intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo ICSID

Chia sẻ: Tạ Hoài Mân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo ICSID" giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID), từ đó đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo ICSID

  1. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VỚI NƯỚC TIẾP NHẬN ĐẦU TƯ THEO ICSID Lê Phạm Hoàng Phát*, Phan Lê Khánh Trang, Bùi Thị Yến Nhi, Lê Minh Vũ, Nguyễn Long Hồ Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh GVHD: TS. Nguyễn Chí Thắng TÓM TẮT Trong bối cảnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, đầu tư quốc tế được xem là một xu thế tất yếu. Theo đó, mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư là điều khó tránh khỏi. Việc giải quyết tranh chấp này thường được đưa ra trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc các Hiệp định đầu tư song phương (BTI). Bài viết này giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID), từ đó đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam. Từ khóa: ICSID, nhà đầu tư nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư. 1. KHÁI NIỆM NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Khái niệm nhà đầu tư được quy định tại hầu hết các hiệp định về đầu tư. Tại hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN quy định: “Nhà đầu tư” được hiểu là thể nhân hoặc pháp nhân của một nước thành viên đang hoặc đã thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ của một Nước thành viên khác. Tại Hiệp định khuyến khích và bảo hộ có đi có lại về đầu tư của Brunei và Ấn Độ năm 2008 quy định: “Nhà đầu tư” nghĩa là bất kì công dân hay công ty của một bên kí kết mà có khoản đầu tư trong lãnh thổ của bên kí kết còn lại”. Như vậy, có thể thấy nhà đầu tư được chia làm hai loại: nhà đầu tư là cá nhân và nhà đầu tư là pháp nhân. Hai khái niệm này được định nghĩa không đồng nhất trong các hiệp định về đầu tư, khái niệm “nhà đầu tư” có thể chỉ là người có quốc tịch của một bên ký kết hoặc cả người định cư (thường trú) tại nước ký kết đó. Pháp luật Việt Nam quy định khái niệm “nhà đầu tư nước ngoài” tại khoản 19 điều 3 Luật doanh nghiệp 2020 “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”. Theo khái niệm trong các hiệp định đầu tư song phương (BIT) và hiệp định Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) “nhà đầu tư nước ngoài là cổ đông trong một khoản đầu tư được phép sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Nhà nước bất kể họ là cổ đông lớn hay chỉ là cổ đông thiểu số”. Như vậy, có thể hiểu nhà đầu tư nước ngoài là chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư, có một khoản đầu tư trên lãnh thổ của quốc gia khác và ngoài việc hiểu rõ khái niệm của nhà đầu tư nước ngoài thì việc xác định quốc tịch của nhà đầu tư là vô cùng quan trọng bởi vì cần xác định họ thuộc pháp luật của quốc gia nào, nằm ở phạm vi điều chỉnh của công ước nào... Các hiệp định đầu tư xác định quốc tịch của nhà đầu 1693
  2. tư dựa vào nơi sinh, nơi cư trú lâu dài... đối với cá nhân và nơi thành lập, nơi có hoạt động kinh doanh lâu dài... đối với pháp nhân. Việc này cần thiết để xác định nhà đầu tư có được hưởng bảo hộ ngoại giao hoặc các quyền lợi hợp pháp khác khi xảy ra tranh chấp với nước tiếp nhận đầu tư. Ví dụ, Hiệp định giữa chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland về khuyến khích và bảo hộ đầu tư quy định: “Công dân” nghĩa là: theo Vương quốc Anh và Bắc Ireland: thể nhân có tư cách là công dân Vương quốc Anh và Bắc Ireland theo luật có hiệu lực ở Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Còn đối với Việt Nam: bất cứ người nào là công dân của Việt Nam theo pháp luật Việt Nam. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ có đi có lại về đầu tư giữa Ấn Độ và Brunei quy định: “công dân” nghĩa là: đối với Ấn Độ: các cá nhân có địa vị là công dân Ấn Độ theo luật hiện hành Ấn Độ. Đối với Brunei: các thể nhân được trao địa vị công dân của Brunei theo luật hiện hành của Brunei. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia mà công dân của quốc gia đó có thể có nhiều quốc tịch và việc xác định quốc tịch nhà đầu tư nước ngoài trong các vụ giải quyết tranh chấp trở nên khó khăn hơn. Còn đối với việc xác định quốc tịch nhà đầu tư nước ngoài là pháp nhân thường dựa vào nơi thành lập, nơi có trụ sở chính hay nơi thực hiện hoạt động kinh doanh chủ yếu. Có nhiều trường hợp các doanh nghiệp chỉ đặt trụ sở trên danh nghĩa còn các hoạt động kinh doanh ở quốc gia khác, do đó gây khó khăn trong việc xác định quốc tịch chỉ dựa vào nơi thành lập. Chính vì vậy mà các hiệp định đã quy định khá rõ ràng trong việc xác định quốc tịch của một pháp nhân. Ví dụ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Vương quốc Anh và Bắc Ireland quy định: “Công ty" nghĩa là: i) Về phía Vương quốc Anh và Bắc Ireland: các Công ty, các hãng và hiệp hội được thành lập hay được thiết lập theo luật pháp có hiệu lực ở bất cứ vùng nào ở Vương quốc Anh và Bắc Ireland hoặc ở bất cứ vùng lãnh thổ nào mà Hiệp định này mở rộng tới theo các quy định của Điều12. ii) Về phía Việt Nam: bất cứ pháp nhân nào bao gồm Công ty, Tổng công ty, hãng và hiệp hội được thành lập hay được thiết lập theo luật pháp Việt Nam và có trụ sở ở Việt Nam; Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN quy định: “Pháp nhân” có nghĩa là bất cứ tổ chức nào được thành lập hợp pháp hoặc được tổ chức theo pháp luật của một nước thành viên, nhằm mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, do nhà nước hay tư nhân sở hữu bao gồm bất cứ loại doanh nghiệp, công ty, tín thác, hợp danh, liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, hiệp hội hay tổ chức. Tóm lại, nhà đầu tư nước ngoài có thể hiểu là một cá nhân hoặc một pháp nhân đang thực hiện một khoản đầu tư, dự án đầu tư ngoài lãnh thổ biên giới, thương mại của quốc gia mà nhà đầu tư đó mang quốc tịch nhằm mục đích kinh doanh thương mại, tức là nhằm mục đích sinh lợi. Và các nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng được những điều kiện theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư. 2. KHÁI NIỆM NƯỚC TIẾP NHẬN ĐẦU TƯ Hiện nay, chưa có hiệp định về đầu tư hay văn bản pháp lí nào có quy định chính thức về khái niệm nước tiếp nhận đầu tư tuy nhiên có thể hiểu “Chính phủ nước nhận đầu tư trong tranh chấp chính là các cơ quan được nhà nước giao quyền, chức năng và nhiệm vụ để thay mặt chính phủ nước tiếp nhận đầu tư quản lý hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư vào nước mình”. Các cơ quan 1694
  3. này được thành lập và phân cấp một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương để quản lí một cách chặt chẽ các hoạt động đầu tư, dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài như Chính phủ Việt Nam; Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Quốc hội; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; Các cơ quan Nhà nước khác ở Trung Ương và địa phương hoặc các tổ chức được ủy quyền quản lí nhà nước. Chính vì vậy mà hoạt động đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư được thể hiện qua các hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước tiếp nhận đầu tư. Tùy thuộc vào quy mô và loại hình của dự án mà khi đó nước tiếp nhận đầu tư sẽ xét theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền ở cấp tỉnh hay cấp huyện thực hiện thỏa thuận, kí kết hợp đồng và quản lí dự án. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư quốc tế cần hiểu rõ các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước khác với doanh nghiệp nhà nước. Đối với Luật doanh nghiệp năm 2020, sửa đổi bổ sung 2022 của Việt Nam theo khoản 11 điều 4 quy định: “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này.” Chính vì vậy, doanh nghiệp nhà nước không mang quyền lực nhà nước, không được coi là một cơ quan của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là chủ thể không mang chủ quyền quốc gia nên hoạt động đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nhà nước thì cũng sẽ là mối quan hệ đầu tư, thương mại thông thường giữa nhà đầu tư với nhà đầu tư. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư thì lúc đó doanh nghiệp nhà nước sẽ đầu tư với tư cách là nhà đầu tư nước ngoài, đây cũng là mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nhà đầu tư. Mặc dù vậy trong nhiều trường hợp doanh nghiệp nhà nước vẫn được xem là một bộ phận, cơ quan của nhà nước vì tính chất của loại hình doanh nghiệp này. Khi các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các hành vi của bộ phận, cơ quan tổ chức có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư mà khởi kiện thì khi đó các bộ phận, cơ quan tổ chức được nhà nước trao quyền sẽ là chủ thể của một bên tranh chấp. Vì mọi hoạt động của nước tiếp nhận đầu tư đều thông qua các cơ quan tổ chức có thẩm quyền, đã được nhà nước trao quyền nên khi có tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư thì các chủ thể này sẽ đại diện nước tiếp nhận đầu tư - mang chủ quyền quốc gia - tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. Nước tiếp nhận đầu tư cũng là một điểm riêng biệt để phân biệt với loại hình tranh chấp giữa quốc gia với quốc gia, giữa nhà đầu tư với nhà đầu tư. Một bên là nhà đầu tư nước ngoài - không mang chủ quyền quốc gia, một bên là nước tiếp nhận đầu tư - mang chủ quyền quốc gia. Như vậy, có thể hiểu nước tiếp nhận đầu tư trong tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư là cơ quan, tổ chức được nhà nước giao quyền, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn để kí hợp đồng, quản lí các hoạt động đầu tư vào nước tiếp nhận đầu tư và khi có tranh chấp xảy ra các cơ quan, tổ chức đó là chủ thể mang chủ quyền quốc gia tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. 3. KHÁI QUÁT TRUNG TÂM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ (ICSID) ICSID hay còn gọi là Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, là tổ chức độc lập được thành lập bởi Ngân hàng thế giới thành lập theo Công ước 1965 về Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và công dân của các quốc gia khác nhau. Công ước được kí kết vào ngày 18-03-1965 tại Washington DC, Hoa Kỳ và có hiệu lực từ ngày 14-10-1966. Công ước này còn có tên gọi khác là công ước Washington hay công ước ICSID, công ước có mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển kinh tế thông qua việc tạo môi 1695
  4. trường đầu tư thuận lợi và đặc biệt là ICSID có thẩm quyền giải quyết tranh chấp pháp lý giữa một quốc gia thành viên với một nhà đầu tư của quốc gia thành viên khác. Công ước chế định về hòa giải và trọng tài dành riêng cho giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư. ICSID bao gồm các bộ phận: hội đồng hành chính ICSID, ban thư kí ICSID, Ủy bản hòa giải viên và ủy ban trọng tài viên. Trong đó, hội đồng hành chính gồm một đại diện do các quốc gia thành viên đề cử. Chủ tịch ngân hàng thế giới là chủ tịch hội đồng hành chính tuy nhiên lại không có quyền biểu quyết. Tiếp đến là ban thư kí, Ban Thư kí gồm Tổng Thư kí và một hoặc nhiều Phó Tổng Thư kí và bộ máy giúp việc. Tổng Thư kí và Phó Tổng Thư kí do Chủ tịch Hội đồng Hành chính giới thiệu để Hội đồng Hành chính bầu với sự nhất trí của ít nhất là 2/3 tổng số thành viên Hội đồng. Nhiệm kì của Tổng Thư kí và Phó Tổng Thư kí không quá 6 năm và có thể được tái cử. Văn phòng Tổng Thư kí và Phó Tổng Thư kí không được thực hiện bất kì một chức năng chính trị nào. Tổng Thư kí và Phó Tổng Thư kí không được phép kiêm nhiệm bất kì một công việc, chức vụ nào khác trừ trường hợp được Hội đồng Hành chính cho phép. Đối với các ban trong ICSID, tiêu chuẩn để được chỉ định tham gia Ban trong ICSID phải là những người có đạo đức tốt và được thừa nhận là có trình độ pháp luật, thương mại, công nghiệp hoặc tài chính và đáng tin cậy để đưa ra những phán quyết độc lập. Có trình độ pháp luật là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với những người tham gia Ban Trọng tài. Các quốc gia thành viên của ICSID được bảo vệ thêm một cơ chế đặc biệt là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư. Điều kiện tiên quyết để ICSID có thẩm quyền giải quyết tranh chấp pháp lý giữa nhà đầu tư của một bên ký kết với bên ký kết còn lại là hai bên đều phải là thành viên của công ước. Tuy nhiên không mặc định thành viên của ICSID thì sẽ giải quyết bằng thẩm quyền của ICSID mà hai bên tranh chấp cần phải có thỏa thuận đồng ý bằng văn bản. Sự đồng ý của quốc gia được thể hiện qua các điều khoản giải quyết tranh chấp trong hiệp định về đầu tư hay là các hợp đồng đầu tư giữa hai bên. Với điều ước hay hiệp định, nhà đầu tư là một cá nhân hoặc tổ chức chứ không phải là một bên trực tiếp tham gia hiệp định hay điều ước nên sự đồng ý giải quyết tranh chấp bằng thẩm quyền của ICSID là khi họ gửi đơn yêu cầu xét xử tranh chấp bằng trọng tài cho ICSID tức là họ đã thể hiện chấp nhận thẩm quyền của ICSID bằng văn bản. Quy tắc trọng tài ICSID: Theo điều 25 Công ước ICSID có ba điều kiện để đưa một vụ tranh chấp giải quyết bằng quy tắc trọng tài ICSID: Thứ nhất, các tranh chấp này phải là tranh chấp pháp lý phát sinh trực tiếp từ hoạt động đầu tư. Các tranh chấp thương mại khác không thuộc thẩm quyền của ICSID Thứ hai, một bên tranh chấp phải là quốc gia thành viên của công ước và bên nguyên đơn phải là nhà đầu tư của quốc gia thành viên của công ước. Tranh chấp được đưa ra giải quyết phải là tranh chấp phát sinh giữa một quốc gia ký kết (hoặc bất kỳ cơ quan, tổ chức hợp hiến nào mà quốc gia đó đã thông báo cho ICSID) và công dân (pháp nhân hoặc thể nhân) của một quốc gia ký kết khác, trừ trường hợp áp dụng cơ chế phụ trợ. Thứ ba, các bên tranh chấp cần phải có văn bản thỏa thuận đồng ý đưa vụ việc ra giải quyết tại ICSID bởi vì các bên đã ký kết tham gia công ước không có nghĩa là mọi tranh chấp đều đưa ra ICSID để giải quyết. Các điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp được quy định trong hợp đồng giữa hai bên, quy định trong hiệp định, hoặc điều ước quốc tế... 1696
  5. Để giải quyết tranh chấp tại ICSID, đầu tiên hai bên xảy ra tranh chấp phải là thành viên của công ước Washington. Bên cạnh khuôn khổ pháp lý của ISDS sử dụng trọng tài thì ICSID cũng tạo ra một phần riêng để quy định về việc thi hành phán quyết tại phần 6 của ICSID. Quá trình giải quyết tranh chấp tại ICSID là hoàn toàn độc lập, vậy nên không có tòa án quốc gia nào có quyền hủy bỏ phán quyết của trọng tài ICSID. Chính vì đã có sự thỏa thuận bằng các văn bản nên việc một bên không thực hiện theo trọng tài là không thể. Một bên không thể đơn phương hủy bỏ phán quyết trọng tài theo điều 25 ICSID; Nếu các bên không chỉ định trọng tài thì ICSID sẽ chỉ định trọng tài viên (điều 38); Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề phát sinh khi giải quyết tranh chấp (điều 41); Việc vắng mặt của một bên tranh chấp không làm trì hoãn quá trình xét xử, sự bất hợp tác của một bên không ảnh hưởng đến hiệu lực phán quyết mọi vấn đề phát sinh (điều 45); Phán quyết có tính chung thẩm và có hiệu lực thi hành (điều 53, 54). Phán quyết của trọng tài ICSID là chung thẩm, ngoại trừ các biện pháp đã quy định tại điều 53 của công ước thì phán quyết này không thể bị kháng cáo hoặc ràng buộc bởi bất kỳ biện pháp nào khác. Cho dù là trụ sở của ICSID ở Washington nhưng thi hành phán quyết của trọng tài sẽ không phải theo pháp luật của Hoa Kỳ, được thi hành ở bất kỳ quốc gia nào là thành viên của công ước. ICSID cũng đã quy định cụ thể về quy định, thủ tục để bắt đầu khởi kiện vụ tranh chấp tại trọng tài ICSID: (i) Gửi yêu cầu trọng tài tới Tổng Thư ký của ICSID; (ii) Tổng Thư Ký xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ICSID; (iii) Xác định số lượng và cách thức bổ nhiệm trọng tài; (iv) Bổ nhiệm thành viên hội đồng trọng tài; (v) Thành lập hội đồng trọng tài; (vi) Phiên họp đầu tiên; (vii) Tố tụng viết: thường bao gồm 2 vòng biện hộ. Trong đó, ở vòng thứ nhất, Nguyên đơn sẽ nộp bản biện hộ (Memorial) và sau đó, Bị đơn sẽ nộp bản phản biện lại (Counter Memorial). Sang vòng thứ hai, Nguyên đơn sẽ nộp một bản Hồi Đáp (Reply) và Bị đơn, theo đó, sẽ nộp một bản Phản biện lần 2 (Rejoinder); (viii) Phiên điều trần (Oral Hearing); (ix) Các thành viên của Hội đồng trọng tài thảo luận và cân nhắc các vấn đề sau mỗi buổi xét xử; (x) Ra phán quyết. Hội đồng trọng tài chỉ đưa ra một phán quyết duy nhất cho mỗi vụ tranh chấp, đó là quyết định cuối cùng và ràng buộc, có thể được công nhận và thi hành tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của ICSID. Không có thủ tục phúc thẩm phán quyết, tuy nhiên có những biện pháp khắc phục hậu phán quyết theo Công ước ICSID; (xi) Công nhận và thực thi phán quyết và các biện pháp khắc phục hậu phán quyết; (xii) Riêng đối với cơ chế phụ trợ ICSID, việc công nhận và thi hành phán quyết sẽ áp dụng như Công ước ICSID. Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư tại ICSID được quy định chi tiết và cụ thể từ trình tự thủ tục đến các biện pháp thực thi phán quyết của hội đồng trọng tài, giữa các bên ký kết cũng đã từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp để thực hiện cơ chế này. 4. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC THAM GIA VÀO CƠ CHẾ ICSID CỦA VIỆT NAM Đối với Việt Nam, tham gia công ước ICSID là dấu hiệu tích cực trong việc tăng cường cam kết quốc tế của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài và tiếp tục duy trì, thu hút dòng vốn FDI tại Việt Nam. Hiện nay Việt Nam còn ít kinh nghiệm về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế nói chung và ICSID nói riêng khi đối mặt với nguy cơ bị kiện tại ICSID. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo ICSID tại Việt Nam hiện nay vẫn còn là lĩnh vực khá mới mẻ và trong bối cảnh Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm, vì vậy Việt Nam vẫn còn đang cân nhắc mà chưa tham gia vào ICSID vì nhiều lý do. 1697
  6. Thứ nhất, Việt Nam có ít kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư nói riêng và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế nói chung. Chính vì vậy nếu tham gia công ước ICSID Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều vụ kiện trong khuôn khổ ICSID, việc này hoàn toàn gây bất lợi rất lớn cho Việt Nam. Việt Nam vẫn chưa có nhiều quy định và các quy định này vẫn chưa rõ ràng trong việc giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, việc thiếu các quy định cần thiết liên quan đang đẩy Việt Nam vào tình thế bất lợi, chịu rủi ro lớn trong trường hợp nhà nước thua kiện. Và Việt Nam cần có thêm kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu chuyên sâu hơn để bảo vệ quyền lợi quốc gia khi phải thực thi phán quyết tại nước ngoài. Thứ hai, vì tính chất chung thẩm của phán quyết ICSID một khi là thành viên của công ước thì tòa án Việt Nam sẽ không còn thẩm quyền xem xét lại hoặc hủy phán quyết của trọng tài ICSID. Một khi xảy ra sai phạm trong phán quyết mà Việt Nam lại là bên thua kiện thì sẽ gây ra nhiều khó khăn và ảnh hưởng xấu đến chính phủ. Thứ ba, mặc dù các hiệp định về đầu tư mà Việt Nam kí kết những năm trở lại đây luôn có những điều khoản về ICSID vậy nên nhìn chung Việt Nam vẫn chấp nhận cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư nhưng bảo lưu quyền chủ động kiểm soát thi hành phán quyết của ICSID. Việc không tham gia vào ICSID nhằm loại bỏ khả năng Việt Nam có thể bị khởi kiện trực tiếp bằng quy tắc tố tụng của trọng tài ICSID. Tuy nhiên, việc gia nhập công ước ICSID là thật sự cần thiết trong tình hình kinh tế hiện nay của Việt Nam, góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp trong môi trường đầu tư tại Việt Nam, từ đó tạo sự công bằng, minh bạch trong thị trường đầu tư, gia tăng sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc tham gia Công ước ICSID khẳng định chính sách mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và những cải thiện tích cực trong hệ thống pháp luật, chính sách về đầu từ và kinh doanh của Việt Nam trong thời đại mới. Chính vì vậy, khi Việt Nam tham gia vào ICSID cần: Thứ nhất, Việt Nam cần tích cực nghiên cứu các hồ sơ vụ kiện để tích lũy kinh nghiệm, thủ tục tố tụng cũng như các quy trình tố tụng, án lệ của ICSID và tìm hiểu thêm về các nguồn thông tin, dữ kiện về các trọng tài viên của ICSID, để đảm bảo rằng đến khi tham gia vụ kiện tại ICSID Việt Nam có đủ sự chuẩn bị, thực hiện đầy đủ chính xác các bước để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Chính phủ Việt Nam. Thứ hai, quá trình giải quyết tranh chấp còn hạn chế về mặt nhân sự, năng lực của đội ngũ công chức, viên chứ và đặc biệt chú trọng ở các cấp địa phương. Cần nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức, thường xuyên mở các lớp tập huấn về nghiệp vụ giải quyết tranh chấp theo ICSID, các khóa học đào tạo kỹ năng lấy chứng chỉ quốc tế... Nâng cao chất lượng đào tạo, cấp bằng, chứng chỉ hành nghề đảm bảo chất lượng. Luật sư, trọng tài đã qua đào tạo chuyên môn có đủ năng lực tham gia quá trình tranh tụng tại các cơ quan tài phán quốc tế đặc biệt là ICSID. Thứ ba, nếu Việt Nam chọn tham gia công ước ICSID thì sau khi được phê chuẩn gia nhập, Việt Nam cần ban hành văn bản pháp luật để công ước có hiệu lực trên lãnh thổ của mình. Ban hành luật riêng về thực hiện công ước ICSID hoặc quy định trong các Luật, Pháp lệnh hay nghị định về Trọng tài và giải quyết tranh chấp đầu tư. 5. KẾT LUẬN 1698
  7. Cơ chế giải quyết tranh chấp ICSID ra đời mở ra một con đường mới trong quá trình giải quyết tranh chấp của nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư khi mà cơ chế này cho phép nhà đầu tư nước ngoài có thể trực tiếp khởi kiện nước tiếp nhận đầu tư mà không phải thông qua bất kì bên nào. Nhà đầu tư có cơ hội được xét xử công bằng trên các vấn đề pháp lý của tranh chấp, giải quyết trực tiếp với nước tiếp nhận đầu tư. Mặc dù cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư đã mang lại nhiều lợi ích như vậy nhưng song song đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế trong quá trình giải quyết tranh chấp. Bài báo cũng đã nghiên cứu những mặt hạn chế và đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, để các bên tranh chấp có thể công bằng, minh bạch với nhau về quyền lợi và hạn chế các tranh chấp tiếp diễn trong tương lai./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Hải An (2020), Tìm hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp theo hiệp định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVIPA), Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội (8/2020); 2. Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh (2019), 4 lĩnh vực mà Chính phủ Việt Nam dễ bị kiện, Nguồn: https://plo.vn/4-linh-vuc-ma-chinh-phu-viet-nam-de-bi-kien-post554892.html. 3. Trần Ngọc Thúy (2018), Thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn (1/2018), trang 85 4. Trung tâm wto Việt Nam, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN, Nguồn: https://trungtamwto.vn/upload/files/fta/174-da-ky-ket/191-asean---aec/207-noi-dung-hiep- dinh/17.%20ACIA.pdf; 5. Trung tâm wto Việt Nam, Hiệp định giữa chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Nguồn: https://trungtamwto.vn/file /19340/hiep-dinh-khuyen-khich-va-bao-ho-dau-tu-vn--anh-va-bac- ireland.pdf; 6. Trung tâm wto Việt Nam, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ có đi có lại về đầu tư giữa Ấn Độ và Brunây, Nguồn: https://trungtamwto.vn/chuyen-de/481-hiep-dinh-ve-khuyen-khich-va-bao-ho-dau- tu-giua-chinh-phu-nuoc-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-va-chinh-phu-nuoc-cong-hoa-an-do , tham khảo ngày 2/11/2022; 7. Trung tâm wto Việt Nam, Hiệp định về Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Ấn Độ, Nguồn: https://trungtamwtovn/chuyen-de/481-hiep-dinh-ve-khuyen-khich-va-bao-ho-dau-tu-giua- chinh-phu-nuoc-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-va-chinh-phu-nuoc-cong-hoa-an-do; 8. Trịnh Hải Yến (2017), Giáo trình luật đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật Hà Nội, Hà Nội. 1699
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2