intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục, đào tạo nghệ thuật với mục tiêu nâng cao dân trí

Chia sẻ: ViTokyo2711 ViTokyo2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

52
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo dục, đào tạo nghệ thuật tham gia thực hiện sứ mệnh giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Bài viết tập trung làm rõ vai trò cũng như cách thức giáo dục, đào tạo nghệ thuật trong việc nâng cao dân trí ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục, đào tạo nghệ thuật với mục tiêu nâng cao dân trí

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0042 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 2, pp. 155-161 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO NGHỆ THUẬT VỚI MỤC TIÊU NÂNG CAO DÂN TRÍ Mai Thị Thùy Hương Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam Tóm tắt. Giáo dục, đào tạo nghệ thuật tham gia thực hiện sứ mệnh giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Lí luận và thực tiễn nghiên cứu cho thấy, giáo dục đào tạo nghệ thuật có những đặc điểm riêng, những thuận lợi, khó khăn riêng so với các ngành khác trong quá trình thực hiện mục tiêu này. Điều này đòi hỏi các nhà quản lí giáo dục, quản lí văn hóa phải xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đào tạo nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc tham khảo kinh nghiệm của một số học giả có cùng quan điểm và đưa ra những dẫn liệu từ thực tiễn, bài viết tập trung làm rõ vai trò cũng như cách thức giáo dục, đào tạo nghệ thuật trong việc nâng cao dân trí ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Giáo dục, đào tạo nghệ thuật, sứ mệnh giáo dục Việt Nam, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực. 1. Mở đầu Văn hóa – nghệ thuật có một vị trí đặc biệt trong việc xây dựng nhân cách của con người. Ở phương diện chính trị, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc xây dựng văn hóa nhằm mục đích phát triển con người, hay nói cách khác là gắn việc xây dựng văn hóa với phát triển con người: con người vừa là sản phẩm của văn hóa, vừa là người sáng tạo ra văn hóa. Ở phương diện văn hóa, giáo dục được xem là một kênh truyền tải văn hóa quan trọng nhất. Chính vì lí do đó, giáo dục, đào tạo văn hóa nói chung, nghệ thuật nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của xã hội. Chính vì tầm quan trọng đó, đã có nhiều học giả quan tâm đặc biệt đến giáo dục và đào tạo nghệ thuật. Kagan [12], Phạm Minh Hạc [7] và [8] nhấn mạnh đến việc giáo dục nghệ thuật được xem như nguồn gốc và phương thức phát triển con người, từ đó nuôi dưỡng tiềm năng tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ và sáng tạo cho mỗi cá nhân. Còn John Dewey (1859 – 1952) cho rằng: “Các xã hội càng ngày càng biến đổi nhanh lên, do đó mà có nguy cơ ngày càng cao xuất hiện cái khoảng cách giữa tri thức muốn truyền đạt tới trẻ em và thực tiễn cuộc sống ở chính những xã hội đang biến đổi nhanh chóng ấy” [3, tr. 18], và để đạt được hiệu quả giáo dục, John Dewey đề xuất “người học sẽ càng học giỏi hơn nếu được tham gia vào sự vận hành của môi trường sống” [3, tr. 18]. Một số các công trình nghiên cứu khác xem xét giáo dục nghệ thuật như một cách tăng cường, làm phong phú và đa dạng hơn hình thức đào tạo nhân lực [10], [11]. Quan điểm này của Dewey và các học giả khác dẫn chúng ta tới một kết luận liên quan là: hoạt động giáo dục nghệ thuật giúp tăng cường hiệu quả của hoạt động giáo dục nói chung, giúp ích cho mục tiêu nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài trong bối cảnh xã hội mới. Ngày nhận bài: 15/12/2014. Ngày nhận đăng: 15/4/2015. Liên hệ: Mai Thị Thùy Hương, e-mail: maihuong_vhnt@yahoo.com. 155
  2. Mai Thị Thùy Hương 2. Nội dung nghiên cứu Triết lí giáo dục thời kỳ đổi mới chỉ rõ: Sứ mệnh của giáo dục Việt Nam là góp phần đào tạo và phát triển những thế hệ con người Việt Nam phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hiện đại, thông minh, sáng tạo, có trình độ chuyên môn cao, giàu lòng nhân ái, có nhân cách cao đẹp về lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về trí tuệ, đạo đức, lối sống, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, có năng lực hội nhập quốc tế, có thể chất cao để thực sự là chủ thể vững vàng của quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững, dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng. Sứ mệnh đó được thể hiện với nội dung mới trong mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Hoạt động giáo dục, đào tạo nghệ thuật cũng tham gia vào việc thực hiện sứ mệnh giáo dục trên. Tuy nhiên, nó có những điểm khác biệt so với hoạt động giáo dục các tri thức khác. Chúng ta biết rằng, muốn thưởng thức về nghệ thuật thì trước tiên phải được giáo dục về nghệ thuật. Con người muốn phát triển toàn diện, muốn có đủ năng lực cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật thì phải được giáo dục về mặt nghệ thuật. Có đủ năng lực tinh tế trong cảm thụ mới có thể phát hiện và khẳng định cái mới, cái đẹp trong cuộc sống, giúp con người có đủ năng lực tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội và các ngành khoa học khác. Hoạt động giáo dục nghệ thuật thực hiện cả hai phương thức nâng cao dân trí về nghệ thuật và nâng cao dân trí thông qua nghệ thuật. Chúng ta có thể tổng kết hoạt động giáo dục nghệ thuật nhằm nâng cao dân trí thông qua mô hình sau: Người Loại Phương Nội dung dạy/người Địa điểm Mục tiêu hình pháp học - Có kiến thức - giáo viên sơ đẳng về các Giáo dục sư phạm - Trong nhà Giáo dục loại hình nghệ thực hành nghệ thuật trường phổ các tri thức thuật Giáo dục Các kiến - Học sinh thông và kỹ năng - Có khả năng về nghệ thức được phổ thông - Trong các về loại hình hưởng thụ và thuật chuẩn hóa, - Cá nhân có cơ sở sinh nghệ thuật sáng tạo nghệ hình thức nhu cầu tự hoạt văn hóa cụ thể thuật ở mức độ hóa trang bị kiến cộng đồng phục vụ nhu thức cầu bản thân - Truyền tải Sử dụng nội dung giáo nghệ thuật Giáo dục thể - Trong nhà - Giáo viên dục nhanh như một nghiệm. trường phổ Giáo dục sư phạm hơn, dễ tiếp công cụ hay Sử dụng thông thông nghệ thuật + thu hơn phương pháp nghệ thuật - Trong các qua nghệ giáo viên bộ - Kích thích để thực hiện để truyền chương trình thuật môn + nghệ phát triển kỹ các nội dung tải nội dung biểu diễn sĩ. năng sáng tạo, giáo dục giáo dục nghệ thuật tư duy. . . của khác người học (Bảng tổng hợp của tác giả) 156
  3. Giáo dục, đào tạo nghệ thuật với mục tiêu nâng cao dân trí Hiện nay giáo dục nghệ thuật nhằm nâng cao dân trí ở Việt Nam đã thực hiện đầy đủ cả hai hình thức trên song mức độ phổ biến, chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục còn chưa đồng đều ở từng địa phương, từng đối tượng. 2.1. Nội dung giáo dục - Giáo dục về nghệ thuật: Các loại hình nghệ thuật thường được giáo dục ở mức độ phổ thông, thường thức nhằm nâng cao dân trí, kiến thức về nghệ thuât, có thể kể đến như: vẽ, hát, múa, chơi nhạc cụ (piano, organ, ghita. . . ). Với vai trò là nhà xã hội học, Bourdieu nhận thấy rằng “nhu cầu văn hóa là sản phẩm của quá trình trưởng thành và giáo dục. Các cuộc điều tra cho thấy, tất cả các hoạt động văn hóa (tham quan bảo tàng, nghe hòa nhạc, đọc sách báo, v.v...) và sở thích văn chương, hội họa, âm nhạc gắn liền với trình độ giáo dục nhất định (được đánh giá qua văn bằng và thời gian học) và phụ thuộc vào nguồn gốc xã hội” [2, tr. 1]. Ở trong trường phổ thông, môn học nghệ thuật được giảng dạy chính khóa chủ yếu là: hát, múa và vẽ. Với thời lượng 1 tiết/tuần, kiến thức được đưa ra chủ yếu là những kiến thức cơ bản như: hình khối, bố cục, màu sắc. . . (trong môn mỹ thuật), hát đồng ca các bài hát về nhà trường, thiếu nhi. . . và các điệu múa tập thể (trong môn âm nhạc) - Giáo dục thông qua nghệ thuật: Là hoạt động sử dụng nghệ thuật như một công cụ hay phương pháp để thực hiện các nội dung giáo dục khác. Ví dụ giáo dục lịch sử, văn học, giáo dục công dân thông qua nghệ thuật sân khấu, giáo dục tự nhiên, môi trường thông qua mỹ thuật, tạo hình,. . . Phương pháp giáo dục phối hợp này mang tính sáng tạo, linh hoạt, thu hút sự chú ý, chủ động của người học, từ đó đem lại hiệu quả học tập cao hơn. Nghệ thuật ngoài chức năng giải trí, còn gắn liền với hoạt động thực tiễn trong học tập, sinh hoạt và sáng tạo. Vì vậy, nghệ thuật có 3 chức năng quan trọng là: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ. Chức năng nhận thức của nghệ thuật giúp con người biết ngắm nhìn, biết lắng nghe và hưởng thụ cái đẹp trong cuộc sống. Từ đó năng khiếu thẩm mỹ của con người ngày càng được tăng lên. Đặc biệt, tâm hồn, trí tuệ con người cũng được bồi đắp ngày càng giàu hơn, đẹp hơn. Thông qua nghệ thuật, con người có thể tiếp cận kho tàng tri thức của nhân loại để làm giàu vốn hiểu biết của cá nhân. Từ đó, nền tảng văn hóa nghệ thuật lại trở thành tiềm năng, tiềm lực phát triển của mỗi con người và dân tộc. Chức năng giáo dục là đặc tính cơ bản của nghệ thuật. Văn hóa nghệ thuật tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, làm cho con người có những phẩm chất và năng lực mong muốn. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều chứa đựng những bài học, những ý nghĩa về triết lí nhân sinh, về lối sống, suy nghĩ, đạo đức, truyền thống, lịch sử. . . Đặc biệt những bài học, hay triết lí giáo dục được thể hiện thông qua nghệ thuật không khô khan, cứng nhắc, áp đặt mà gần gũi, cảm hóa con người bằng những hình tượng nghệ thuật đẹp, sinh động, hấp dẫn và gần gũi với đời sống, dễ tác động trực tiếp vào tâm lí, tình cảm, trí tuệ của mỗi người. Chức năng thẩm mĩ của nghệ thuật thể hiện ở việc hướng con người tới cái đẹp. M. Gorki nhận định: Con người bẩm sinh là nghệ sĩ, dù ở đâu, bất cứ lúc nào, dù bằng cách này hay cách khác, họ cũng luôn mong muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống [14]. Chính vì vậy, nghệ thuật giúp con người hướng tới cái đẹp, hoàn thiện năng lực thẩm mỹ, đồng thời hoàn thiện nhân cách, lối sống của bản thân. 2.2. Phương pháp giảng dạy Ý thức được vai trò của nghệ thuật trong giáo dục và hiệu quả của việc giáo dục thông qua nghệ thuật, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 157
  4. Mai Thị Thùy Hương (VH, TT&DL), các tổ chức nghệ thuật biểu diễn để đưa nghệ thuật vào trường học, thông qua nghệ thuật để giáo dục đạo đức, lịch sử, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. . . Các hoạt động này diễn ra ở hầu khắp các trường phổ thông trong cả nước, từ quy mô nhỏ, tự phát đến quy mô lớn, có sự tham gia của các đơn vị biểu diễn chuyên nghiệp. Hoạt động ở quy mô trường, lớp chủ yếu là do học sinh, giáo viên tự tổ chức. Ngay trong từng môn học, tiết học, giáo viên có thể sử dụng âm nhạc, mỹ thuật. . . . để chuyển tải nội dung bài học đến học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài học nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ngoài ra thông qua các vở kịch tự biên, tự diễn, các triển lãm tranh, thi ca múa nhạc của học sinh, ý nghĩa giáo dục về đạo đức, lối sống, các vấn đề xã hội . . . được đưa đến cho học sinh gần gũi, dễ tiếp thu hơn. Các hoạt động này được tổ chức thường xuyên vào các ngày chào cờ, hoặc các cuộc thi do nhà trường tổ chức nhân dịp 8-3, 26 – 3, 20 – 11,. . . Hoạt động có quy mô lớn, có sự tham gia của các tổ chức biểu diễn chuyên nghiệp có thể kể đến dự án Khám phá âm nhạc: giới thiệu âm nhạc và muá cổ điển của Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam do Quỹ Ford tài trợ, Dự án Tiếng nói trẻ thơ của Nhà hát tuổi trẻ do tổ chức SIDA, Thụy Điển tài trợ, dự án dạy giáo viên làm rối phục vụ giáo dục của Nhà hát múa rối Việt Nam. . . Các dự án này đều đòi hỏi kinh phí lớn nên chưa được triển khai thường xuyên, rộng rãi. Trường hợp: Triển lãm nghệ thuật “Đối thoại với đình làng” Ngày 20 tháng 9 năm 2013, tại Hà Nội, triển lãm được thực hiện từ ý tưởng của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, được thực hiện với một phần kinh phí hỗ trợ của Bộ VHTTDL. Các nghệ sĩ đã mất 1 năm để hoàn thành hơn 50 tác phẩm đa dạng về thể loại: Tranh, ảnh, sắp đặt, trình diễn âm thanh và video nghệ thuật... Cuộc triển lãm do nhà nghiên cứu phê bình lịch sử mỹ thuật Bùi Thị Thanh Mai khởi xướng, với các nghệ sĩ tham gia gồm: Nguyễn Thế Sơn, Lê Hậu Anh, Lê Chí Hiếu, Vũ Nhật Tân, Đặng Thị Khuê, Khổng Đỗ Tuyền, Vũ Đình Tuấn... Cuộc triển lãm nghệ thuật “Đối thoại với đình làng” là một triển lãm nhằm phát huy ý thức bảo tồn và quảng bá đình làng. Và mục tiêu khác là để mỗi người Việt Nam nhận thức được đình làng là nơi thể hiện đời sống tâm linh, một nét văn hóa quan trọng trong cuộc sống của người Việt. Nhà phê bình mỹ thuật Bùi Thị Thanh Mai cho rằng, triển lãm nghệ thuật “Đối thoại với đình làng” là cơ hội để nghệ sĩ có cơ hội tiếp cận với di sản, để cùng nhau suy ngẫm về giá trị của đình làng và vai trò của nó trong xã hội đương đại. Bằng các loại hình nghệ thuật khác nhau, triển lãm đặt ra câu hỏi mang tính phản biện về vấn đề liên quan đến di sản đình làng, như sự xuống cấp, sự cần thiết trong bảo vệ, tôn vinh những nét đẹp của di sản, văn hóa dân tộc. 2.3. Người dạy Những người tham gia công tác giáo dục nghệ thuật bao gồm: giáo viên sư phạm nghệ thuật và những người làm công tác nghệ thuật. Đội ngũ này được đào tạo bài bản ở các trường đại học ngành nghệ thuật, sư phạm nghệ thuật. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghệ thuật cũng có những khó khăn riêng. Khác với các ngành đào tạo khác, đào tạo nghệ thuật là ngành đào tạo đặc biệt, dựa trên cơ sở năng khiếu. Tính đặc thù thể hiện từ công tác tuyển sinh, đến quy trình đào tạo, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. Công tác tuyển sinh của các cơ sở đào tạo nghệ thuật có những đặc thù riêng, mỗi kỳ tuyển sinh các nhóm ngành Âm nhạc, múa, sân khấu, điện ảnh, xiếc, mỹ thuật. . . các trường đều phải tiến hành tuyển theo hai vòng độc lập: thi năng khiếu ở vòng sơ tuyển và thi kiến thức kết hợp năng khiếu ở vòng chung tuyển. Có những thí sinh có năng khiếu nhưng trình độ văn hóa phổ 158
  5. Giáo dục, đào tạo nghệ thuật với mục tiêu nâng cao dân trí thông lại hạn chế và ngược lại. Vì vậy việc mỗi đợt tuyển sinh có hàng trăm thí sinh đăng ký dự thi nhưng số lượng tuyển được ít, dẫn đến quy mô đào tạo thấp. Đào tạo nghệ thuật cũng có những điểm khác so với các ngành đào tạo đại trà, người học có thể được tuyển chọn từ rất nhỏ, được đào tạo liên tục qua nhiều cấp học. Đào tạo nghệ thuật là sự kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa lí thuyết và thực hành mang tính truyền nghề, tạo cho các em phát huy khả năng sáng tạo cao. Trong nhiều ngành nghệ thuật, việc thực hành được đặt lên vị trí hàng đầu và đòi hỏi số lượng thời gian nhiều hơn so với lĩnh vực đào tạo khác. Tính đến năm 2014, theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước có 107 cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật. Trong đó có 7 trường đại học ngành nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có 36 trường do các tỉnh, thành trực tiếp quản lí, trong đó có 9 trường cao đẳng, 27 trường trung cấp. Đây là các cơ sở đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực về văn hóa và nghệ thuật nhằm cung cấp nguồn nhân lực làm công tác văn hóa nghệ thuật ở địa phương và tạo nguồn cho các trường chuyên ngành ở trung ương. Ngoài ra còn 3 trường đại học văn hóa nghệ thuật do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lí và 01 trường đại học văn hóa nghệ thuật do Bộ Quốc phòng quản lí. Hệ thống các trường văn hóa nghệ thuật những năm qua đã được củng cố và phát triển về mọi mặt. Phần lớn các trường đại học ngành nghệ thuật trực thuộc Bộ VH, TT&DL đều được giao đào tạo thạc sĩ, trong đó có 2 cơ sở đào tạo tiến sĩ là Học viện Âm nhạc quốc gia VN và Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia VN. Quy mô đào tạo đã tăng song vẫn còn ít so với các ngành nghề khác và so với nhu cầu về nguồn nhân lực ngành nghệ thuật của xã hội thì còn quá nhỏ bé. Đặc biệt có một số ngành nghệ thuật truyền thống, quy mô đào tạo giảm. Căn cứ vào nhu cầu đào tạo nhân lực của ngành, dự kiến sẽ có 04 trường chuẩn bị được nâng cấp lên thành trường đại học, đó là Cao đẳng mỹ thuật trang trí Đồng Nai, Cao đẳng VHNT Việt Bắc, Cao đẳng VHNT Tây Bắc, Cao đẳng Múa Việt Nam. Có thể thấy hệ thống các trường ngành nghệ thuật, đặc biệt là các trường đại học – nơi đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho ngành nghệ thuật đã được Bộ VH, TT&DL và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng. Mạng lưới các trường nghệ thuật từ trung ương đến địa phương, từ cấp trung học đến sau đại học đang từng bước được hệ thống, đáp ứng phần nào nhu cầu nguồn nhân lực của ngành nghệ thuật ở trung ương và địa phương, phục vụ sự nghiệp bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của quần chúng nhân dân. Nguồn nhân lực ngành nghệ thuật bên cạnh các đặc điểm chung của nguồn nhân lực Việt Nam còn có những đặc điểm riêng biệt, đó là: - Có khả năng sáng tạo nghệ thuật, cống hiến bản thân cho tác phẩm, cho bộ môn nghệ thuật, thậm chí cho một tiết mục biểu diễn - Không chỉ thực hiện công việc dập khuôn máy móc mà còn muốn thể hiện cái tôi, tính sáng tạo cá nhân trong từng tác phẩm, từng tiết mục biểu diễn. - Có khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với khán giả - Muốn được công chúng công nhận và hâm mộ về tài năng cũng như tác phẩm của mình - Ưa thích lối sống tự do, sáng tác theo cảm hứng và rất nhạy cảm trong mối quan hệ ứng xử và công việc. - Tâm huyết với nghề nghiệp, gắn bó chặt chẽ với đồng nghiệp - Thời gian hoạt động không theo giờ hành chính, tùy theo cảm hứng cá nhân hoặc phục vụ theo nhu cầu công chúng [13]. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nghệ thuật còn nhiều hạn chế. Chất lượng đào tạo nhìn chung còn thấp, hiệu quả đào tạo chưa cao, nhân lực chưa đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, lí luận chính trị, hiểu biết 159
  6. Mai Thị Thùy Hương văn hóa xã hội. Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã nhận định “Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều bất cập, yếu kém: chương trình, nội dung lạc hậu; chất lượng đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, đạo đức, thể chất không bảo đảm; chưa chú trọng đúng mức tính đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng; không quan tâm gửi giảng viên và sinh viên các ngành nghệ thuật đào tạo ở nước ngoài; đội ngũ giáo viên đầu đàn, có trình độ chuyên môn cao bị thiểu hụt ngày càng nhiều; điều kiện và phương tiện phục vụ dạy và học vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu. Đội ngũ lí luận, phê bình vừa thiếu, vừa bị hụt hẫng thế hệ kế cận, phân bổ không đều ở các ngành nghệ thuật”. Những yếu kém này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo nghệ thuật để nâng cao dân trí trong những năm sắp tới. 3. Kết luận Nghệ thuật chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người cũng như toàn xã hội. Thưởng thức, tham gia nghệ thuật không chỉ giúp con người cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống, mà còn giúp con người có một tinh thần thoải mái hơn, cách tiếp cận cuộc sống tích cực hơn, và từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi con người. Trình độ dân trí có thể được hình thành qua nhiều con đường khác nhau. Giáo dục, đào tạo nghệ thuật là một trong những con đường đó, và có vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí. Thông qua việc khám phá nghệ thuật, con người tăng cường khả năng sáng tạo trong công việc, tư duy linh hoạt hơn trong cuộc sống. Xem xét giáo dục, đào tạo nghệ thuật trong mối tương quan với phát triển dân trí như vậy, chúng ta mới có thể đánh giá hết tiềm năng mà nghệ thuật đem lại cho con người và cuộc sống. Ý thức về tầm quan trọng của giáo dục nghệ thuật trong việc xây dựng con người, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách lớn để đưa giáo dục, đào tạo nghệ thuật vào trong trường học. Bài viết này đã cố gắng đánh giá hiệu quả của quá trình này trên cơ sở tiếp cận của chuyên ngành quản lí giáo dục, theo đó, các yếu tố như nội dung giáo dục (giáo dục bằng nghệ thuật, giáo dục thông qua nghệ thuật), phương pháp giảng dạy, người dạy là những yếu tố then chốt đảm bảo cho sự thành công của giáo dục, đào tạo nghệ thuật trong việc nâng cao dân trí. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, ngoài những đặc điểm chung vốn có trong việc đào tạo đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài, ngành văn hóa, thể thao và du lịch có những đặc thù riêng của mình. Với những đặc điểm chung, hoạt động đào tạo nghệ thuật của ngành cần quán triệt những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo ra con người Việt Nam đáp ứng những tiêu chuẩn của thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay. Với những đặc thù riêng của ngành, ngành VH, TT&DL cần có những giải pháp và nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động đào tạo để phát huy tốt nhất những giá trị văn hóa – nghệ thuật của Việt Nam và hội nhập tốt nhất vào bối cảnh quốc tế, đáp ứng được mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; để văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, cũng như văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đặng Quốc Bảo, 2006. Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005. NXB Giáo dục, Hà Nội [2] Bourdieu, P., 1984. Distinction: A Social Critique of the Judgement of Taste. Routledge & Kegan Paul, London. [3] Chambault, D, R., (Phạm Anh Tuấn dịch), 2012. John Dewey về giáo dục. Nxb. Trẻ - DT books, TP. Hồ Chí Minh 160
  7. Giáo dục, đào tạo nghệ thuật với mục tiêu nâng cao dân trí [4] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2011. Đề án Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011 – 2020. [5] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2011. Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011 – 2020. [6] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2010. Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2020. [7] Phạm Minh Hạc, 1997. Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8] Phạm Minh Hạc (chủ biên), 2007. Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [9] Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lãm, Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), 2001. Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ 21. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [10] Đặng Mỹ Hạnh, 2014. Giáo dục nghệ thuật cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về độ đội Cụ Hồ (sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975). Luận án tiến sĩ văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam. [11] Phạm Bích Huyền, 2012. Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn quốc gia trên địa bàn Hà Nội. Luận án tiến sĩ Quản lí văn hóa. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. [12] Kagan M., X, 1984. Giáo dục thẩm mỹ và giáo dục nghệ thuậttrogn xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển (Phan Ngọc dịch). Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [13] Nguyễn Thị Lan Thanh (chủ biên), Phan Văn Tú, Nguyễn Thanh Xuân, 2014. Giáo trình Quản lí nguồn nhân lực trong các tổ chức văn hóa nghệ thuật. Nxb Lao động. [14] www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1856-10-633460222192812500/Van-hoa-Giao-duc —Hoc-tap—Lao-dong—Khoa-hoc/Con-nguoi-bam-sinh-la-nghe-si-du-o-dau-bang-moi -cach-ho-deu-muon-dua-cai-dep-vao-cuoc-song.htm, cập nhật ngày 01 tháng 4 năm 2015 ABSTRACT Art Education and Intellectual Development Art education is seen as a part of Vietnam’s educational mission to develop general intelligence, human resources and talent. Theoretical and real research has shown that art education has its own characteristics, advantages and disadvantages compared to other disciplines which attempt to achieve the same targets. Educational and cultural managers must be resolved to enhance the quality of art education and training. Referring to previous research and her own data, the author analyzes the role and methods of art education and training as it affects intellectual development in Vietnam today. Keywords: Education, art education, Vietnam educational mission, intellectual development, human resource development. 161
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2