức phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua thị
trường chứng khoán tập trung. Mặc dù tỷ trọng nguồn này chiếm nhỏ trong tổng nguồn
vốn cho vay tín dụng nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện để mở rộng
hoạt động cho vay và đầu tư của Quỹ (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1: Nguồn vốn hoạt động của Quỹ HTPT
trong 3 năm 2001, 2002, 2003
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Năm Năm Tỷ Tỷ Tỷ Nội dung 2001 2002 2003 trọng trọng trọng
(%) (%) (%)
A. Vốn điều lệ và các quỹ 4.098 9.58 4.981 9.37 5.131 7.6
B. Vốn huy động 11.82 27,7 18.517 34.8 30.28 44.8
9 4
1. Tiết kiệm bưu điện 2.640 1.800 3.755
2. Bảo hiểm Xã hội VN 7.700 1.000 8.900
3. Vay Quỹ tích lũy trả nợ 1.339 823 1.336
nước ngoài
4.Vốn NS chuyển cho vay 0 600 1.000
các chương trình
5. Trái phiếu Kho bạc 150 544 500
6. Trái phiếu Chính phủ 1.586 5.371 0
7. Chi nhánh Quỹ huy động 495 2196 0
8. Nguồn khác (khấu hao 2.602 10.02 0
8 ngành điện, cấp phát ủy
thác)
C. Nguồn ghi thu ghi chi 26.71 62.65 29.648 55.7 32.88 48.7
ODA cho vay lại 4 9
Tổng cộng 42.64 53.146 67.50
5 6
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003 của Quỹ HTPT).
Bước sang năm 2003, công tác huy động vốn được Quỹ HTPT xác định là một
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, rất nặng nề. Việc huy động vốn của Quỹ HTPT trong năm
2003 có nhiều khó khăn hơn trước do nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư rất lớn trong khi
lãi suất huy động vốn trên thị trường biến động phức tạp. Từ đầu năm, Quỹ HTPT đã trình
Hội đồng quản lý, Bộ trưởng Bộ Tài chính phương án huy động vốn để đáp ứng nhu cầu
giải ngân và hoàn trả các nguồn vốn huy động đến hạn. Ngoài các nguồn vốn theo chỉ định
của Chính phủ, Quỹ đã chú trọng đa dạng hóa các nguồn vốn huy động khác, đặc biệt đẩy
mạnh huy động vốn tại các Chi nhánh Quỹ, từng bước đảm bảo nhu cầu cho vay trên địa
bàn.
Tính đến hết ngày 31-3-2004, toàn hệ thống Quỹ HTPT đã huy động được 7462 tỷ
đồng vốn từ các nguồn, đạt 30% kế hoạch năm (trong đó thu hồi nợ cho vay ngắn hạn
HTXK, cho vay tín dụng đầu tư trung, dài hạn 1.745 tỷ đồng (xem bảng 2.2).
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện nguồn vốn hoạt động
của Quỹ HTPT trong quý I/2004
Đơn vị: Tỷ đồng
Kế hoạch được Tỷ lệ% so Nguồn vốn Thực hiện Thủ tướng CP giao với kế hoạch
Tổng cộng 7462
- Công ty DVTKBĐ 2.500 29.2% 730
- Thu hồi nợ dài hạn 4.000 15% 600
- Thu hồi nợ ngắn hạn 1.145
- Huy động khác 12.100 41.2% 4.987
Trong đó: 2.840
+ Trái phiếu CP 579
+ Huy động tại Chi 200
nhánh
+ Huy động từ BHXH
(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT quý I/2004).
Về cơ bản, trong 3 tháng đầu năm 2004, Quỹ HTPT đã đảm bảo đủ vốn để đáp
ứng nhu cầu giải ngân cho các dự án. Trong đó, đã giải ngân các dự án đầu tư trung và dài
hạn với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng đạt
46% kế hoạch giao, cấp hỗ trợ LSSĐT 25 tỷ đồng đạt 25% kế hoạch và đảm bảo thanh
toán các khoản vốn huy động đến hạn trả nợ.
Song song với việc huy động vốn, công tác quản lý điều hành nguồn vốn đã đặc
biệt được chú trọng. Nguồn vốn về cơ bản đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu
của các Chi nhánh Quỹ. Quỹ HTPT bước đầu đã ban hành quy định về quản lý và điều
hành nguồn vốn theo hướng quản lý tập trung thống nhất, nâng cao trách nhiệm huy động
vốn và sử dụng vốn.
+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng đầu tư
Trong thời gian qua, do chủ động được trong việc triển khai nhiệm vụ, đồng thời,
kịp thời nghiên cứu tổng hợp trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chủ động phối hợp
với các ngành, các cấp có liên quan để xử lý, giải quyết các vướng mắc nên công tác giải
ngân, thu hồi nợ vay các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được thực hiện
triển khai đạt kết quả tốt, có thể thấy được tình hình công tác cho vay, giải ngân cho số dự
án vay vốn qua các năm (xem bảng 2.3).
Bảng 2.3: Tình hình cho vay, giải ngân, thu nợ các dự án vay vốn
tín dụng ĐTPT của Nhà nước (nguồn vốn trong nước)
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004
Số dự án vay vốn 1 960 1.246 412
Số vốn giải ngân 2 9.376 13.475 1.200
Thu nợ 3 2.912 4.066 790
Trong đó: + Gốc 2.299 3.266 600
+ Lãi 613 800 190
4 Dư nợ 21.848 30.281 32.500
Trong đó: + Nợ quá hạn 635 1.020 1.290
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã giải ngân các dự án đầu tư trung và dài hạn cho
các dự án chuyển tiếp và dự án mới với số vốn là 2.000 tỷ, đạt 15% kế hoạch; cho vay
ngắn hạn HTXK 2.200 tỷ đồng đạt 46% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Tổng dư nợ vay đến 31-3-2004 là 32.500 tỷ đồng, tăng 7% so với thời điểm 31-12-
2003, trong đó nợ quá hạn là 1.290 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ vay vốn tín dụng đầu
trung dài hạn bằng nguồn vốn trong nước (trong đó nợ quá hạn của 02 chương trình mía
đường và đánh cá xa bờ chiếm 43% tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống).
Tổng số lãi đến hạn chưa trả là 970 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31-12-
2003, trong đó lãi đến hạn chưa trả của hai chương trình mía đường và đánh bắt hải sản xa
bờ là 420 tỷ đồng chiếm 51% tổng số lãi đến hạn trả chưa trả của toàn hệ thống Quỹ
HTPT.
Quỹ HTPT đã đảm bảo được vốn cho 44 dự án nhóm A là các dự án đầu tư theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ (bao gồm cả chuyển tiếp và khởi công mới) với số
vốn giải ngân 5629 tỷ đồng, các chương trình lớn của Chính phủ như: Đóng mới tàu biển:
971 tỷ đồng; xi măng: 1500 tỷ đồng; thép: 800 tỷ đồng; dệt may: 700 tỷ đồng; chế biến
thủy sản: 820 tỷ đồng,...
Có thể nói, trong thời gian qua, tuy có những khó khăn nhất định thuộc về cơ chế,
chính sách, nhưng Quỹ luôn chủ động tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương
trong việc xây dựng hướng dẫn và triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước để tập trung vốn đầu tư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ góp phần vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm. Quỹ luôn chủ động, sáng tạo
trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhiều khó khăn vướng mắc đã được tháo gỡ kịp
thời như: bảo đảm tiền vay, đối tượng cho vay tín dụng xuất khẩu, điều chỉnh các dự án
nhóm A, thực hiện phân cấp mạnh cho các đơn vị thuộc hệ thống nhằm tăng tính chủ động
và nâng cao vai trò trách nhiệm của đơn vị, rút ngắn thời gian thẩm định và quyết định cho
vay, hỗ trợ LSSĐT, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư nắm bắt thời cơ sản xuất
kinh doanh.
+ Tình hình cho vay, giải ngân, thu hồi nợ vay đối với tín dụng ngắn hạn hỗ trợ
xuất khẩu
Thực hiện Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính
phủ, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay ngắn hạn HTXK đối với các đối tượng được hưởng
ưu đãi theo danh mục mặt hàng do Bộ Thương mại quy định.
- Trong 3 tháng của quý IV năm 2001, Quỹ HTPT thực hiện cho vay 150 tỷ đồng
đối với 85 hợp đồng xuất khẩu; trong năm 2002, có 14 mặt hàng thuộc diện được vay vốn.
Quỹ HTPT thực hiện cho vay 3.222 tỷ đồng đối với 923 hợp đồng xuất khẩu, đạt 179% kế
hoạch năm.
- Trong năm 2003 có 21 mặt hàng thuộc diện được vay vốn ngắn hạn HTXK tại
Quỹ HTPT gồm: Gạo; lạc nhân; cà phê; chè, hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến), rau quả
(hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả); đường; thủy sản; thịt gia súc, gia cầm; gốm, sứ; đồ gỗ
mỹ nghệ; mây tre lá; sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp điện; sản phẩm cơ khí...
Quỹ đã thực hiện cho vay 6.320 tỷ đồng đối với 1.800 hợp đồng xuất khẩu, đạt 206% kế
hoạch năm
- Một số mặt hàng mới như đường, sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện, cáp
điện, khăn bông,... Quỹ HTPT đang tích cực triển khai (riêng mặt hàng máy tính nguyên
chiếc xuất khẩu trả chậm sang Cu Ba, gạo xuất khẩu trả chậm sang thị trường một số nước
Đông Nam á, Quỹ HTPT triển khai theo một cơ chế cho vay đặc biệt theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ).
- Trong quý I/2004, Quỹ HTPT đã thực hiện cho vay trên 2.500 tỷ đồng đối với
149 hợp đồng xuất khẩu, đạt 46% kế hoạch năm 2004 được Thủ tướng Chính phủ giao;
Mặt hàng được HTXK tập trung, chiếm tỷ trọng lớn nhất là thủy hải sản và gạo, điều, cà
phê chủ yếu sang thị trường EU, Mỹ, Trung Đông, ASEAN (xem bảng 2.4 và 2.5).
Bảng 2.4: Tình hình cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/ 2004
1 Số khoản vay 923 2.292 149
2 Số vốn cho vay 3.222 6.200 2.200
3 Thu nợ gốc 2.316 5.900 1.200
4 Dư nợ 1.015 2.000 2.100
Trong đó: Nợ quá hạn 8 212 100
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Bảng 2.5: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo mặt hàng
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2002 Năm 2003 TT Mặt hàng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
1 Gạo 1.095 34,0% 1.779 28.1%
2 Thủy hải sản 1.176 36,5% 3.138 49.6%
3 Điều 136 4,2% 299 4.7%
4 Dệt may 397 12,3% 194 3%
5 Dệt kim 0 0,0% 96 1.5%
6 Cà phê 82 2,5% 130 2%
684 10.8% 7 Mặt hàng khác 336 10,5%
Tổng cộng 3.222 100% 6.320 100%
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).
Về thị trường xuất khẩu: Quỹ HTPT đã cho vay để thực hiện hợp đồng xuất khẩu
sang thị trường 28 quốc gia, trong đó thị trường Mỹ, Nhật, Liên minh châu Âu và các nước
Đông Nam á là những thị trường lớn. Cơ cấu cho vay theo thị trường (xem bảng 2.6).
Bảng 2.6: Cơ cấu cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu theo thị trường
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2002 Năm 2003 TT Thị trường Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
1 Đông Nam á 20,0% 1.412 22,3% 644
697 21,6% 2.283 36.1% 2 Mỹ
600 18,6% 784 12.4% 3 Nhật
537 16,7% 137 2,1% Trung Đông 4
236 7,3% 451 7,1% Liên minh Châu Âu 5
43 1,3% 113 1.7% Trung Quốc 6
15 0,5% 20 0.3% 7 Nga
8 Khác 450 14,0% 1.120 17.7%
Tổng cộng 3.222 100% 6.320 100%
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2002, 2003).
Trong cho vay ngắn hạn HTXK, các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng vay
71%, các loại hình doanh nghiệp khác chiếm 29% (công ty trách nhiệm hữu hạn 16,13%,
công ty cổ phần 7,52%,...).
Để đạt được kết quả trên, trong thời gian qua Quỹ đã sửa đổi, bổ sung các Quy
chế, Quy trình cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh nhất
đối với nguồn vốn này, việc phân cấp cho các Chi nhánh quyết định cho vay được mở rộng
hơn giải quyết yêu cầu HTXK của các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo an toàn các
khoản vay, thông qua đó Quỹ đã tập trung cho vay đối với những mặt hàng thuộc diện
khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ, mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước.
+ Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT
Trong năm 2001, Quỹ HTPT đã ký kết 261 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 261 dự án
với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 149,6 tỷ đồng, số thực cấp năm 2001 là 1,6 tỷ đồng. Năm
2002, Quỹ HTPT đã ký kết 471 hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 471 dự án với tổng số vốn
cam kết hỗ trợ là 284,9 tỷ đồng, số thực cấp năm 2002 là 31,8 tỷ đồng. Năm 2003, đã ký
kết hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 350 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 215 tỷ đồng,
số thực cấp là 117 tỷ đồng bằng 78% kế hoạch năm. Quý I/2004, Quỹ HTPT đã ký kết hợp
đồng hỗ trợ LSSĐT cho 92 dự án với tổng số vốn cam kết hỗ trợ là 100 tỷ đồng, số thực
cấp là 25 tỷ đồng bằng 25% kế hoạch năm (xem bảng 2.7).
Bảng 2.7: Tình hình thực hiện hỗ trợ LSSĐT
Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
Số dự án hỗ trợ LSSĐT 471 350 92
Số vốn cam kết 284,9 215 100
Số đã cấp 31,8 117 25
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT - 2001, 2002, 31-3-2004).
Tính đến 31-3-2004, tổng số dự án được Quỹ HTPT cấp hưởng hỗ trợ LSSĐT lên
1276 dự án với tổng số vốn hỗ trợ 776 tỷ đồng. Với số vốn cam kết hỗ trợ LSSĐT này,
Quỹ HTPT đã góp phần thu hút trên 25.000 tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng để ĐTPT. Có
thể nói, hình thức hỗ trợ LSSĐT thực sự là hình thức hỗ trợ có hiệu quả của Nhà nước, vừa
đạt mục tiêu huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho ĐTPT, vừa giảm dần sự bao cấp
của Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các chủ
đầu tư trong vay và trả nợ vốn vay.
Tuy nhiên, tình hình thực hiện kế hoạch hỗ trợ LSSĐT đạt thấp so với kế hoạch đề
ra nguyên nhân là do việc cấp hỗ trợ LSSĐT thường tập trung vào nửa cuối năm do nhiều
công trình, dự án được duyệt quyết toán và đưa vào sử dụng vào thời điểm cuối năm. Mặt
khác, vào thời điểm cuối năm, việc tổng hợp, kiểm tra đánh giá tình hình trả nợ vốn vay
các ngân hàng thương mại của các chủ đầu tư mới có số liệu đầy đủ. Dự kiến trong năm
2004, Quỹ HTPT sẽ thực hiện 100% kế hoạch hỗ trợ LSSĐT được Thủ tướng Chính phủ
giao.
Công tác hỗ trợ LSSĐT trong thời gian qua cũng chịu tác động khá lớn của sự
biến động lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ. Do lãi suất vay vốn trên thị trường trong
thời gian qua luôn ở mức khá cao trong khi lãi suất vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
vẫn chưa được điều chỉnh, khoảng cách giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thương mại quá lớn
đã làm giảm tính hấp dẫn của hình thức hỗ trợ LSSĐT do mức được hỗ trợ trở lên ít đi
tương đối.
Ngoài ra, một số dự án đề nghị được hỗ trợ LSSĐT không đủ điều kiện để được hỗ
trợ theo qui định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-1999 của Chính phủ về tín
dụng ĐTPT của Nhà nước, ví dụ như đã được vay một phần vốn tín dụng ưu đãi của Nhà
nước; hoặc đã đầu tư trước khi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Nghị định 35/2002/NĐ-CP).
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư
Hình thức hỗ trợ của Nhà nước thông qua bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa thu hút
được sự quan tâm của các chủ đầu tư vì theo nhiều ý kiến từ các Bộ, địa phương và các
chủ đầu tư, thì việc thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư sẽ dẫn đến dự án vừa phải qua hai
đầu mối là tổ chức tín dụng và Quỹ HTPT thẩm định chặt chẽ như dự án vay vốn tín dụng
đầu tư, vừa phải chịu lãi suất cao của tổ chức tín dụng cộng với phí bảo lãnh của Quỹ
HTPT, hơn nữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại phải có tài sản thế chấp theo quy
định.
Vì vậy, việc bảo lãnh tín dụng đầu tư được triển khai rất chậm, thực tế trong năm
2000 chỉ có một dự án của tư nhân ở Vĩnh Long đề nghị Quỹ bảo lãnh nhưng qua thẩm
định dự án không bảo đảm đủ điều kiện bảo lãnh theo quy định của Chính phủ nên Quỹ
không chấp thuận bảo lãnh.
Năm 2001, có 8 dự án đề nghị Quỹ bảo lãnh tín dụng đầu tư với số tiền 201 tỷ
đồng, trong đó có một số dự án xin bảo lãnh để vay vốn đầu tư bằng ngoại tệ tại các ngân
hàng. Trong năm 2001, Quỹ HTPT mới chỉ ký được 2 hợp đồng bảo lãnh tín dụng đầu tư
với số tiền 19,6 tỷ đồng.
Trong năm 2002, không dự án nào được Quỹ HTPT bảo lãnh vay vốn đầu tư do có
sự thay đổi trong quy định về bảo lãnh tín dụng đầu tư. Theo Nghị định 43/1999/NĐ-CP
ngày 29-06-1999 của Chính phủ, trong trường hợp dự án được Quỹ HTPT bảo lãnh vay
vốn tại các ngân hàng thương mại, nếu khách hàng không trả được nợ vay (một phần hoặc
toàn bộ) cho tổ chức tín dụng cho vay vốn, Quỹ HTPT sẽ đứng ra trả toàn bộ phần thiếu.
Tuy nhiên, Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quỹ chế tín dụng HTXK lại quy định trách nhiệm về tài chính
khi chủ đầu tư không trả được nợ "Tổ chức tín dụng cho vay vốn và Quỹ HTPT cùng chịu
trách nhiệm ngang nhau về tài chính đối với khoản đã bảo lãnh". Chính vì quy định này,
nên các tổ chức tín dụng khó chấp nhận bảo lãnh của Quỹ HTPT.
Mặc dù vậy, trong năm 2003, Quỹ HTPT đã bảo lãnh vay vốn đầu tư cho 3 dự án,
với số tiền bảo lãnh 7,9 tỷ đồng. Quý I/2004, Quỹ HTPT chưa nhận được hồ sơ dự án
thuộc diện ưu đãi đầu tư của các Doanh nghiệp gửi đến đề nghị Quỹ HTPT bảo lãnh.
Nhìn chung, các Bộ, ngành, địa phương các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự quan
tâm đến hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư nên việc đăng ký kế hoạch chậm và số dự án
chưa nhiều.
Bảng 2.8: Tình hình thực hiện bảo lãnh tín dụng đầu tư
Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số dự án bảo lãnh TDĐT 2 0 3
Số vốn cam kết 19,6 0 7,9
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT 2002, 2003).
Đánh giá chung: Công tác bảo lãnh tín dụng đầu tư còn nhiều hạn chế do hình
thức này không hấp dẫn các nhà đầu tư vì vừa phải vay thương mại với lãi suất cao, vừa
phải chịu phí bảo lãnh (0,5%/năm). Ngoài ra mức bảo lãnh chỉ dừng ở 50% và 70% tổng
số vốn vay là còn thấp.
Trong năm 2004, khi Nghị định mới thay thế Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-06-
1999 của Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư được hấp dẫn
hơn và Quỹ HTPT sẽ tích cực tuyên truyền để đẩy mạnh hình thức hỗ trợ này của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp.
+ Công tác quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại
Nhiệm vụ quản lý, cho vay lại các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA (nguồn
vốn HTPT chính thức) theo ủy quyền của Bộ Tài chính được coi là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của hệ thống Quỹ HTPT.
Tính đến 31-3-2004, Quỹ HTPT đã triển khai việc quản lý cho vay lại đối với 233
dự án từ nguồn vốn ODA của 22 tổ chức đa phương và song phương trên thế giới với tổng
số vốn vay theo hiệp định khoảng 5 tỷ USD tương đương 80.000 tỷ VND được phân bổ
cho các ngành kinh tế sau:
- 55 dự án thuộc lĩnh vực năng lượng (cải tạo, xây dựng các nhà máy điện, trạm
biến áp, đường dây và trạm truyền tải điện,...) với số vốn vay tương đương 3 tỷ USD,
chiếm 65,6%.
- 45 dự án thuộc lĩnh vực cấp thoát, nước và xử lý nước thải với số vốn vay tương
đương trên 500 triệu USD, chiếm 9,5%.
- 48 dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm thủy sản với số vốn vay tương đương trên 169
triệu USD chiếm 3,5%.
- 84 dự án thuộc các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, viễn thông,... với
số vốn vay tương đương trên 1 tỷ USD chiếm trên 21%.
Tính đến 31-3-2004, tổng dư nợ vốn ODA cho vay lại do Quỹ HTPT đang quản lý
là 33.100 tỷ đồng (tương đương 2,5 tỷ USD).
Đa số các dự án có số vốn vay lớn đang trong giai đoạn giải ngân, dự kiến từ năm
2004, các dự án này bắt đầu đến hạn trả nợ gốc. Đến nay, Quỹ HTPT đã thu và hoàn trả
Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài 4.811 tỷ đồng, gồm: 2.206 tỷ đồng gốc, 2.605 tỷ đồng lãi,
tỷ lệ nợ quá hạn 0,3% (xem bảng 2.9).
Bảng 2.9: Tình hình cho vay lại vốn ODA
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Nội dung Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
1 Số dự án ODA quản lý 210 227 233
2 Số vốn giải ngân 3.763 3.282 1.560
3 Thu nợ 1.621 1.429 443
Trong đó: + Thu gốc 831 812 268
+ Thu lãi 790 617 175
4 Dư nợ 28.312 30.782 33.100
Trong đó: + Nợ quá hạn 70 93 133
(Nguồn: Báo cáo Quỹ HTPT năm 2002, 2003, Quý I/2004)
Tính đến 31-3-2004, đã có 98 dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho vay lại thuộc
các lĩnh vực hạ tầng: Cải tạo nhà máy điện, nâng cấp hệ thống cấp nước, giao thông vận tải
đã hoàn thành đi vào sản xuất và phát huy hiệu quả đầu tư đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ
trả nợ như: Dự án Nhiệt điện Phả Lại (vốn vay Chính phủ Nhật Bản), dự án cải tạo lưới
điện ba thành phố Hà Nội - Nam Định - Hải Phòng (vốn vay ADB), dự án Nhà máy
Đường Lam Sơn (vốn vay Chính phủ ấn Độ)…
Tuy nhiên, đến nay đã có 16 dự án phát sinh nợ quá hạn, các dự án này không phát
huy được hiệu quả đầu tư, giá thành sản xuất cao hơn giá bán dẫn đến sản xuất kinh doanh
thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do báo cáo khả thi không sát với tình hình thực tế sản xuất
kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế các dự án sau khi đầu tư công suất sử dụng thấp, thậm
chí có dự án chỉ đạt 10% công suất thiết kế như dự án sản xuất nhũ tương nhựa đường (vốn
vay Chính phủ Tây Ban Nha), dự án sản xuất téc nhựa Thái Bình (vốn vay Chính phủ ấn
Độ)…
2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
qua hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển
2.2.1. Những kết quả đạt được
* Chỉ tiêu định tính
Hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải đầu tư ở mức độ
cao, trong đó quan trọng là đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng cường hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh, tạo nên những
bước chuyển biến về chất và lượng trong lực lượng sản xuất, từ đó nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước đã được các Bộ ngành, các địa phương và các đơn vị,
cá nhân trong nền kinh tế triển khai thực hiện một cách nghiêm túc.
Trong hoạt động cho vay đầu tư của Quỹ HTPT, cho vay đầu tư cho các dự án lớn
của Chính phủ (Nhóm A) và cho vay theo các chương trình kinh tế có một vị trí rất quan
trọng. Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT đã tạo điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các
chương trình lớn, dự án quan trọng và then chốt của nền kinh tế: Điện, than, xi măng, chế
biến đường, phát triển bưu chính viễn thông, phát triển cây công nghiệp, khu công nghiệp,
khu chế xuất...
Với vai trò là một công cụ của Chính phủ trong việc thực thi chính sách hỗ trợ
ĐTPT của Nhà nước, Quỹ HTPT đã luôn bám sát thực tiễn kinh tế đất nước, đáp ứng nhu
cầu vốn và dẫn vốn cho nhiều dự án lớn quan trọng, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đến nay trên
4.000 dự án (trong đó có 32 dự án nhóm A) đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, tạo
việc làm trực tiếp cho gần 410.000 người lao động và hàng triệu lao động gián tiếp, tăng
thu cho NSNN hàng năm gần 1.400 tỷ đồng và tăng kim ngạch xuất khẩu ước tăng trên
360 triệu USD/ năm; Ngoài ra, trong thời gian qua gần 1.300 dự án với tổng số vốn hỗ trợ
LSSĐT khoảng 750 tỷ đồng đã được Quỹ ký kết hợp đồng hỗ trợ lãi suất, góp phần thu hút
hàng chục ngàn tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng cho ĐTPT; Sau gần 3 năm triển khai tín
dụng HTXK ngắn hạn Quỹ HTPT đã cho vay gần 17.000 tỷ đồng hỗ trợ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thực hiện trên 5.500 hợp đồng xuất khẩu thuộc các nhóm mặt hàng được
Chính phủ khuyến khích xuất khẩu...
Có thể nhận thấy một số kết quả cơ bản sau hơn 04 năm hoạt động của Quỹ HTPT
thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:
- Thông qua việc hỗ trợ các dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần tăng cường
cơ sở vật chất kinh tế-xã hội, thu hút và tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản
xuất phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với đặc điểm là tập trung sự hỗ trợ của Nhà nước
đối với các dự án thuộc các lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích phát triển. Tính đến
thời điểm 31-3-2004, Quỹ HTPT đã cho vay đầu tư gần 7000 dự án với tổng số vốn cam
kết trên 120.000 tỷ đồng, trong đó hầu hết là các dự án nhóm A của Chính phủ (59 dự án),
các chương trình kinh tế lớn như cơ khí, đóng tàu biển, đóng mới toa xe đường sắt, điện,
than, thép, xi măng, chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, sản xuất hàng xuất khẩu, kiến cố
hóa kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở, trồng rừng
nguyên liệu tập trung... Đến nay, gần 2.700 dự án vay vốn từ Quỹ đã hoàn thành đưa vào
khai thác sử dụng, sản xuất kinh doanh, trong đó có nhiều dự án nhóm A của Chính phủ,
phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội rất thiết thực. Các dự án về cơ sở hạ tầng như thông tin
liên lạc, giao thông đường bộ, thủy,... có một ý nghĩa rất quan trọng làm tiền đề phát triển
cho các ngành kinh tế khác.
Vốn đầu tư từ Quỹ HTPT đã được tập trung để triển khai một số chương trình kinh
tế lớn của Chính phủ:
+ Chương trình kiên cố hóa kênh mương: Với đặc điểm nông nghiệp, nông thôn
nước ta hiện nay, sản xuất hàng hóa chưa phát triển cao, để phát triển một cách toàn diện
nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy, trong xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý, Đảng ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, với cơ cấu: nông,
lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới và tín dụng
giành cho nông nghiệp nông thôn được đặt trong hệ thống hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý
đó; Hàng năm, Chính phủ đã dành vốn tín dụng ĐTPT cho ngân sách tỉnh vay với lãi suất
0% để thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương, ngân sách tỉnh trả nợ dần trong
thời hạn 5-6 năm. Đến nay Quỹ đã cho vay 3.000 tỷ để thực hiện chương trình này, ngoài
việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, nhờ có vốn của Quỹ HTPT cho vay đã
làm thay đổi diện mạo nông thôn với việc tạo ra gần 30.000 km kênh mương nội đồng
được cứng hóa, có thời hạn sử dụng lâu dài, hàng vạn km giao thông nông thôn đã được
Quỹ đầu tư tạo tiền đề cho phát triển giao thông vận tải, sản xuất kinh doanh, đời sống
nông dân ở nông thôn được cải thiện đáng kể.
+ Chương trình đóng tàu khai thác hải sản xa bờ: Trong thời gian qua, Quỹ đã
cho các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và hộ ngư dân vay hơn trên 2000 tỷ để nuôi
trồng, chế biến thủy hải sản, đóng mới và cải hoán gần 1.000 con tàu có công suất lớn;
Hơn 900 con tàu đã hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao năng lực và sản lượng
khai thác xa bờ, tái tạo môi trường và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh thái biển, tạo khả năng
khai thác lâu dài, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy hải sản tăng khá, đứng hàng thứ hai sau
xuất khẩu dầu thô, tạo thêm công ăn việc làm cho trên 700.000 ngư dân vùng ven biển, đời
sống của một bộ phận bà con ngư dân đã được cải thiện đáng kể.
+ Chương trình mía đường: Thực hiện mục tiêu chương trình 1 triệu tấn đường
vào năm 2000 của Chính phủ, tính đến nay, Quỹ đã cho vay gần 1500 tỷ đồng để đầu tư 30
Nhà máy đường, trên 300 tỷ đồng để đầu tư vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy. Đến
nay, chương trình 1 triệu tấn đường đã hoàn thành, thu hút trên 300.000 lao động trực tiếp,
tạo thêm việc làm cho trên 700.000 lao động nông nghiệp, ổn định đời sống cho khoảng
1,4 triệu người, đời sống nông dân ở một số vùng trồng mía được cải thiện rõ rệt.
Có thể nói, nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, thông qua vốn tín dụng ưu đãi của Quỹ HTPT,
năng lực của một số ngành kinh tế đã có bước tăng trưởng nhất định, góp phần tăng năng
lực sản xuất và tăng trưởng kinh tế, các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: thông tin liên
lạc, công trình giao thông đường bộ, thủy, khu công nghệ cao... có ý nghĩa quan trọng làm
tiền đề cho phát triển của các ngành khác; nhờ có vốn đầu tư của Quỹ HTPT mà công suất
phát điện tăng hơn 2.000 Mega Watt; năng lực sản xuất thép tăng 1,6 triệu tấn; phân bón
hóa chất tăng 650 nghìn tấn; xi măng tăng hơn 5 triệu tấn; sản xuất giấy tăng hơn 150
nghìn tấn; diện tích cà phê tăng hơn 100 nghìn héc ta...
Đến 31-3-2004, tổng dư nợ cho vay đầu tư của Quỹ HTPT đạt 65.600 tỷ đồng.
Trong đó vốn trong nước thực hiện 32.500 tỷ đồng, vốn ODA cho vay lại thực hiện 32.100
đồng. Tỷ trọng của các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 36% năm
2001 lên 50,6% vào 2003, góp phần quan trọng vào tăng tốc giá trị công nghiệp từ 13,9%
lên 16% trong năm 2003 và quý đầu năm 2004.
Hiệu quả đối với các doanh nghiệp
- Nguồn tín dụng từ Quỹ HTPT với chi phí vốn rẻ (lãi suất thấp) và các điều kiện
tín dụng ưu đãi đã thực sự tạo điều kiện hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp trong sản
xuất và xuất khẩu Việt Nam đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, hạ thấp giá thành sản
phẩm, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
- Cải cách và tăng cường sức mạnh cũng như hiệu quả của khu vực tài chính là
một yêu cầu đúng đắn và bức thiết, trong thời gian qua, thông qua các hoạt động của mình,
Quỹ HTPT đã góp phần có những tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đến hoạt động của các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng như:
+ Hình thức cho vay trực tiếp để đầu tư các dự án tạo điều kiện để các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính - tín dụng khác cùng cho vay, hình thành cơ cấu nguồn
vốn đa dạng để đầu tư.
+ Hình thức hỗ trợ LSSĐT tạo điều kiện tích cực thúc đẩy tín dụng trung dài hạn
của các tổ chức tín dụng. Tính đến nay, Quỹ HTPT đã hỗ trợ theo hình thức này cho 1.276
dự án với số vốn cam kết là 776 tỷ đồng, thu hút trên 21.000 tỷ đồng từ các tổ chức tín
dụng cho ĐTPT.
+ Nhờ có lượng tín dụng lớn và dài hạn từ Quỹ HTPT cung cấp cho các doanh
nghiệp, các ngân hàng có thêm khách hàng, thêm điều kiện để mở rộng và tăng qui mô
cung ứng các dịch vụ tài chính, nhất là thanh toán và thanh toán quốc tế, đẩy nhanh tốc độ
lưu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế.
Những hoạt động bước đầu có hiệu quả của Quỹ trong thời gian qua đã góp phần
vào sự tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán lên 11%, tổng dư nợ của toàn nền kinh
tế tăng 16%, tăng tổng nguồn vốn huy động 12,4%.
Ngoài ra, thông qua việc huy động các nguồn vốn trung, dài hạn trong các thành
phần kinh tế để thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước, Quỹ HTPT đã chấp
hành nghiêm túc chủ trương huy động nội lực cho phát triển kinh tế đất nước của Đảng và
Nhà nước.
- Như vậy, ngoài tác dụng như "vốn mồi" góp phần tăng nguồn tài trợ cho doanh
nghiệp, các hình thức HTPT của Nhà nước thông qua Quỹ HTPT thực sự là nguồn tài
chính đầu tư có tác dụng tích cực góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và
doanh nghiệp Việt Nam.
Nguồn vốn của Quỹ HTPT đã có tác động tích cực đối với các doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh trong thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu của Chính
phủ:
Chiến lược xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua được đặc biệt chú trọng,
chuyển hướng từ sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất để xuất khẩu,
tìm kiếm và mở rộng thị trường, tăng cường năng lực cạnh tranh để hội nhập. Môi trường
đầu tư đã được cải thiện, thuận lợi hơn và đặc biệt là sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước
trong đó có tín dụng HTXK. Chính vì vậy, kim ngạch xuất khẩu nước ta trong thời gian
vừa qua đã có tăng trưởng đáng kể.
Với đặc điểm là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đa số là nhỏ, vốn ít, rủi ro
xuất khẩu cao, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ về vốn, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, từ
cuối năm 2001 đến nay, Quỹ HTPT đã hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện xuất
khẩu thông qua hình thức tín dụng ngắn hạn với tổng số vốn trên 8.500 tỷ đồng (trong đó
năm 2002 thực hiện 3.222 tỷ đồng, bằng 167% kế hoạch Chính phủ giao, số cho vay năm
2003 là 6.230 tỷ đồng, bằng 206% kế hoạch cả năm, quý I/2004 đạt danh số cho vay là 2.500
tỷ đạt 46% kế hoạch năm), góp phần vào tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 28% tính đến
cuối tháng 03/2004.
Trong quá trình triển khai nhiệm vụ tín dụng ngắn hạn xuất khẩu của mình, ngoài
việc cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi theo chủ trương của Nhà nước nhằm khuyến
khích xuất khẩu, Quỹ HTPT cũng đã tư vấn cho khách hàng nhằm hạn chế rủi ro trong
xuất khẩu, đặc biệt là các rủi ro về thanh toán và rủi ro thương mại có thể xảy ra từ phía
nhà nhập khẩu, đồng thời cũng tư vấn lựa chọn các dịch vụ tài chính thích hợp với doanh
nghiệp. Biện pháp này đã được các doanh nghiệp xuất khẩu đánh giá cao, một mặt vừa
giúp giảm rủi ro đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, vừa hạn chế rủi ro đối với khoản tín
dụng mà Quỹ HTPT cung cấp, đồng thời góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu và thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ được Chính phủ giao.
Đồng thời với việc đẩy mạnh xuất khẩu, Quỹ HTPT cũng đặc biệt coi trọng việc
hỗ trợ các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, coi việc sản xuất và xuất khẩu là hai mặt không
tách rời trong chủ trương phát triển kinh tế, thực hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà
nước. Sản xuất một mặt vừa đáp ứng cầu trong nước và chiếm lĩnh thị trường trong nước,
một mặt vừa là nguồn cung cho xuất khẩu, đáp ứng cho cầu về xuất khẩu vốn đang được
đẩy mạnh tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo đó, Quỹ HTPT hỗ trợ cho các dự án đổi
mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực sản xuất và cạnh tranh để xuất
khẩu.
Có thể nói rằng, cùng với tín dụng ĐTPT, tín dụng HTXK là một trong những
quyết sách kịp thời của Chính phủ, có tác động mạnh mẽ trong việc thúc đẩy sản xuất
trong nước và xuất khẩu, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Hiệu quả đối với Quỹ HTPT
Với vai trò là một công cụ của Chính phủ, Quỹ là một tổ chức tài chính nhưng
hoạt động trên công nghệ ngân hàng, các hoạt động của Quỹ gắn với các nhiệm vụ huy
động vốn, thu hồi nợ gốc và lãi như ngân hàng chính sách, bởi vậy hiệu quả hoạt động của
Quỹ HTPT gắn liền với các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao, trong
thời gian qua nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thông qua Quỹ HTPT tăng trưởng
cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn ĐTPT toàn xã hội, vốn tín dụng ưu đãi của Quỹ
HTPT đã được giải ngân kịp thời đáp ứng được tiến độ của dự án, vốn tín dụng ĐTPT của
Nhà nước đã đáp ứng được cho nhiều chương trình kinh tế lớn của Nhà nước, các dự án
quan trọng, trọng điểm, các ngành kinh tế then chốt, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là một tổ chức tài chính nhà nước, được Chính phủ giao và quản lý số vốn lớn,
thông qua các hình thức tín dụng, bên cạnh việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các dự án,
các doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng từ Quỹ HTPT cũng thực hiện vai trò như lượng
"vốn mồi", kích thích ĐTPT sản xuất của các doanh nghiệp, một mặt vừa là trung gian tài
chính trực tiếp, một mặt vừa là kích thích tố cho tín dụng của hệ thống ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính - tín dụng khác.
Hoạt động của Quỹ HTPT không vì mục mục đích lợi nhuận nhưng phải đảm bảo
hoàn vốn và bù đắp chi phí, trong trường hợp thu không đủ bù chi thì NSNN sẽ cấp bù
phần còn thiếu, trong thời gian qua, Quỹ HTPT luôn có biện pháp tích cực thu hồi nợ gốc
và lãi đối với các dự án vay vốn tại Quỹ, trên cơ sở đó đã tự chủ được về tài chính, chênh
lệch thu chi luôn (+), hàng năm, NSNN không phải cấp bù và từ năm 2003, Quỹ HTPT
cũng đã giành 1% phí được hưởng (theo cơ chế tài chính được Thủ tướng quy định), để bù
đắp một phần vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất còn thiếu hàng năm, vì vậy, có thể nói
rằng trong thời gian qua, hoạt động của Quỹ là đúng hướng, tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn
(gốc và lãi) ngày càng gia tăng theo tổng dư nợ, do đó, cần phải có biện pháp để giảm tỷ lệ
này xuống thì hiệu quả đạt được của Quỹ sẽ được tốt hơn.
Nhờ kiểm soát chặt chẽ, giải ngân đúng nguyên tắc, đúng chế độ về quản lý đầu tư
và xây dựng các nguồn vốn ủy thác, đặc biệt là nguồn vốn ODA cho vay lại của Chính
phủ, nên các tổ chức trong nước và quốc tế, Chính phủ các nước đã ủy thác cho Quỹ
HTPT quản lý và cấp phát, giải ngân trực tiếp một số dự án như: Cấp phát vốn đầu tư
XDCB cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam, quản lý và cấp phát vốn khấu hao của ngành điện,
hàng không, quản lý Quỹ Phà (Đan Mạch), Dự án EU (hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ),
Dự án cấp nước và điện nông thôn, Quỹ giống cây trồng do WB tài trợ...
* Chỉ tiêu định lượng
Trong thời gian qua, các chỉ tiêu hoạt động của Quỹ luôn đạt theo chỉ tiêu kế
hoạch đề ra:
- Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Tốc độ huy động vốn năm sau cao hơn năm
trước, dư nợ năm sau cao hơn năm trước.
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số = -1 x 100 > 1
Doanh số cho vay kỳ trước
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của Quỹ
HTPT, còn tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay
qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả năng mở
rộng tín dụng của Quỹ HTPT. Đây là tình hình tốt đối với Quỹ HTPT.
- Tổng vốn huy động: Căn cứ vào kế hoạch tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
Chính phủ giao hàng năm, Quỹ HTPT đã chủ động trong huy động các nguồn vốn để đáp
ứng yêu cầu của kế hoạch tín dụng ĐTPT của Nhà nước hàng năm với quy mô năm sau
cao hơn năm trước, đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ HTPT huy động từ
các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu
này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ HTPT lớn.
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = x 100 >1
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn của Quỹ hàng năm cao thể hiện Quỹ đã luôn chủ
động được việc cân đối giữa huy động và sử dụng vốn, không để ứ đọng nguồn vốn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100
Tổng dư nợ
Với đặc điểm là cho vay chính sách, cho vay theo kế hoạch của Nhà nước đối
tượng vay vốn của Quỹ là các dự án thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực khó
khăn được Nhà nước khuyến khích đầu tư (đây là điểm khác biệt lớn giữa đối tượng vay vốn
của Quỹ HTPT với các Ngân hàng thương mại), do đó, hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT
gặp rủi ro nhiều hơn với hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này phản ánh
khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ HTPT trong quá trình cho vay.
Trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung, đặc biệt là
trong hoạt động tín dụng chính sách trong lĩnh vực đầu tư của Quỹ HTPT là điều không thể
thể tránh khỏi. Mặc dù tổng dư nợ tăng, nhưng dư nợ quá hạn cũng tăng theo về số tương
đối và tuyệt đối, năm sau cao hơn năm trước (xem bảng 2.10; 2.11; 2.12).
Bảng 2.10: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn tín dụng ĐTPT
(vốn trung và dài hạn)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
1 Dư nợ 21.848 30.281 32.500
Trong đó: + Nợ quá hạn 635 1020 1.290
2 Tỷ trọng (%) 2.9 3.3 3.9
(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT năm 2002, 2003, Quý I/2004).
Bảng 2.11: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn vốn ODA
Đơn vị tính: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
1 Dư nợ 28.312 30.782 33.100
Trong đó: + Nợ quá hạn 70 93 133
2 Tỷ trọng (%) 0.02 0.03 0.04
(Nguồn: Báo cáo năm 2002, 2003, quý I/2004 của Quỹ HTPT).
Bảng 2.12: Tình hình dư nợ và nợ quá hạn vốn tín dụng
HTXK ngắn hạn
Đơn vị tính: Tỷ đồng
TT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Quý I/2004
1 Dư nợ 1.015 2.000 2.100
Trong đó: Nợ quá hạn 8 212 100
2 Tỷ trọng (%) 0.007 0.106 0.047
(Nguồn: Báo cáo của Quỹ HTPT năm 2002, 2003, quý I/2004).
Tính đến 31-3-2004, tỷ lệ nợ quá hạn đối với vốn trung và dài hạn của Quỹ là 4%;
Vốn ODA là 0.4%; vốn tín dụng HTXK là 4,7%, tuy chỉ tiêu này có tăng so với các năm
trước nhưng đây là một tỷ lệ có thể chấp nhận được được coi như giới hạn an toàn. Theo
khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận
được.
Hiệu quả hoạt động tín dụng là một khái niệm tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa
mang tính trừu tượng. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Quỹ
HTPT có thể là chỉ tiêu định lượng hay định tính và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có
thể là bổ sung cho nhau nhưng cũng có thể mâu thuẫn với nhau.
Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ
HTPT thì phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống cả trên tầm vi mô cũng
như vĩ mô. Đồng thời, cũng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có sự ưu tiên cho
chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác.
2.2.2. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và
nguyên nhân
2.2.2.1. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
+ Công tác thanh toán chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Công tác thanh toán của Quỹ HTPT chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thể
hiện ở các bất cập sau:
- Vốn luân chuyển chậm: Việc chuyển vốn thực hiện duy nhất qua tài khoản tiền
gửi tại các ngân hàng thương mại nên chưa đa dạng hóa hình thức thanh toán, khi người
thụ hưởng có tài khoản tại ngân hàng khác hệ thống ngân hàng nơi Quỹ HTPT mở tài
khoản tiền gửi thì việc chuyển tiền thường bị chậm do phụ thuộc vào thời gian xử lý chứng
từ tại ngân hàng và đường luân chuyển vốn nội bộ ngân hàng. Nguồn vốn của Quỹ HTPT
bị đọng trên đường đi, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Quỹ.
- Nguồn vốn của Quỹ HTPT chưa được quản lý tập trung do hệ thống Quỹ HTPT
chưa tổ chức thanh toán điện tử nội bộ.
- Thiệt hại cho chủ đầu tư: Do vốn chuyển chậm nên dẫn đến thiệt hại cho chủ đầu
tư vì tiền thanh toán cho nhà thầu không kịp thời nên phải chịu phạt chậm thanh toán.
Trong trường hợp nhập khẩu thiết bị, chủ đầu tư phải mua ngoại tệ còn bị thiệt hại do
chênh lệch tỷ giá ngoại hối.
- Rủi ro tỷ giá: Khi thu hồi nợ vốn vay ODA thường có nhiều rủi ro về tỷ giá.
Trường hợp vốn thu hồi được ngay trong ngày chủ đầu tư trả nợ vay thì việc áp dụng tỷ giá
quy đổi ngoại tệ ra tiền đồng Việt Nam để thu nợ được thực hiện đúng quy định. Tuy
nhiên do vốn luân chuyển chậm, nên Chi nhánh Quỹ chỉ nhận được tiền trả nợ sau 2 - 3
ngày, khi mà tỷ giá có thể thay đổi. Nhiều trường hợp biến động lớn dẫn đến thiệt hại cho
NSNN.
- Khó khăn trong việc kiểm soát vốn vay: Do các hạn chế trong thanh toán của
Quỹ HTPT hiện nay, chủ đầu tư mới chỉ mở tài khoản tiền gửi để gửi vốn ủy thác cấp phát
(vốn tự có để đầu tư xây dựng cơ bản), chưa gửi các nguồn vốn khác, dẫn đến việc kiểm
soát sử dụng vốn vay cũng như thu hồi nợ vay của Quỹ HTPT gặp nhiều khó khăn, không
gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ của Chủ đầu tư đã cam kết khi vay vốn tín dụng đầu tư của
Nhà nước.
+ Tiến độ giải ngân các dự án chậm
Trong thời gian qua, Quỹ HTPT đã phấn đấu đảm bảo nhu cầu vốn theo kế hoạch
cho các chương trình lớn của Chính phủ: Nâng cấp các nhà máy đóng tàu biển, đóng mới
toa xe đường sắt, tôn nền vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long,... cho đến nay, mặc dù nguồn
vốn của Quỹ đã đáp ứng được nhu cầu giải ngân nhưng việc giải ngân các dự án vay vốn
rất chậm, đặc biệt là các dự án nhóm A. Rất nhiều dự án nhóm A chậm tiến độ thực hiện
dự án do phương án tài chính trong quyết định đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt
không thực hiện được, như dự án Nhà máy Xi măng Hạ Long, Nhà máy Bột giấy Kon
Tum, Nhà máy Xi măng Thăng Long, Nhà máy sản xuất Giấy và Bột giấy Thanh Hóa,...
Một số nguyên nhân cố hữu khác như đền bù giải phóng mặt bằng, đấu thầu rất khó khăn
và chậm chạm cũng làm chậm tiến độ thực hiện và tiến độ giải ngân dự án. Tiến độ giải
ngân cho chương trình tôn nền vượt lũ 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có thể được đẩy
mạnh hơn nếu như nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cụm tuyến dân cư được đảm
bảo theo tiến độ. Thực tế ở các tỉnh này, tiến độ đầu tư nền nhà bằng nguồn vốn tín dụng
đầu tư của Quỹ HTPT được đảm bảo, nhưng phần đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, đường
giao thông, nước từ nguồn vốn NSNN còn chậm.
Số liệu cụ thể về công tác giải ngân vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước như sau:
- Đối với hoạt động cho vay bằng nguồn vốn trong nước, tiến độ giải ngân trong
các năm 2001, 2002 chậm, không đạt kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao: Năm 2001, kế
hoạch cho vay ĐTPT bằng nguồn vốn trong nước 14.600 tỷ đồng, giải ngân 7.087 tỷ đồng,
đạt 48,5% kế hoạch năm; năm 2002, kế hoạch cho vay ĐTPT bằng nguồn vốn trong nước:
12.480 tỷ đồng, giải ngân 9.376 tỷ đồng, đạt 75% kế hoạch năm; năm 2003, giải ngân
13.475 tỷ đồng, đạt 98% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2003 là 13.750 tỷ đồng).
- Đối với hoạt động cho vay vốn ODA cho vay lại: Số vốn giải ngân năm 2001 là
6.598 tỷ đồng, đạt 67% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2001: 9.800 tỷ đồng); năm 2002, số
vốn giải ngân: 3.763 tỷ đồng, đạt 42% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2002: 9.000 tỷ đồng);
năm 2003, số vốn giải ngân 3.282 tỷ đồng, đạt 47% kế hoạch năm (kế hoạch năm 2003 là
7.000 tỷ đồng).
Tổng dư nợ vay tăng 7%, nhưng nợ quá hạn ngày càng gia tăng về số tuyệt đối là
1.290 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ vay vốn tín dụng trung, dài hạn bằng nguồn vốn trong
nước (trong đó nợ quá hạn của 02 chương trình mía đường và đánh cá xa bờ chiếm 43%
tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống).
+ Các hình thức hỗ trợ gián tiếp (hỗ trợ LSSĐT, bảo lãnh) chưa phát huy đúng vai
trò trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư khác.
Hình thức hỗ trợ LSSĐT mặc dù được coi là một trong những hình thức hỗ trợ tiên
tiến của Nhà nước, sau khi dự án hoàn thành và đi vào sử dụng, nhưng qua thực tế cho
thấy, hình thức này chưa thật sự phát huy hiệu quả và chưa được các chủ đầu tư quan tâm
lựa chọn. Kết quả thực hiện hình thức này của Quỹ HTPT qua các năm mặc dù đạt những
kết quả nhất định những vẫn còn nhỏ bé, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể như sau:
- Năm 2001, Quỹ HTPT ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 261 dự án, với số vốn
cam kết 150 tỷ đồng, số thực cấp năm 2001: 1,6 tỷ đồng;
- Năm 2002, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 471 dự án, với số vốn cam kết 285 tỷ
đồng, số thực cấp năm 2002: 31,8 tỷ đồng, bằng 26,5% kế hoạch.
- Năm 2003, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 350 dự án, với số vốn cam kết 215 tỷ
đồng, số thực cấp: 117 tỷ đồng, bằng 75% kế hoạch năm;
- Quý I/2004, ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT cho 92 dự án, với số vốn cam kết 100 tỷ
đồng, số thực cấp: 25 tỷ đồng, bằng 25% kế hoạch năm;
Việc mở rộng hỗ trợ LSSĐT không chỉ đơn giản là làm giảm áp lực về vốn đối với
hệ thống Quỹ HTPT, mà điều quan trọng hơn là bằng một khoản "vốn mồi" của Nhà nước
sẽ huy động được nhiều hơn nguồn vốn của xã hội để đầu tư vào các lĩnh vực ưu đãi,
khuyến khích đầu tư. Hơn nữa, với hình thức này sẽ đảm bảo nâng cao được hiệu quả đầu
tư, giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo, tự
chịu trách nhiệm và sẵn sàng tham gia hội nhập của chủ đầu tư.
Tương tự như hình thức hỗ trợ LSSĐT, hình thức bảo lãnh tín dụng ĐTPT của
Nhà nước cũng chưa phát huy được hiệu quả: Tính đến thời điểm hiện nay, tức là sau gần
4 năm hoạt động, Quỹ HTPT mới bảo lãnh vay vốn đầu tư cho 5 dự án với tổng số tiền bảo
lãnh 27,5 tỷ đồng.
Tính đến nay, Quỹ HTPT chưa thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu xuất
khẩu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu do các đơn vị có quan hệ không có nhu
cầu thực hiện tại Quỹ HTPT.
+ Nợ gốc quá hạn và lãi treo ngày càng tăng.
Nợ gốc quá hạn của Quỹ HTPT ngày càng tăng:
- Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đến thời điểm 31-3-2004 ở mức 4%
tổng dư nợ, ở mức 1.296 tỷ đồng (trên dư nợ vốn tín dụng ĐTPT trong nước 32.438 tỷ
đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đã tăng
336 tỷ đồng. Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT tập trung chủ yếu ở hai chương
trình: Mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ (riêng nợ gốc quá hạn của hai chương trình này
là 450 tỷ đồng, chiếm 43% nợ quá hạn của toàn hệ thống Quỹ HTPT). Riêng chương trình
đánh bắt hải sản xa bờ đã được Chính phủ quyết định cơ chế xử lý nợ vay theo Quyết định
89/2003/QĐ-TTg ngày 08-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay đã có văn bản
hướng dẫn của các Bộ, ngành và Quỹ HTPT đang khẩn trương phối hợp với các ngành, địa
phương triển khai thực hiện. Tuy nhiên, theo đánh giá của Quỹ HTPT, việc xử lý nợ vay
của các dự án theo chương trình này cần một quá trình dài và khả năng thu hồi nợ không
cao. Chương trình mía đường đến nay chưa có cơ chế xử lý cụ thể.
- Nợ quá hạn vốn ODA cho vay lại của Quỹ HTPT đến thời điểm
31-3-2004 ở mức 0,3% tổng dư nợ, ở mức 93,2 tỷ đồng (trên dư nợ vốn ODA cho vay lại
30.782 tỷ đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn vốn ODA cho vay lại của Quỹ
HTPT đã tăng 27,2 tỷ đồng.
- Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn HTXK của Quỹ HTPT đến thời điểm 31-3-2004 ở
mức 0,47% tổng dư nợ, ở mức 100 tỷ đồng (trên dư nợ cho vay ngắn hạn HTXK 2100 tỷ
đồng). So với thời điểm 31-12-2003, nợ quá hạn cho vay ngắn hạn HTXK của Quỹ HTPT
tăng 0.36%.
Tình hình lãi treo biến động theo chiều hướng xấu: Tính đến 31-3-2004, tổng số lãi
đến hạn chưa trả là 970 tỷ đồng, tăng 10% so với thời điểm 31-12-2003, trong đó lãi đến hạn
chưa trả của hai chương trình mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ là 420 tỷ đồng chiếm
51% tổng số lãi đến hạn trả chưa trả của toàn hệ thống Quỹ HTPT.
+ Chưa xây dựng được một nền vốn ổn định, vững chắc
Nguồn vốn huy động của Quỹ HTPT mặc dù có tăng trưởng nhanh nhưng chưa
bền vững. Tỷ trọng vốn ngắn hạn tăng nhanh hơn vốn trung, dài hạn trong khi nhu cầu vốn
của Quỹ HTPT chủ yếu là vốn trung, dài hạn. Từ đó đặt ra vấn đề tính hợp lý của cơ cấu
nguồn vốn và giữa cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu sử dụng vốn.
Theo định hướng, các nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ, Tiết kiệm Bưu
điện là các nguồn vốn chiến lược và phải chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu nguồn
vốn của Quỹ HTPT. Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác phát hành trái phiếu Chính
phủ chưa đạt kết quả như mong muốn. Những diễn biến trên thị trường tài chính, tiền tệ có
ảnh hưởng không tích cực đến việc huy động nguồn vốn này: Lãi suất huy động vốn của
các ngân hàng thương mại biến động liên tục, thị trường chứng khoán ảm đạm (chỉ số
chứng khoản liên tục giảm, khối lượng và giá trị giao dịch thấp),...
Cơ chế huy động vốn của Quỹ HTPT chưa thông thoáng do các vấn đề lãi suất, thủ
tục huy động vốn và đối tượng huy động vốn, đặc biệt là tính chủ động của Quỹ HTPT
trong công tác huy động vốn.
Nhiều Chi nhánh Quỹ HTPT chưa thật sự vào cuộc huy động với Quỹ HTPT
Trung ương; còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, không triển khai các biện pháp hữu hiệu để huy
động vốn dẫn đến việc kết quả huy động vốn không thật đồng đều; chưa chú trọng đến kỳ
hạn của nguồn vốn huy động.
2.2.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế
+ Vốn điều lệ: Vốn điều lệ của Quỹ HTPT được Chính phủ quy định là 5.000 tỷ
đồng. Mặc dù, đến nay Quỹ HTPT đã được cấp đủ vốn điều lệ tuy nhiên số tiền thực
chuyển cho Quỹ HTPT chỉ có 2.300 tỷ đồng, trong đó 1.000 tỷ đồng để cho vay kiên cố
hóa kênh mương với lãi suất 0%; còn 1.300 tỷ đồng cho vay các dự án đầu tư; số còn lại
nhận bàn giao từ Tổng cục Đầu tư Phát triển sang, kể cả tài sản. Như vậy số vốn khả dụng
trong vốn điều lệ thực tế thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi chính sách.
+ Công tác huy động vốn:
- Các nguồn vốn Quỹ HTPT huy động chưa đa dạng và không ổn định. Các nguồn
vốn do Chính phủ chỉ định ngày càng thu hẹp. Nguồn huy động từ Bảo hiểm Xã hội Việt
Nam trước đây và hiện nay là nguồn vốn rất quan trọng của Quỹ HTPT, tuy nhiên, Thủ
tướng Chính phủ đã có văn bản yêu cầu từ năm 2004, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam được sử dụng để mua trái phiếu Chính phủ, không sử dụng để
cho Quỹ HTPT vay nữa.
- Việc huy động vốn của Quỹ HTPT tập trung vào thị trường vốn trung và dài hạn,
tuy nhiên thị trường vốn ở nước ta còn chưa phát triển. Số lượng các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán còn ít và thị trường thứ cấp chưa phát triển. Vì vậy việc huy động vốn
qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường giao dịch chứng khoán tập
trung chưa đạt được yêu cầu đặt ra.
- Quỹ HTPT chưa được chủ động quyết định lãi suất huy động vốn. Cơ chế lãi suất
huy động chưa linh hoạt, kịp thời, thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động vốn thị trường
(thường thấp hơn ngân hàng thương mại 5%, tức bằng 95% lãi suất huy động của ngân
hàng). Điều này dẫn đến huy động vốn, đặc biệt là vốn dài hạn hết sức khó khăn, trong khi
nhu cầu đầu tư là rất lớn.
- Có sự mâu thuẫn, chưa phù hợp giữa nhiệm vụ huy động vốn (phải huy động
lớn) với khả năng bố trí vốn NSNN để cấp bù chênh lệch lãi suất. Số cấp bù chênh lệch lãi
suất sẽ ngày càng tăng do hai nguyên nhân chính: Chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay
hiện nay (cao nhất là 5,4%/năm) và lãi suất huy động trên thị trường; lãi suất cho vay giữ
nguyên cả đời dự án mà hầu hết là các dự án dài hạn.
+ Về công tác thanh toán:
Mặc dù Quy định cho phép Quỹ HTPT được tham gia hệ thống thanh toán nhưng
thực tế Quỹ HTPT chưa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện. Điều
này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ luân chuyển vốn và an toàn
vốn vay, thu hồi nợ vay bị động.
+ Về xử lý nợ:
Nợ từ nguồn NSNN: Tính đến thời điểm hiện nay, NSNN cấp thiếu tiền bù chênh
lệch lãi suất trên 700 tỷ đồng (bao gồm số cấp thiếu năm 2002 và số vượt dự toán chi
NSNN năm 2003). Bộ Giao thông Vận tải và Ngân sách các địa phương bố trí thiếu kế
hoạch trả nợ cho Quỹ HTPT trên 1.000 tỷ đồng.
+ Nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn:
- Việc thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư
với tổ chức cho vay chưa tốt và đầy đủ nên mọi rủi ro cuối cùng chỉ còn lại tổ chức cho
vay với chủ đầu tư.
- Trách nhiệm, quyền hạn xử lý rủi ro chưa rõ, qua nhiều cấp trung gian dẫn đến
chậm xử lý. Quá trình xử lý chưa dứt điểm (xử lý như hiện nay nhìn chung mới dừng ở mức
xử lý nợ quá hạn ở từng thời điểm, chưa phải xử lý nợ xấu).
- Nợ quá hạn vốn trong nước của Quỹ HTPT đến 31-3-2004 ở mức 4% tổng dư
nợ. Trong đó tập trung ở hai chương trình: Mía đường và đánh bắt hải sản xa bờ. Chương
trình mía đường đến nay chưa có cơ chế xử lý cụ thể. Chương trình đánh bắt xa bờ đến nay
được Chính phủ quyết định cơ chế xử lý nợ vay theo Quyết định số 89/2003/QĐ-TTg,
ngày 08-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay đã có văn bản hướng dẫn của các Bộ,
Ngành và Quỹ HTPT đang khẩn trương triển khai thực hiện. Tuy nhiên, theo đánh giá của
Quỹ HTPT, việc xử lý nợ vay của các dự án theo chương trình này cần một quá trình dài
và khả năng thu hồi nợ là thấp.
+ Chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển của Nhà nước có nhiều điểm không còn
phù hợp với thực tế
Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế tín dụng HTXK và giao cho Quỹ HTPT thực hiện nhiệm vụ cho vay tín
dụng HTXK ngắn hạn. Đối tượng vay vốn tín dụng ngắn hạn HTXK cũng không ngừng
tăng lên: Năm 2001 mới chỉ có 4 mặt hàng, năm 2002 là 14 mặt hàng và năm 2003 đầu
năm quy định là 18 mặt hàng đến giữa năm lại bổ sung thêm 3 mặt hàng.
Việc bổ sung các danh mục mặt hàng được hưởng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu có tác
dụng khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu nhưng cũng gây khó khăn cho
việc bố trí NSNN để cấp bù chênh lệch lãi suất cho Quỹ HTPT.
Thực tế này cho thấy cần phải rà soát và hệ thống hóa lại danh mục các đối tượng
cho phù hợp với yêu cầu thực tế, đảm bảo tính ổn định của chính sách, đồng thời tránh hỗ
trợ tràn lan qua kênh tín dụng ưu đãi.
+ Có quá nhiều mức lãi suất cho vay:
Đến thời điểm hiện nay, đang tồn tại rất nhiều mức lãi suất tín dụng ĐTPT của
Nhà nước:
- Mức lãi suất 0% đối với chương trình kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông
thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản do ngân sách Tỉnh vay.
- Mức lãi suất 2,7%/năm cho dự án trồng rừng nguyên liệu Nhà máy Bột giấy Kon
Tum.
- Mức lãi suất 3%/năm cho chương trình cơ khí theo Nghị quyết số 11/2000/NQ-
CP của Chính phủ, các dự án theo Quyết định số 117/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, các dự án ĐTPT thượng nguồn ngành thép.
- Mức lãi suất 3,5%/năm cho chương trình cơ khí theo Nghị quyết số 11/2000/NQ-
CP của Chính phủ, cơ sở đóng tàu biển theo Quyết định số 117/2000/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ.
- Mức lãi suất 4,2%/năm đối với các dự án đầu tư vào một số lĩnh vực dệt may
theo Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Mức lãi suất 5%/năm cho doanh nghiệp mua tàu biển theo Quyết định số
117/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Mức lãi suất 5,4%/năm đối với các dự án vay vốn ĐTPT của Nhà nước từ 30-3-
2004 trở về trước.
Việc có nhiều mức lãi suất ưu đãi đã gây khó khăn trong quản lý, tạo sự bất bình
đẳng trong ưu đãi đầu tư và tăng thêm gánh nặng cho NSNN. Vì vậy, cần thiết phải đưa về
một mức lãi suất ưu đãi bên cạnh việc mở rộng các hình thức hỗ trợ khác như hỗ trợ
LSSĐT và bảo lãnh tín dụng đầu tư.
+ Cơ chế kế hoạch hóa:
Quỹ HTPT luôn bị động trong việc bố trí kế hoạch vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, theo chỉ đạo của Chính phủ bổ sung thêm các dự án trong năm, do đó Quỹ HTPT
phải ký hợp đồng tín dụng ngoài kế hoạch tín dụng nhà nước được Thủ tướng Chính phủ
giao hàng năm cho Quỹ HTPT.
+ Các vấn đề liên quan đến đến xử lý tài chính doanh nghiệp:
Các văn bản xử lý các vấn đề liên quan đến tài chính doanh nghiệp trong đó có
vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước không đề cập đến khoản vay của Quỹ HTPT gây
khó khăn trong việc triển khai.
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư:
Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư chưa được mở rộng chủ yếu do cơ chế, chính
sách chưa phù hợp như:
- Những dự án khó khăn mới yêu cầu được hưởng ưu đãi, tuy nhiên, không được
hưởng lãi suất ưu đãi (phải đi vay vốn ngân hàng thương mại). Như vậy, thực chất xét về
mặt chi phí và lợi ích kinh tế là không hấp dẫn các doanh nghiệp.
- Mặc dù được phép bảo lãnh 100% số vốn vay nhưng khi rủi ro Quỹ HTPT chỉ
chịu trách nhiệm 50%, còn 50% do Ngân hàng cho vay chịu rủi ro. Điều này không hấp
dẫn các ngân hàng thương mại, vì như vậy, thực chất đối với những dự án có khả năng
hoàn trả vốn vay tốt thì ngân hàng cũng chẳng cần đến sự bảo lãnh của Nhà nước mà có
thể cho vay không cần tài sản đảm bảo, còn đối với các dự án Chính phủ cần ưu đãi nhưng
khi cho vay ngân hàng vẫn phải chịu rủi ro (xem như cho vay không có tài sản đảm bảo
50%). Vì vậy các ngân hàng không tha thiết với hình thức hỗ trợ kiểu này của Nhà nước.
+ Hỗ trợ LSSĐT:
Mặc dù được coi là một trong những hình thức hỗ trợ tiên tiến của Nhà nước, sau
khi dự án đi vào hoàn thành thì sẽ hỗ trợ, nhưng qua thực tế cho thấy, hình thức này chưa
thực sự phát huy hiệu quả, bởi lẽ cách thức hỗ trợ hiện nay chưa hấp dẫn, chưa mang tính
kích thích các doanh nghiệp đi vay vốn các tổ chức tín dụng để ĐTPT vì việc cấp hỗ trợ lãi
suất chưa đủ liều lượng để kích thích, chưa đúng thời điểm và chưa có tính hỗ trợ.
- Liều lượng: Nếu tính theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được hỗ trợ
2,7%/năm (nếu đi vay ngân hàng thì lãi suất khoảng 11%/năm thì lãi suất thực vay của dự
án khoảng 8,3%/năm cao hơn tương đối so với lãi suất vay vốn tín dụng ĐTPT hiện nay là
5,4%/năm). Vì vậy, các chủ đầu tư vẫn mong muốn được vay vốn trực tiếp hơn.
- Thời điểm: Nhìn chung các dự án đều gặp khó khăn trong giai đoạn đầu thực
hiện (không có vốn và buộc phải đi vay với lãi suất cao, lãi trong thời gian thi công còn
phải nhập gốc). Như vậy, nếu Nhà nước hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp trong giai đoạn đầu
khi dự án mới đi vào khai thác hoạt động thì sẽ hợp lý hơn khi dự án đã phát huy hiệu quả
được rồi (gần như chẳng cần bất cứ sự hỗ trợ nào của Nhà nước nữa cũng vẫn hoạt động tốt).
Thay vì hỗ trợ theo số nợ thực trả như hiện nay nên đổi thành hỗ trợ theo dư nợ thực tế. Các
nhà lập định chính sách cũng không nên quan ngại về việc doanh nghiệp cố tình kéo dài thời
gian trả nợ để có dư nợ cao nhằm hướng tới sự hỗ trợ nhiều hơn của Nhà nước (vì ở đây
còn có cả lợi ích của ngân hàng, nơi sẽ chú trọng hạn chế thời hạn cho vay). Chỉ trừ khi dự
án thật sự có hiệu quả kinh tế cao thì ngân hàng mới muốn nuôi nợ (mà phần lớn các dự án
thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư thì làm gì có nhiều dự án có hiệu quả kinh tế cao để ngân
hàng muốn nuôi nợ).
+ Quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA:
Bên cạnh những nguyên nhân do vướng mắc chung về thủ tục đầu tư, thủ tục đấu
thầu, vấn đề giải phóng mặt bằng,... đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải ngân và
hiệu quả đầu tư đang được các cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ. Những bất cập cơ bản liên
quan đến cơ chế chính sách cho vay lại vốn ODA cũng là nguyên nhân quan trọng ảnh
hưởng đến tiến độ giải ngân và hiệu quả đầu tư. Những bất cập đó là:
- Cơ chế tài chính áp dụng cho các dự án cho vay lại chưa thống nhất: Cùng một
loại dự án, mỗi nguồn vốn vay áp dụng lãi suất cho vay, điều kiện cho vay khác nhau. Ví
dụ các dự án cấp nước có nơi cho vay lại với lãi suất 1%/năm, có nơi 3,5%/năm,... có địa
bàn miền núi, doanh thu không đủ bù đắp chi phí những vẫn áp dụng cơ chế cho vay lại
với điều kiện trích Ngân sách Tỉnh trả nợ,... từ đó dẫn đến việc đánh giá khả năng hoàn
vốn cho vay, hiệu quả sử dụng vốn vay của dự án không chính xác.
- Thủ tục rút vốn ODA cần được quy định chặt chẽ, cụ thể hơn đối với từng nguồn
vốn khác nhau; Quy trình, thủ tục ghi thu - ghi chi hiện còn rườm rà qua nhiều khâu dẫn
đến dẫn đến việc nhận nợ không kịp thời,... đòi hỏi phải được cải tiến đơn giản hơn.
- Trách nhiệm và nghĩa vụ của người vay vốn, người ra quyết định đầu tư chưa
được xác định rõ ràng hợp lý dẫn đến người vay vốn có tâm lý ỷ lại vào Nhà nước. Hơn
nữa các dự án sử dụng vốn ODA không phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay như
các dự án sử dụng vốn tín dụng nhà nước, trường hợp dự án không trả được nợ vay, việc
xử lý các tài sản hình thành từ vốn vay không có căn cứ pháp lý để thực hiện. Thời gian qua,
trường hợp người vay vốn không có khả năng trả nợ, NSNN đã phải trả nợ thay.
- Theo quy định hiện hành, Quỹ HTPT chỉ thực hiện việc quản lý, cho vay lại, thu
hồi vốn vay sau khi dự án đã có quyết định đầu tư và đi vào giai đoạn giải ngân (không
tham gia quá trình thẩm định dự án). Từ đó vai trò của Quỹ HTPT với trách nhiệm là
người cho vay đã bị hạn chế rất nhiều.
+ Nguyên nhân về mô hình tổ chức
Mặc dù được tổ chức theo mô hình Quỹ HTPT, nhưng trên thực tế hoạt động của
Quỹ HTPT hiện nay như một ngân hàng chính sách, với một số đặc điểm thể hiện rõ là:
- Được Nhà nước cấp vốn điều lệ và thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thực thi chính sách hỗ trợ ĐTPT và xuất khẩu của Nhà nước thông qua các hình
thức tín dụng.
- Các nhiệm vụ triển khai một mặt vừa hỗ trợ trực tiếp, vừa gián tiếp, tạo "vốn
mồi" nhằm thúc đẩy đầu tư toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Các nghiệp vụ mang tính ngân hàng: Huy động vốn, cho vay, thu hồi nợ vay,...
Sự chưa đồng bộ và thống nhất giữa chính sách hỗ trợ và mô hình tổ chức có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc triển khai chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Mô hình Quỹ HTPT
hiện nay một mặt vừa mang tính chất là tổ chức tài chính, một mặt vừa hoạt động như một
ngân hàng chính sách, thiếu tự chủ,... những vấn đề này là nguyên nhân dẫn đến khó khăn
trong việc nâng cao hiệu quả, mở rộng hoạt động, mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ
hỗ trợ kỹ thuật và kinh nghiệm từ nước ngoài,... hạn chế khả năng phát huy tính tức cực
của một ngân hàng chính sách.
+ Công tác quy hoạch phát triển tổng thể còn nhiều bất cập
Số lượng chương trình của Chính phủ được đầu tư ồ ạt trong khi chưa làm tốt công
tác quy hoạch, công tác nghiên cứu thị trường, đầu tư dàn trải, không có hoặc không tuân
thủ theo quy hoạch được duyệt, đầu tư thiếu đồng bộ giữa nhà máy và vùng nguyên liệu
(phần lớn vùng nguyên liệu là do dân tự đầu tư, tự phát, chất lượng giống không phù hợp
với yêu cầu sản xuất, năng suất cây trồng thấp, giá cả bấp bênh, phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên) dẫn đến nhiều nhà máy xây dựng xong không có đủ nguyên liệu để sản xuất. Một số
nhà máy sản xuất cầm chừng hoặc phải di dời địa điểm, nhiều dự án phải thay đổi chủ
trương đầu tư, một số nhà máy mới triển khai đã phải thay đổi máy móc, thiết bị, công suất
do nhập máy thế hệ cũ.
Công tác dự báo phát triển còn yếu, một phần do năng lực nghiên cứu còn hạn chế,
chưa có tầm nhìn chiến lược, một phần do thiếu tính khách quan, chưa bắt kịp xu hướng
khu vực hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế.
Quy hoạch phát triển vùng còn hạn chế. Các địa phương đều mong muốn phát
triển tất cả các ngành có thể có tại địa phương mình để có thể phát triển toàn diện nên xuất
hiện tình trạng đầu tư theo phong trào, làm mất cân bằng cung cầu, hiệu quả đầu tư kém.
+ Quá trình triển khai dự án của chủ đầu tư chưa tốt
Tổ chức thực hiện dự án của nhiều chủ đầu tư chưa tốt. Nhiều dự án đầu tư triển
khai chậm các thủ tục xây dựng cơ bản như thiết kế dự toán, tổ chức đấu thầu, công tác giải
phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư,... Nhiều trường hợp không có sự thống nhất về
cơ cấu nguồn vốn đầu tư của dự án giữa báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê duyệt
dự án,... ảnh hưởng lớn đến quả trình triển khai dự án, đặc biệt là trong công tác giải ngân
vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng chủ đầu tư không đảm bảo được các nguồn vốn
khác tham gia đầu tư dự án như trong quyết định đầu tư, dẫn tới sự thay đổi trong phương
án tài chính. Vì vậy, chủ đầu tư phải lập lại phương án tài chính, phương án trả nợ trình
các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
Một số chủ đầu tư còn mang nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của
Nhà nước nên chưa chủ động sáng tạo trong kinh doanh, một số chủ đầu tư thiếu kiến thức
về kinh tế - kỹ thuật, trách nhiệm với đồng vốn chưa cao,... do đó không phát huy được
hiệu quả của vốn đầu tư.
Xuất hiện xu hướng nhiều chủ đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi để đăng ký
vay vốn tại Chi nhánh Quỹ, sau đó mới tiếp tục lập thiết kế tổng dự toán; vì thế có những
dự án sau khi thẩm định xong nhưng vẫn chưa có thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán để ký hợp
đồng tín dụng.
Có những doanh nghiệp có năng lực quản lý điều hành kém, tình hình tài chính và
sản xuất kinh doanh kém do đó, nếu giao cho những doanh nghiệp này làm chủ đầu tư và
vận hành quản lý khi dự án đi vào hoạt động thì có khả năng sẽ không phát huy được hiệu
quả như tính toán và trong thực tế đã xảy ra nhiều dự án không trả được nợ vay do quản lý
điều hành kém và do tình hình sản xuất kinh doanh trước đây thua lỗ.
+ Năng lực thẩm định dự án của Quỹ HTPT còn hạn chế
Năng lực thẩm định dự án, quản lý tín dụng của hệ thống Quỹ HTPT mặc dù đã có
nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn những hạn chế do đó
chất lượng thẩm định chưa cao, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Trình độ, kỹ năng thẩm định giữa các Chi nhánh Quỹ không đều nhau. Có những
chủ đầu tư vay nhiều dự án tại nhiều Chi nhánh Quỹ nhưng quá trình thẩm định giữa các
Chi nhánh không đồng bộ, chất lượng thẩm định và đánh giá của thẩm định nhiều khi
không thống nhất với nhau.
+ Việc phân tích phương án tài chính, phương án trả nợ vay của dự án chủ yếu trên
cơ sở lý thuyết, chưa căn cứ vào thực tiễn nên độ tin cậy thấp.
+ Trong phân tích tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp qua các năm chưa đề cập đến yếu tố trượt giá do lạm phát, những ảnh hưởng tác
động của cơ chế, chính sách. Do đó, việc so sánh giữa các năm bị giảm ý nghĩa, cũng vì
vậy việc dự tính trong tương lai sẽ có độ tin cậy thấp. Đây là nguyên nhân làm tăng độ sai
lệch giữa kết quả tính toán khi thực hiện thẩm định với kết quả thu được khi đưa dự án vào
khai thác sử dụng.
- Trình độ, năng lực cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ làm ảnh hưởng
đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư và quản lý tín dụng. Quỹ HTPT với
khoảng gần một nửa lực lượng cán bộ viên chức là cán bộ trẻ, bên cạnh những ưu điểm
của tuổi trẻ cũng có những mặt hạn chế về kinh nghiệm công tác và còn chưa cập nhật
được đầy đủ các thông tin, kiến thức về xã hội, khoa học kỹ thuật ở trong và ngoài nước.
+ Công tác kiểm tra, kiểm soát chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Theo quy định hiện nay, nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chủ trương,
chính sách, chế độ thể lệ nghiệp vụ trong hệ thống Quỹ HTPT được giao nhiệm vụ cho hai
bộ phận chính: Ban Kiểm soát, Ban Kiểm tra Giám sát và Pháp chế. Hai bộ phận này có
chức năng gần giống nhau nhưng hoạt động độc lập với nhau. Ban Kiểm soát chịu trách
nhiệm trước Hội đồng quản lý kiểm soát toàn bộ hoạt động của Quỹ HTPT và hoạt động
theo chương trình đã được Hội đồng quản lý thông qua. Ban Kiểm tra giám sát và pháp
chế có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc Quỹ kiểm tra giám sát nội bộ các hoạt
động của Quỹ HTPT trong việc chấp hành chủ trương, chính sách, chế độ thể lệ nghiệp vụ,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT, bảo đảm an toàn tài sản của Quỹ
HTPT và của khách hàng, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực và tham nhũng
trong toàn hệ thống Quỹ HTPT. Trong thời gian qua sự phối hợp giữa hai bộ phần này
chưa đồng bộ nên xuất hiện tình trạng kiểm tra chồng chéo, hiệu quả thấp.
Tóm lại, việc nhìn nhận một cách toàn diện hoạt động của Quỹ HTPT trong thời
gian qua, từ đó đánh giá những kết quả đã đạt được, những điểm còn hạn chế và nguyên
nhân của các hạn chế là rất quan trọng đối với Quỹ HTPT. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng
hơn là phải tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng ĐTPT của Quỹ HTPT
trong thời gian tới là điều cần thiết. Các giải pháp cụ thể sẽ được trình bày ở chương tiếp
theo.
Chương 3
một số Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển qua Quỹ hỗ trợ phát triển
3.1.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
qua Quỹ Hỗ trợ phát triển
Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm,
ngành và lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế đất nước ta đối mặt với sự cạnh
tranh từ các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, để nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa trong nước trước khi phải thực hiện các cam kết quốc tế, chúng ta cần
tăng cường các biện pháp hỗ trợ cho các ngành, các doanh nghiệp, các mặt hàng sản xuất
trong nước mà đất nước có lợi thế. Về lâu dài việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các hoạt
động sản xuất trong nước cũng như xuất khẩu hiện nay sẽ không còn phù hợp do Việt Nam
phải thực hiện cam kết theo các hiệp định song phương và đa phương.
Trong điều kiện hiện nay, việc kết hợp giữa tín dụng ĐTPT trung, dài hạn với tín
dụng ngắn hạn HTXK, kết hợp giữa hỗ trợ trực tiếp với các hình thức hỗ trợ gián tiếp
trong chính sách tín dụng HTPT của Nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện nâng cao
khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế đang đến gần. Do đó, cần phải giảm
dần hình thức hỗ trợ trực tiếp và mở rộng các hình thức hỗ trợ gián tiếp như: Đẩy mạnh
việc thực hiện hỗ trợ LSSĐT, bảo lãnh tín dụng đầu tư, khuyến khích các tổ chức kinh tế,
các hộ kinh doanh bỏ vốn đầu tư, hoặc vay vốn các ngân hàng thương mại để phát triển
kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Thu hẹp đối tượng vay vốn trực tiếp từ Quỹ HTPT, tăng cường hỗ trợ LSSĐT,
không ưu đãi tràn lan, chỉ ưu đãi đối với những dự án, mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế
nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì không phát triển được, tập trung chủ yếu vào
những lĩnh vực quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và những dự án cấp thiết thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, đào
tạo, các chương trình thuộc diện ưu đãi này cũng phải quy định cụ thể thời hạn được
hưởng ưu đãi và thu hẹp mức lãi suất ưu đãi.
- Trong quá trình triển khai thực hiện cần bám sát văn kiện, Nghị quyết của Đảng, tư
tưởng chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP ngày 12-1-2004 về một số
giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch NSNN năm 2004 và
Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày
23-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh quản lý đầu tư xây dựng bằng
nguồn vốn NSNN.
3.1.2. Các mục tiêu hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Hoạt động của Quỹ HTPT cần hướng tới khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, là khu
vực kinh tế có vai trò quan trọng trong việc tạo ra GDP, tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động. Việc sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước thông qua các hoạt động của Quỹ
HTPT cần có trọng tâm, trọng điểm, có điều kiện, có thời hạn cho những chương trình, dự án,
sản phẩm đặc biệt quan trọng của nền kinh tế nhằm đảm bảo cho công nghiệp hóa, tăng
trưởng kinh tế, phát triển bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh hỗ trợ tràn
lan, ỷ lại vào Nhà nước, đồng thời phù hợp với nguồn lực tài chính của Nhà nước hàng năm.
- Nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ NSNN (tín dụng ĐTPT của Nhà nước) phải bố
trí đúng theo mục tiêu hỗ trợ ghi trong kế hoạch, không điều chỉnh vốn từ mục tiêu này
sang mục tiêu khác.
- Có phương án huy động vốn, đáp ứng được yêu cầu giải ngân của các dự án vay
dở dang, các dự án chuyển tiếp và các dự án nhóm A được Chính phủ giao hàng năm.
- Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần được đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm, trọng
điểm đúng đối tượng, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, thực hiện tốt
lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, nhằm tập trung nguồn lực tài chính để giải
quyết các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển qua Quỹ hỗ trợ phát triển
3.2.1. Các cơ sở khoa học của giải pháp
* Dựa vào quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX và báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX tại Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
định hướng chính sách ĐTPT Nhà nước:
- Chính sách đầu tư Nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng ĐTPT nguồn nhân
lực, đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động; thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác ĐTPT sản xuất kinh
doanh. Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ sử dụng hỗ trợ cho một số dự án ở
những ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ.
- Cần xác định rõ những lĩnh vực, chương trình, dự án, sản phẩm quan trọng có ý
nghĩa nền tảng của nền kinh tế và có hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, quốc phòng và
an ninh của đất nước, để có chính sách HTPT phù hợp thông qua tín dụng ĐTPT của Nhà
nước;
- Cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN, khắc phục tình trạng ưu đãi
tín dụng tràn lan như hiện nay; hạn chế cho vay trước đầu tư, mở rộng các hình thức bảo
lãnh tín dụng và ưu đãi sau đầu tư.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định "Mục tiêu tổng quát của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng
với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu
quốc phòng, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp,...".
Để có thể đạt được các chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Đảng thì đầu
tư là cốt lõi của mọi vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Kết
quả của quá trình đầu tư là những năng lực sản xuất mới, trong đó có cả tài sản cố định,
vốn sản xuất kinh doanh, những công trình, năng lực sản xuất được đưa vào khai thác, sử
dụng, phát huy hiệu quả. Chính quá trình đầu tư quy định mức tăng trưởng tổng sản phẩm
trong nước (GDP) và góp phần giải quyết các nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội. Nói cách khác, khả năng huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả
vốn đầu tư của toàn xã hội nói chung, vốn đầu tư của Nhà nước nói riêng sẽ quyết định tốc
độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.
* Trên cơ sở thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua Quỹ HTPT
trong những năm vừa qua
Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua
Quỹ HTPT trong thời gian qua để từ đó xác định được các hạn chế cũng như nguyên nhân
của các hạn chế là căn cứ cơ bản và quan trọng để đề ra các giải pháp hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua của Quỹ HTPT trong thời gian
tới.
* Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực về
chính sách tín dụng đầu tư phát triển
Như đã phân tích trong chương I, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, vai trò của chính sách HTPT của Nhà nước đối với nền kinh tế đất nước
thể hiện rất rõ ở các nước trên thế giới và trong khu vực. Kinh nghiệm của các nước trên
thế giới, nhất là một số nước Đông á (Hàn Quốc, Trung Quốc) đã khẳng định vai trò
quan trọng của nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Đối với Trung Quốc, một quốc gia có đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội khá
tương đồng với Việt Nam, trong thời gian qua đã thực hiện rất thành công công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội, đã thực hiện tốt hình thức tín dụng đầu tư của Nhà nước và đây là
nguồn vốn đầu tư rất quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nhật Bản cũng có chính sách tín dụng đầu tư và cơ quan thực hiện là Ngân hàng
phát triển Nhật Bản (JDB) - một ngân hàng chính sách do Bộ Tài chính quản lý nhằm cho
vay các dự án ĐTPT cơ sở hạ tầng và những dự án nhà nước khuyến khích đầu tư, có thời
gian thu hồi vốn dài. Thời gian đầu khi đang trong quá trình khôi phục lại cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế sau chiến tranh, nguồn vốn tín dụng đầu tư tăng trưởng rất lớn. Đến
giai đoạn có trình độ phát triển cao như hiện nay, Nhật Bản tập trung nguồn vốn cho vay
của Nhà nước dưới hình thức hỗ trợ tín dụng xuất khẩu để tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong
nước ra thị trường nước ngoài.
Qua thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy, tín dụng ĐTPT của Nhà nước
là một giải pháp cần thiết và quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
nước.
ở Việt Nam, Quỹ HTPT là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách tín
dụng HTPT của Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, khi các khuôn khổ pháp lý cùng các
điều kiện hoạt động khác còn chưa ổn định, hoàn thiện nên các hoạt động của Quỹ HTPT
bên cạnh những mặt được vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế cần phải được khắc
phục. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước qua Quỹ HTPT có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là trong giai
đoạn bắt đầu xây dựng cơ sở vật chất để phát triển kinh tế - xã hội; khi năng lực sản xuất
và trình độ phát triển của nền kinh còn ở mức thấp.
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
Giải pháp 1: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và nâng cao hiệu quả công
tác quản lý và điều hành nguồn vốn trong toàn hệ thống.
Với mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ các dự án ĐTPT của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có
tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Do đó, trong thời gian tới nhu cầu về nguồn vốn dành cho tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ
không ngừng tăng cả về quy mô và số lượng. Tuy nhiên, cơ chế huy động các nguồn vốn
cần tiếp tục hoàn thiện nhằm tạo động lực, sức hấp dẫn để khuyến khích, thu hút được các
nguồn vốn nhàn rỗi hoặc đang được sử dụng kém hiệu quả trong xã hội.
Đối với các tổ chức tài chính trong nước được Thủ tướng Chính phủ chỉ định huy
động vốn (Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện,...) cho Quỹ HTPT,
trên cơ sở khuôn khổ quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Quỹ HTPT cần xây dựng cơ
chế khuyến khích về lãi suất huy động vốn, điều kiện và đặc biệt là cơ chế phí huy động
vốn. Lãi suất huy động vốn của các tổ chức này phải đảm bảo được lợi ích của cả tổ chức
đi huy động lẫn tổ chức được huy động. Điều kiện và cơ chế huy động vốn phải minh
bạch, thông thoáng. Thời hạn huy động vốn cần được cải thiện cho phù hợp với thời hạn
cho vay vốn, tránh trường hợp bị động về nguồn vốn do phải huy động vốn ngắn hạn để
cho vay trung, dài hạn.
Cần tiếp tục mở rộng các hình thức huy động vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
thông qua hình thức phát hành trái phiếu đầu tư với lãi suất và thời hạn hấp dẫn. Từng
bước tiến tới gia nhập vào thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động vốn cho ĐTPT.
Cần cụ thể hóa và thống nhất về chính sách và cơ chế huy động vốn, thực hiện
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc huy động và sử dụng vốn tín dụng ĐTPT
của Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác huy động tại các Chi nhánh Quỹ. Các Chi nhánh Quỹ trong
quá trình triển khai nghiệp vụ huy động vốn, bên cạnh việc nâng cao chất lượng phục vụ
cần tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh, các
Sở ban, ngành của Tỉnh, các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn địa phương
Tiếp tục phối hợp nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách, cơ chế huy động và sử
dụng vốn ODA trong các ngành, các vùng lãnh thổ sao cho phù hợp với điều kiện và năng
lực quản lý và thực hiện của phía Việt Nam trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hỗ
trợ các nhà tư vấn, nhà thầu Việt Nam tham gia được nhiều hơn vào việc thực hiện các dự
án sử dụng vốn ODA cho vay lại. Nhà nước cần xây dựng quy hoạch huy động và sử dụng
vốn ODA cho vay lại gắn với quy hoạch phát triển chung, tuân thủ chiến lược và cụ thể
hóa chiến lược phát triển dài hạn, bước đi trong từng thời kỳ.
Bên cạnh nhiệm vụ huy động vốn để thực hiện nhiệm vụ được giao thì một yêu
cầu quan trọng không kém là phải tổ chức công tác điều hành nguồn vốn có hiệu quả.
Với mục tiêu chính là huy động tối đa các nguồn lực dành cho tín dụng ĐTPT
đồng thời giảm được cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN, trong điều kiện công tác tổ chức
thanh toán của Quỹ HTPT còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý điều hành nguồn vốn trong
hệ thống Quỹ HTPT cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản:
- Quỹ HTPT Trung ương phải là trung tâm điều chuyển, điều hòa vốn. Toàn bộ
các nguồn vốn phát sinh tại các Chi nhánh Quỹ (như vốn thu hồi nợ vay, vốn huy động,...)
phải được tập trung vị Quỹ Trung ương. Tuy nhiên, cần xác định tập trung không có nghĩa
là mọi nguồn vốn phát sinh tại Chi nhánh Quỹ điều phải chuyển về Quỹ Trung ương. Chi
nhánh Quỹ chỉ phải điều chuyển vốn về Quỹ Trung ương khi nguồn vốn tại Chi nhánh
Quỹ vượt quá một hạn mức nhất định, tạm gọi là hạn mức tồn ngân. Hạn mức tồn ngân do
Quỹ Trung ương quy định cho từng Chi nhánh Quỹ, được xác định trên cơ sở định mức
chi tiêu thường xuyên, nhu cầu chi trả vốn huy động dự kiến và nhu cầu giải ngân vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, việc xác định
hạn mức tồn ngân được Quỹ Trung ương xác định trên cơ sở đặc điểm và tình hình thực tế
của mỗi Chi nhánh Quỹ, có tính đến việc điều hòa, điều chuyển chung trong toàn hệ thống.
- Tăng cường công tác điều chuyển, điều hòa vốn trong hệ thống Quỹ thông qua
cơ chế phí điều chuyển vốn và phí sử dụng vốn. Là một tổ chức hạch toán tập trung toàn
ngành, cả hệ thống trước đây chưa phải huy động vốn trên thị trường (từ năm 2001 trở về
trước, nguồn vốn của Quỹ HTPT đều được Chính phủ chỉ định), với hệ thống thanh toán
chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu vị thời gian, thì việc triển khai áp dụng các quy định
trên là một nỗ lực rất lớn của cả hệ thống Quỹ. Trong thời gian tới, hệ thống Quỹ cần phải
nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể hoàn thành nhiệm vụ được Chính phủ giao.
Giải pháp 2: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án
Công tác thẩm định các dự án để tham gia ý kiến trước khi các cấp có thẩm quyền
quyết định đầu tư có một vai trò hết sức quan trọng, để nâng cao chất lượng công tác thẩm
định các dự án vay vốn, Quỹ HTPT cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các Quy chế, Quy
trình công tác thẩm định, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn vị công tác thẩm định
cho các bộ tín dụng. Để làm tốt công tác này, cần chú ý tới một số vấn đề sau:
- Tập trung kiện toàn bộ máy làm công tác thẩm định từ Trung ương đến các Chi
nhánh Quỹ: Cán bộ làm công tác thẩm định phải là những người có năng lực, được đào tạo
cơ bản, có hiểu biết vị kinh tế, chính trị, xã hội và phải có nhiệt tình và tinh thần trách
nhiệm cao trong công việc. Tại các Chi nhánh Quỹ cần phân định rõ hơn khâu thẩm định
và khâu quyết định cho vay, nâng cao tính độc lập của bộ phận thẩm định trong việc thực
hiện nhiệm vụ thẩm định dự án đầu tư.
- Cần phải đánh giá các chỉ tiêu vị hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, tức là đánh
giá hiệu quả của một dự án đầu tư trên quan điểm tổng thể, đánh giá mức độ đóng góp vào
việc phát triển nền kinh tế quốc dân và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô chung, đồng
thời, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp thẩm định phương án tài
chính và hiệu quả của dự án đầu tư có xét tới yếu tố thời gian của tiền tệ thông qua các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật, phân tích điểm hòa vốn, thời gian thu hồi vốn đầu tư; quan tâm đến công tác
dự báo và thông tin cần được chú trọng hơn nữa đặc biệt là thông tin về thị trường, giá cả. Tổ
chức khai thác thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ thống Ngân hàng.
- Công tác thẩm định phải đánh giá chính xác vị năng lực và khả năng tài chính
của chủ đầu tư. Chủ đầu tư được hiểu theo nghĩa rộng gồm đơn vị thực hiện dự án, cơ quan
cấp trên của chủ dự án (Tổng công ty Nhà nước nếu chủ dự án là đơn vị thành viên Tổng
công ty) và cá nhân người đứng đầu đơn vị thực hiện dự án. Việc đánh giá chủ dự án phải
được thực hiện trên các phương diện chủ yếu: Năng lực pháp lý, uy tín trong giao dịch,
khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, tài sản thế chấp, triển vọng ngành kinh doanh.
- Công tác thẩm định phải được tiến hành theo suốt một quá trình: Thẩm định dự
án khả thi, thẩm định trong quá trình triển khai dự án (thẩm định phiếu giá thanh toán) và
thẩm định khi dự án đưa vào sản xuất, sử dụng. Toàn hệ thống Quỹ HTPT từ Trung ương
đến địa phương cần nghiêm túc thực hiện các quy định về phân cấp và đối tượng vay vốn.
Giải pháp 3: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống các Quy chế, Quy trình nghiệp vụ quản
lý vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Quỹ HTPT cần nghiên cứu xây dựng quy trình nghiệp vụ khoa học theo phương
châm tránh gây phiền hà cho khách hàng, như:
- Chủ dự án chỉ phải liên hệ với một đầu mối duy nhất, không phải đi lại nhiều lần
và qua nhiều Phòng, Ban tại Chi nhánh và Quỹ Trung ương.
- Tổ chức quy trình nghiệp vụ khoa học, có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng thẩm
định với các phòng nghiệp vụ để đảm bảo tính chính xác và khách quan của các chỉ tiêu
đánh giá về tính khả thi của dự án đầu tư và năng lực vay vốn của chủ dự án.
- Thực hiện tốt công tác công khai quy trình nghiệp vụ để khách hàng năm rõ thủ
tục và các bước công việc khi giao dịch tại hệ thống Quỹ HTPT.
- Tích cực tìm hiểu và học hỏi từ các mô hình tài chính phát triển tương tự ở các
nước trên thế giới và trong khu vực, từ đó nắm bắt được kinh nghiệm và vận dụng thực
tiễn trong hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, cần tăng cường phân cấp cho Chi nhánh Quỹ trong việc thẩm định,
quyết định cho vay. Cùng với sự trưởng thành của Quỹ HTPT, năng lực chỉ đạo về chuyên
môn và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ các Chi nhánh Quỹ đã được nâng cao thêm một
bước. Vì vậy, việc đẩy mạnh phân cấp cho Chi nhánh Quỹ trong việc thẩm định, quyết
định cho vay sẽ tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tiếp cận nhanh và xử lý cơ hội kinh doanh
được thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thời gian và thủ tục đầu tư.
Theo quy định hiện hành, Tổng giám đốc Quỹ HTPT quyết định hoặc ủy quyền
cho Giám đốc Chi nhánh Quỹ xem xét và quyết định việc cho vay dự án. Hiện nay. Từ
năm 2003, thực hiện chủ trương phân cấp mạnh hơn cho cơ sở, Tổng giám đốc Quỹ đã ủy
quyền hầu hết cho các Chi nhánh Quỹ quyết định cho vay các dự án nhóm C. Sắp tới nên
ủy quyền mạnh hơn cho các Chi nhánh Quỹ đã có đủ năng lực và điều kiện. Ngoài việc
nâng cao năng lực ở các địa phương, cũng cần thấy rằng khi ủy quyền thì Tổng giám đốc
Quỹ vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới. Như vậy, nếu được phân cấp (ai làm người ấy
chịu) thì chắc chắn Quỹ HTPT sẽ mạnh dạn thực hiện hơn nữa nhờ việc phân định trách
nhiệm rõ ràng.
Theo quy định tại Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30-01-2003 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày
05-5-2000 của Chính phủ thì việc Quỹ HTPT ủy quyền các dự án nhóm B, C tùy thuộc
năng lực và điều kiện của các Chi nhánh Quỹ là phù hợp. Theo đó, kiến nghị:
- Tổng giám đốc Quỹ HTPT thay vì ủy quyền thì phân cấp luôn cho Giám đốc các
Chi nhánh Quỹ thẩm định và quyết định cho vay đối với các dự án nhóm B, C.
- Chủ đầu tư là các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực lập báo cáo nghiên cứu
khả thi phù hợp với quy định của Nhà nước và đảm bảo tính khả thi của dự án với tầm
nhìn phù hợp khả năng thu hồi vốn của dự án.
Đẩy mạnh phân cấp nhưng không có nghĩa là phân cấp tràn lan. Phân cấp cần gắn
liền với năng lực và khả năng huy động vốn của từng Chi nhánh Quỹ và phải đảm bảo có
sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Trung ương, phải thực hiện nghiêm túc
các quy chế và quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản của Nhà
nước và của đội ngũ cán bộ trong hệ thống Quỹ.
Giải pháp 4: ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng thông tin trong
toàn hệ thống.
Tin học hóa hiện nay đang là một vấn đề then chốt đối với bất cứ một tổ chức nào.
Hiện trạng hệ thống tin học và ứng dụng công nghệ thông tin của Quỹ HTPT còn hạn chế.
Quỹ HTPT cần xây dựng được một hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin với các phần
mềm đủ mạnh, sử dụng thống nhất từ trung ương tới địa phương nhằm đáp ứng các yêu
cầu xử lý nhanh, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, phục vụ tác nghiệp và chỉ đạo
điều hành. Một hệ thống được tin học hóa tốt có nghĩa là đáp ứng được các yêu cầu về lưu
trữ, xử lý và truy xuất thông tin kịp thời, đẩy đủ, và chính xác. Đồng thời, hệ thống được
tin học hóa còn đòi hỏi có sự kết nối và thông tin với các hệ thống bên ngoài theo những
nguyên tắc bảo mật đủ độ tin cậy. Có một hệ thống được tin học hóa cao sẽ là một điều
kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng các mặt công tác khác, đặc biệt là thẩm
định dự án và quản lý tín dụng.
Giải pháp 5: Đẩy mạnh công tác thu hồi và xử lý nợ vay
Công tác thu hồi nợ vay là công việc nặng nề và hết sức quan trọng với hệ thống
Quỹ HTPT. Các dự án do Quỹ HTPT cho vay bên cạnh hiệu quả kinh tế thì vấn đề hiệu
quả xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn được đặt ra với các dự án này. Vì
vậy, các dự án vay vốn tại Quỹ HTPT thường có rủi ro cao do số tiền vay lớn, thời hạn cho
vay dài. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đẩy mạnh công tác thu nợ, xử lý nợ càng trở nên quan
trọng.
Cần phân định rõ trách nhiệm trong công tác thu hồi và xử lý nợ vay đối với từng
cấp (cơ quan Quỹ Trung ương và các Chi nhánh Quỹ HTPT các tỉnh, thành phố).
- Tại cơ quan Quỹ Trung ương:
+ Thường xuyên rà soát toàn bộ kế hoạch thu nợ của từng dự án, để giao đúng,
giao đủ kế hoạch thu nợ cho các Chi nhánh Quỹ.
+ Đối với các dự án có nguồn trả nợ từ Ngân sách Trung ương, cần chủ động làm
việc với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải... để bố trí bổ sung
nguồn trả nợ đủ cho Quỹ theo hợp đồng tín dụng.
+ Theo dõi chặt chẽ tình hình nợ quá hạn, lãi treo, nên tổ chức các đoàn đốc thu tại
các Chi nhánh Quỹ có nợ tồn đọng nhiều hoặc mới phát sinh mà Chi nhánh Quỹ chưa có
biện pháp xử lý hiệu quả.
+ Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để triển khai thực hiện Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp xử lý nợ vay vốn ĐTPT để đóng mới, cải
hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ.
+ Cần sớm tiến hành xây dựng quy chế, quy trình về xử lý nợ vay vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước; xây dựng chế tài xử lý trách nhiệm trả nợ vay vốn tín dụng ĐTPT
của Nhà nước đối với các chủ đầu tư chây ỳ, cố tình chiếm dụng vốn của Nhà nước.
+ Nghiên cứu áp dụng thí điểm hình thức thu hồi nợ thông qua Công ty mua bán
nợ của Bộ Tài chính đối với một số dự án.
+ Cần xây dựng cơ chế gắn chặt hơn kết quả thu hồi nợ vay với quỹ lương được
hưởng của từng Chi nhánh.
- Tại Chi nhánh Quỹ HTPT các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương:
+ Quán triệt sâu sắc tới từng phòng, từng cán bộ về tầm quan trọng của công tác
thu hồi nợ vay, để mỗi phòng, mỗi cán bộ thấy rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
trong công tác này.
+ Rà soát lại toàn bộ dự án. Phân tích thực trạng tài chính và hoạt động sản xuất
kinh doanh của Chủ đầu tư để xác định khả năng trả nợ trong hiện tại và tương lai, từ đó có
biện pháp thu nợ cụ thể đối với từng doanh nghiệp. Bám sát các nguồn thu của dự án để
kịp thời đôn đốc chủ đầu tư hoàn trả nợ vay theo hợp đồng tín dụng.
+ Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Tổng công ty và Chính quyền địa phương
để được hỗ trợ các biện pháp thu hồi nợ. Đối với các dự án có nguồn trả nợ từ ngân sách
địa phương, đề nghị ủy ban nhân dân tỉnh bố trí đủ nguồn trả nợ. Trường hợp chưa được
bố trí đủ nguồn trả nợ, Chi nhánh Quỹ nên tạm ngừng giải ngân các dự án đầu tư thuộc
kinh tế địa phương.
+ Việc đề xuất tháo gỡ khó khăn của chủ đầu tư phải đảm bảo mục tiêu nâng cao
khả năng trả nợ của chủ đầu tư và khả năng thu nợ của Quỹ trên cơ sở phân tích thấu đáo
tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư, tránh tình trạng thỏa
hiệp với chủ đầu tư, gây thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước và của Quỹ HTPT.
+ Có cơ chế gắn kết quả thu hồi nợ vay với tiền lương của từng cán bộ Chi nhánh
Quỹ.
Giải pháp 6: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành công của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế
độ và là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng".
Có thể khẳng định, chất lượng hoạt động của hệ thống Quỹ HTPT trước hết phụ
thuộc vào trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ viên chức Quỹ
HTPT. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Quỹ HTPT gắn liền với việc nâng cao
trình độ chuyên môn, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ viên
chức Quỹ HTPT.
Để thực hiện được yêu cầu trên, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao
và mở rộng trong năm 2004 và các năm tiếp theo, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ viên
chức của hệ thống Quỹ nên tập trung vào các hướng chủ yếu sau:
- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ viên chức theo yêu cầu công việc. Nhằm thực
hiện yêu cầu này, Quỹ HTPT trước hết phải xác định chính xác nhu cầu đào tạo để có kế
hoạch đào tạo phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả.
- Trên cơ sở định mức biên chế được giao, để nâng cao chất lượng cán bộ, Quỹ
HTPT cần chú trọng việc tuyển dụng cán bộ có trình độ đại học loại khá trở lên thuộc các
chuyên ngành tài chính, ngân hàng, ngoại thương,... hệ chính quy các trường Đại học công
lập. Có biện pháp khuyến khích cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ; cử
cán bộ trẻ, có trình độ có năng lực thuộc diện quy hoạch phát triển lâu dài đi đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao.
- Định kỳ hàng năm, tổ chức công tác kiểm tra sát hạch đối với cán bộ viên chức
trong cơ quan.
Giải pháp 7: Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần được thực hiện thường xuyên, kịp thời và
trở thành một trong những hoạt động cơ bản của hệ thống Quỹ HTPT. Thông qua công tác
kiểm tra để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định, có hiệu quả, tránh thất
thoát lãng phí và bảo vệ được cán bộ,...
Công tác kiểm soát phải được thực hiện ngay từ khâu đầu tiên, tức ngay từ khi văn
bản chính sách ra đời (các văn bản của Quỹ ban hành hướng dẫn nghiệp vụ) nhằm có được
hiệu quả thực thi cao nhất, tránh trường hợp kiểm tra kiểm soát chỉ giải quyết hậu quả, khi
có phát sinh vụ việc, tức đã đến giai đoạn cuối của vấn đề.
Cần phải áp dụng nhiều hình thức kiểm tra, kiểm soát nhằm không ảnh hưởng đến
việc thực hiện công tác chuyên môn tại đơn vị bị kiểm tra nhưng vẫn thực hiện nhiệm vụ
được giao. Các hình thức có thể áp dụng kiểm tra trước, trong và sau khi thực hiện quá
trình công tác, kiểm tra từ xa, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất, thông tin báo cáo định kỳ,...
Các Đoàn kiểm tra của Quỹ Trung ương trước khi tiến hành kiểm tra tại các Chi
nhánh Quỹ cần xây dựng đề cương kiểm tra cụ thể, quán triệt đến từng cán bộ trong
Đoàn. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện sai phạm
cần làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể; đề xuất hướng xử lý cụ thể đồng thời thông báo
rút kinh nghiệm trong toàn hệ thống. Các vấn đề nghiệp vụ vướng mắc phát hiện trong
quá trình kiểm tra cần được Quỹ Trung ương xử lý kịp thời.
Các sai phạm của tập thể, cá nhân khi bị phát hiện cần được xử lý nghiêm, phải
đạt được yêu cầu răn đe, phòng ngừa chung trong toàn hệ thống, tránh trường hợp khi dự
kiến kỷ luật thì "đầu voi", khi tiến hành kỷ luật lại là "đuôi chuột".
Giải pháp 8: Đẩy mạnh công tác hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Việt Nam đang từng bước thực hiện cam kết AFTA, hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, nên các doanh nghiệp, bên cạnh những cơ hội lớn cũng đang phải chịu những sức
ép cạnh tranh ngày càng lớn từ hàng hóa nhập khẩu. Để có thể tạo lập được một "thế
đứng" vững vàng khi cạnh tranh trở lên gay gắt hơn, trong điều kiện xuất phát điểm hạn
chế, các doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.
Mặc dù vậy, tiến trình hội nhập đòi hỏi chúng ta phải giảm dần sự hỗ trợ tài chính
trực tiếp của Nhà nước cho doanh nghiệp, trong đó chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà
nước với vai trò là một bộ phận cũng phải có những thay đổi thích hợp. Trong thời gian
tới, một điều không thể tránh được của chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước là phải
giảm dần ưu đãi về lãi suất, chú trọng ưu đãi về điều kiện vay vốn, thời gian vay vốn,... và
cần phải mở rộng hình thức hỗ trợ gián tiếp, trong đó có hình thức hỗ trợ LSSĐT.
Để mở rộng hình thức hỗ trợ LSSĐT với mục tiêu chỉ cần bỏ ra một lượng "vốn
mồi" nhất định có thể huy động một lượng vốn lớn hơn nhiều lần cho ĐTPT (gấp hàng
chục lần) cần thực hiện một số giải pháp để tăng cường tính hấp dẫn của hình thức hỗ trợ
LSSĐT. Những giải pháp đó là:
- Chủ động nghiên cứu, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh mức
hỗ trợ LSSĐT linh hoạt, phù hợp với định hướng phát triển từng thời kỳ: Mức hỗ trợ
LSSĐT tác động và ảnh hưởng rất lớn đến việc chủ đầu tư lựa chọn sử dụng nguồn vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước hay sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại để đầu tư.
Theo phương pháp xác định mức hỗ trợ LSSĐT hiện nay, mức hỗ trợ ảnh hưởng
rất nhiều bởi lãi suất tín dụng ĐTPT. Mức hỗ trợ thấp dẫn đến tình trạng chủ đầu tư lựa
chọn nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước để thực hiện đầu tư dự án. Do vậy, cần điều
chỉnh mức hỗ trợ LSSĐT phù hợp để khuyến khích chủ đầu tư nghiêng về việc lựa chọn
nguồn vốn tín dụng thương mại của các tổ chức tín dụng.
- Nghiên cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền quyết định thay đổi phương thức
cấp hỗ trợ LSSĐT để đồng vốn hỗ trợ của Nhà nước đến với doanh nghiệp đúng thời điểm
doanh nghiệp cần vốn. Thực tế cho thấy, hầu hết các dự án đều gặp khó khăn trong giai
đoạn đầu khi đi vào sản xuất, đặc biệt là khó khăn về tài chính. Sản phẩm mới sản xuất ra
đòi hỏi phải có thời gian để thâm nhập thị trường, sản lượng sản xuất chưa đạt dự kiến
trong khi vẫn phải trả nợ vay các tổ chức cung ứng vốn. Các lý do này dẫn đến một điều
hiển nhiên là trong giai đoạn đầu dự án mới đi vào sản xuất, chủ đầu tư dự án cần được hỗ
trợ nhiều hơn để ổn định sản xuất kinh doanh.
- Theo quy định hiện nay, số tiền hỗ trợ LSSĐT được cấp, trên cơ sở số nợ gốc
trong hạn mà chủ đầu tư trả được cho các tổ chức tín dụng. Như vậy, càng về sau, chủ đầu
tư càng được hỗ trợ nhiều hơn khi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã ổn
định hơn, nhu cầu hỗ trợ tài chính đã giảm đi nhiều. Xuất phát từ những lý do đó, Quỹ
HTPT cần nghiên cứu, đề xuất áp dụng hình thức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ. Nguyên tắc
cơ bản của việc cấp hỗ trợ LSSĐT theo phương thức này là khi xác định mức hỗ trợ
LSSĐT Quỹ HTPT chỉ việc thay số nợ gốc trong hạn thực trả trong năm bằng dư nợ trong
hạn bình quân trong năm vào công thức để tính toán. Khi so sánh mức hỗ trợ LSSĐT theo
dư nợ với mức hỗ trợ LSSĐT theo số nợ gốc thực trả đang áp dụng cho thấy kết quả tổng
số vốn hỗ trợ cho một dự án là như nhau, chỉ khác nhau ở mức hỗ trợ trong từng năm.
Giải pháp 9: Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn hỗ trợ
xuất khẩu
Xét trên khía cạnh kinh tế, toàn cầu hóa là sự hội nhập với nền kinh tế thế giới
thông qua mở cửa và áp dụng chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Việt Nam có
thể tham gia vào thị trường thương mại thế giới trên nguyên tắc có đi có lại, không phân
biết đối xử theo quy chế tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Sự mở rộng và đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu không những tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn phân án rủi
ro thương mại; tuy nhiên sự lệ thuộc vào xuất khẩu sẽ khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương
bởi những biến động của thị trường thế giới.
Tỷ trọng xuất khẩu trên GDP của Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở mức
khá cao, trên 50%. Chúng ta có nhiều mặt hàng có lợi thế so sánh như gạo, cà phê, thủy
sản,... đều thuộc diện được Chính phủ cho hưởng tín dụng HTXK và giao cho Quỹ HTPT
tổ chức thực hiện. Việc cho vay HTXK là một nhiệm vụ mới đối với Quỹ HTPT, có nhiều
tiềm năng những cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng chuyên
môn cho đội ngũ cán bộ làm tín dụng xuất khẩu cần đươc quan tâm đúng mức.
Việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng HTXK không những phục
vụ cho sự phát triển kinh tế mà còn tạo điều kiện và tiền đề vững chắc để hoàn thiện nhiệm
vụ của Quỹ HTPT trong tình hình mới.
Giải pháp 10: Hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng vốn ODA
Để khắc phục những tồn tại trong quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA cho vay lại,
các giải pháp cần thực hiện là:
- Việc phân bổ nguồn vốn ODA cho vay lại cần được ưu tiên tập trung đầu tư vào
lĩnh vực hạ tầng kinh tế xã hội có khả năng hoàn vốn theo đúng Nghị định của Chính phủ
về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Cần cân nhắc khi đầu tư
vốn cho các dự án quy mô nhỏ, năng lực Chủ đầu tư hạn chế do thông lệ quốc tế rất phức
tạp đòi hỏi mất rất nhiều thời gian để tìm hiểu, triển khai dẫn đến mất tính ưu đãi của
khoản vay và cơ hội cạnh tranh của sản phẩm. Đối với những khoản vay với lãi suất không
hấp dẫn cộng với yếu tố giá thiết bị cao, chi phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao cần
xem xét, cân nhắc kỹ, thậm chí không vay.
- Cùng với việc nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn và trách nhiệm của cơ
quan thẩm định dự án để loại trừ các yếu tố rủi ro do đánh giá không chính xác về tính khả
thi, khả năng trả nợ của dự án, Quỹ HTPT cần tham gia thẩm định phương án tài chính,
phương án trả nợ các dự án sử dụng vốn ODA trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
đầu tư để ràng buộc trách nhiệm của cơ quan cho vay lại với trách nhiệm thu hồi nợ vay
nhằm thống nhất quá trình sử dụng vốn vay với việc trả nợ nước ngoài.
- Cần nghiên cứu và áp dụng một cơ chế tài chính cho vay lại thống nhất cho từng
loại dự án nhằm đảm bảo tính công bằng, hợp lý, hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích
của chủ đầu tư khi sử dụng nguồn vốn ODA.
- Có giải pháp áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay theo hình thức bảo đảm bằng
tài sản hình thành từ vốn vay để có căn cứ pháp lý bảo đảm khả năng thu hồi cho Nhà
nước khi rủi ro xảy ra.
- Bổ sung, sửa đổi quy trình và thủ tục rút vốn ODA theo hướng phù hợp với thực
tế, đơn giản về thủ tục, giảm đầu mối, nâng cao vai trò của hệ thống Quỹ HTPT trong quá
trình giải ngân.
- Cải tiến trình tự và thời gian kiểm soát hồ sơ rút vốn, giảm thủ tục phiền hà nhằm
góp phần thúc đẩy tiến độ giải ngân đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính theo chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
- Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay; tập trung vào
việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA cho vay lại thông qua hệ thống Quỹ HTPT để đề
xuất những giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
ODA không những mang lại lợi ích cho đất nước trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế
mà còn nâng cao uy tín của đất nước với các nhà tài trợ, Chính phủ các nước đồng thời
khẳng định vị trí, vai trò của nước ta trong nền kinh tế toàn cầu.
Giải pháp 11: Hoàn thiện công tác thanh toán trong hệ thống.
Công tác thanh toán có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính, tín
dụng - những tổ chức có thực hiện nghiệp vụ huy động vốn và hoàn trả vốn huy động,
trong đó có Quỹ HTPT. Công tác thanh toán nếu không được tổ chức nhanh, gọn, hiệu quả
thì hậu quả rất khó lường, nhẹ thì gây lãng phí vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh (đối với Quỹ HTPT là giảm chênh lệch thu chi), nặng thì
làm tổ chức đó mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản.
- Để hoàn thiện công tác thanh toán ở Quỹ HTPT, về mặt cơ chế chính sách, Quỹ
HTPT phải được tham gia các hệ thống thanh toán và các dịch vụ thanh toán gồm:
+ Thanh toán điện tử liên ngân hàng.
+ Tổ chức thanh toán điện tử nội bộ Quỹ HTPT
+ Tham gia các dịch vụ thanh toán như mở tài khoản tiền gửi và cung ứng các dịch vụ
thanh toán cho các khách hàng có quan hệ với hệ thống Quỹ HTPT:
- Hệ thống Quỹ mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước: Quỹ Trung ương mở tài
khoản tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Chi nhánh Quỹ mở tài khoản tại Chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Hệ thống Quỹ mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại.
- Các Chi nhánh Quỹ thực hiện mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng có liên quan
đến hoạt động của Quỹ.
Các khách hàng mở tài khoản tại Trung tâm thanh toán bù trừ của Quỹ HTPT:
Quỹ HTPT thực hiện mở tài khoản tại trung tâm thanh toán bù trừ trên địa bàn để phục vụ
cho việc thanh toán điện tử liên ngân hàng.
Cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng như: ủy nhiệm chi, séc,...
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ thanh
toán (chủ yếu là các thiết bị tin học, các phần mềm nghiệp vụ, đường truyền) mặc dù rất
tốn kém nhưng cần được Ban Lãnh đạo Quỹ xác định rõ là phải gấp rút đầu tư. Việc đầu tư
này không chỉ có ý nghĩa tại thời điểm hiện tại mà còn là tiền đề để hệ thống Quỹ có điều
kiện thực thi các nhiệm vụ nặng nề hơn trong tương lai. Tuy nhiên để tránh dàn trải, lãng
phí vốn, công tác tin học phục vụ nhiệm vụ thanh toán phải xác định được mục tiêu cụ thể,
xây dựng được lộ trình đầu tư phù hợp với khả năng (tài chính và cơ chế chính sách) và
nhiệm vụ được giao. Do chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức thực hiện nên quá trình lập và
triển khai đề án tin học phục vụ thanh toán của Quỹ HTPT cần được các cơ quan chuyên
môn, có kinh nghiệm tư vấn, giám sát đầy đủ, chặt chẽ.
- Về con người: Quỹ HTPT cần khẩn trương bổ sung cán bộ có năng lực, chuyên
môn để thực hiện công tác thanh toán. Tại Quỹ TW, trước mắt thành lập tổ thanh toán.
Đây là bước chuẩn bị để thành lập Trung tâm thanh toán. Tại Chi nhánh Quỹ gấp rút bổ
sung cán bộ, chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện nghiệp vụ.
Quỹ HTPT cần mời các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm đã từng công tác trong
các tổ chức tài chính tín dụng tư vấn, cộng tác xây dựng quy chế, quy trình nghiệp vụ
thanh toán, triển khai thực hiện thanh toán,...
Giải pháp 12: Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy tại Quỹ Trung ương:
Tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ nói chung và tại cơ quan Quỹ Trung ương nói
riêng đến nay đã vận hành được 4 năm, khoảng thời gian không nhiều nhưng đã đi vào hoạt
động ổn định, từng bước được củng cố kiện toàn. Mặc dù vậy, trước yêu cầu và nhiệm vụ
mới được Chính phủ giao cho, công tác đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
hiện tại nhằm kiện toàn củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy để đáp ứng yêu cầu hoạt
động theo chủ trương của Hội đồng quản lý là nội dung hết sức cấp bách và cần thiết.
Chính vì vậy, Ban lãnh đạo Quỹ đặt chương trình xây dựng đề án hoàn thiện tổ chức bộ
máy Quỹ, hoạch định những bước đi cần thiết để từ đó kiện toàn tổ chức, bố trí sắp xếp lại
đội ngũ cán bộ và đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ và coi đây là trọng tâm
của chương trình chiến lược phát triển hệ thống Quỹ.
Để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ HTPT
nói chung và cơ quan Quỹ Trung ương nói riêng phải được củng cố kiện toàn; đồng thời,
điều chuyển và bổ sung chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng đơn vị trong hệ thống
cho phù hợp với yêu cầu đổi mới ngày càng cao hơn cả chiều rộng và chiều sâu của nhiệm
vụ chính trị được Chính phủ giao cho Quỹ HTPT.
Yêu cầu đặt ra việc sắp xếp tổ chức bộ máy tại cơ quan Quỹ Trung ương nhằm đáp
ứng những nội dung cơ bản là:
- Cơ quan Quỹ Trung ương tập trung làm công tác chỉ đạo điều hành, xây dựng và
ban hành các cơ chế, chính sách, Quy chế, Quy trình nghiệp vụ và tăng cường vai trò kiểm
soát khi thực hiện phân cấp cho đơn vị nhằm đảm bảo phát huy năng lực và trách nhiệm
của cơ sở nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của Quỹ Trung ương.
- Bộ máy của Quỹ quản lý, theo dõi chặt chẽ hoạt động của toàn hệ thống theo
ngành, lãnh thổ và dự án.
- Tổng hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình hoạt động nghiệp vụ của hệ
thống, nâng cao chất lượng các báo cáo, đề xuất tham mưu cho lãnh đạo Quỹ trong quá
trình chỉ đạo, điều hành.
- Quan tâm tới tính ổn định, tính kế thừa và tổ chức phù hợp với số lượng và chất
lương đội ngũ cán bộ hiện có từ Quỹ HTPT để bộ máy mới hoạt động được hiệu quả ngay
từ đầu, đáp ứng kịp thời chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Quỹ; mặt khác, đầu mối quản lý
cũng không để xáo trộn lớn, đây cũng là dịp để thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong
khâu nghiệp vụ.
Qua nghiên cứu các mô hình tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng chính sách cho
ĐTPT của các nước trong khu vực và mô hình tổ chức bộ máy của các tổ chức tín dụng
trong nước, hiện nay tại cơ quan Quỹ Trung ương có 12 Ban, Văn phòng giúp việc Tổng
Giám đốc (Ban Kế hoạch nguồn vốn; Ban Kinh tế kĩ thuật và thẩm định, Ban Tài chính kế
toán, Ban Tín dụng đầu tư Trung ương, Ban Tín dụng đầu tư địa phương, Ban quản lý vốn
vay nước ngoài và Quan hệ quốc tế, Ban Bảo lãnh - Hỗ trợ lãi suất, Ban Tổ chức cán bộ,
đào tạo và lao động tiền lương, Ban Kiểm tra giám sát và pháp chế, Ban Thông tin tin học,
Văn phòng, Ban Kho quỹ). Theo chúng tôi trong thời gian tới cần thiết phải chuẩn hóa và
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo và gắn với chủ trương cải cách hành
chính của Chính phủ; Vì vậy, mô hình tổ chức bộ máy, một mặt phải có sự kế thừa của mô
hình tổ chức bộ máy cũ để không làm ảnh hưởng đến việc triển khai công việc chuyên
môn, đồng thời phải có điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của một số Ban cho phù hợp như:
- Chuyển nghiệp vụ Bảo lãnh về các Ban Tín dụng vì hoạt động tác nghiệp bảo
lãnh giống và gắn với nghiệp vụ tín dụng. Chuyển chức năng quản lý theo dõi cấp phát
vốn đầu tư và cho vay ủy thác, các Quỹ ĐTPT địa phương từ Ban Kế hoạch nguồn vốn
sang Ban Hỗ trợ LSSĐT.
- Hiện nay tại Quỹ Trung ương có 02 Ban Tín dụng (Ban Tín dụng Trung ương và
Ban Tín dụng địa phương), thực hiện chủ trương cải cách hành chính, theo quan điểm của
chúng tôi là nên tập trung vào 01 Ban Tín dụng khi đã tin học hóa được nghiệp vụ quản lý
tín dụng.
- Không thành lập tổ chức khi khối lượng công việc chưa có hoặc chưa nhiều như:
Ban Kho quỹ.
- Do nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao thêm, do vậy, cần thành lập thêm Ban
Tín dụng HTXK và cho vay theo hiệp định của Chính phủ (vốn ODA Việt nam) nhằm tổ
chức thực hiện công tác quan trọng là cho vay HTXK (khối lượng công việc như một ngân
hàng EXIMBANK);
- Cần thiết phải thành lập mới Phòng Pháp chế trực thuộc Tổng Giám đốc trên cơ sở
tách chức năng, nhiệm vụ này từ Ban Kiểm tra giám sát và pháp chế.
- Các Trung tâm mới sẽ được thành lập như: Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Trung tâm
Xử lý nợ và phòng ngừa rủi ro, Trung tâm Tin học... sẽ tăng thêm tính chuyên trách giúp
việc cho Tổng giám đốc về những mảng công việc lớn như đào tạo, xử lý nợ và công nghệ
thông tin.
3.3. Kiến nghị
Qua hơn 4 năm triển khai chính sách HTPT của Nhà nước, thực tế đã xuất hiện
nhiều vướng mắc ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai chính sách cũng như đến các dự
án, chủ đầu tư, các ngành. Yêu cầu thực tiễn đòi hỏi các chính sách hiện hành về tín dụng
ĐTPT của Nhà nước cần được điều chỉnh kịp thời và thích hợp để phát huy được các mặt
tích cực và khắc phục những tồn tại, vướng mắc hiện nay để chính sách ưu đãi của Nhà
nước phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Việc
hoàn thiện chính sách HTPT của Nhà nước đề nghị cần nghiên cứu theo các nội dung sau
đây:
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
* Hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Thứ nhất: Cần đa dạng hóa hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, các doanh nghiệp thường có quy mô vốn
nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, trình độ quản ở mức độ thấp nên
muốn cạnh tranh được, các doanh nghiệp trong nước rất cần sự hỗ trợ tài chính của Nhà
nước. Trong điều kiện thời gian còn lại để nước ta thực hiện các cam kết về hội nhập kinh
tế quốc tế không nhiều, Nhà nước cần gia tăng việc thực hiện chính sách HTXK, tập trung
vốn có lựa chọn cho các ngành, các doanh nghiệp, các mặt hàng có lợi thế, có cơ hội cạnh
tranh, có thời gian thu hồi vốn nhanh và tạo tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhằm tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường và tạo đà cho các doanh nghiệp đón đầu trước
cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Vì vậy, bên cạnh các hình thức HTXK như hiện nay, kiến nghị Thủ tướng Chính
phủ mở rộng thêm các hình thức hỗ trợ sau:
- Tín dụng xuất khẩu cho nhà nhập khẩu: Hình thức hỗ trợ này nhằm mục đích hỗ
trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Đây là hình thức nhằm giúp nhà nhập khẩu có thể
thanh toán tiền ngay cho nhà xuất khẩu.
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Hình thức hỗ trợ này nhằm bảo vệ các doanh
nghiệp xuất khẩu trước những rủi ro phát sinh từ những rủi ro thương mại và chính trị
trong quá trình thực hiện các giao dịch quốc tế. Thông thường, bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu khỏi bị thiệt hại do không được trả tiền sau khi giao
hàng. Trong các trường hợp khác, bảo hiểm cũng trang trải cho những mất mát mà doanh
nghiệp xuất khẩu gặp phải trước khi giao hàng do doanh nghiệp nhập khẩu không muốn
nhận hàng.
Thứ hai: Về đối tượng cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Với những phân tích nói ở chương một ta thấy, đối tượng cho vay tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước không giống với đối tượng vay vốn tín dụng thương mại. Lựa
chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần đảm bảo mục tiêu
kinh tế và mục tiêu xã hội. Một mặt, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải là
vốn "mồi" khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau phát huy tiềm năng, vật lực để
đưa vào sản xuất tạo ra của cải vật chất mới cho xã hội, mặt khác nhằm thực hiện mục tiêu
công bằng xã hội, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế - xã hội.
Theo chúng tôi, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải
được mở rộng bao gồm cả những chương trình phát triển của Chính phủ, những vùng có
điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Ngay trong việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước cũng còn có sự mâu thuẫn. Một mặt, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải
đảm bảo tính hiệu quả, phải đảm bảo sự hoàn trả vốn như bất kỳ vốn tín dụng nào khác,
mặt khác lại phải đảm bảo tính xã hội, chú trọng đầu tư vào những dự án mà phần lớn có
hiệu quả trực tiếp không cao.
Để đồng thời đáp ứng nguyên tắc tín dụng (hoàn trả) và mục đích điều tiết kinh tế
của Chính phủ, theo chúng tôi việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Đối tượng cho vay phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung
và chiến lược đầu tư phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể nói riêng.
+ Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chủ yếu phải thuộc
các lĩnh vực, các ngành, các chương trình Nhà nước cần được khuyến khích đầu tư và
những vùng kinh tế - xã hội khó khăn nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước thì không phát
triển được.
+Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải có vị trí xung
yếu trong nền kinh tế, trong từng ngành, từng vùng và lĩnh vực.
+ Đối tượng vay vốn phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành, các vùng, các lĩnh
vực phát triển. Sau khi hoàn thành sứ mạng của mình, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước sẽ được thay đổi phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
từng thời kỳ cụ thể.
+ Đối tượng vay vốn phải đảm bảo sự an toàn vốn vay (nguyên tắc chung đối với
tín dụng), đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước đúng mục đích và hiệu quả. An toàn và hiệu quả trở thành một nguyên tắc quan
trọng trong việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Như vậy, việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý, sử dụng loại vốn tín dụng này, nó thực sự
là một công cụ tài chính - tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế vĩ mô của
Nhà nước. Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần được ổn định
trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong giai đoạn 2001 - 2010
cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Đảng và Nhà nước. Như vậy không nên qui định chỉ những dự án đầu tư thuộc
vùng kinh tế khó khăn mới được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Thứ ba: Tăng tính chủ động cho Quỹ HTPT trong việc quyết định lãi suất huy
động vốn
Hiện nay, lãi suất huy động vốn của Quỹ HTPT do Thủ tướng Chính phủ quyết
định hàng năm (vay Bảo hiểm xã hội), một số nguồn do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết
định hàng tháng, hàng quý (trái phiếu Chính phủ, tiết kiệm bưu điện, huy động vốn của các
tổ chức khác...). Để chủ động và linh hoạt cho Quỹ HTPT, kiến nghị Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ:
- Đối với vốn vay các Quỹ: Tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, các
nguồn vốn và các quỹ khác của Nhà nước: Lãi suất tối đa bằng lãi suất trái phiếu Chính
phủ cùng kỳ hạn.
- Đối với các nguồn vốn huy động khác: Không cao hơn lãi suất huy động của các
ngân hàng thương mại nhà nước.
- Lãi suất huy động vốn trong từng thời kỳ do Tổng Giám đốc Quỹ HTPT quyết
định theo nguyên tắc nêu trên.
Cơ sở của kiến nghị là thực hiện theo cơ chế này sẽ giúp tăng tính chủ động của
Quỹ HTPT trong huy động vốn, cân đối vốn cho vay đầu tư các dự án, thực hiện được cơ
chế kế hoạch hóa theo hướng đổi mới. Đồng thời với lãi suất huy động không cao hơn lãi
suất huy động của các ngân hàng thương mại Nhà nước không gây ảnh hưởng đến thị
trường vốn, vẫn đảm bảo sự lành mạnh của thị trường.
Thứ tư: Mở rộng các hình thức huy động vốn của Quỹ HTPT
Theo quy định hiện nay, Quỹ HTPT không được huy động vốn ngắn hạn từ dân cư
và không được huy động vốn bằng ngoại tệ. Để Quỹ HTPT có nguồn cho vay ngắn hạn
HTXK với chi phí thấp, thay vì phải huy động vốn dài hạn với lãi suất cao để cho vay như
hiện nay, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép Quỹ HTPT được huy
động vốn ngắn hạn từ dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay ngắn hạn HTXK. Cơ chế
huy động vốn cũng nên cho Quỹ HTPT được quyền chủ động trên cơ sở khống chế mức
cấp bù chênh lệch hàng năm.
Quỹ HTPT cần được huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn cho các
dự án có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị bằng ngoại tệ.
Thứ năm: Hoàn thiện cơ chế kế hoạch hóa
Theo quy định hiện nay, Thủ tướng Chính phủ giao cho Quỹ HTPT tổng mức vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước chia theo các hình thức: Cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư
và hỗ trợ LSSĐT phân theo cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng. Căn cứ kế hoạch được Thủ tướng
Chính phủ giao, Quỹ HTPT thông báo tổng mức cho các Bộ, ngành, địa phương. Căn cứ kế
hoạch được Quỹ HTPT thông báo, các Bộ ngành, địa phương phân khai kế hoạch cho từng dự
án. Cơ chế này dẫn đến đầu tư tràn lan, không dứt điểm, giảm hiệu quả đầu tư của các dự án.
Để khắc phục tình trạng trên, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ hoàn
thiện cơ chế kế hoạch hóa theo hướng:
- Kế hoạch tín dụng HTPT của Nhà nước chỉ mang tính định hướng, hàng năm
Thủ tướng Chính phủ giao một số chỉ tiêu quan trọng, bao gồm:
+ Vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất đối với việc cho vay đầu tư trung dài hạn,
bảo lãnh tín dụng đầu tư. Vốn NSNN cấp hỗ trợ LSSĐT.
+ Vốn ODA cho vay lại.
+ Vốn NSNN cho vay đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định của Chính phủ,
+ Vốn NSNN dành cho cho vay theo các chương trình mục tiêu của Chính phủ.
+ Danh mục và mức vốn cho vay của các dự án Nhóm A và một số dự án quan
trọng khác của Chính phủ.
- Chủ đầu tư các dự án thuộc đối tượng theo quy định đăng ký trực tiếp với Quỹ
HTPT về nhu cầu vay vốn và các hình thức hỗ trợ đầu tư.
- Quỹ HTPT có trách nhiệm tổng hợp và thông báo cho các Bộ, ngành và UBND
Tỉnh, thành phố về tình hình tín dụng HTPT của Bộ, ngành và trên địa bàn. Trong trường
hợp vượt kế hoạch được giao thì Quỹ HTPT cân đối khả năng, nhu cầu đầu tư báo cáo Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.
Lý do: Thực hiện như vậy giúp tăng tính chủ động của Quỹ HTPT trong huy động
vốn trong phạm vi số vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, tạo tiền đề căn bản và thuận
lợi cho huy động vốn theo lãi suất thị trường; đồng thời Quỹ HTPT hoàn toàn chủ động
trong việc điều hành kế hoạch, quyết định cho vay và phân bổ vốn trực tiếp tới từng dự án.
Đồng thời giảm bớt các khâu trung gian trong việc lập và thông báo kế hoạch, tiết kiệm
thời gian, tạo điều kiện cho chủ đầu tư chớp thời cơ ĐTPT sản xuất.
Thứ sáu: Hoàn thiện cơ chế hỗ trợ LSSĐT
Kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ: Thay đổi phương thức cấp hỗ trợ
LSSĐT để đồng vốn hỗ trợ của Nhà nước đến với doanh nghiệp đúng thời điểm doanh
nghiệp cần vốn, đề xuất áp dụng hình thức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ. Nguyên tắc cơ bản
của việc cấp hỗ trợ LSSĐT theo phương thức này là khi xác định mức hỗ trợ LSSĐT Quỹ
HTPT chỉ việc thay số nợ gốc trong hạn thực trả trong năm bằng dư nợ trong hạn bình
quân trong năm vào công thức để tính toán. Khi so sánh mức hỗ trợ LSSĐT theo dư nợ với
mức hỗ trợ LSSĐT theo số nợ gốc thực trả đang áp dụng cho thấy kết quả tổng số vốn hỗ
trợ cho 1 dự án là như nhau, chỉ khác nhau ở mức hỗ trợ trong từng năm.
Thứ bảy: Nên thực hiện cho vay bằng ngoại tệ.
Hiện nay nhiều dự án thuộc đối tượng phục vụ có nhu cầu vay ngoại tệ, việc cho
vay các dự án cần ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị và công nghệ từ nước ngoài là con đường
ngắn nhất và tích cực nhất hỗ trợ cho dự án thay vì chỉ cho dự án vay nội tệ như hiện nay,
để dự án phải vay ngoại tệ từ thị trường hoặc phải dùng nội tệ để mua ngoại tệ đáp ứng yêu
cầu đầu tư. Cho vay bằng ngoại tệ sẽ giảm rủi ro tỷ giá trong thanh toán của các dự án khi
dùng nội tệ mua ngoại tệ để thanh toán các khoản cần thiết.
* Về giải ngân cho các dự án nhóm A và các dự án sử dụng vốn ODA
Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, đặc biệt là các dự án nhóm A, kiến nghị
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ giúp
đỡ các chủ đầu tư rà soát lại từng dự án, sớm lập lại và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
phương án tài chính, phương án trả nợ của dự án trong trường hợp phương án tài chính có
thay đổi so với dự kiến ban đầu. Trường hợp dự án đã được bố trí vốn phải khẩn trương
giải phóng mặt bằng, phê duyệt thiết kế dự toán, tổ chức đấu thầu,... để đẩy nhanh tiến độ
thực hiện dự án, tiến độ giải ngân.
Đối với các dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại: Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ kiểm tra lại hiệu quả các dự
án để có biện pháp dừng cho vay đối với một số dự án ODA hoạt động kém hiệu quả,
không có khả năng trả vốn vay, tránh gây thiệt hại lớn cho NSNN.
Những dự án vay vốn ODA chắc chắn không có thể hoàn trả, các dự án cấp nước ở
các tỉnh miền núi, xử lý rác thải, đề nghị cho thực hiện từ nguồn vốn cấp phát.
* Chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm nợ xấu cho Quỹ HTPT
Như đã trình bày ở chương 2, nợ quá hạn và lãi đến hạn chưa trả của quỹ HTPT có
xu hướng ngày càng tăng do các dự án thuộc diện xử lý nợ chưa được xử lý dứt điểm. Các
dự án đầu tư Quỹ HTPT nhận bàn giao từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, các dự án thuộc
chương trình đánh bắt hải sản xa bờ và chương trình mía đường không có khả năng hoặc
khả năng trả nợ thấp. Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có
thẩm quyền xử lý nợ xấu dứt điểm cho Quỹ.
Việc xử lý nợ gắn chặt với tiến trình cổ phần hóa, bán khoán cho thuê doanh
nghiệp nhà nước. Do đó cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời đối với các khoản nợ tín dụng
nhà nước tại các doanh nghiệp theo một cơ chế thật rõ ràng, tránh tình trạng xử lý nợ tín
dụng nhà nước đang phải vận dụng các văn bản quy định xử lý nợ tín dụng ngân hàng.
* Nâng vốn điều lệ cho Quỹ HTPT
Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về việc nâng vốn điều lệ cho Quỹ
HTPT lên 10.000 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, việc tăng cường tiềm lực tài chính
cho Quỹ HTPT là rất cần thiết để góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nền kinh tế, phục
vụ cho các mục tiêu chiến lược của Chính phủ. Vì vậy, kiến nghị Chính Phủ, Thủ tướng
chính phủ xem xét dành một phần vốn hàng năm từ phát hành trái phiếu Chính phủ cấp bổ
sung vốn điều lệ cho Quỹ HTPT.
* Hoàn thiện về mô hình tổ chức bộ máy của hệ thống Quỹ HTPT
Để chính sách tín dụng HTPT của của Nhà nước phát huy hiệu quả mong muốn,
trên cơ sở đánh giá tổng kết chính sách HTPT của Nhà nước trong thời gian qua, thông qua
việc đánh giá hoạt động của Quỹ HTPT, phân tích điều kiện hiện tại của Việt Nam, kiến
nghị Chính phủ, căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ, thành lập Ngân hàng Chính sách Phát
triển Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ HTPT. Cùng với việc thành lập Ngân hàng
Chính sách Xã hội hoạt động trong lĩnh vực xã hội, việc thành lập Ngân hàng Chính sách
Phát triển hoạt động trong lĩnh vực HTPT kinh tế, trên cơ sở tổ chức lại Quỹ HTPT có
những ưu thế sau:
- Tập trung được tiềm lực tài chính của Nhà nước để tài trợ một cách toàn diện cho
cả quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Quỹ HTPT hiện là tổ chức tài chính Nhà
nước được cấp vốn điều lệ lớn nhất, hiện nay là 5.000 tỷ đồng và được Chính phủ chấp
thuận về nguyên tắc tăng lên 10.000 tỷ đồng. Cùng với cơ chế huy động vốn chủ yếu qua
phát hành trái phiếu Chính phủ, Quỹ có điều kiện sử dụng linh hoạt các nguồn vốn để
HTPT.
- Quỹ HTPT đang thực hiện chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với các dự án
đầu tư trung dài hạn thuộc lĩnh vực ưu đãi; hỗ trợ vốn tín dụng ngắn hạn để thực hiện các
hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, do đó,
đây là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động gần nhất với mô hình của một Ngân hàng
Xuất nhập khẩu Việt Nam.
- Quỹ HTPT có bộ máy ở Trung ương và có Chi nhánh ở 61 tỉnh, thành phố, có
đội ngũ cán bộ viên chức có trình độ và kinh nghiệm trong việc thực hiện các hình thức hỗ
trợ tài chính của Nhà nước cho ĐTPT và xuất khẩu. Với hệ thống tổ chức bộ máy và con
người hiện có, Quỹ HTPT khi chuyển thành Ngân hàng Chính sách Phát triển sẽ có đủ
điều kiện và triển khai tốt các nhiệm vụ hỗ trợ ĐTPT và HTXK của Nhà nước.
- Việc thành lập Ngân hàng Chính sách Phát triển trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại hệ
thống Quỹ HTPT hoàn toàn phù hợp với chủ trương cải cách hành chính Nhà nước, tinh
giảm đầu mối, sẽ tiết kiệm được chi phí rất lớn do không phải thành lập mới nhiều tổ chức
thực hiện các chính sách của Nhà nước, tận dụng được mạng lưới tổ chức sẵn có và có thể
triển khai hoạt động HTPT ngay trong năm 2004 vừa tiết kiệm chi phí, không gây xáo trộn
về mặt tổ chức, vừa không phải mất thời gian cho việc hình thành tổ chức mới. đây là bước
đi phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam.
Ngân hàng Chính sách Phát triển là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt động
không vi mục đích lợi nhuận. Có vốn điều lệ là 10.000 tỷ đồng do NSNN cấp, với các
nhiệm vụ chủ yếu:
- Huy động và tiếp nhận vốn của các tổ chức, cá nhân và các nguồn vốn hỗ trợ
trong và ngoài nước để thực hiện chính sách HTPT của Nhà nước.
- Cho vay HTPT (cho vay đầu tư, cho vay HTXK, quản lý nguồn vốn ODA cho
vay lại), thực hiện nhiệm vụ cấp ODA ra nước ngoài của Chính phủ Việt Nam, hỗ trợ
LSSĐT, bảo lãnh tín dụng đầu tư.
- Nhận ủy thác quản lý các quỹ của Chính phủ, các địa phương cho mục tiêu hỗ trợ
ĐTPT và hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán và tham gia hệ thống thanh toán.
Ngân hàng Chính sách Phát triển có Hội đồng quản lý và bộ máy điều hành. Để
kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản lý.
Bộ máy điều hành của Ngân hàng Chính sách Phát triển được tổ chức thống nhất trong
phạm vi cả nước. Ngân hàng Chính sách Phát triển có Chi nhánh tại các tỉnh, thành trong
cả nước.
3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, Ngành, Địa phương
- Kiến nghị Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
+ Trình Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội bố trí kế hoạch cấp bù chênh lệch lãi
suất và phí quản lý cho phù hợp với việc thực hiện kế hoạch tín dụng ĐTPT, thực hiện
chuyển tiền cấp bù chênh lệch lãi suất, phí quản lý cho Quỹ HTPT đúng tiến độ.
+ Bố trí kế hoạch ngân sách đề cấp bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ HTPT (lên
10.000 tỷ đồng) đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
+ Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý ngoại
hối và thanh toán của Quỹ HTPT.
+ Hướng dẫn Quỹ HTPT tham gia hệ thống thanh toán và cung cấp dịch vụ thanh
toán cho khách hàng theo đúng quy định. Chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội, các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phối hợp với Quỹ HTPT thực hiện các nghiệp vụ
ủy thác cho vay, bảo lãnh và hỗ trợ LSSĐT theo quy định của Quỹ HTPT và quy chế hoạt
động của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Kiến nghị với Bộ Thương mại
Hàng năm sớm ban hành danh mục mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, tránh việc
áp dụng lẻ tẻ, thỉnh thoảng mới đưa ra bổ sung 1-2 mặt hàng như hiện nay, gây khó khăn
cho hoạt động của cả Quỹ HTPT lẫn các chủ đầu tư, các chủ đầu tư rất khó nắm bắt.
- Kiến nghị với Bộ Công nghiệp
+ Đề nghị Bộ Công nghiệp phối hợp với các Bộ, Ngành sớm trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch chương trình cơ khí trọng điểm và hướng dẫn
việc triển khai thực hiện chương trình theo đúng Quyết định của Thđ tướng Chính phủ để
Quỹ HTPT có cơ sở cho vay đầu tư và hỗ trợ tín dụng ngắn hạn HTXK. Quỹ HTPT đề
nghị việc tổ chức triển khai thực hiện chương trình trên cơ sở quy hoạch chi tiết, rà soát lại
các cơ sở cơ khí hiện có để có sự phân công, hợp tác rõ ràng từ đó có kế hoạch đầu tư hợp
lý, chủ yếu là tận dụng cơ sở hiện có, đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, thực hiện chuyên
môn hóa, hiệp tác hóa trong sản xuất, tránh mở ra quá nhiều dự án mới hoặc đầu tư khép
kín trong từng nhà máy, từng Tổng công ty sẽ gây lãng phí lớn về vốn đầu tư, kém hiệu
quả kinh tế.
+ Cần phải tập trung rà soát lại quy hoạch; rà soát lại lại các cơ sở sản xuất hiện
có, trên cơ sở đó mới có kế hoạch đầu tư hợp lý, tránh lãng phí vốn và nâng cao hiệu quả
kinh tế, cũng như đánh giá khả năng phát huy hiệu quả, khả năng hoàn vốn đầu tư của các
dự án.
- Kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
+ Đối với các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nông nghiệp đang gặp khó khăn, kiến
nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ đạo các đơn vị trong ngành nông nghiệp
tập trung rà soát, đánh giá một cách đầy đủ các vấn đề có liên quan đến việc xây dựng và
triển khai thực hiện dự án; tổ chức sản xuất kinh doanh; đánh giá lại hiệu quả đầu tư các
dự án; đề xuất phương án kinh doanh có hiệu quả đảm bảo sự bền vững lâu dài cho dự án.
+ Chỉ đạo giúp đỡ các đơn vị xử lý khó khăn, tồn tại của các dự án thuộc chương
trình mía đường, các dự án đầu tư sản xuất ván nhân tạo của Tổng công ty Lâm nghiệp
Việt Nam và một số dự án chế biến nông sản khác. Phối hợp với Quỹ HTPT và các bộ,
ngành có liên quan tìm biện pháp đề xuất với Chính phủ xử lý các vấn đề khó khăn, vướng
mắc phát sinh trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của các dự án trong việc sát
nhập, giải thể, chuyển đổi chủ đầu tư đối với một số đơn vị vay vốn Quỹ. Chỉ đạo các chủ
đầu tư hoặc đơn vị bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn vay Nhà nước, tránh tình trạng
chiếm dụng vốn của Nhà nước để sử dụng cho mục đích khác cũng như tránh tình trạng
bảo lãnh vay vốn một cách hình thức lấy lệ.
- Kiến nghị với các Bộ, Cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
+ Công bố rộng rãi quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển và các quy trình,
quy phạm tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật của ngành, lĩnh vực sản phẩm, vùng lãnh
thổ và các thông tin cần thiết khác trong từng thời kỳ làm cơ sở thẩm định các dự án được
Nhà nước hỗ trợ đầu tư.
+ Chỉ đạo kiểm tra các chủ đầu tư triển khai thực hiện đầu tư theo đúng quy định
của Nhà nước về đầu tư, đảm bảo tiến độ và hoàn trả vốn vay theo đúng cam kết của hợp
đồng tín dụng.
+ Phối hợp với Quỹ HTPT giải quyết hậu quả đối với các dự án bị đình chỉ hoặc
không trả được nợ vay thuộc phạm vi trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Kết Luận
Kể từ khi chính thức đi vào hoạt động, ngày 01-01-2000, mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,
Ngành, địa phương và cùng với sự nỗ lực, cố gắng của mình, hệ thống Quỹ HTPT đã có
những góp đáng kể trong việc hỗ trợ ĐTPT và xuất khẩu của đất nước. Qua đó, Quỹ HTPT
đã khẳng định được vai trò là công cụ đắc lực và quan trọng của Chính phủ trong quản lý
điều hành vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy vậy, trong quá trình triển khai thực hiện, về mặt cơ chế, chính sách và quá
trình tổ chức triển khai thực hiện đã xuất hiện nhiều vướng mắc ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT. Bên cạnh đó những tồn tại của bản thân hệ thống Quỹ
HTPT về con người, tổ chức bộ máy, quy chế, quy trình nghiệp vụ là những nguyên nhân
quan trọng ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT
trong nền kinh tế.
Với mong muốn hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT ở Việt
Nam, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động, đánh giá những mặt được, những điểm
còn hạn chế đồng thời đưa ra nguyên nhân của các hạn chế, luận văn đã trình bày một hệ
thống các giải pháp phù hợp tình hình thực tiễn đất nước, xu hướng phát triển kinh tế thế
giới. Các kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của Quỹ HTPT trong nền kinh tế.
danh mục Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Đầu tư phát triển và nguồn tài trợ chính thức (ODA)
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Hà Nội.
2. Chính phủ (1998), Nghị định số 90/1998/NĐ-CP, ngày 07-11, về việc ban hành Quy
chế quản và sử dụng vốn ODA
3. Chính phủ (1999), Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-6, về tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước.
4. Chính phủ (1999), Nghị định 50/1999/NĐ-CP ngày 08-7, về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ
phát triển.
5. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg ngày 17-12 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển.
6. Chính phủ (2001), Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, ngày 10-9 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu.
7. Chính phủ, Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999, 12/2000/NĐ-CP ngày 05-5-
2000, 07/2003/NĐ-CP ngày 30-01-2003 của về việc ban hành Quy chế Quản lý
Đầu tư và Xây dựng; sửa đổi một số điều của Quy chế.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. PTS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Nhuệ - ThS. Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài
chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Luật các Tổ chức tín dụng.
11. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
12. Luật Ngân hàng Nhà nước.
13. Luật Ngân sách nhà nước.
14. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Quỹ Hỗ trợ phát triển, Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ, Hà Nội.
16. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2002), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2001,
Hà Nội.
17. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2003), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2002,
Hà Nội.
18. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2004), Báo cáo kết quả hoạt động năm 2003,
Hà Nội.
19. Quỹ Hỗ trợ phát triển (2004), Báo cáo kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm 2004, Hà
Nội.
20. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển, số 1, 2, 3/2003.
21. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển, số 1, 2, 3, 4/2004.
22. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1999), Chương trình và dự án phát triển kinh tế -
xã hội, Hà Nội.
Mục lục
Trang
1 mở đầu
4 Chương 1: tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và hiệu
quả của nó
1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng 4
4 1.1.1. Khái niệm về tín dụng
5 1.1.2. Bản chất tín dụng
6 1.1.3. Chức năng của tín dụng
7 1.1.4. Vai trò của tín dụng
8 1.1.5. Các hình thức tín dụng
10 1.2. Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
10 1.2.1. Khái niệm
11 1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
12 1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
16 1.2.4. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
1.2.5. Phân biệt tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với các hình 16
thức tín dụng khác
1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng đầu tư phát triển của 17
Nhà nước
1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà 21
nước
24 1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển
24 1.3.1. Tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển
1.3.2. Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát 24
triển
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ 25
Hỗ trợ phát triển
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ 27
Hỗ trợ phát triển
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển 29
của Quỹ Hỗ trợ phát triển
1.4. Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đầu tư phát triển ở một số nước 33
trong khu vực và trên thế giới
1.4.1. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Hàn Quốc 33
1.4.2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Trung Quốc 34
1.4.3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Đài Loan 34
37 Chương 2: thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của Quỹ hỗ trợ phát triển từ năm 2001
đến nay
2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ Hỗ trợ phát triển 37
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ chủ yếu của Quỹ Hỗ trợ phát 37
triển
2.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong thời 38
gian qua
2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà 50
nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
2.2.1. Những kết quả đạt được 50
2.2.2. Các hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 60
và nguyên nhân
75 Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ
thống Quỹ hỗ trợ phát triển
3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 75
tư phát triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển
3.1.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát 75
triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển
3.1.2. Các mục tiêu hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nhằm nâng cao 76
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 77
tư phát triển qua Quỹ Hỗ trợ phát triển
3.2.1. Các cơ sở khoa học của giải pháp 77
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu 80
tư phát triển qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
3.3. Kiến nghị 97
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 97
3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, ngành, địa phương 105
108 Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo 109