intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo án số 11: Chủ nghĩa hiện thực (Chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện thực)

Chia sẻ: Huy Nhật | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

157
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo án số 11: Chủ nghĩa hiện thực (Chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện thực) được biên soạn nhằm giúp các bạn nắm được khái niệm chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của trào lưu; sự ảnh hưởng của xã hội và tư tưởng tới bút pháp của trào lưu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo án số 11: Chủ nghĩa hiện thực (Chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện thực)

  1. 11. Chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện thực. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC (Chủ nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện thực.) A. MỤC TIÊU 1. Kiến thức ­ Cần nắm vững khái niệm chủ  nghĩa hiện thực và hoàn cảnh ra đời của trào  lưu  ­ Sự ảnh hưởng của xã hội và tư tưởng tới bút pháp của trào lưu 2. Tư tưởng ­  Tình yêu với văn học hiện thực và sự cảm thông với số phân bất hạnh bị chủ  nghĩa kim tiền trà đạp. 3. Kĩ năng ­ Biết vận dụng các cơ  sở  xã hội và triết học để lý giải sự  hình thành một trào  lưu ­ Kĩ năng phê phán các hiện tượng xấu. B. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC 1. Máy chiếu 2. Giáo trình và tác phẩm
  2. C. NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM * Chủ nghĩa hiện thực (Réalisme) có hai nghĩa: Theo nghĩ rộng, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được dùng để  xác định quan hệ  giữa tác phẩm văn học đối với hiện thực, bất kể  tác phẩm đó là của nhà văn  thuộc trường phái hoặc khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm   chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với khái niệm sự thật đời sống, bởi lẽ  tác phẩm văn học nào cũng phản ánh hiện thực. Vì vậy, khi nói đến tính hiện  thực hay chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ, trong sáng tác của Hômerơ, của   Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,… là người ta muốn lưu ý rằng tác phẩm của nền văn học   đó, của các tác giả đó gần gũi, gắn bó với cuộc sống và mang tính chân thực sâu  sắc. Tuy nhiên, cách hiểu chủ nghĩa hiện thực đó hiện nay không còn được lưu   hành vì nó không mang lại hiệu quả  gì đáng kể  cho nghiên cứu văn học. Thay   vào đó, người ta dùng khái niệm kiểu sáng tác hiện thực, hay còn gọi là kiểu   sáng tác tái hiện. Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ  nghĩa hiện thực dùng để  chỉ  một phương pháp  nghệ  thuật, hay một trào lưu văn học. Với tư  cách là một trào lưu văn học và  phương pháp sáng tác của trào lưu đó, chủ  nghĩa hiện thực hình thành tại châu  Âu vào những năm 30 của thế  kỉ  XIX và bắt đầu phát triển hoàn chỉnh, rực rỡ  cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn sáng tác từ những năm 40 thế kỉ XIX, với những   đại biểu  ưu tú: Stăngđan (Đỏ  và đen, Tu viện thành Pacmơ), Bandăc (Ơgienni   Grăngđê, Lão Gôriô, Miếng da lừa,…), Flôbe (Bà Bôvary) – Pháp; Tháccơrây  (Hội chợ phù hoa), Đichkenx (Olivơ Tuýt) – Anh; Gôgôn (Những linh hồn chết),  L. Tônxtôi (Chiến tranh và hòa bình, Anna Krênina, Phục sinh), Đôtxtôiepxki  (Tội ác và trừng phạt) ­ Nga. Thuật ngữ  chủ  nghĩa hiện thực ra đời vào khoảng những năm 40 – 50 thế  kỉ  XIX khi các địch thủ văn chương của nhà văn Pháp Champfluery gọi những sáng  
  3. tác phê phán sắc cạnh của ông là “chủ  nghĩa hiện thực”. Champfluery chấp   nhận cách gọi này và đặt tên cho cuốn sách tập hợp các bài báo của mình là Chủ  nghĩa hiện thực (Réalisme, 1857), mặc dù ông giải thích nó phần lớn theo tinh   thần chủ nghĩa tự nhiên và phi lịch sử. Ở  Nga, thuật ngữ  này được nhà phê bình văn học P.V. Annenkov áp dụng lần   đầu vào văn học năm 1849. Và với ý nghĩa là một nguyên tắc sáng tác cơ  bản,  thuật ngữ  này trở  nên thông dụng  ở  Nga và châu Âu từ  những năm 60 thế  kỉ  XIX. Chủ  nghĩa hiện thực, hiểu theo cách này, có nội dung chặt chẽ, xác định  trên cơ sở các nguyên tắc mĩ học sau: ­ Mô tả  cuộc sống như  nó vốn có và bằng điển hình hóa các sự  kiện của  thực tế đời sống. ­ Thừa nhận sự tác động qua lại giữa tính cách và hoàn cảnh. ­ Coi trọng những chi tiết cụ thể và chính xác trong việc mô tả  con người  và cuộc sống, coi trọng yếu tố khách quan. * Chủ nghĩa hiện thực phê phán Thời kì đầu, chủ  nghĩa hiện thực xuất hiện như  một kẻ  đồng minh với chủ  nghĩa lãng mạn trong thái độ  phản  ứng với trật tự  xã hội đương thời. Vì thế,  trong thời kì này, rất khó có thể phân biệt rạch ròi ranh giới giữa chủ nghĩa hiện  thực và chủ  nghĩa lãng mạn ( Miếng da lừa của Bandăc, Tu viện thành Pácmơ  của Stăngđan, các tiểu thuyết của V. Huygô, và phần nào của Đíchkenx). Một số  môtip   lãng   mạn   được   chuyển   đổi   thành   môtip   hiện   thực   (Đỏ   và   đen   của  Stăngđan, môtip anh chàng có địa vị thấp hèn yêu tiểu thư quý tộc) Nhưng từ những năm 40 của thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa hiện thực đoạn tuyệt  hẳn về  nguyên tắc sáng tạo với chủ  nghĩa lãng mạn và mang một cảm hứng   mới: cảm hứng phân tích phê phán trong sự  cảm nhận về  thực tại đời sống.   Đến đây, chủ  nghĩa hiện thực có thêm tên gọi khác: chủ  nghĩa hiện thực phê  phán. 
  4. Đây là tên gọi ước lệ, dùng để chỉ một khuynh hướng của chủ nghĩa hiện thực,  đạt tới đỉnh cao ở thế kỉ XIX và còn phát triển tiếp tục ở thế kỉ XX; và cũng là   tên gọi phương pháp sáng tác của khuynh hướng này. Thuật ngữ này được đề xuất bởi M. Gorki với dụng ý phân biệt kiểu chủ nghĩa  hiện thực này với kiểu mới: chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cũng có một  thuật ngữ tương đương khác được dùng là “chủ nghĩa hiện thực tư sản”, nhưng   tên gọi này không được nhiều người đồng tình vì độ chính xác không cao. Ngay  cả thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực phê phán cũng vậy. Không thể phủ định rằng  ở những sáng tác hiện thực đích thực, bên cạnh việc phê phán gay gắt xã hội tư  sản – quý tộc (tác phẩm của Bandăc, Stăngđan, Gôgôn,…), nhiều tác phẩm vẫn   thể hiện những nhân tố tích cực trong cuộc sống và tâm trạng các nhân vật tiến  bộ, và truyền thống tốt đẹp của nhân dân (trong các tác phẩm của L. Tônxtôi,   Sêkhôp,…). Thuật ngữ chủ  nghĩa hiện thực phê phán được sử  dụng rộng rãi trong phạm vi  các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa. Ở  Việt Nam, chủ  nghĩa hiện thực phê phán xuất hiện vào những năm 30 của   thế  kỉ  XX, trong một hoàn cảnh lịch sử  xã hội không giống với các nước châu   Âu thế kỉ XIX. Chủ nghĩa hiện thực phê phán ở Việt Nam lên án, phê phán kịch  liệt sự thối nát của chế độ  xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ, đồng thời  nhen nhóm sự bất bình đối với thực tại đen tối, và biểu thị lòng thương cảm đối  với những con người cùng khổ. Các nhà văn hiện thực phê phán tiêu biểu của   nước ta là: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố,  Nam Cao. II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH 1. Xã hội – lịch sử Chủ  nghĩa hiện thực ra đời gần như  cùng lúc với chủ  nghĩa lãng mạn (muộn   hơn một chút), vì thế, hai trào lưu văn học này chắc chắn cũng phải bắt nguồn   từ cùng một điều kiện lịch sử xã hội giống nhau.
  5. Chủ  nghĩa hiện thực ra  đời   đầu tiên và tiêu biểu nhất  ở  văn học Pháp vào  khoảng năm 1830. Lịch sử nước Pháp thế kỉ XIX một mặt là quá trình biến đổi   của giai cấp tư sản Pháp từ một lực lượng tiến bộ chống phong kiến thành một  thế  lực phản động thẳng tay đàn áp giai cấp công nhân và nhân dân lao động;  mặt khác là quá trình chuyển biến của giai cấp công nhân Pháp từ  chỗ  phụ  thuộc vào giai cấp tư sản trong khối liên minh chống phong kiến thời Đại cách  mạng, đến chỗ trở thành một lực lượng chính trị độc lập chống giai cấp tư sản.  Nói cách khác, đây là lịch sử hình thành và phát triển mâu thuẫn giữa giai cấp vô  sản và tư  sản – hai lực lượng chủ  yếu nhất trong xã hội bấy giờ. Mác và   Ăngghen đã viết: “Giai cấp tư sản đã đem một sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực  tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tôn giáo  và chính trị”. Trước đó, khuynh hướng lãng mạn tích cực một mặt cũng phản ứng lại những   bất công của xã hội tư  bản bằng những cá nhân phi thường, những khát vọng  đầy  ảo tưởng, mặt khác các nhà lãng mạn chủ  nghĩa, do sự  chi phối của chủ  nghĩa xã hội không tưởng, vẫn còn đặt hy vọng vào những nhà tư sản tốt bụng.   Rút ra bài học từ thực tế, những nhà văn tỉnh táo đã hoàn toàn thất vọng với chế  độ tư bản chủ nghĩa và họ tìm một lối đi riêng. Họ quay về nhìn thẳng vào hiện  thực, những bất công của xã hội tư  bản để  vạch trần những tội ác của nó, đả  phá nó với hy vọng góp phần vào sự  diệt vong của nó. Đây là nguyên nhân sâu  xa dẫn tới quá trình chuyển biến từ  chủ  nghĩa lãng mạn sang chủ  nghĩa hiện   thực trong văn học Pháp thời kì này. Tuy không hiểu hết những nguyên nhân xã  hội thực sự dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp phong kiến quý tộc – tư  sản – vô sản, nhưng những nhà văn theo khuynh hướng hiện thực – từ Bandăc vĩ  đại, hay Đíchkenx nhân hậu, Thaccơrây hài hước hay Flôbe hoài nghi – xuất phát  từ hiện thực xã hội, đều đi đến kêt luận: trật tự tư sản bất hợp lý ấy không thể  tồn tại lâu dài.  Tất nhiên, để có thể luôn nhìn thẳng, nhận diện minh xác sự thật, nhà văn hiện  thực thế kỉ XIX còn nhờ vào trình độ tri thức nhất định về thế giới ­ điều này có   được nhờ sự kết tinh những thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên  bấy giờ. Khoa học tự nhiên đánh dấu sự ra đời của một thành tựu vĩ đại: Thuyết   tiến hóa của Đácuyn. Đácuyn đã chứng minh thế giới động vật có sự phát triển  
  6. từ  thấp tới cao, loài sau tiếp thu những  ưu điểm của loài trước và biến dị  cho  phù hợp với môi trường sống, trong đó con người là động vật bậc cao hoàn  thiện nhất. Đây là một bước ngoặt lớn trong khoa học, nó phá tan quan niệm về  sự bất động, bất biến của các hình thái trong tự nhiên đã ngự trị hàng bao thế kỉ.  2. Tư tưởng Khác với chủ  nghĩa cổ  điển và chủ  nghĩa lãng mạn thường chỉ  bị  chi phối bởi   một vài nguồn ý thức tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực được khơi nguồn từ nhiều  phương diện khác nhau, bởi nó có tham vọng phản ánh cuộc sống một cách toàn  diện. Thứ nhất, về mặt xã hội học, chủ nghĩa hiện thực cũng tiếp thu những tư tưởng   tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Các nhà xã hội học không tưởng như  Xanh Ximông, Sáclơ  Phuriê, Rôbe Ôwen tuy “kê đơn” một cách ảo tưởng – kêu   gọi lòng bác ái của giai cấp thống trị  để  xây dựng xã hội công bằng hợp lý,  nhưng đã “bắt mạch” đúng đắn về mâu thuẫn và áp bức giai cấp trong xã hội tư  bản. Thứ hai, về mặt sử học, các nhà sử học tư sản như Ghiđô, Minhê, Chiêri đã phê  phán quan niệm của các sử gia phong kiến trong quan niệm: chế độ  phong kiến  là vĩnh hằng, bất biến; thắng lợi của Cách mạng 1789 chỉ  là ngẫu nhiên, và  trước sau gì giai cấp phong kiến cũng đoạt lại vị thế cầm quyền. Các sử  gia tư  sản đã chứng minh sự thắng lợi của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến   qúy tộc là một tất yếu lịch sử. Tuy lập trường thuộc về ý thức hệ tư sản, nhưng  quan điểm của các nhà sử học này là đúng đắn, tiến bộ, và nằm ngoài ý định của  họ, nó đã vạch ra quy luật: đấu tranh giai cấp như một phương diện quan trọng   trong động lực phát triển lịch sử, và trong lịch sử, một thể chế chính trị nếu bộc  lộ những bất công tất yếu sẽ bị thay thế bằng một thể chế mới tiến bộ hơn. Thứ  ba, về  mặt triết học. Với tư  tưởng triết học duy vật, các nhà triết học  Phoiơbăc, Ghecxen, Sécnưsepxki đã đưa triết học trước Mác lên tới đỉnh cao. Sau này, Ăngghen kết luận: “Tất cả cái gì ngưng đọng trở  thành biến chuyển,  tất cả cái gì bất động trở nên động, tất cả cái gì là riêng biệt được coi như vĩnh  
  7. cửu, hóa ra là quá độ, và được chứng minh rằng tất cả  tự  nhiên đều chuyển   động trong một dòng thác và một cơn lốc vĩnh cửu” (Phép biện chứng tự nhiên). => Tất cả  những đặc điểm về  xã hội và tư  tưởng nói trên đã kết tinh thành   nguyên tắc lịch sử ­ cụ thể. Ý nghĩa trước tiên của nó là xem xét sự vật phải chú  ý   tới   thực   trạng   của   nó.   Sở   dĩ   có   được   điều   đó   là   nhờ   chu   nghĩa   duy   vật   Ghecxen, Phoiơbắc cũng với những bất cong xã hội khiến cho con người khó cỏ  thể mang nặng ảo tưởng. Hai khía cạnh “lịch sử” – “cụ thể” tuy không tách rời   nhau nhưng có thể phân biệt một cách tương đối. “Cụ  thể” là chỉ  một quan hệ  xã hội với một tình thế mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp cụ thể; nói “lịch sử” tức  là nhìn sự  vật bao giờ  cũng phải thấy được quá trình phát sinh, phát triển và  chuyển hóa của nó. Nguyên tắc lịch sử  ­ cụ thể này đã thay thế cho nguyên tắc  lý tính ngự trị trong khoa học, nghệ thuật, trong đó có văn học, bao thế kỉ trước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2